Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 15 December 2016

SƠN TRUNG =HỒ CHÍ MINH =NGUYỄN SĨ GIÁC=

SƠN TRUNG * NƯỚC UỐNG TẠI VIỆT NAM

Nܧc uÓng tåi VIŒt nam
                                                                                                        SÖn Trung
              Tåi ViŒt nam, trܧc 1962, cu¶c sÓng tÜÖng ÇÓi ÇÀy Çû và vui vÈ. Nܧc ª  Sàigòn và các thành phÓ chäy rÃt månh.  TrØ ra m¶t vài nÖi bÎ m¥n và thi‰u nܧc. M¶t phÀn tÌnh Long An, nhÃt là thành phÓ Tân An bÎ nܧc m¥n. M¶t phÀn Thû ñÙc, gÀn Sài gòn ljn mùa hè là khô nu§c, ho¥c bÎ nܧc m¥n.  NhÜng tØ khi c¶ng sän phát Ƕng chi‰n tranh trª låi dܧi danh nghïa M¥t TrÆn Giäi Phóng MiŠn nam thì tình hình ngày càng xÃu xa. ViŒt c¶ng phá nhà máy ÇiŒn, nhà máy nu§c khi‰n cho thành thÎ và nông thôn không có diŒn th¡p sáng và có nܧc Ç‹ t¡m rºa. Trܧc 1975, nhiŠu nhà Çã phäi Çào sâu ª ÇÒng hÒ nܧc Ç‹ múc nܧc ban Çêm nhÜ ª vùng Phú Th†.
Sau 1975, tình hình nܧc uÓng càng khó khæn hÖn, nhiŠu nÖi nu§c không còn chäy n»a. Tåi m¶t vài nÖi, không còn mu‡i n»a và ngÜ©i ta ngû không cÀn mùng. S¿ kiŒn này m¶t ÇiŠu buÒn báo Ƕng nܧc ª ViŒt Nam Çã cån, nhÃt là Sàigòn. Trܧc Çây, Sàigòn cÙ khoäng 6, 7 gi© chiŠu là mu‡i bay vo ve tØng Çàn, nhÃt là mu‡i ª dܧi cÓng rãnh bay lên Çen nghÎt vì trܧc Çây nܧc nhiŠu, nhÃt là cÓng rãnh chÙa nhiŠu nܧc thäi. Trܧc tình trång nܧc uÓng khan hi‰m, ngÜ©i ta phäi thay Óng nܧc m§i vì Óng nܧc cÛ Çã bÎ bùn Çóng nghËt. Nhà có tiŠn trong thành phÓ thì mua máy bÖm, xây hÒ nܧc. Nhà khá giä ª ngoåi ô thì Çào gi‰ng. Nhà nghèo thì ngÜ©i ta phäi chÎu khó thÙc khuya hay dÆy s§m múc nܧc tåi ÇÒng hÒ nܧc. Nhà ª vùng quê thì phäi bÕ tiŠn mua nܧc ho¥c Çi gánh nܧc sông, nܧc gi‰ng. KHoäng næm 2000  thì phÀn l§n các nhà ª Sài gòn  phäi Çào gi‰ng, Çào gi‰ng rÃt sâu mà vÅn không có nܧc. N‰u có thì nܧc cÛng không có mùi vÎ thÖm ngon. Marx nói r¢ng møc tiêu chính cûa cách mång là xóa bÕ s¿ phân biêt gi»a nông thôn và thành thÎ, và ti‰n lên ÇiŒn khí hóa nông thôn. Nay thì thành thÎ thi‰u nܧc cho nên thi‰u ÇiŒn,  nhÃt là mùa n¡ng. Thi‰u ÇiŒn thì thi‰u nܧc.Thi‰u nܧc thì trong bŒnh viŒn bác sï không có nܧc rºa tay trܧc khi m° và sau khi m°. Trong bŒnh viŒn và cÖ quan không có nܧc di cÀu tiêu, nhÃt là bŒnh viên, mùi hôi thÓi không th‹ chÎu n°i. Vì thi‰u nܧc, ngÜ©i ta lÃy nܧc dÖ làm nܧc Çá. Các hàng quán  chÆt ch¶i, thi‰u vŒ sinh, thi‰u nܧc thì khó lòng bäo Çäm thÙc æn ngon và såch.  NhÃt là các hàng rong suÓt ngày chÌ có m¶t thau nܧc, làm sao h† rºa bát, Çïa? Trong nhiŠu næm, dân chúng và cán b¶ Çã Çiên Çàu vì thi‰u ÇiŒn, thi‰u nܧc. Ÿ nhà, m†i ngÜ©i, già trÈ, l§n bé ÇŠu xôn xao vŠ nܧc. Cä nhà phäi thÙc Çêm Ç‹ múc nܧc, vì ban Çêm m§i có nܧc chäy chút ÇÌnh. Có nÖi phäi Çi xa m§i có nܧc, và cÛng phäi canh gi» thÆt s§m mói có ch‡ hÙng nܧc tØng gi†t. Trong cÖ quan, các cán b cÛng lo l¡ng vŠ nܧc, không ai có th‹ an tâm làm viŒc trØ các cán bô g¶c. Vì vÆy khoäng 1990, Sài gòn có tøc ng»:
            " Cä nhà lo viŒc nܧc, cä nܧc lo viŒc nhà""
        Nay thì miŠn B¡c, miŠn Nam và miŠn Trung Çã lên ti‰ng báo Ƕng vŠ nån hån hán. ñÃt Çai khô c¢n, nÙt nÈ. Tåi L¶c Ninh, Bình Long, khoäng 3.500 gia Çình thi‰u nܧc sinh hoåt, và d¿ Çoán cuÓi tháng tÜ næm 2002 së h‰t nܧc. Tåi các vùng Cà Mâu, Kiên Giang, Båc Liêu, Sóc Træng, nܧc m¥n tràn ngÆp ÇÃt liŠn khoäng 30-35 km. Hai huyŒn Ba Tri, GiÒng Trôm ( B‰n Tre) có trên 14 ngàn gia Çình thiéu nܧc. Tåi Gò công Çông và Gò Công tây các tråm cÃp nܧc Çã loan báo chÌ vài ngày n»a thì h‰t nܧc, ngÜ©i ta phäi chª nܧc tØ thành phÓ MÏ tho vŠ cung cÃp. S¿ thiŒt håi rÃt l§n. GÀn 28.000 ha lúa bÎ hån, 14.000 ha càphê, tiêu, b¡p, ÇÆu, bông bÎ khô héo, m¶t sÓ Çã ch‰t, m¶t sÓ ng¡c ngoäi. NhiŠu nÖi sông, kênh Çào chÌ còn là m¶t vŒt nܧc nhÕ nhoi trên m¥t ÇÃt. Hàng træm ngàn khu rØng tràm ª U minh Çã khô héo, nån cháy rØng lan kh¡p nÖi nhÜng không có cách cÙu vãn vì không có nܧc, không có phÜÖng tiên tÓi tân, và cÛng không có Çû ngÜ©i Ç‹ gi» rØng và cÙu rØng. NhiŠu nÖi, nhÃt là tåi Bình ThuÆn, có 85.000 con bò và 9.000 con dê thi‰u nܧc uÓng. 6.500 ha ru¶ng lúa héo hon. Các gi‰ng ÇŠu khô cån. Nay thì kh¢p nܧc ngÜ©i Çua nhau Çào gi‰ng, dù Çào sâu bao nhiêu cÛng không có nܧc.  HÒ thûy l®i, ÇÆp thûy ÇiŒn cÛng cån nܧc. Khi ti‰p thu Sài gòn, c¶ng sän ti‰p thu nhà máy nܧc Biên Hòa là m¶t nhà máy nu§c tân ti‰n nhÃt ñông Nam Á th©i Çó, chính nhà máy nܧc này Çã cho chúng ta nܧc uÓng tåi Biên Hoà, Sài gon thÖm ngon và bäo Çäm vŒ sinh. NhÜng tên giám ÇÓc c¶ng sän láo khoét bäo r¢ng nhà máy này thua nhà máy nܧc Hà N¶i, m¶t nhà máy nܧc cÛ th©i Pháp Çô h¶!( Dï nhiên ngoài b¡c cái gì cÛng tÓt, xã h¶i chû nghïa là nhÃt rÒi!). Chính vì  c¶ng sän nghèo và ngu cho nên Çã phåm nhiŠu sai lÀm khi‰n cho nܧc  ª Sàigon ngày càng thäm håi.
Chúng ta thÃy nh»ng nguyên nhân sau :
1. C¶ng sän cho r¢ng không cÀn bÕ hóa chÃt nhÜ eau de javel  vào nܧc, và cÛng vì không có tiŠn mua hóa chÃt, ho¥c vì æn c¡p hóa chÃt cho nên lÜ®ng hóa chÃt không Çû khi‰n cho nܧc có nhiŠu phèn, nhiŠu bùn. HÆu quä bùn Çóng nghËt Óng nܧc.
2. C¶ng sän ti‰t kiŒm ÇiŒn. Trܧc kia máy bÖm chåy 24/24 gi©, nay m‡i ngày chÌ mª nܧc vài gi© g†i là ti‰t kiŒm nܧc và ÇiŒn. Nܧc không chäy thÜ©ng xuyên nên bùn džng låi nhiŠu, gây b‰ t¡c dòng nܧc.
3. C¶ng sän không bi‰t bäo quän các Óng nܧc, Ç‹ n¢m læn lóc ngoài tr©i trong nhiŠu næm cho nên các Óng kim loåi cÛng không tránh ÇÜ®c møc nát, hÜ håi..
4. C¶ng sän không thay th‰ các Óng cÛ, hÜ. N‰u có thay th‰ thì chúng không mua Óng kim loåi , chúng  dùng Óng cÓng bê tông Çúc sÖ sài qua loa Ç‹ th‰ các Óng kim loåi th©i VNCH. Lë dï nhiên, nh»ng Óng này it lâu låi hÜ, và không chiø n°i áp suÃt cûa nܧc.
5.Dân ngoài b¡c vào trong nam quá nhiŠu. Trܧc 1975, dân Saigòn khoäng ba triŒu, sau 1975 lên ljn 5 triŒu, trong Çó có cán b¶ vào ª và dân chúng trÓn vào .
6.Cán b¶ ª nhà tÆp th‹, xài nܧc t¿ do.
7.Cán b¶ nuôi heo, dùng nܧc t¡m rºa cho heo m¥c sÙc.
8.Các công ty thay nhau Çào x§i m¥t ÇØÖng, sau này tÜ bän ÇÕ xây nhà ngang d†c, Çào ÇÜ©ng, Çào ÇÃt làm b‹ Óng nܧc.
ñÃy th¿c ra là nh»ng nguyên nhân phø. Nguyên nhân chính  thì cÛng có rât nhiŠu:
1.Phá rØng:
            ViŒc phá rØng có hai nguyên nhân. Nguyên nhân thÙ nhÃt là do chính sách ‘tæng gia sän xuÃt’ và ‘ kinh t‰ m§i’. TØ khi kháng chi‰n chÓng Pháp, c¶ng sän Çã hô hào ‘ tæng gia sän xuÃt’, b¡t tù nhân, dân chúng, b¶ Ƕi và cán b¶ phá rØng Ç‹ lÃy ÇÃt trÒng s¡n, trÒng khoai. Sau này, khi Çã n¡m chính quyŠn, tØ 1954, c¶ng sän b¡t nh»ngtÜ sän, ÇÎa chû và nh»ng ngu©i có gia Çình Çông con phäi Çi kinh t‰ m§i, b¡t lên rØng làm rÅy. Nh»ng tÌnh nào tích c¿c phá rØng, nâng cao diŒn tích trÒng tr†t thì Çu®c lïnh c© tiên ti‰n, còn cán b¶ tïnh, huyŒn thì Çu®c thæng chÙc, thành thº nh»ng tên nào có thành thích phá hoåi ÇÃt nܧc ÇŠu trª thành cán b¶ cÃp tÌnh ûy và trung ÜÖng.
        Nguyên do thÙ hai cûa viŒc phá rØng là lÃy g‡ Ç‹ xây dinh th¿ cho cán b¶ cao cÃp và xuÃt cäng g‡ lÃy tiŠn. Ngay sau khi chi‰m miŠn Nam, c¶ng sän Çã ch¥t såch nh»ng hàng thông cûa trÜ©ng QuÓc H†c Hu‰ Ç‹ lÃy g‡ xuât khÄu.ViŒc làm ÇÜ©ng mòn HÒ Chí Minh, xây ÇÆp Hòa Bình, ÇÆp TrÎ An ÇŠu là cÖ h¶i tÓt cho chúng phá rØng lÃy g‡. NguyÍn Væn TrÃn Çã thuÆt låi l©i cûa Bùi Công TrØng nói vŠ b†n c¶ng sän g¶c :
‘            Chúng nó cÛng mÃy th¢ng Ãy, cÛng nh»ng chính sách Ãy, cai trÎ 17 triŒu dân
            thì dân Çã nghèo sát ÇÃt, không Çãy 15 næm, hai cái rØng ViŒt B¡c và Tây B¡c
            bÎ cåo tr†c lóc. Bây gi© ª miŠn Nam, cÛng Çào kép Ãy( memes acteurs),
            hài kÎch Ãy ( comedie), chÜa chi chúng Çã gíành ÇÃt Ban Mê Thut, cûa ñà Låt
            và sông Bé,thì chúng nó së Çua v§i miŠn b¡c 15 næm, miŠn Nam chÌ cÀn ba
            næm thì cÛng së ‘'TrÖn lu nhÜ mu bà bóng" cho mày coi.’(1)
2.Phá hoåi môi sinh.
 VÛ trø có âm dÜÖng, có cao thÃp, có sâu, cån, m‡i thÙ ÇŠu có công næng, công døng cûa chúng. Núi cao thì cây m†c, che gióvà cho thú rØng, sông sâu thi chÙa nܧc, cho chúng ta cá tôm. Tåi sao låi phá núi, lÃp sông làm nh»ng viŒc trái thiên nhiên?ñÀu óc c¶ng sän bao gi© cÛng chÌ nghï ljn lúa gåo ,và ÇÃt Çai. C¶ng sän Cao Miên sau khi chi‰m Cao Miên, gi‰t håi dân chúng, Çã ra lŒnh Çào ÇÜ©ng quÓc l¶ và các xa l¶ , phá hûy cao su, cà phê Ç‹ trÒng lúa. MÜ©i tám thôn vÜ©n trÀu gÀn Sài gon là cæn cÙ cûa c¶ng sän, nhÜng sau 30-4-75, chúng Çã có k‰ hoåch bãi bÕ trÒng cau trÀu vì chúng cho là vô ích. Dân chúng nÖi này Çã phän Ùng månh më nên chúng Çã phäi ngÜng tay.
             Khi C¶ng sän cÀm quyŠn, chúng phá hûy các ÇÒng hoang có cÕ m†c, ch¥t cây cÓi, vÜ©n tÜ®c, lÃp sông råch, ao hÒ. Chúng cÛng không cho ngÜ©i ch‰t Çu®c yên °n, chúng b¡t dân phá hûy các nghïa trang, và các ngôi m¶, b¡t cäi táng và chôn cÃt  ngÜ©i ch‰t ª nh»ng nh»ng nÖi ÇÃt xÃu , bãi sông hay ru¶ng sâu, džng nuóc, hay chôn trên núi. Có nhiŠu nÖi chúng bát dân chúng phäi d©i nhà lên núi tr†c. Chính sách này Çã làm cho h‰t ao hÒ, h‰t cây, h‰t cÕ là nh»ng thÙ gi» nܧc cho ÇÃt và cho con ngÜ©i. Nay vì c¶ng sän công khai xây biŒt th¿, chúng không còn e ngåi dÜ luÆn chÌ trích ( tham nhÛng, hÓi l¶, tr¶m cûa công) và lÜÖng tâm c¡n rÙt (sÓng vinh hoa trong khi dân chúng nghèo kh°). Tåi Hà N¶i, chúng Çã ngang nhiên làm nhà trên Çê sông HÒng, và tåi nhiŠu nÖi, Ç¥c biŒt là tåi Sài gòn, vì chính sách mª cºa, giá nhà, giá ÇÃt nâng cao, chúng l®I døng chính sách cäi tåo Çô thÎ, lÃp hÒ mÜÖng Ç‹ chi‰m ÇÃt công làm cûa riêng. Trên giòng sông nܧc Çang chäy, b†n công an khu v¿c Çã c¡m mÓc ÇŠ tên chúng, ch© m¶t ngày lÃp sông là chúng xây nhà bán cho ViŒt kiŠu và ngoåi quÓc.
3. Làm thûy l®i.
         Khi lên cÀm quyŠn, b†n c¶ng sän b¡t dân chúng làm thûy l®i. Chúng rÃt kiêu cæng, phách lÓi, cho r¢ng chÌ Çào mÜÖng thu› l®i là chúng Çã ch‰ ng¿ thiên nhiên:
Th¢ng tr©i ÇÙng låi m¶t bên,
ñ‹ cho thûy l®i ti‰n lên thay tr©i !
 NhiŠu nÖi chúng xây ÇÆp nhÜng xây Çi xây låi vài lÀn mà vÅn hÕng. ViŒc làm thûy l®i, Çáng lë phäi do các kÏ sÜ lo liŒu, nhÜng Çây låi là nh»ng ông lš, ông xã i t© nay nhäy ra chÌ huy hàng ngàn dân chúng, b¡t Çào x§i ngang d†c tùy š chúng. HÆu quä là nh»ng mÜÖng thûy l®i làm cho nܧc nÖi cao cån nܧc trong khi noi thÃp låi úng nܧc. Dân chúng Çã g†i thûy l®i là ‘ thûy håi’ chính là vì tác døng tai håi cûa b†n ngu dÓt quÆy phá môi trÜ©ng! N‰u nh»ng hÒ ao không bÎ lÃp, cây cÓi không bÎ ch¥t thì tai håi còn ít, nay nh»ng nÖi cao không còn ch‡ chÙa nܧc, tÃt cä nܧc  ÇŠu chäy tuÓt ra bi‹n. ñ‹ mùa hån hán, tÃt cä ÇŠu không còn gì Ç‹ gi» låi nܧc cho ÇÃt, cho tr©I và cho dân.             V§i tình hình quä ÇÃt ngày càng nóng thêm,  và nån nhân mãn gia tæng , làm sao giäi quy‰t vÃn ÇŠ nܧc uÓng, m¶t vÃn ÇŠ rÃt ÇÖn giän nhÜng rÃt cÀn thi‰t cho cu¶c sÓng? N‰u chính quyŠn sáng suÓt thì dân chúng ít bÎ tai håi nhÜng than ôi, trong khi quä ÇÃt ngày càng nóng thêm, mà c¶ng sän vì  ngu dÓt và vì lòng tham không Çáy  Çã phá hoåi rØng núi, phá hoåi môi trÜ©ng ÇÄy ÇÃt nܧc ViŒt Nam mau trª thành sa måc.
                                                                                             SÖn Trung
Chú thích
1.NguyÍn Væn TrÃn, Vi‰t Cho MË và QuÓc H¶i. Væn Nghê, California 1995.tr.231

TRẦN BÌNH NAM * CÔ DÂU CÒN TRINH

CÔ DÂU CÒN TRINH
                                                                                                Trần Bình Nam

            Khi hấp hối cha của Thìn trối trăng nhờ tôi nuôi nấng dạy dỗ Thìn. Ôâng ta với tôi là bạn học tiểu học với nhau. Tôi vui mừng nhận lời bạn vì vợ chồng tôi lấy nhau đã hơn 10 năm vẫn chưa có mụn con. Thìn ngoan, dễ dạy. Nhưng đến tuổi trăng tròn tôi bắt đầu lo. Dáng người cục mịch, rụt rè, ít nói, tránh bạn trai, không thích trang điểm, cả ngày lui cui giúp vợ tôi làm việc nhà, ngoài giờ đi học.  Tôi lo không biết làm sao kiếm chồng cho Thìn. Bỗng Huỳnh Bảo làm quen với Thìn rồi xin cưới. Tôi mừng ít hơn ngạc nhiên. Hai đứa chưa đủ thì giờ tìm hiểu nhau. Huỳnh Bảo là một công nhân nghiêm chỉnh nhất trong đám thợ trẻ của xưởng dệt Hải Dương. Đi làm đúng giờ, nói năng nhỏ nhẹ, dáng dấp e lệ như một cô gái. Trong xưởng người ta đồn Bảo còn biết tự may áo quần lấy. Tôi tự hỏi hắn có biết việc lấy vợ lấy chồng là một việc quan trọng không? Hắn đã suy nghĩ kỹ chưa hay bốc đồng như mấy chú con trai mới lớn sau chiến tranh?
         Lễ nghĩa đầy đủ, ba tháng sau lễ cưới được cử hành trước sự chứng kiến của ông Thân bí thư chi bộ xưởng. Tôi thở ra nhẹ nhỏm. Tôi nghĩ thầm, tuy Thìn không xứng với Bảo, ăn ở với nhau có  một mụn con thì đâu lại vào đấy. Thế nhưng những câu hỏi vẩn vơ vẫn ám ảnh tôi. Có cái gì nơi Thìn hấp dẫn đối với Bảo? Hay hắn thích đôi má phúng phính của Thìn. Tôi nghe có nhiều người đàn ông thích phụ nữ có da có nhiều, to con đẫy đà như đàn ông. Tìm được một cách giải thích tôi tạm yên tâm ngoại trừ những lúc bực mình nghe mấy cô thợ trẻ xì xầm chuyện của Thìn rồi rúc rích cười với nhau như có cái gì bí mật họ muốn giấu tôi. Ở chức vụ chủ nhiệm an ninh của chi bộ xưởng dệt, tôi lại chịu khó săn đón biếu xén ông trưởng ty nhà đất, nên mấy tháng sau tôi xin được cho vợ chồng Bảo một căn hộ gần xưởng. Cũng là một cách ràng buộc Bảo với Thìn, phòng khi hắn trở chứng. Gần một năm qua tháng nào vợ tôi cũng khéo léo cho tôi hay kinh kỳ củaThìn. Vẫn đều đặn. Và tôi lo. Vợ chồng tôi thỉnh thoảng nhìn nhau thầm cầu nguyện.
Một buổi sáng sau Tết Nguyên Đán, tôi vừa đến văn phòng chưa kịp ngồi xuống thì Thìn mếu máo bước vào phòng. “Cậu ơi! Đêm qua anh Bảo đi cả đêm không thấy về.” Cố đè nén cơn lo tôi hỏi: “Con có biết nó đi đâu không?”
 “Dạ không!  Sáng nay dậy sớm con đã đi hỏi vài nơi nhưng không ai biết.”
 “Hôm qua nó đi lúc nào?” Tôi hỏi.
 “Ăn cơm tối xong anh ấy nói anh đi thăm mấy người bạn. Anh có mấy người bạn mới.”
 “Thôi được. Con yên tâm xuống làm việc đi và đừng làm ầm ĩ lên. Để cậu hỏi xem sao.” Tôi trấn an Thìn.
         Thìn mệt nhọc bước ra khỏi phòng, không quên cầm chiếc nón vừa quạt vừa đi. Từ ngày lấy chồng đến nay, Thìn thêm ít nhất 5 kilô, chiếc áo xanh đồng phục chật cứng, nhìn phía sau không khác một bà đầm. Tôi gọi vài tiệm ruợu, mấy tiệm cà phê hy vọng Huỳnh Bảo đến chơi vui bạn vui bè ngủ quên chưa về. Bỗng chuông điện thoại reo trước khi tôi chạy xuống xưởng xem có người thợ nữ nào vắng mặt không. Biết đâu. Từ ngày Bảo lấy vợ mấy cô thợ trẻ tuổi trong xưởng vẫn không ngừng tán tỉnh Bảo xem như hắn chưa lập gia đình.
        Trưởng ty công an tỉnh gọi, cho biết công an kiểm tục vừa bắt giữ một công nhân của xưởng tên là Huỳnh Bảo. Ông ta vắn tắt: “Tôi đang bận, không tiện giải thích, mời đồng chí đến ty ngay. ”
 Tôi phóng nhanh lên chiếc xe máy dầu cọc cạch bất chấp trời mưa phùn lạnh thấu xương chạy vội đến ti công an. Chất chua làm bụng tôi cồn cào. Chứng đau bao tử của tôi mấy tháng nay nhờ thuốc thang tưởng đã thuyên giảm. Tôi giận Bảo vô cùng. “Biết mà”, tôi tự nhủ. Tôi biết một ngày nào đó Bảo sẽ đi tìm gái để mua vui. Bây giờ bị kiểm tục bắt. Cả tỉnh sẽ biết, còn gì uy tín của mình đối với công nhân viên và Thìn làm sao ngẩng mặt nhìn ai bây giờ. Tiếng đồn “chồng đi chơi gái bị bắt” không phải là tiếng đồn người vợ nào cũng chịu được.
         Tại ty công an nhiều người đã có mặt, thủ trưởng, giám đốc và có cả một vị hiệu trưởng trường trung học, và vài viên chức đã nghỉ hưu. Tôi biết hầu hết, và toàn là những người có máu mặt trong tỉnh. Một chị công an trẻ mời mọi người vào phòng họp phía sau. Phòng mới xây, vách tường còn thơm mùi sơn, giữa phòng là một chiếc bàn gỗ mới quét lớp vét ni đầu. Nhìn quanh tôi thấy người nào cũng có vẻ bồn chồn lo lắng. Tôi nghĩ đến một vụ hiếp dâm tập thể. Nhưng tôi tự trấn an. Bảo hiền lành, phạm thuần phong mỹ tục thì có thể nhưng ép người khác làm việc bậy bạ thì không.
         Tôi đang suy nghĩ thì  một sĩ quan công an tuổi chừng 40 bước vào, theo sau là một người phụ tá cầm một xấp hồ sơ dày cộm.  Ông ta còn ngái ngủ, mí mắt che hết nửa đôi mắt. Cởi chiếc áo bông, choàng lên ghế chủ tọa để lộ 3 ngôi sao trên cổ áo mầu vàng đồng phục của ngành công an ông kéo xấp hồ sơ người phụ tá vừa để trên bàn đến trước mặt. Tôi biết ông, đại úy Minh , trưởng ty công an tỉnh Hải Dương, một người nổi tiếng làm việc theo đúng nguyên tắc.
         Không dài dòng ông ta nói tỉnh nhà đang dính vào một vụ tai tiếng liên quan đến tội đồng tính luyến ái. Cả phòng xôn xao nhìn nhau. Ai cũng ít nhiều có nghe danh từ đồng tính luyến ái nhưng ít ai hiểu thật sự là cái gì? Thấy mọi người ngạc nhiên đại úy Minh giải thích, “Nó là một bệnh xã hội như đánh bạc, bán hay mua dâm, nghiện hút và ... bệnh lậu hay bệnh giang mai”. Khi nói mấy chữ  sau cùng môi ông trề ra, mắt sáng lên như phải nói đến một cái gì dơ dáy.
         Chưa hết thắc mắc, một người trẻ tuổi bạo dạn hỏi, “nhưng ... nhưng thưa đồng chí, thật sự đồng tính luyến ái là gì?
         Đại úy Minh cười như nhắm mắt lại: “Là người cùng giống làm tình với nhau.”
Cả phòng cùng ồ lên nhìn nhau mỉm cười.
Đại úy Minh giải thích thêm: “Đồng tính luyến ái là một căn bệnh của thành phần tiểu tư sản, sản phẩm của thế giới tư bản.  Xã hội ta xem nó là một sự trụy lạc làm mất trật tự xã hội. Ai bị bắt sẽ bị phạt từ 3 tháng đến 2 năm tù tùy vi phạm nặng hay nhẹ.”
        Tiếng ken két của một chiếc xe hàng thắng nhanh dưới đường làm tim tôi thót lại. Nếu Bảo ở tù, Thìn là gái không chồng. Tôi ăn nói làm sao với người bạn đã khuất. Tôi không hiểu tại sao hắn cưới Thìn để làm hại cuộc đời con gái của Thìn như vậy?
        Câu chuyện như thế này. Một nhóm đàn ông gồm công chức, nghệ sĩ, giáo viên lập một câu lạc bộ đặt tên là “Câu lạc bộ Thứ Tư”. Mỗi tối Thứ Tư họ gặp mặt nhau tại phòng họp ở tầng thứ ba của ty điện lực, một ngôi nhà gạch dùng làm công sở nằm khuất trên một đồi thông để vui chơi với nhau. Trưởng ty điện lực là một thành viên tích cực của câu lạc bộ. Thấy khả nghi, công an cho người theo dõi. Không khí của câu lạc bộ vui nhộn. Họ nói đủ thứ chuyện, chuyện văn chương, chuyện kinh tế thị trường, chuyện tình, ôm nhau, hôn hít nhau và thỉnh thoảng trổi nhạc nhảy với nhau như các buổi nhảy đầm tại các khách sạn mới mọc sau thời đổi mới ở Hà nội. Có khi họ đến từng cặp, một trong hai người giả gái, choàng tay nhau như đi dự dạ hội. Sau khi thu thập đủ bằng chứng bằng hình ảnh, video, âm thanh,  công an kiểm tục bắt trọn ổ chừng 20 người.
        Sau khi đại úy Minh tóm tắt nội vụ, các đại diện được gặp riêng nhân viên của mình. Tại một phòng nhỏ bên cạnh một người công an cho tôi xem lời khai của Bảo trong khi họ đi kiếm hắn. Lời khai gồm ba trang viết tay, Bảo nhận mình là người đồng tính luyến ái, nghe đồn có một câu lạc bộ của những người đồng tính nên đến tìm bạn để giải trí.  Bảo mới đến câu lạc bộ lần thứ hai và mới thấy thích một thanh niên trạc tuổi tên Tân thì bị bắt.
Mùi hôi khai từ cầu tiêu bên cạnh làm tôi muốn nhức đầu. Người công an dẫn Bảo vào và đẩy ngồi vào một chiếc ghế trước mặt tôi. Bảo bị còng hai tay ra sau lưng, nhưng vẻ mặt bình tĩnh, đầu hơi cúi như muốn tránh đôi mắt tôi. Mặt Bảo sưng vù, vết dùi cui bề rộng hơn ba phân tây còn hằn đỏ trên trán, một vết hằn nhỏ hơn trên cổ. Tôi thấy thương hại Bảo nhưng tôi không dằn được cơn giận trước sự bình tĩnh của hắn.
        Làm mặt nghiêm tôi nói: “Anh biết anh có tội chứ?”
“Con có làm gì đâu. Con chỉ đến đó để nghe họ nói chuyện thôi.”
“Thế anh chưa làm gì với tên Tân sao.” Tôi có ý tìm bằng chứng để gỡ tội cho Bảo.
        Bảo ngước mắt nhìn tôi ngây thơ trả lời: “Con chưa làm gì, nhưng cũng rất có thể”
“Nghĩa là sao?”
“Con thấy mến Tân. Nếu, nếu .... Tân đề nghị với con chắc con  sẽ không thể từ chối” Bảo nói với sự trong trắng của một người đàn ông lần đầu tiên biết yêu và không muốn phản bội người yêu.
Đập mạnh bàn tay xuống bàn, tôi nói như thét:
“Anh là một người bệnh hoạn”
        Tôi ngạc nhiên khi Bảo đổi cách xưng hô, trả lời: “Tôi biết tôi có bệnh.” Và nói tiếp: “ Mấy năm rồi tôi đã tìm đủ mọi cách để chữa trị. Ai bảo gì tôi  cũng làm. Thuốc bắc, thuốc nam. Có khi tôi nuốt cả bò cạp, thằn lằn và rắn mối nướng. Nhưng bệnh không hết. Tôi vẫn thấy thích đàn ông. Trước đàn bà tôi không có cảm xúc gì cả”
        “Thế sao anh lại cưới Thìn để làm khổ nó và bây giờ làm xấu tôi.” Chất chua ựa lên như chận ở cổ tôi.
“Tôi đâu có ác ý đó. Trước khi cưới tôi thú thật với Thìn tôi không thích đàn bà, và tôi không thể làm tình với cô ta được.”
“Nó tin anh sao?”
“Cô ta nói cô không cần. Cô chỉ muốn được tiếng là gái có chồng.”
“Nó ngu quá.” Tôi vừa nói vừa hỉ mũi vào chiếc khăn tay còn ỉ mùi trong túi áo. “Còn anh là một thằng đểu.”
        Lại đổi cách xưng hô, Bảo từ tốn trả lời: “Nếu con không cưới Thìn thì ai cưới? Hôn nhân có lợi cho cả hai. Con giấu được bệnh, và Thìn khỏi mang tiếng ế chồng. Và cậu thấy đó, con có xử tệ với Thìn đâu.”
        Người công an ra hiệu hết giờ. Tuy còn giận tôi cũng hứa với Bảo sẽ làm những gì có thể làm để giúp hắn. Tôi khuyên Bảo phải biết ăn năn hối lỗi, và có thái độ hợp tác khai báo với công an. Tôi nghĩ, Bảo có tội, nhưng là một thành phần trong gia đình, cứu nó là cứu tôi.
        Trên đường về nhà tôi cho xe chạy chậm, đầu óc suy nghĩ mông lung. Tôi nghĩ cách cứu Huỳnh Bảo. Trước hết Bảo chưa làm điều gì phạm thuần phong mỹ tục nghĩa là chưa phạm tội. Tôi sẽ biện minh trước tòa nó có bệnh và cần chữa bệnh hơn là trừng phạt. Nếu hắn đi tù thì lý lịch xấu ảnh hưởng đến cả gia đình không thể nào tẩy xóa được.

        May cho Bảo, ông Đình giám đốc, và ông Thân bí thư đồng ý xem Bảo có bệnh. Nhất là ông Thân vốn có cảm tình với Bảo vì với tính tình hòa dịu mấy năm trước đây đã giúp chỉ bảo cho thằng con trai nhỏ tuổi ngổ ngáo của ông trở nên ngoan ngoãn. Ông Thân bảo tôi: “Ông Thành đừng quá lo, tôi sẽ vận động để Bảo khỏi ngồi tù”
         Chuyện đồng tính luyến ái bỗng trở thành đề tài đầu môi của mọi người trong xưởng dệt. Người tỏ ra thạo chuyện nói rằng thời nhà Lê các nam diễn viên trong đoàn ca vũ của triều đình thường ngủ chung và làm tình với nhau vì luật vua không cho nữ diễn viên lẫn lộn trong đoàn ca vũ. Ông giám đốc Đình quả quyết ông đọc sách thấy nói một vài vị vua đời Trần tuyển cả cung phi phái nam vào cung. Và sách Tàu ghi rằng vua Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của đế chế Trung quốc thường bắt hoạn quan vuốt ve dương vật của ông. Một vài nữ công nhân có cảm tình với Bảo nói đồng tính luyến ái là bệnh của giới thương lưu xã hội. Mỗi lần nghe trong xưởng kháo về chuyện đó tôi chỉ muốn bịt tai lại.
         Một buổi tối cơm xong tôi đến thăm Thìn. Căn phòng năm thước trên ba của hai vợ chồng Bảo được chia làm hai phần thật ngăn nắp. Một phần làm phòng ngủ, một phần làm chỗ tiếp khách và ăn cơm cách nhau bằng một tấm màn mầu xanh có điểm hoa hướng dương mầu đỏ nhạt. Từ chiếc ghế gỗ lót nệm trông ra vườn trong phòng khách trong tầm tay là một kệ sách nhỏ đủ thứ sách, sách dạy may vá, sách thuốc nam, vài cuốn tiểu thuyết dịch của Tolstoi, và điều làm tôi ngạc nhiên là một bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Nga được dịch ra Việt Ngữ. Bộ bách khoa không dày lắm, gồm ba cuốn, và mấy năm trước khi phát hành đài nhà nước loan tin và bình luận suốt mấy tuần lễ. Ngoài ra là mấy tờ nguyệt san về phụ nữ. Nơi cửa sổ treo lủng lẳng một chậu hoa quỳnh có ba nụ hoa sắp nở và một chậu hoa tím nhỏ hơn. Ánh sáng từ bóng đèn điện 40 watts của cây đèn có chân để bên góc trái vợ chồng tôi mua tặng hồi đám cưới mang đến cho căn phòng một không khí ấm áp.
 Nhấp li trà nóng Thìn vừa rót ra chén tôi nói: “Thìn, cậu thật buồn cho con. Cậu không ngờ Bảo tệ vậy”
 “Không cậu! Bảo là một người tốt.” Thìn nhìn thẳng vào mắt tôi đáp.
 “Sao con nói vậy.”
 “Anh ấy rất tốt với con.”
 “Nhưng hắn không phải là một người chồng ... ”
 “Cậu nói vậy nghĩa là sao?”
 “Nghĩa là ... ”, tôi nói thẳng, “ ... Vì hắn không thể ngủ với con.”
 “Anh ấy nói anh đang tu một pháp môn thiền đặc biệt. Thầy của ảnh dạy muốn đạt phải kiêng đàn bà.”
 “Và con chịu sao?” Tôi nghĩ thầm, con bé này thật là ngu xuẩn.
 “Vô lẽ con đòi!” Thìn trả lời, chịu đựng.
 “Nhưng hai đứa con thỉnh thoảng cũng ngủ với nhau chứ?”
 “Không.”
 “Không một lần nào sao?”
 “Dạ không” Thìn đỏ mặt, lơ đãng nhìn ra cửa sổ, tay phải đưa lên vuốt mũi như thói quen của Thìn mỗi khi lúng túng. Trời ở ngoài đã tối hẳn.
 Tôi không biết tôi đang nghĩ gì. Trời! Con bé thật đáng thương. Lấy chồng hơn cả năm rồi mà vẫn còn trinh. Tôi nâng cốc trà uống một mạch quên trà còn nóng để đuổi những ý nghĩ khó chịu trong đầu.
         Thìn và tôi ngồi im một lúc. Ngồi đó mà đầu óc tôi để đâu đâu, không nhận ra loa phát thanh ở góc đường loan tin muộn quan trọng buổi chiều. Sáng nay quân Trung quốc pháo kích qua biên giới Cao Bằng. Tin nói đây là lần pháo kích thứ 107 trong chín năm qua kể từ năm hai nước đụng độ biên giới với nhau.
 Một lúc sau tôi nói với Thìn: “Phải chi cậu biết trước ...”
 “Xin cậu đừng buồn.” Thìn an ủi tôi.
 “Sao? Mày nói sao!” Tôi hỏi lại như nạt.
 “Đàn ông ai cũng thích đàn bà đẹp. Nhưng Bảo chỉ có bạn trai. Trong xưởng dệt mấy con quỷ nhỏ ỷ xinh đẹp hơn con cứ ghẹo anh ấy hoài thế mà anh ấy có thèm để mắt đâu. Anh ấy đâu có sống sa đọa. Vậy có phải tốt cho con không.”
         Tôi kìm lại để khỏi bật cười. Làm sao nói cho Thìn biết chồng nó có thể ngủ với một người đàn ông khác chứ không phải chỉ là bạn khơi khơi. Và vì vậy mà bị kiểm tục bắt.
         Nhưng tôi không nói gì và bắt qua bàn chuyện cứu Bảo. Tôi khuyên Thìn viết cho ban kiểm tục một lá thư nói Bảo là một người chồng tốt. Tôi dặn Thìn đừng đá động đến chuyện hai vợ chồng chưa hề chung đụng xác thịt với nhau. Trong xưởng, ai nói gì cũng mặc đừng lời qua tiếng lại. Tôi cho Thìn biết công an đang cho người dò la phản ứng trong sở.
         Đêm đó tôi nói cho vợ tôi biết quan niệm của Thìn về đàn ông. Bà ta tỉnh bơ nói: “Thằng Bảo không xấu. Và con Thìn cũng không ngu như mình tưởng.”

        Tôi gởi tặng đại úy Minh một chai mai quế lộ thượng hảo hạng của Trung quốc và năm cân nhãn Hưng Yên. Tôi nhắc ông lá thư tường trình của Thìn và nhờ ông quan tâm. Qua điện thoại ông nói ông sẽ cố gắng nhưng ông không hứa hẹn gì. Tôi sốt ruột, trằn trọc mỗi đêm làm bà vợ tôi sợ chứng đau bao tử của tôi lại tái phát.
         Một buổi chiều sắp tan sở đại úy Minh điện thoại báo tin cấp trên chấp thuận cho chuyển Bảo đến bệnh viện tâm thần của tỉnh nếu xưởng chịu trả chi phí phòng ốc và điều trị. Sau này tôi biết nhà lao của tỉnh không đủ phòng giam vì loại tù nhân này không thể giam chung với các tù nhân khác, nên tỉnh quyết định gởi 13 người đi lao động cải tạo, hai người vào bệnh viện, hai đảng viên trong đó có ông trưởng ty điện lực được lãnh án treo và chuyển qua tỉnh khác. Chỉ có ba người bị án tù.
         Tôi chạy vội đến nhà Thìn bảo chuẩn bị gấp một ít hành lý để sáng hôm sau kịp mang lên trại giam cho Bảo. Thìn khóc nức nở vì tin mừng. Sáng hôm sau khi tôi và Thìn đến trại giam thì thấy Bảo và người công an áp tải đang đứng chờ xe trước cổng trại. Vết bầm trên mặt Bảo đã lành, khuôn mặt Bảo trông thật hiền. Bảo ráng nở một nụ cười nói với tôi, “Cậu làm ơn đừng nói cho mẹ con biết việc này.”
 “Thế mẹ anh không biết bệnh của anh sao?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
 “ Dạ không. Cậu nói con bị bệnh tâm thần phải đi chữa bệnh vài tháng.”
 Thìn vừa khóc vừa nói: “Anh đừng lo”,  tay nhét vội gói quần áo và một hộp thịt heo ran mặn vào tay Bảo khi chiếc xe chở bệnh nhân vừa tới.
         Tôi bắt tay Bảo. Bảo nhìn Thìn với đôi mắt trấn an rồi bước lên xe. Người công an bước theo sau. Chiếc xe lăn bánh từ từ rồi rẽ vào một lối khuất sau công xưởng giấy của Thụy Điển viện trợ. Tôi cho nổ máy xe. Thìn tần ngần ngoảnh lại xem còn thấy bóng dáng chiếc xe chở Bảo không rồi mới nhảy thót lên sau xe. Chiếc xe hai bánh của tôi dẹp xuống dưới sức nặng của Thìn.
         Hai tuần lễ sau, vào một ngày Thứ Sáu tôi đến bệnh viện thăm Bảo, ở ngoại ô thành phố chừng 10 cây số. Con đường dẫn tới bệnh viện đã được tráng nhựa. Hai bên đường là những thửa ruộng lúa đang trổ xanh rờn. Trời còn lạnh nhưng sinh hoạt tấp nập. Nông dân  ra đồng làm cỏ lúa. Phụ nữ bận tộn quảy hàng ra chợ. Bầu trời xanh lơ, ánh sáng chan hòa tỏa xuống trên những sườn đồi trông thật hữu tình. Không ai nghĩ xa kia sau mấy ngọn đồi thấp là một bệnh viện. Bệnh viện nằm trên một ngọn đồi cao hơn, chỉ có một lối vào. Dưới chân đồi là một trạm công an. Tôi nghe nói bệnh viện dùng để chữa trị tâm thần những người vì một lí do nào đó không thuận với đường lối của đảng.
         Người ta đưa tôi đến phòng Bảo. Đúng lúc bác sĩ đang khám. Trong y phục trắng ông bác sĩ  chừng 50 tuổi, to con, da ngăm đen, dễ dải. Tôi đoán ông là người Việt gốc Nùng. Ôâng bắt tay tôi giới thiệu ông là bác sĩ Nam và nói tình trạng sức khỏe của Bảo tốt.
 “Ở đây phương thuốc dành cho anh Bảo là tắm điện. Và hôm nay là buổi tắm định kỳ.” Ông nói với tôi.
 “Tắm điện là sao, thưa bác sĩ? ”, Tôi hỏi.
 “Nghĩa là tắm trong nước có điện”
 Tôi quay sang Bảo, hỏi: “Tắm có dễ chịu không?”
 “Dễ chịu lắm.’ Bảo trả lời, miệng mím lại và đôi mắt ngước nhìn tôi như không đồng tình với lời anh nói.
         Tôi hỏi bác sĩ Nam tôi có thể xem Bảo tắm điện không. Ông chấp thuận. Ngoài việc xem tắm điện tôi còn tò mò muốn quan sát cơ thể của Bảo. Ở xưởng dệt người ta đồn Bảo không có dương vật, vì vậy Bảo không bao giờ tắm ở chỗ công cọng.
         Người y tá còn trẻ, lứa tuổi của Bảo – tự giới thiệu tên là Ứng, tốt nghiệp khoa điện trị liệu tại Hà nội, và là người y tá đàn ông duy nhất ở đây - đưa tôi vào phòng tắm bên cạnh. Phòng tắm điện trang bị đơn sơ. Một bồn nước hình vuông bằng sành tráng men trắng đặt ở một góc phòng có một vòi dẫn nước vào và một lỗ thoát nước. Trên tường nhìn xuống bồn nước là một bảng điều khiển có nhiều núm điện. Hai sợi dây cáp nối liền bảng điện với hai khung thép nằm lơ lửng trong hồ.
         Ứng mở nước làm đầy 2/3 hồ rồi ra hiệu cho Bảo cởi áo quần sau một tấm vải mỏng. Khi bước vào hồ Bảo còn mặt quần lót, vẻ mặt thản nhiên chịu đựng.
 Tôi hỏi Bảo: “Điện vào cơ thể có đau không?”
 “Dạ không.”
 Tôi hỏi y tá Ứng: “Đã có điện trong nước chưa?
 Ứng trả lời, tay đặt vào núm điện. “Tôi đang cho điện vào.” Và nói thêm: “Người con rể của ông may lắm mới được tắm điện. Các bệnh nhân khác được trị điện trực tiếp bằng cách gắn cực điện vào người và mỗi lần chữa trị  thét lên như súc vật bị chọc tiết. Có người bị chết giấc.
 “Khi nào thì Bảo hết bệnh.” Tôi hỏi.
 “Tôi không biết” Người y tá trả lời.
         Trong bồn tắm Bảo nằm yên, chân duỗi thẳng, đầu gác lên một miếng cao su kê trên mép bồn, hai mắt nhằm nghiền vẻ mặt chăm chú như đang chờ đợi một cái gì.
        Tôi kéo chiếc ghế đẩu lại sát bồn tắm, im lặng quan sát. Thân thể Bảo chắc nịch, đôi chân trắng nhợt nhạt, láng, không có lông chân, chiếc quần lót cộm lên như mọi người đàn ông khác. Thỉnh thoảng Bảo hít vào rồi thở ra thật dài.
        Người y tá vặn nút tăng thêm điện. Bảo co người lại, nét mặt nhăn nhó. Lo lắng tôi hỏi: “Anh thấy sao?”
“Dạ.” Bảo trả lời, mắt vẫn nhắm. Da mặt Bảo tái xanh, mồ hôi lấm tấm trên trán, môi dưới thỉnh thoảng cong lên liếm vào môi trên như khát nước. Ứng vặn nút điện thêm một nấc. Bảo rên nho nhỏ, người cong lên như muốn thoát ra khỏi bồn tắm. Bảo đau. Ứng lấy khăn lau mồ hôi trên trán Bảo, giọng trìu mến: “Ráng chút nữa thôi, tôi xuống điện ngay bây giờ.”
“Không, tăng thêm nữa đi. Tôi chịu được” Bảo vừa nhăn mặt nén đau vừa nói một cách quả quyết.
            Căn phòng trở nên im lặng. Trong một phút không ai nói với ai một lời. Hai bàn tay của Bảo bám chặt mép bồn run cầm cập.
Ứng giảm sức điện, khuôn mặt Bảo trở nên thanh thản, hai ngón chân cái không còn cựa quậy như trước.
            Thấy đã đủ tôi im lặng đi ra định tìm bác sĩ Nam để cám ơn. Bác sĩ Nam không có ở bàn giấy. Tôi ra ngoài trời tìm một chiếc ghế ngồi, lục túi tìm bao thuốc Điện Biên. Mặt trời lên đã khá cao, ánh nắng chan hòa chiếu qua mấy cây thông đầy lá, chim chóc tung tăng kiếm mồi, kêu ríu rít.  Qua khói thuốc một không khí thư thái bình an khác với căn phòng chạy điện bên trong.
Tôi thấy Bảo thật đáng thương. Một thanh niên khỏe mạnh hiền lành mà không thể sống với đàn bà và có một gia đình như mọi người.
        Nửa giờ sau tôi trở lại phòng của Bảo. Bảo có vẻ mệt mỏi, người còn run vì lạnh. Bảo nói với tôi khi điện vào như có hàng ngàn mũi kim nhỏ cắm vào bứng từng lớp da lên, vì vậy mỗi lần tắm không thể quá 20 phút.
Tôi rùng mình, nói: “Cậu sẽ cho ông bí thư và ông giám đốc sở biết thiện chí và sự chịu đựng chữa trị của anh.”
“Hy vọng các ông ấy vui.” Bảo lắc cái đầu còn ướt. Và chợt nhớ ra: “À con cám ơn lon thịt chà bông của cậu.”
“Anh cần gì khác không?”
 “Lần sau cậu mang cho con mấy cuốn bách khoa tự điển. Con muốn hiểu thêm về bệnh đồng tính luyến ái và cách chữa trị của người Nga.”
“Cậu mong anh sớm được trở về nhà”
“Con cũng chỉ mong có vậy.” Bảo trả lời không tin tưởng.
Kiểng báo giờ cơm. Ứng đẩy cửa bước vào, hai tay bưng khay thức ăn, vui vẻ nói: “Hôm nay có canh rau dền, tôm kho khô và đậu phụ rán. Tôi đã lấy cho bạn đây.”
Tôi đứng lên từ biệt ra về, yên tâm vì sự săn sóc đặc biệt của y tá Ứng dành cho Bảo.

            Xuân sang đã lâu. Bảo vào bệnh viện đã hơn một tháng. Ở xưởng dệt Bảo vẫn còn là một đề tài. Thìn không còn im lặng như trước, thỉnh thoảng hóm hỉnh thêm mắm thêm muối vào câu chuyện.  Mọi người cảm thấy dễ chịu chờ đợi Bảo trở về.
        Ngày Thứ Bảy tôi và Thìn cùng lên thăm Bảo. Gặp Bảo tôi để Thìn nói chuyện riêng, tôi đi kiếm thăm y tá Ứng. Trong khu y tá làm việc cửa phòng của Ứng mở, Ứng đang chăm chú ghi chép sổ tay. Thấy tôi ở cửa phòng Ứng ngạc nhiên gấp vội sổ tay đứng lên bước ra bắt tay mời tôi vào.
“Tôi xin lỗi.” Tôi nói.
“Không, tôi chỉ ngạc nhiên vì ít ai lại phòng làm việc của tôi.”
Tôi rút một tút thuốc lá ba số năm trong chiếc bị cầm tay để vội trên bàn Ứng và nói: “Tôi sẽ không làm mất nhiều thì giờ của cháu. Món quà này không phải để hối lộ cháu mà chỉ để nói lên sự biết ơn của gia đình bác đối với cháu đã tận tình săn sóc cho rể bác.”
“Đừng cho cháu quà như vậy.”
“Cháu không biết hút thuốc sao?”
“Cháu biết hút. Nhưng cháu muốn giúp anh Bảo. Hãy để tặng bác sĩ Nam”
Tôi ngạc nhiên trước thái độ của Ứng. Biết hút thuốc mà từ chối một tút ba số năm là chuyện lạ ở tỉnh nhỏ này. Thấy tôi lúng túng Ứng  nói: “Dù có quà tặng hay không cháu cũng đối xử tốt với anh ấy. Chúng tôi đã là bạn với nhau. Người cần tặng quà là bác sĩ. Bác sĩ giúp thì lợi hơn nhiều.”
“Tôi còn một tút khác dành cho bác sĩ”
“Ở đây tiêu chuẩn với bác sĩ là hai tút. Bác thêm tút này cho đủ tiêu chuẩn.”
Tôi cảm động vì chân tình của Ứng, đút vội tút thuốc vào bị, cáo từ.
Bác sĩ Nam đang ngồi đọc báo trong phòng, điếu thuốc lá còn cháy dở trên tay. Tôi gỏ cửa bước vào. Ông ngước mắt liếc nhanh vào chiếc bị cồm cộm của tôi, thoải mái bỏ tờ báo xuống, ra hiệu cho tôi khép cửa phòng và mời tôi ngồi. Ông ngồi trên một chiếc ghế da, sau lưng là hai kệ gỗ đầy sách y khoa, ngăn trên cùng là năm chiếc ống điếu nhiều kiểu khác nhau. Trong phòng ngộp mùi khói thuốc lá.
           Sau vài lời trao đổi tôi rút trong bị ra hai tút thuốc lá đưa cho ông và nói: “Thưa bác sĩ đây là chút quà mọn của chúng tôi nhân dịp Xuân sang.”
Ông kéo chiếc ngăn kéo to tướng bên phải bỏ hai tút thuốc vào, và nói: “Cám ơn” chỉ vừa đủ nghe.
“Thưa bác sĩ, Huỳnh Bảo có hy vọng hết bệnh trước khi hết mùa Xuân không.” Tôi hỏi.
“Ông nói gì? Hết bệnh hả?õ” Bác sĩ Nam lộ vẻ ngạc nhiên.
“Vâng.”
Bác sĩ Nam lắc đầu, liếc nhìn chiếc cửa xem đã đóng kín chưa, ra hiệu cho tôi xích lại gần hơn. Tôi kéo ghế lại gần để hai tay lên bàn chờ đợi.
“Nói thật với ông, anh ấy không hết bệnh được.”
“Bác sĩ nói cái gì?” Tôi sững sốt.
“Đồng tính luyến ái không phải là một cái bệnh nên không có vấn đề hết bệnh. Nhưng ông đừng nói với ai tôi nói với ông như vậy nhé.”
“Không phải bệnh tại sao bệnh viện nhận chữa.”
 “Công an gởi đến thì chúng tôi phải nhận. Ngoài ra còn có tác dụng tâm lý.”
Ngừng một lát, bác sĩ Nam tiếp: “Đúng, không phải là bệnh. Anh ấy không có thể trở thành một người đàn ông bình thường được. Đồng tính luyến ái chỉ là một khuynh hướng sinh lý, do bẫm sinh, như người thích dùng tay trái người thích tay phải vậy. Nghĩ cho cùng chẳng hại ai.”
“Vậy tại sao lại tắm bằng điện?” Tôi gặn hỏi.
“Điện là phương pháp trị liệu theo chỉ dẫn của Bộ Y tế nên y sĩ chúng tôi phải theo. Vì vậy tôi không dùng cách chạy điện nặng hơn với rể ông. Tắm điện là cách trị ít đau nhất. Tôi cần nói ông biết thêm điều này: theo thống kê trong một ngàn người đồng tính luyến ái chỉ có một người chạy điện mà bớt. Theo tôi, mỡ cá moruy, chô cô la hay thịt heo rán hay cái gì khác còn có kết quả hơn. Thế đủ rồi. Tôi đã nói nhiều quá.”
Tôi điếng người, ngồi bất động. Trông ra cửa sổ trên một cành thông khô một bầy quạ đang vây đánh một con chim chèo bẻo vừa chạy trốn vừa kêu lanh lảnh. Tôi đứng dậy cám ơn bác sĩ Nam. Ông ta dụi  điếu thuốc vào chiếc gạt tàn bằng sành trên bàn và nói: “Ông yên tâm. Tôi sẽ để tâm giúp đỡ anh ấy.”
Tôi trở ra kiếm Thìn. Bảo mặt mày tươi tỉnh như vừa tìm thấy sinh lực bên cạnh Thìn. Riêng tôi có trăm câu hỏi trong đầu: Nếu đồng tính luyến ái không phải là một cái bệnh thì tại sao Bảo lại thấy mình có bệnh và chịu đau đớn để chữa trị? Bảo bị mặc cảm vì áp lực xã hội chăng?

        Mấy tuần nay Thìn bận rộn chuẩn bị nhà cửa đón Bảo. Thay bình hoa mới, lau sàn nhà. Hắn đến thăm bạn bè hỏi cách làm món chạo tôm, một món ăn Bảo rất thích. Thấy Thìn lăng xăng tôi thật băn khoăn. Tôi cũng mong Bảo sớm được xuất viện. Nhưng nếu bệnh không thuyên giảm thì ai cho về? Tôi không dám thổ lộ tâm sự với ai kể cả vợ tôi. Vợ tôi biết thì ai cũng sẽ biết. Chính vì vợ tôi mà cả xưởng dệt ai cũng biết Thìn chưa biết mùi đàn ông. Họ trêu Thìn là “cô dâu còn trinh.”
         Tôi phải làm gì đây? Ai cũng cho đồng tính luyến ái là một cái bệnh, ngoại trừ bác sĩ Nam. Tôi cũng không dám nói với ai những gì bác sĩ Nam nói. Ông bí thư biết thì lớn chuyện. Xưởng đã chi trả hơn 3 triệu đồng để chữa trị cho Bảo do thế lực và sự mua chuộc cảm tình của tôi trong xưởng. Trong đầu tôi cứ lởn vởn mấy câu hỏi: Nếu đồng tính luyến ái là một hiện tượng tự nhiên tại sao lại có đàn ông và đàn bà? Tại sao hai người đàn ông không thể lấy nhau và sinh con đẻ cái. Tại sao trời không cho người đàn ông thêm một bộ phận giống như đàn bà cho tiện việc sổ sách? Càng nghĩ tôi càng nhức đầu. Phải chi tôi có thể hỏi ý kiến nơi một bác sĩ khác hay có một người bạn đủ tin cậy để bày tỏ sự thắc mắc của tôi.
         Còn 10 ngày nữa là đến Tết Đoan Ngọ. Một buổi sáng đại úy Minh gọi dây nói báo cho tôi biết Bảo lại phạm tội và công an đã đưa Bảo về lao xá tỉnh. “Lần này hắn bị bắt quả tang.” Đại úy Minh nói.
 “Trời đất! Tôi kêu lên.
 “Công an có bằng cớ và nhân chứng. Hắn cũng đã nhận tội.”
 “Trời!” Tôi cứng họng.
 “Hắn bị nhốt rồi.” Đại úy Minh tiếp.
 “Hay hắn là một người ái nam ái nữ?” Tôi cố vớt vác.
 “Không. Bác sĩ đã khám kỹ. Hắn là một người đàn ông khỏe mạnh, bình thường. Hắn bị bệnh tâm thần và phạm tội sa đọa, xúc phạm thuần phong mỹ tục.” Tôi như nghe được tiếng cười chế nhạo của đại úy Minh.
Buông điện thoại xuống tôi trút tất cả nỗi giận dữ vào Bảo. Hắn đã làm hỏng cả cuộc đời nó và làm phiền lụy đến bao nhiêu người khác.
Vỡ lẽ ra là hắn và y tá Ứng đã thương nhau và lén lút ngủ với nhau. Ứng thường dành phần cơm và thức ăn gấp đôi cho Bảo và Bảo đã đan tặng Ứng một chiếc áo len mầu đỏ cực kỳ duyên dáng. Một hôm hai người ôm nhau hôn hít trong phòng y tá không biết cửa phòng bị gió lùa mở lúc nào không hay. Một người lao công đi qua thấy và đằng hắng ra hiệu. Ứng tin rằng người lao công đã báo cáo cho ban giám đốc viện, nhưng Bảo khuyên Ứng đừng quá sợ hãi vì có thể người lao công chưa thấy gì. Nhưng Ứng biết. Ứng nói mỗi lần gặp hắn người lao công lém lỉnh mỉm cười và nheo một con mắt như thầm bảo “tôi đã thấy rồi.” Không chịu nổi áp lực của sự chờ đợi Ứng đã thú thật mọi chuyện với cấp lãnh đạo bệnh viện. Nhờ tự thú Ứng bị tù treo một năm trong khi Bảo bị phạt hai năm tù ở. Ứng sẽ không bị mất việc nếu biết ăn năn hối cải.
         Chiều hôm đó tôi đến nhà báo cho Thìn biết mọi chuyện. Thìn  khóc sướt mướt. Bình hoa trên bàn đã bắt đầu tàn. Sàn nhà đã thấy rác. Chén bát dơ còn nằm trong chậu. Lau nước mắt với một chiếc khăn trắng đã ngả mầu Thìn hỏi tôi, “Con phải làm gì bây giờ. Có nên cho mẹ anh ấy biết không?”
 “Nói cho bà ta biết. Giấu sao được nữa. Phần con nộp đơn xin ly dị là vừa.”
 “Không” Thìn khóc lớn tiếng “Anh ấy là chồng của con. Con đã là vợ anh ấy. Chúng con đã thề ăn đời ở kiếp với nhau. Con sẽ trung thành với anh ấy cho đến chết. Mặc ai dị nghị. Riêng con con biết anh ấy là một người tốt.
 “Tốt sao lại ngủ với một người khác.”
 “Ở bệnh viện buồn anh ấy tìm một chút thoải mái thôi. Đâu có phải là chuyện ngoại tình hay lấy hai vợ.”
“Thoải mái kiểu đó là phạm trọng tội nên nó phải đi tù.” Tôi nói.
Trong thâm tâm tôi biết Bảo là một người tốt ngoại trừ việc ưa thích đàn ông. Nhưng tôi không bênh Bảo được. Tôi phải bảo vệ vị trí tôi là người phụ trách an ninh của một xưởng dệt lớn nhất nhì của nước. Nếu rể tôi là một phạm nhân thì còn ai nể tôi? Tôi sẽ bị cách chức. Không có tôi ai bảo vệ Thìn? Người ta sẽ cho Thìn nghỉ việc dành chỗ cho một người có lý lịch tốt hơn.
Thấy Thìn vẫn im lặng, tôi hỏi: “Con tính sao?”
 “Con quyết đợi anh ấy mãn tù.”
 Tôi mệt mỏi đứng dậy, rồi lại cúi xuống nâng cốc trà đã nguội uống một ngụm. Lưỡi thấy chát, tôi bước đến cửa sổ nhìn ra ngoài . Xa xa lấp lánh ánh đèn, một vài con đôm đốm lập lòe bay. Tôi quay lại nói với Thìn, “Nó không xứng đáng để con phải hy sinh. Con phải ly dị nó.”
 “Không, con không ly dị.” Thìn mếu máo.
 Tôi nổi giận gắt: “Mày biết tao không thể có một thằng rể là tù nhân được. Nhục nhã lắm. Nếu mày muốn chờ nó thì từ nay đừng đến nhà tao nữa.” Nói xong tôi mở cửa bước ra khỏi nhà đóng sầm cửa lại sau lưng.
Đứng yên một lúc trên ngưỡng cửa tôi mới thấy lối đi. Bầu trời tối om và đầy sao.

                                                        Trần Văn Sơn (April 14, 2002)
                                                        Binhnam@aol.com
                                                        http://www.vnet.org/tbn

(Viết phỏng theo The Bridegroom của Ha Jin trong The Best American Short Stories  2000, Houghton Mifflin Company)

















NGUY•N THI LONG AN * GIA PHONG

Gia Phong
                                                                NguyÍn Thi Long An
        Cô giáo dåy các môn h†c thÜ©ng ngày bܧc ra khÕi l§p nhÜ©ng m¶t gi© chót cho môn n» công chiŠu thÙ næm cûa tuÀn lÍ. Tôi cÛng nhÜ các bån d†n dËp tÆp vª cÃt vào c¥p, lôi tÆp giÃy dùng g¡n mÅu thêu v§i h¶p ÇÒ may ra Ç‹ lên m¥t bàn. Ti‰ng soät soåt, ti‰ng kéo khua løp cøp, phát ra ch‡ này ch‡ kia, l§p h†c thÜ©ng xuyên yên l¥ng n°i lên m¶t chút ch¶n r¶n.
        Bên ngoài, trÆn mÜa mùa dai d£ng tØ nºa gi© trܧc, gi†t v¡n gi†t dài Çan nhau mù mÎt vùng không gian trܧc m¡t che khuÃt ven cây bên con l¶ Çá. Màn nܧc dÀy bÎt cuÓn hút bªi cánh gió tr©i quÆt tØng làn xÓi xuÓng rào rào. Nܧc ngÆp tràn mênh mông sân trÜ©ng nhÜ th»a ru¶ng khô ngÆp nܧc, lŠu bŠu rác r‰n và nh»ng xác lá ch‰t trôi nghiêng ngºa l¥n l© tÃp vô mé nhÜ nh»ng chi‰c xuÒng nhÕ xíu trên b‰n sông, chen lÅn vô sÓ bong bóng phÆp phÒng, h®p tan trên m¥t nܧc dܧi hiên trÜ©ng.
        HÖi lånh ùa vô l§p h†c, m¶t chút se s¡t mÖn man da thÎt, tôi co ngÜ©i,
m¶t tay khoanh trܧc ng¿c, m¶t tay giª nh»ng trang giÃy, džc lÀm thÀm vu vÖ Ç‹ qua Çi th©i gian ch© Ç®i. Nh»ng hàng chÌ nhÕ rÙc hiŒn trܧc m¡t: mÛi nhÕ (couture à petits points), mÛi Ƕt (point arrière), mÛi ch» thÆp (points croisés), mÛi mång (points de reprise), tôi ng¡m nghía ÇÜ©ng chÌ thêu ÇÕ th¡m n°i bÆt trên mi‰ng väi vuông v¡n tr¡ng muÓt.
        Cô giáo n» công bܧc vào l§p, nghiêng cây dù nh‹u nܧc ròng ròng trên nŠn gåch tàu ÇÕ trܧc khi d¿ng dù phÖi phía sau tÃm bäng Çen. Chúng tôi ÇÙng
dÆy chào nhÜ thÜ©ng lŒ và t¿ ngÒi xuÓng. Cô ra lŒnh góp bài Çã làm tuÀn trܧc. Cô vi‰t và vë mÅu thêu m§i. Dܧi hàng ÇŠ ngày tháng, ch» couture l§n n¢m gi»a bäng, mÛi Ç¥c (point de passé plat), dܧi n»a cô vë m¶t hình vuông rÒi
vi‰t: chiŠu ngang mÜ©i phân, chiŠu d†c mÜ©i hai phân. Gi»a hình vuông
cô vë m¶t lá cây v§i nh»ng ÇÜ©ng gân sóng lá chåy ngo¢n ngoèo, tua tûa kh¡p cùng m¥t lá. Các bån mª h¶p ÇÒ thêu lÃy vi‰t chì, kéo, giÃy mÕng, vë v©i, c¡t
xén... Låi m¶t lÀn n»a ti‰ng khua Ƕng khô khan n°i lên m†i ch‡.
        Tôi träi dài mi‰ng väi l§n trܧc m¥t, Ço Çúng ni tÃc, lÃy vi‰t chì chÃm làm dÃu, cÄn thÆn rút chÌ và c¡t theo ÇÜ©ng chÌ rút m¶t mi‰ng väi ngay ng¡n. Tôi chuÓc låi cây vi‰t chì, c¡m cúi vë lá cây lên giÃy giÓng in trên bäng rÒi can (calquer) lên mi‰ng väi vØa c¡t, tÃt cä xong xuôi s¤n sàng Ç®i cô giáo b¡t ÇÀu mÛi m§i cho tØng ÇÙa. " ChÎ Trang Öi,  nh© can dùm em cái lá cây cûa chÎ vào väi cho em Çi. Em vë hoài không ÇÜ®c. ChÎ Trang làm mau mau cho em". Ti‰ng Nhã thúc hÓi, tôi chòm lên bàn trên tính la nó, lÀn nào cÛng vÆy m‡i lÀn cô giáo cho bài thêu m§i, nó ÇŠu nh© tôi thêu dùm, Çôi khi tôi còn ÇÜa luôn mi‰ng väi Çã thêu rÒi cho nó k‰t vào tÆp, tôi thêu mi‰ng khác. Bây gi© thành thói quen m‡i khi làm không ÇÜ®c nó låi réo tôi nhÜ réo Çò. NhiŠu khi tôi cÛng b¿c mình nhÜng ngó cái lÜng gÀy gò còm cõi cúi gÆp xuÓng n¡n nót vë v©i,
cong cong trܧc m¡t, thÜÖng Nhã, tôi låi làm giùm. Cô giáo thÜ©ng nói :
" Hai ÇÙa là chÎ em song sinh nhÜng thÆt tÜÖng phän, ÇÙa månh khÕe, lanh l®i, ÇÙa èo u¶t Óm y‰u, chÆm løt, mà låi m¥t mày cÛng không giÓng nhau".
Hai tên TrÀn ThÎ Thanh Trang, TrÀn ThÎ Thanh Nhã n¢m k‰ bên trong s° Çi‹m danh, Trang, Nhã tØ kép Çi Çôi có š nghïa rÃt ÇËp Çë. Hai ÇÙa Çi tØ nhà t§i trÜ©ng tØ trÜ©ng vŠ nhà bÓn lÜ®t, mÜa n¡ng hai mùa, s¿ gÀn gÛi Çã trª nên ÇÆm Çà thân thi‰t. ñôi khi thÀm nghï có ÇiŠu bÃt tr¡c nào Çó Çã xäy ra trong gia Çình tôi lúc chúng tôi m§i l†t lòng. Tôi mÖ hÒ cäm thÃy ÇÓi v§i hai ÇÙa tình yêu thÜÖng mË tôi ban phát không ÇÒng ÇŠu lÖ là v§i ÇÙa con mà ba tôi Çã nói v§i m†i ngÜ©i vì "xÃu háy" nên phäi gªi cho bà n¶i nuôi.
        MÜa bên ngoài vÅn dai d£ng. Ti‰ng uŠnh oang cûa ‹nh ÜÖng r©i råc, buÒn bã n°i lên phía sau sân trÜ©ng. HÒi trÓng tan h†c ÇÜa tôi t§i s¿ lo l¡ng cho ÇÙa em cùng Çi cùng vŠ v§i mình. Nhã quay låi Ãp úng nói v§i tôi
    "ChÎ Trang! Em quên Çem theo áo mÜa rÒi".
Gió th°i månh, h¡t nh»ng phi‰n nܧc nhÕ tåt vào cºa, bay thÓc t§i bàn h†c, Nhã lånh run héo h¡t gÆp ngÜ©i nhäy mÛi, m¥t tai tái, nܧc m¡t tràn ÇÀy khóe m¡t. Ngó lên khoäng tr©i xám tôi lôi cái áo mÜa trong c¥p ÇÜa cho Nhã m¥c Ç« lånh, hai chÎ em cùng ra ÇÙng ngoài hàng ba l§p, lóng nhóng ch© mÜa tånh.
        Các l§p, tØng lÛ h†c trò Ò åt kéo nhau ra khÕi cºa. LuÒng ngÜ©i ÇÀy Ãp sân trÜ©ng chäy ra phía c°ng, ngoài ÇÜ©ng. RØng áo mÜa và rØng dù xanh ÇÕ lô nhô b¡t trí nh§ tôi hiŒn låi l© m© trܧc m¡t hình änh hai cây dù nhÕ næm nào xa xÜa.....
        Bäy tu°i, ba mË sºa soån cho tôi vào trÜ©ng. Trܧc hôm nhÆp h†c, bà n¶i d¡t m¶t ÇÙa con gái nhÕ Ç‰n nhà Ç‹ cùng Çi h†c v§i tôi. NgÜ©i nó nhÕ xíu gÀy nhom, tay chÜn quŠu quào nhÜ nhánh cûi khô, hai mänh xÜÖng vai trÒi lên
cao dܧi làn áo väi tr¡ng m§i tinh. Nó e Ãp níu tay bà n¶i cÙng ng¡t, ÇÙng sát vào bà nhÜ hoäng s® trܧc cái dòm cûa ngÜ©i trong nhà. Ba tôi bi‹u :
    "Trang d¡t em Çi chÖi v§i con! Cho bà n¶i nghÌ m¶t chút".
Tôi ngo¡c, nó l¡c ÇÀu, cúi dòm xuÓng ÇÃt. Bà n¶i khoát tay:
    "Thây nó... Ç‹ nó ÇÙng Çây v§i bà, ÇØng làm nó khóc".
NhÜng chÜa chi nܧc m¡t nó Çã trào ra, miŒng nó méo xËo. Bà n¶i v¶i vàng d‡ dành:
    "ñØng khóc, mai con Çi h†c v§i chÎ Trang vui l¡m, bà n¶i cho con cây dù m§i, che n¡ng mÜa khi Çi h†c".
        Bà lÃy trong bao giÃy ra hai cây dù nhÕ, m¶t ÇÕ m¶t xanh Ç‹ lên ván gÀn ch‡ ÇÙa con gái nhÕ ÇÙng. Nó v¶i vàng chøp lÃy cây dù ÇÕ, còn låi cây dù màu xanh, bà n¶i lÃy ÇÜa cho tôi cÛng nói
"Bà cho con cây dù nÀy Ç‹ che mÜa n¡ng khi Çi h†c".
 TØ lâu tôi ao ܧc ÇÜ®c mË mua cho cây dù màu ÇÕ, bây gi© bà n¶i cho dù mà cái màu ÇÕ Üa thích Çã bÎ ÇÙa con gái xa lå dành mÃt. Tôi không cÀm, rÜng rÜng nܧc m¡t. Bà n¶i hi‹u š, nhÜng không bi‰t phäi xº sao cho êm ÇËp, hai ÇÙa cháu cùng thích cây dù ÇÕ, nên ÇÜa m¡t cÀu cÙu ba tôi. Ba ra lŒnh:
    "Con Trang cÀm cây dù xanh cÃt vô c¥p, mai Çem theo Çi h†c".
Ánh m¡t sáng ho¡c cûa ba chi‰u th£ng vào m¡t tôi, khi‰n tôi cúi ÇÀu và ngoan ngoãn cÀm cây dù Çi vào nhà trong. Qua khÕi ánh m¡t nghiêm kh¡c cûa cha, tôi ném cây dù vào hóc kËt trong phòng, m¥t chØ b¿ Çi ra phía sau b‰p n¡m áo mË khóc Ò. Lòng tÙc b¿c ܧc mÖ không toåi nguyŒn, cäm thÃy bÎ bÕ rÖi. Ba nghiêm kh¡c, bà ni cÛng không thÜÖng, bao nhiêu yêu chiŠu trܧc kia bÎ ÇÙa con gái xa lå cܧp h‰t.MÃy ngày h†c trôi qua, lòng tôi vÅn không nguôi hÆm h¿c. N‡i ganh ghét näy sanh hi‹m ác, nhÜ bà mË ghÈ trong chuyŒn TÃm Cám, tìm dÎp hûy diŒt ÇÒ vÆt mình không chi‰m ÇÜ®c. Tôi ch®t nh§ trong r° may cûa mË, có cây kéo thÆt bén, lÆp tâm thØa lúc m†i ngÜ©i không Ç‹ š, tôi lôi cây dù ÇÕ cûa con nhÕ ra c¡t nát áo dù rÒi cÃt vào ch‡ cÛ. ChuyŒn v« lª tôi bÎ ba Çánh Çòn và phåt quì gÓi, bà n¶i xin ba tha, không thôi, phäi quì tàn câynhang. Con nhÕ ÇÙng d¿a c¶t khóc thút thít. DÀu Çã  ÇÜ®c tha nhÜng trong lòng vÅn âm thÀm nh§ lúc bà n¶i v¶i vàng Çi mua cây dù khác ÇŠn cho nó..........
        Ti‰ng sét trên không ÇÜa tôi trª låi hiŒn tåi, li‰c m¡t ngó Nhã, Çôi m¡t dåi kh© cûa nó xa v¡ng dòm màn mÜa láy pháy, m¥t xanh xao lÅn khuÃt trong mÛ áo mÜa trùm phû. Lòng råt rào trào dâng niŠm yêu m‰n. ThÜÖng em tôi vô vàn, ÇÙa em gái y‰u ÇuÓi, m‡i lÀn th©i ti‰t Ç°i thay và nh»ng trÆn mÜa dÀm, dÆp dùi triŠn miên v§i bŒnh hoån
          MŒt mÕi, chóng chÕi cái Çau lâm râm âm Ì trong bøng suÓt hai ngày liên ti‰p, Nhån ngû quên trong n‡i dža Çày th‹ xác, b‡ng gi¿t mình thÙc giÃc, cÖn Çau xé ru¶t trª dÆy hành hå, c¡n ch¥t ræng ngæn ti‰ng rên si‰c. CÖn Çau càng lúc càng nh¥t thêm, tØng hÒi liên ti‰p d» d¶i. M¶t mình læn l¶n gi»a bóng tÓi bao phû cæn buÒng, Nhån n¡m cÙng thành giÜ©ng, kêu thÀm bây gi© không ai t§i v§i mình, và mình cÛng không th‹ t§i v§i ai. Cõi âm u ÇÎa ngøc ch¿c ch©, cái ch‰t cÆn kŠ gang tÃc. ñ©i ª ngoài mình, và mình ª ngoài Ç©i rÒi. Tr©i Öi, h«i tr©i! Ti‰ng kêu ÇÃng thiêng liêng hòa tan theo hai hàng nܧc m¡t. ñêm tÓi Çen, trên nŠn tr©i khuya nh»ng ngôi sao âm thÀm dày Ç¥t nhÜ thuª nào, Nhån tØ n‡i mê tÌnh vÆt v© ljn niŠm lo s® s¿ sÓng và cái ch‰t cÆn kŠ lan tràn nhÜ thác nܧc trong lòng.
        MË Çã bÖi ghe Çi Çâu tØ chÆp tÓi, cæn d¥n coi chØng nhà. Hai chú làm công ngû ngoài chòi lúa. Trong nhà không còn ai. NgÒi dÆy, Nhån lÀn tay tháo gª l§p väi nÎt bøng, mª tØng vòng, m§ väi suÓt sáu tháng tr©i không r©i khÕi bøng bÓc mùi hôi thúi. Vòng bøng ÇÜ®c n§i lÕng thong thä dÍ chÎu thì cÖn
Çau o¢n oåi t§i tÃp thúc hÓi s¿ lâm bÒn. Nhån chøp cây Çèn cÀy và h¶p quËt lºa Çã thû s¤n bܧc ra khÕi nhà, m¥c kŒ bÕ nhà không ngÜ©i canh gi», lÀn dò bܧc v§i cÖn Çau Çi‰ng ljn LJi cong ngÜ©i Çi không n°i. NgÒi xuÓng, ÇÙng lên, xiêu vËo nhÜ bóng ma gi»a màn sÜÖng khuya.Cæn chòi hoang Å bên con sông dài ru¶ng, giòng nܧc thÀm l¥ng chäy lên, xuÓng Å leo lét ng†n Çèn cÀy khi m© khi tÕ. Ti‰ng nÙc nª cûa Nhån lan nhË hòa cùng ti‰ng d‰. Chºa hoang ÇÈ lånh trong cæn chòi, cái Çau thôi thúc, l‰t lê kh¡p cùng m¥t ÇÃt, læn l¶n, ngºa bên này,
quay bên kia bÃn loån. Thân th‹ Nhån dày xéo nát nghi‰n thäm cÕ dåi cûa nŠn chòi. NÖi Çây không ngÜ©i, Nhån t¿ do rên si‰c. Trán vã mÒ hôi o¢n oåi v§i ǧn Çau, hai tay bÃu ch¥t hai bøi cÕ m†c xÌa bên mé vách, trân mình mê säng. ñÙa nhÕ ÇÕ hÕn b¿c ra khÕi lòng mË v§i ti‰ng khóc è è khàn Çøc. ñôi m¡t mù m© nhòa nhoËt, chÌ kÎp dòm xuÓng thÃy l© m© ÇÙa bé gái lÀy løa nhÜ con mèo con ܧt nܧc ngo ngoe, khúc ru¶t lòng thòng ch‡ rún. Nhån kinh hoàng rÒi mê mang trong vÛng máu. Lúc tÌnh dÆy trÖ tr†i trong chòi, bÓn bŠ im v¡ng, ÇÙa bé ÇÕ hÕn Çã bi‰n mÃt. Nhån ng« mình chiêm bao, Çäo m¡t dòm quanh: màu Çen dày Ç¥t, xa xa ti‰ng gà gáy  tan canh. Nhån gÜ®ng gåo nÜÖng theo bóng tÓi s¡p tàn lûi thûi Çi vŠ, lÈn vô nhà v§i thân xác tä tÖi và dÃu máu còn hoen tràn
bê b‰t.......
        NgÒi trܧc thŠm nhà canh chØng nh»ng ÇŒm lúa Çang phÖi, Nhån ngܧc m¡t dòm tr©i, Çám mây tr¡ng xám khói nhang Çùn vŠ m¶t phía, ch©n v©n nhÜ muÓn giæng kín khoänh tr©i xanh. Trong cøm cây phía xa Çàn cò ÇÆu nghÌ chÖn trên cành, rút ÇÀu vào cánh rÌa lông, trên thinh không tØng Çàn bay vŠ lán.
Cánh cò tr¡ng xóa nhÃp nhô kh¡p vùng r®p bóng, liŒng Çi, bay vŠ, ki‰m æn trên nh»ng Çám rung biŠn cånh nh»ng con kinh nܧc båc. Làng Lán Cò Çìu hiu trong sinh hoåt thÀm l¥ng h¢ng ngày bên nh»ng rØng tràm dày bÎt. N¡ng tháng Tám hanh vàng trôi trên nh»ng chòm cây, lan nhË xuÓng nh»ng ÇŒm lúa s§m còn ܧt nܧc trên sân. Mùi lúa thÖm thoang thoäng gi»a vùng không khí
mát mÈ sau nh»ng trÆn mÜa mùa ch®t t§i. Hai công ru¶ng dành låi t¿ mình làm lÃy, g¥t hôm qua Ƕ non chøc giå, công kÏ làm riêng, bao nhiêu lúa nâng niu trên mÃy chi‰c ÇŒm bàng. Nhån l¶i vô ÇŒm lúa, xÓc lên b¢ng hai chân, ti‰ng rào rào rÆp r©n rë lúa thành tØng luÓng, nhÜ nh»ng ÇÜ©ng cày ngo¢n ngoèo, Nhån nhæn m¥t m‡i khi nh»ng h¶t lúa xanh vàng ÇÀu nh†n bén, chÌa th£ng vào da Çau Çi‰ng. XÓc h‰t ÇŒm lúa nÀy ljn ÇŒm lúa khác, xong xuôi, bܧc ra khÕi ÇŒm, Nhån giÆm giÆm, giÛ giÛ cho tØng h¶t lúa dính kë chÖn r§t ra rÒi m§i trª låi thŠm nhà ngÒi nhÜ cÛ. Công viŒc tuy nhË nhàng nhÜng Nhån cäm thÃy thÆt n¥ng nŠ, u‹ oäi. S¿ hæng hái lúc ÇÀu tan bi‰n, bao nhiêu náo nÙc tØ hôm nhÆn
ru¶ng làm thº Çã lùi xa Ç‹ låi s¿ chán chÜ©ng mŒt mÕi. Khoänh ru¶ng nhÕ Çã ÇÜ®c chú Hai - ngÜ©i l¿c ÇiŠn trong nhà ÇÅ cày, bØa, trøc và ki‰m m§ må ba tháng Ç‹ s¤n, viŒc còn låi chÌ là cÃy, nh° cÕ, sæn sóc tØng cây ljn khi lúa tr°
bông, chín, g¥t Çem vŠ nhà phÖi phong. PhÀn viŒc Nhån làm tuy ít Õi nhÜng
cÛng có chút công sÙc và chút ít mÒ hôi. Nh»ng phi‰n lúa ao ܧc lúc ÇÀu Çã hi‹n hiŒn ra trܧc m¡t vÆy mà bây gi© Nhån låi ngao ngán, th© Ö, m¶t n‡i buÒn không tên len nhË vào hÒn. Чc mÖ gây d¿ng cho mình có chút vÓn li‰ng Ç‹
dành mai hÆu... khi hai ÇÙa ra riêng. Hܧng m¡t qua cæn nhà phía bên kia hàng rào nhÜ ngóng ch© Çón Ç®i, Nhån thª dài..... Nh»ng giây mÒng tÖi xanh d©n pha lÅn ng†n tim tím chåy d†c ngang, khÖi dÆy nh»ng ngày hai ÇÙa bên này bên kia, m¥t ÇÓi m¥t, m¡t chi‰u m¡t. Hoài công Ãp û, trân tr†ng hÙa hËn là
ngÜ©i tình, là v® hiŠn dâu thäo. Ngót hai tháng qua b¥t tin nhàn cá, bÀu tr©i xanh trܧc m¥t nhÜ søp Ç°, cuc Ç©i Çã Çi vào sa mù, mÜa bão. S¿ ra Çi Ƕt
ng¶t cûa ngÜ©i con trai hàng xóm, không m¶t ti‰ng giã tØ, không Ç‹ låi v‰t tích, không l©i nh¡n gªi... MÕi mòn trông ngóng tin thÜ, g¥p låi chÌ là äo v†ng. Nói r¢ng Çi theo m¶t hoài bäo, hoài bäo gì khi tu°i còn non trÈ? Nói r¢ng Çi theo ti‰ng g†i cûa non sông, non sông gì trong khi chÜa hi‹u  h‰t nh»ng danh tØ quá l§n lao vï Çåi? Bây gi© có miŒng nhÜ ngÜ©i câm, không th‹ nói lên l©i oán
trách, không th‹ giäi bày v§i ai ngay chính ngÜ©i thân nhÙt. S¿ thÜÖng yêu thÀm l¥ng, ÇÀu mày cuÓi m¡t cûa ngÜ©i Çó, ngÜ©i con trai gÀn sân xó cºa, g¥p nhau ngoài ÇÒng ru¶ng, bên hàng rào, hay nh»ng Çêm træng ÇÆp lúa dÀn công,
nh»ng khi mË v¡ng nhà nh© qua ngû giúp. N‡i vui sܧng choáng ng®p cûa niŠm yêu thÜÖng òa v« trong nø cÜ©i hÒng, không kŠm gi» n°i, Çã mù quáng trao thân, Çã Çiên cuÒng liŠu lïnh v§i tÃt cä tình yêu ÇÀu, buông trôi cu¶c Ç©i không chút Ç¡n Ço. Gi© Çây trong khoäng không vòng tay n‡i thÃt v†ng, n‡i ê chŠ Çã làm ngÜ©i Nhån nhÜ xác m¶t con vÆt ch‰t ÇuÓi, møc r»a n°i trôi trên giòng kinh nܧc Çøc. Tûi h©n trào dâng, chåy cùng måch máu làm thân th‹
chín mùi trong n‡i Çau ǧn t¶t cùng. ­a nܧc m¡t ngÆm ngùi, cúi ÇÀu khóc thÀm cho cu¶c tình bÎ phø.VØa m§i ÇÙng rt dÆy Çu°i Çàn gà con bÜÖi lúa, b‡ng
Nhån øa và ói thÓc tháo chÃt nܧc loãng tØ trong ru¶t. Nܧc m¡t nܧc mÛi choàm ngoàm, nܧc mi‰ng cuÒn cu¶n tuôn tràn ra khÕi c°, Nhån chåy mau ljn góc hè cÃm ÇÀu gøc xuÓng. Hai ba ngày trܧc xây xÄm chóng m¥t, nh¶n nhåo trong ngÜ©i khó chÎu, mË cåo gió và b¡t uÓng mÃy viên thuÓc cäm. NhÜng cæn bŒnh không phäi là m¶t cæn bŒnh thông thÜ©ng. Nhån Çã run rÄy, tái xanh m¥t mày gÀn muÓn xÌu, khi so sánh triŒu chÙng cûa cæn bŒnh giÓng hÎt nhÜ nh»ng ngÜ©i Çàn bà Çang cÃn thai trong xóm. Nhån lén uÓng nh»ng chén nܧc rau ræm cay xé h†ng, cháy bÙc ru¶t gan, æn nh»ng trái Çu Çû non tÜÖm mû Ç¡ng ch¢n, Ç¡ng nghét nuÓt không trôi ÇÜ®c xuÓng c°. Nh»ng bu°i sáng lang thang bên b©
sông, ngoài vÜ©n, ru¶ng, tránh né m†i ngÜ©i, tránh luôn mË, rÃt s® ánh m¡t kinh nghiŒm cûa ngÜ©i l§n. Không khoan dung nào tha thÙ cho ÇÙa con gái hoang thai. Nhån s¤n sàng làm bÃt cÙ ÇiŠu gì Ç‹ cho giòng máu Çang tÜ®ng hình tuôn chäy, v« vøn ra. Gi†t máu vô thØa nhÆn, không danh chánh ngôn thuÆn Çang nÄy mÀm trong cÖ th‹. Có khi muÓn t¿ tº, Çâm ÇÀu xuÓng nܧc ch‰t Çi cho xác thân tan bi‰n. Mình ngÒi cä ngày bên giòng sông v¡ng, nhÜng không Çû can Çäm th¿c hành š ÇÎnh. Lan man suy nghï trong khi cÖn mºa hoành hành, trong ngÜ©i không còn chút sinh l¿c, sÙc sÓng nhÜ Çã løi tàn, chân tay thôi c¿a quÆy, Nhån bÖ ph©, h© h»ng d¿a lÜng vào vách nhà, nh»ng Çóm Çen lan tràn mênh mông trong Çôi m¡t võ vàng khép kín.NgÒi trên b¶ ván chÜn quÿ phía
ÇÀu cháy dܧi, bà ba Chܪng Ç° các thÙ lÌnh kÌnh trong khay ra ván, chùi khay, chùi Óng nh°, s¡p låi m§ cau trÀu bØa bn n¢m ng°n ngang không ÇÀu Çuôi. VØa nhai trÀu Çôi m¡t bà vØa theo dõi cº chÌ cûa con gái. ñôi chân thon nhÕ rë ÇÜ©ng cày trong ÇŒm lúa, thân ngÜ©i mänh mai uy‹n chuy‹n di ÇÙng gi»a ánh n¡ng vàng nhË cûa bu°i sáng mun. TØ nào t§i gi© ít khi Çau y‰u, "con gái mÜ©i bäy, mÜ©i tám bÈ gãy sØng trâu", m§i bÎ Çau vài b»a mà dÜ©ng nhÜ da nó Çã xanh xao. Bà nói m¶t mình: "mË nó, bày Ç¥t làm Ç‹ cûa riêng". Bà mÌm cÜ©i nh§ thuª thi‰u th©i, cÛng tÆp làm, cÛng Ç‹ dành tiŠn, nhÜ con gái bây gi©. Dòm con v§i Çôi m¡t thÜÖng yêu bao la, rÜng rÜng cám cänh mình ÇÖn chi‰c thui thûi v§i ÇÙa con gái út. Hai mË con trong cæn nhà r¶ng thinh thang v§i hai ngÜ©i Çàn ông sÒn sÒn Å hai ngÜ©i giúp viŒc tØ khi chÒng còn sanh tiŠn ÇÅ phø trách viŒc nhà cºa ru¶ng vÜ©n và chèo ghe thâu lúa ru¶ng. M¥c dÀu góa bøa, ÇÖn Ƕc chÓng chÕi v§i Ç©i, bà cÛng Çã gÀy d¿ng cho th¢ng con trai có cæn cÖ trên tÌnh, ÇÙa con gái k‰ Çã gä Çi xa, t§i con út nhÙt quy‰t gä b¡t rÍ. Cuc Ç©i còn låi sÓng hû hÌ hôm s§m v§i con v§i cháu. Чc mÖ Çám cháu ngoåi sau này ª gÀn mình cho ljn khi theo ông bà vŠ dܧi vùng ÇÃt m§i.Têm trÀu, chÈ trái cau tÜÖi, nåy håt, æn mi‰ng trÀu cho ngon, b‡ng nghe con gái øa oË dai d£ng phía vách hè, bà Ba buông xøi mi‰ng trÀu, chåy ra Ç« con vô nhà, ÇÄy n¢m trên võng. Nhån nh¡m m¡t thiêm thi‰p mŒt lä, kŒ mË xÙc dÀu, r© trán, n¡n bóp chân tay. Bà ba Chܪng lo ngay ngáy cæn bŒnh lå lùng cûa con gái. HÒi nãy còn chong chÕi, gi© nhÜ ngÜ©i bÎnh n¥ng. Hai, ba ngày không h¶t cÖm trong bøng, ch¡c kiŒt sÙc bÎ nu‡ng sanh ra øa mºa. Bà ba Chܪng nhai v¶i mi‰ng trÀu, lÆt ÇÆt Çi lË xuÓng b‰p b¡t nÒi cháo. BÈ mÃy nhánh chà bÕ vào lò, nhè nhË gát chéo thêm mÃy cây cûi trên nhánh chà cháy dª dang, cº Çng chÀm chÆm, Üu tÜ. ChiŠu qua còn ngÒi chÖi v§i bà trên hàng Çá trܧc nhà, Çâu có Çau y‰u gì. Bà mÜ©ng tÜ®ng nhÜ mình Çoán không Çúng cæn bŒnh cûa con. Ti‰ng chà khô n° lách chách êm êm. ñÅy cûi vô lò, bà ngóng ra sân dòm chØng mÃy ÇŒm lúa. CÖn gió nhË l¡c lay nhành °i, b¡t bà ba nh§ låi gÀn Çây Nhån thÜ©ng leo v¡t vÕng trên cây, l¥t h‰t trái chua, trái chát, l¥t luôn m§ kh‰ sau vÜ©n, thÆm chí th†c thêm nh»ng trái bÀn °i ven råch sau nhà, š nghï Çó làm bà nh§ thêm cº chÌ lå lùng cûa Nhån. Sáng s§m không hŠ thÃy m¥t nhÜ m†i hôm, Çi mÃt biŒt cho t§i trÜa tr© trÜa trÆt m§i ló vŠ, thÜ©ng hay tránh m¥t mình, không còn chà l‰t nhÕng nhÈo m‡i khi bà ngÒi æn trÀu trên b ván. Nghi ng© vÅn vÖ, bà ba Chܪng bÕ nÒi cháo Çang sôi †c åch trên b‰p, Çi ra phía võng ngó Nhån trân trân, bÃt ng© b¡t g¥p ch‡ hóp c°, dܧi khoänh da mŠm måch nÖi Çó gi¿t gi¿t, nhäy lên xuÓng soi sói. M¥t bi‰n s¡c, bà ÇÙng ch‰t sºng nhÜ tr©i trÒng phía trên ÇÀu võng. T¿ dÜng bà chóng m¥t ngang, hÒi lâu bà vói tay chÕi vào ct nhà, m¡t nháy nháy ngæn ngÃn nܧc s¡p trào. MÓi nghi ng© s¿ hÜ hÕng cûa con gái hi‹n hiŒn trܧc m¥t. TÙc giÆn bØng bØng trong lòng, bà ÇÆp ÇÆp ÇÀu võng d¥t månh tay, v§i š ÇÎnh d¿ng Nhån dÆy tra hÕi cho ra ng†n nguÒn, lôi thôi Çánh nó mt trÆn. Nhån c¿a mình mª m¡t ngác ngÖ ngܧc dòm mË bÓi rÓi. Làn da xanh xao, hÓc hác, thi‹u não, m§ tóc rÓi phû trán, lòa xòa nºa m¥t bê b‰t mÒ hôi, lòng bà tr°i dÆy n‡i thÜÖng xót con vô cùng. CÖn giÆn cành hông l¡ng xuÓng nhÜ cái bong bóng lûng l‡ xì hÖi. Bà ch®t nghï ljn m¶t ÇiŠu bÃt l®i và t¿ nhÆn phÀn l‡i vŠ mình, không Ç‹ š dòm chØng Nhån, lÖ là bÕ m¥c nó thÜ©ng Çêm ª nhà m¶t mình, Ç‹ t¿ do và còn nh© vä con trai hàng xóm ngû giúp. Bây gi© chuyŒn Ƕng tr©i xäy ra, hÍ ©mÛi dåi thì lái chÎu Çònª. Cam lòng Çón nhÆn n‡i bÃt hånh giáng xuÓng ÇÀu mình.
        Bà ba Chܪng trª låi b¶ ván, chøp Óng nh° nhä bã trÀu, vói tay kéo khay trÀu, têm mi‰ng khác. ˆn trÀu là thú tiêu khi‹n, nhÄn nha, nhai trÀu thú vÎ, vÆy mà hôm nay bà nhai trÀu nhÜ nhai Çá sån, không còn bi‰t mùi vÎ cûa mi‰ng cau tÜÖi, mi‰ng trÀu xanh bôi vôi ÇÕ. Bà cÙ æn, cÙ nhai t§i tÃp, nhä mi‰ng n† låi nhai ti‰p mi‰ng kia, không bi‰t bao nhiêu lÀn bºa cau, bao nhiêu lÀn têm trÀu, nhä xác trÀu gÀn ÇÀy cái Óng nh° mà bà chÜa bi‰t phÜÖng cách nào giäi quy‰t, tránh khÕi ti‰ng tai dÎ nghÎ cûa ngÜ©i Ç©i. ñiŠu sÌ nhøc, nhuÓc nhÖ, båi hoåi gia phong, theo luÆt ngày trܧc thì "Çóng bè chuÓi thä trôi sông". XÃu h° bi‰t mÃy khi bøng nó m¶t ngày m¶t l§n. Suy nghï lung tung cuÓi cùng nhÙt quy‰t không håch hÕi, không cÀn bi‰t tÆn nÖi tÆn gÓc. Bi‰t rÒi không lë bi‹u con làm ÇiŠu thÃt ÇÙc, bi‰t rÒi Ç‹ vÆy coi nhÜ nhìn nhÆn s¿ xÃu xa. ChuyŒn Çã l« làng, rÀy rà Çánh ÇÆp Òn ào nhÜ kêu ngÜ©i mét thót, v« xóm v« làng h† cÜ©i chê xÃu h°. Bà nh° nܧc cÓt trÀu, Ç‹ Óng nh° xuÓng ván, trÀm ngâm, ngÒi trÖ trÖ không nhúc nhích. N‡i xót xa ngÆm ngùi l¡ng xuÓng, cay Ç¡ng n‡i dåy kh© cûa con làm nhøc nhã tông ÇÜ©ng. Bao nhiêu d¿ liŒu tính toan Ç©i mình Ç©i con Çi vào
ÇÜ©ng b‰ t¡c, nông n‡i nÀy không th‹ phÖi bày, không th‹ than thª, Çành làm ngÖ trܧc cänh tình ch© Ç®inh»ng  bi‰n thiên. Bà Ba ngóng ra sân cÃt ti‰ng ghèn nghËn Çu°i diŠu Çang xà quÀn trên không ch¿c Çáp xuÓng cÃp Çám gà
con bÜÖi lúa.Täng sáng nay bà Ba Chܪng trª vŠ v§i ÇÙa nhÕ m§i sanh còn
ÇÕ hÕn, Ç¥t n¢m trên b¶ ván ch‡ khay trÀu. ñÙa trÈ ngû vùi trong l§p khæn lông dày bÎt. CÜ©i hŠnh hŒch bà ba nói n¿ng: "ñ‹ N¶i cho uÓng chút nܧc cam thäo "nhe".Ti‰ng mu‡ng lanh canh va thành tách di vào buÒng trong gi»a s¿ ng« ngàng kinh ngåc cûa Nhån. L¡ng nghe ti‰ng mË xÜng " Bà n¶i v§i con mình mà hai hàng nܧc m¡t thÜÖng cäm chäy tràn khÕi khóe. MË Çã bi‰t và Çã cÙu kh°, t‰ Ƕ rºa mÓi nh§p nhÖ. CÙu mình, cÙu ÇÙa trÈ thÖ xÃu sÓ. Nhån khóc ngÃt m¶t mình trong buÒng gói. TÙc tܪi ai hoài v§i mÓi tình mÅu tº, n‡i c¿c nhøc cûa mË già tØ bÃy lâu nay, n‡i båc phܧc cûa mình vÆt vã vØa thoát qua cái ch‰t trong ÇÜ©ng tÖ kë tóc.
   
        Pháo n° Çùng Çùng m¶t tràng dài vang v†ng bên b‰n sông. Hai chi‰c
ghe rܧc dâu, ÇÜa dâu Çã r©i xa b‰n ÇÆu, ti‰ng máy n° bình bÎch còn ngân džng trên m¥t nܧc tràn ÇÀy. Chú Hai g« tÃm bäng vu qui và d†n dËp theo nhÜ l©i chû d¥n dò. VØa làm chú vØa t¿ hÕi: "Không bi‰t tåi sao bà Ba Chܪng gä con gái út cho ngÜ©i lái lúa, ngÜ©i Çàn ông góa v® già c¢n, ª miŒt "ThÀy Y‰n Ki‰ng
Vàng" Cao Lãnh. Chú Hai l¡c ÇÀu thª dài áy náy cho thân phÆn cûa ngÜ©i
con gái tu°i nhÕ chÎu cänh xa nhà làm dâu con nÖi khÌ ho cò gáy, së không
mÃy khi ÇÜ®c vŠ thæm mË già thui thûi sÓng m¶t mình v§i ÇÙa cháu N¶i vØa m§i lên næm.
 
                                                                     NGUY•N THI LONG AN

NGUYỄN HỮU HÙNG * VONG THÂN

Tính Vong thân của Triết lý Marx
                                                     Nguyễn Hữu Hùng

        Từ lúc Marx xuất hiện với triết lý Duy Vật Biện Chứng Pháp đã làm đảo ngược không ít về quan niệm nhân sinh và biến thế giới thành một chiến trường tang thương mà hậu quả có đến hàng chục triệu người đã bị giết hại để thực hiện giai cấp vô sản thế giới và cuối cùng Chủ Nghĩa Cộng Sản cũng chỉ là một tiếng gọi giữa hư vô mà thôi. Ngay từ đầu, thuyết Duy Vật Biện Chứng đã nói lên tính vong thân của nó vì con người là một Hữu thể, con người là con người và vật chất vẫn là vật chất nhưng triết lý này đã trở thành liều thuốc mê làm cho hàng triệu người trở thành tín đồ ngông cuồng và bạo tàn chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
        Marx cho rằng” xã hội cộng sản như là sự triệt phá tích cực sự tư hữu như là nguồn gốc chính sự vong thân của con người và như thế cũng là tìm lại được một cách thưcï chất tính cách của con người qua và cho con người”(1)
        Tư hữu tự nó là nguyên tính của hữu thể và không có cách gì thay đổi nó được trừ phi tiêu diệt nó đi bằng hành động cụ thể mà Marx gọi là cuộc cách mạng vô sản. Thế nhưng có tiêu diệt được hết con người trên trái đất này không để thực hiện lý tưởng cộng sản hay lý tưởng này đang rớt xuống vực thẩm và triết lý Marx đang vào con đường hư vô (2)â.
        Khi viết Duy Vật Biện Chứng Pháp, Marx đã tự vong thân  vì không bết hay đã tự chôn  cái hữu thể của mình, và ngay cả khi ông cho rằng trong xã hội tư bản, người lao động là con người bị vong thân  bởi vì mọi hàng hóa do người lao động làm ra  bao nhiêu đềù bị giới tư bản chiếm dụng hết qua thặng dư giá trị, có nghĩa là bản thân người lao động bị đánh mất, vì chỉ là người làm thuê ăn lương mà không phải là người làm chủ  sản phẩm hàng hóa làm ra của mình, nên càng làm ra bao nhiêu họ càng nghèo đi bấy nhiêu, càng làm ra nhiều, sức mạnh và giá trị tài sản càng tăng, họ càng nghèo kiệt đi, càng đánh mất bản thân trong quan hệ xã hội (3) có lẽ đây là một suy nghiệm dựa trên tính cách vật chất lý giải trong quan niệm thặng dư kinh tế mà không có liên quan gì đến con người trong xã hội tuy rằng con người sống không thể thiếu vật chất, nhưng vật chất không thể là đơn vị căn bản để đo giá trị làm người. Con người làm ra sản phẩm để tiêu dùng và sự trao đổi thông qua đơn vị tiền tệ. Người giàu hay nghèo trong xã hội tự do hay tư bản đều có tư cách như nhau và và hữu thể không có phân biệt thể tính hay giới tính và chính Parménide coi hữu thể là nền tảng của vạn vật(4).
        Thật vậy, vật chất tự nó vô nghĩa nếu nó không được tri nhận bởi một hữu thể . Cho dù không cần thuyết Duy Tâm để đã phá thuyết Duy Vật Biện Chứng nhưng một người bình thường cũng nhận thức được sự suy nghiệm hữu thể là một nền tảng của vạn vật như Permanide đã nói. Khi xác nhận hữu thể là tự thể thì thuyết Duy Vật Biện Chứng  đã bị vứt vào thùng rác rồi và nếu có Marx nào khác chăng nữa thì ông ta cũng trực ngộ được tính cách vong thân của mình.

                                                      Nguyễn Hữu Hùng-Toronto
 Sach tham khảo :
-(1) Từ Thực Tại Vũ Trụ Đến Triết Học- NXB TP-HCM- TS.LS Võ Hưng Thanh .
(2) sđd
-(3) Lịch Sử Triết Học Tây Phương- NXB Đại Nam- Lê Tôn Nghiêm.
-(4) Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ và Triết Học –NXB Đại Nam-
Phạm Công Thiện.



 

NÔNG ĐỨC MẠNH LÀ CON HỒ CHÍ MINH

Nông Đức Mạnh đã xác nhận là con của Hồ Chí Minh

Theo tuần qua thì tất cả mọi lời đồn đãi đã được chấm dứt khi TBT Nông Đức Mạnh đãchính thức xác nhận mình là con trai của Hồ Chí Minh. Ban Nguyên Cứu Lịch Sử Đảng thuộc Viện Sử Học và Viện Nguyên Cứu về con người của CSVN đã có một hội nghị chuyên ngành sau Tết Nhâm Ngọ và có sự tham dự của một số chuyên gia quốc tế về DNA. Mục tiêu của cuộc hội nghị này để xác định mối quan hệ huyết thống giữa HCM và NĐM. Đã có một số rất ít Trung Uơng Đảng thuộc thành phần lão thành được mời tham dự với tư cách là nhân chứng để xác nhận một số điều do Ban Nguyên Cứu Lịch Sử của Đảng CSVN thảo luận. Sau 3 ngày hội nghị, TBT NĐM được mời tới và đã
được thông báo kết qủa.á Một số trung ương ủy viên tham dự cuộc họp đặc biệt này cho biết là NĐM đã tỏ ra không có vẻ gì ngạc nhiên khi biết đích xác mình là con trai của HCM, nhưng liền sau đó NĐM có vẻ như bật khóc và được đề nghị đi viếng thăm lăng HCM. Ban Bí Thư TƯDSC đã được lệnh tổ chức học tập để giải thích sự việc này cho các đảng viên và tất cả quần chúng được biết và cái chiến dịch học tập sẽ được bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 tới đâỵ

        Theo nguồn tin ngoại giao của Tây phương cho biết là giới ngoại giao không ngạc nhiên về sự việc này vì trong mọi chế độ độc tài, kể cả độc tài CS thì cái hiện tượng gọi là cha truyền con nối là một điều rất là phổ biến. Một chuyên gia người Mỹ gốc Việt về CS cho rằng: Việc ĐCSVN đã công khai hóa sự việc này vào thời điểm này để muốn nói lên một tinh thần gọi là đổi mới đáng kể. Đó là việc họ đã chấm dứt việc thần thánh hóa nhân vật HCM. Được hỏi liệu NĐM có muốn đổi họ để trở lại họ Hồ của cha hay
không? Vị chuyên gia này tuyên đoán rằng nếu phải đổi lại họ thì NĐM sẽ có rất nhiều họ phải đổi vì HCM đã có qúa nhiều bí danh kể cả những bí danh như là Lý Thụy, Lão Vương, Lão Kéù v.v... thì dù sao người ta cũng sẽ biết được việc này chính thức sau ngày 1 tháng 4 tới đâỵ

        Cũng trong buổi họp trên UBLS của ĐCS đã có xác nhận rằng Nguyễn Thị Bình đã có lúc là con dâu của HCM, nhưng ban này đã không xác nhận quan hệ giữa bà Bình là đương kim Phó Chủ Tịch nước và ông NĐM.

        Phần trên đây là bản tin được loan tải trên đài phát thanh Việt Nam Tự Do, phát thanh ngày 2 tháng 4 năm 2002, có trong trang nhà http://www.rfvn.com


VÔ DANH* HỒ CHÍ MINH CÓ MẤY VỢ?


   Hồ Chí Minh Có Mấy Vợ?

        Một người đến tuổi trưởng thành, lập gia đình là chuyện bình thường. Nhưng bản thân Hồ Chí Minh cũng như đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn xưng tụng ông Hồ là một người chỉ nghĩ đến việc phục vụ đất nước nên không có thời giờ lập gia đình, và không có vợ con. Thực sự có phải như thế không?

               1. Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc:

        Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu thủy từ Vladivostok (Liên Xô) đến Quảng Châu (Trung Hoa) với tư cách là thư ký kiêm thông ngôn cho phái đoàn cố vấn Borodin (Liên Xô) bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, trong giai đoạn liên minh quốc cộng lần thứ nhất ở Trung Hoa.
        Trong thời gian sống ở Quảng Châu, ngoài những hoạt động chính trị, Lý Thụy lấy một cô gái Quảng Châu tên là Tăng Tuyết Minh, đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm nghề nữ hộ sinh, ngày 18-10-1926. Sau đây là lá thư của Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng Đông Dương phát hiện ngày 14-8-1928:
            Dữ muội tương biệt,
               Chuyển thuấn niên dư,
               Hoài niệm tình thâm,
               Bất ngôn tự hiểu
               Từ nhân hồng tiện,
               Dao ký thốn tiên,
               Tỷ muội an tâm,
               Thị ngã da vọng.
               Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc.
               Chuyết huynh
               Thụỵ

               Tạm dịch:

               Cùng em chia tay nhau,
               Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm,
               Nhớ nhung tình sâu,
               Không nói cũng tự biết.
               Nay nhân gởi tin hồng nhạn,
               Xa xôi gởi lá thư mang tấm lòng,
               Mong em yên tâm,
               Là điều anh trông ngóng.
               Cũng xin vấn an nhạc mẫu vạn phúc.
               Người anh vụng về
               Thụỵ

        Theo tác giả Daniel Hémery, Lý Thụy không gặp lại được Tăng Tuyết Minh từ sau năm 1927, có thể vì Tuyết Minh bị thất lạc do chiến tranh quốc cộng ở Trung Hoa vào đầu năm 1927. (1)
        Cộng Sản Hà Nội phủ nhận mối quan hệ giữa Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh. Họ cho rằng nếu lá thư có thật, chẳng qua là Lý Thụy thường thông tin với các đồng chí dưới dạng thư tình để qua mặt giới tình báo của các nước tới Quảng Châu. Chú ý đọc kỹ lá thư với lời lẽ rất thân thiết lãng mạn (muội, huynh, tình thâm) thì không thể là thư liên
lạc bình thường.

               2. Nguyễn Thị Minh Khai, người đồng chí:

        Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tới Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình là nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.
    `    Ở Hồng Kông, tới trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng sản, hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích thân truyền dạỵ Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai người. (2)
        Tháng 4-1931, Minh Khai bị bắt ở Hồng Kông, đến đầu năm sau thì được thả ra. Trong khi đó, Lý Thụy cũng bị bắt và bị trục xuất ra khỏi Hồng Kông. Lý Thụy qua Quảng Châu, lên Thượng Hải, đáp tàu đi Vladivostok, rồi Moscow. Ngày 25-7-1935, tới Moscow khai mạc Đại hội Cộng sản Quốc tế. Phái đoàn đại diện đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm có: Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, vợ Quốc và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. (3)
        Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó. (4) Cũng theo nguồn tài liệu nầy, những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tới nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng... (5)
        Theo lời con gái của bà Vera Vasilieva (bà nầy là một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng Sản), kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành Tín viết lại trong “Về BaÔng Thánh”, thì trong thời gian diễn ra đại hội nầy, ông Lin (tức Hồ chí Minh) hay ghé lới nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thư ờng đi cùng với
một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow. (6)
        Minh Khai học ở Viện Thợ thuyền Đông Phương tức trường Staline đến tháng 2-1937 thì về nước qua đường Pháp, đến Sài Gòn năm 1938. Năm 1940, Khai bị bắt, bị lên án tử  hình, và bị bắn tại Hóc Môn năm 1941.
        Theo tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức Lê Huy Doãn), và có với Phong một người con gái tên Lê Thị Hồng Minh, sinh năm 1939. Nhưng trước khi làm vợ Lê Hồng Phong, những tài liệu trong tờ khai lý lịch và những câu chuyện do bà Sophia Quinn Judge đưa ra cho thấy một thời Minh Khai
đã là vợ của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. Nhà báo Thành Tín còn đi xa hơn nữa khi đặt câu hỏi biết đâu tên Hồ Chí Minh là kỷ niệm về Minh Khaị Ngoài ra ông Hồ còn lấy tên là T. Lan để viết một quyển sách tự truyện tựa đề là "Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện". Cũng theo tác giả Thành Tín, biết đâu chữ Lan cũng lấy từ Phan Lan, bí danh của Minh Khai khi ở Moscow. (7)

               3. Đỗ Thị Lạc là ai?

        Sau đại hội Moscow ngày 25-7-1935, Lê Hồng Phong (1902-1942) được Quốc tế Cộng sản gởi về nước hoạt động, còn Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc) bị thất sủng và bị giữ lại ở Liên Xô cho đến cuối năm 1938, Thành được gởi về Trung Hoa dưới một tên mới là Hồ Quang, điều khiển ban Hải ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương.
Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942. (8) Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (9)
Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. (10) Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức hội nghị Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư đảng, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943. (11)
        Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau. Dù bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành đại hội tại Liễu Châu ngày 28-3-1944
gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba ủy viên giám sát. (12)
        Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậỵ Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, và một số súng đạn, thuốc men và tiền bạc. Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cộng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. (13)
        Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức "chị Thuần." Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách “Một Cơn Gió Bụi” đã cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh. (14)
        Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. (15) Đầu tháng 5-1945,Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó. Chuyện tình giữa Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Minh Khai, Tăng Tuyết Minh bị giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa.

               4. Nông Thị Xuân, cô gái sơn cước:
        Sau khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954, đất nước bị chia hai, hòa bình được tái lập, Hồ Chí Minh về Hà Nội làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt). Ban bảo vệ sức khỏe trung ương, chuyên trách về sức khỏe các nhân vật cao cấp, đã tuyển một phụ nữ thuộc "gia đình cách mạng" (16) tên là Nông Thị Xuân, người làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, thuộc sắc tộc Nùng. Cô Xuân được đưa về Hà Nội sống với Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, Hồ Chí Minh
đã khoảng 65 tuổi, còn cô Xuân 22 tuổi. Sau vài tháng có thêm một em gái của cô Xuân tên là Vàng, và một em gái con cậu ruột là Nguyệt cũng được đưa theo. Cả ba được sắp đặt sinh sống trong ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, gần đường Quang Trung, Hà Nội.  Thông thường, để giữ bí mật về mối quan hệ giữa Nông Thị Xuân và Hồ Chí Minh, chính bộ trưởng bộ Công an của chính phủ Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đưa cô Xuân vào gặp ông Hồ, rồi sau đó chở về. Bà Xuân rất được ông Hồ ưa thích, và có với ông
Hồ một con trai năm 1956, đặt tên là Nguyễn Tất Trung, nhưng trước sau ông Hồ vẫn không cho bà Xuân vào ở phủ chủ tịch với ông, và không làm lễ cưới. Thế rồi bỗng nhiên "vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm [Hà Nội]. Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Đức, được nhận dạng, đó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn..." (17)
        Theo tác giả Nguyễn Minh Cần, lúc xảy ra vụ án, ông là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội (tức Phó thị trưởng), thì Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng bộ Công An chính phủ Hà Nội, nhiều lần đến nhà bà Xuân để hãm hiếp bà từ ngày 6-2-1957, và cuối cùng đã giết bà Xuân ngày 11-2-1957 bằng cách đánh búa vào đỉnh đầu (theo khám nghiệm của bác sĩ), rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngự Điều nầy chứng tỏ thẩm quyền tối cao về chính trị tại Hà Nội lúc đó, hoặc Hồ Chí Minh, hoặc Bộ Chính trị trung ươngđảng, hoặc cả hai bên, đã quyết định thanh toán bà Xuân khi bà nầy muốn công khai hóa mối liên hệ giữa bà với ông Hồ và đòi chính thức nhìn nhận đứa con, nên Trần Quốc Hoàn mới dám làm hỗn với bà Xuân trước khi giết. Người chứng kiến việc chị mình bị hãm hiếp và bị đem đi giết chết là cô Vàng cũng bị thủ tiêu khoảng ngày 2 hay 3-11-1957. (18)
        Ở đây, có lẽ nên mở một dấu ngoặc để tìm hiểu vì sao Trần Quốc Hoàn, ủy viên bộ Chính trị, bộ trưởng bộ Nội vụ nắm giữ ngành công an là một bộ quan trọng trong chế độ cộng sản, quyền lực đầy đủ trong tay, dư điều kiện và phương tiện để hành lạc trác táng, lại hành xử lạlùng như vậy.
Trước hết, tuy được coi là lãnh tụ số một của chế độ cộng sản Hà Nội lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh không được các lãnh tụ khác cũng như bộ ha thực tâm kính trọng. Điều nầy được bộc lộ rõ nét trong những quan hệ riêng tư nội bộ mà dân chúng bên ngoài không được biết, ví dụ tuy bà Xuân đã từng là vợ của Hồ Chí Minh, Trần Quốc Hoàn vẫn xem thường và xài xễ cho bỏ ghét.
Cũng có thể việc xài xễ nầy bắt nguồn từ quan niệm dùng người hết sức tàn bạo của chế độ cộng sản: Đó là khi một người đã hết sử dụng được thì tuyệt đối không còn được chút lưu tình chút nào, và bị coi là một thứ công cụ vứt đi. Hồ Chí Minh quyết định thanh toán bà Xuân, cho Trần Quốc Hoàn muốn làm gì thì làm; hoặc Trần Quốc Hoàn biết bà Xuân sắp bị thanh toán, coi bà như một thứ đồ dùng, xài kẻo phí của trời.
        Ngoài ra, hành vi của Trần Quốc Hoàn còn chứng tỏ một tâm lý kiêu hãnh và tự cao, lãnh tụ số một dùng được thì "ta" cũng dùng được, "ta" có thua gì lãnh tụ đâu?
        Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904-1979), bí danh Sao đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bàXuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận
Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung. (19)
        Ngoài bốn nhân vật chính trên đây, theo tác giả Thành Tín tức cựu đại tá Bùi Tín của quân đội cộng sản Hà Nội, trong cuộc đời Hồ Chí Minh còn có một vài cuộc tình nhỏ như khi còn ở Paris, ông Hồ có một người tình tên là Marie Bière, lúc sang Hoa Nam, ông Hồ yêu bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ Chu Ân Lai. Sau đây là lời Thành Tín viết về hai "Mối Tình Con" nầy của ông Hồ: "...Theo tài liệu ở Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Bière nào đó..."
        Ở một đoạn khác, Thành Tín tiếp: "... Theo chị Sophia, có người kể với chị là ông Hồ còn có lúc yêu cả vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu, khi gặp nhau ở Hoa Nam thời trẻ; ông cũng có lúc có tình cảm mặn nồng với cả chính bà Véra Vasiliéva. Chị Sophia kể rằng con gái bà Véra Vasiliéva nhớ lại rằng anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm..." (20)
        Sau hiệp định Genève, trước vụ cô Xuân, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để điều hòa tâm sinh lý, giúp giữ gìn sức khỏe được tốt. Người ta chọn cho Hồ Chí Minh một nữ cán bộ trẻ đẹp là cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Thanh Hóa (21). Khi về Hà Nội gặp họ Hồ, cô Phương Mai đồng ý lấy ông Hồ với điều kiện là phải danh chánh ngôn thuận, nghĩa là phải làm lễ cưới công khai đàng hoàng. Ông Hồ và các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội cho rằng ông
Hồ không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị hơn (?) nên cuối cùng việc cô Phương Mai không thành. Về sau, cô Phương Mai được đưa lên làm thứ trưởng bộ Thương binh trong chính phủ Hà Nội (22).

        Qua các cuộc tình của Hồ Chí Minh, và nhất là qua sự kiện Nông Thị Xuân và Nguyễn Thị Phương Mai, người ta thấy rõ ông Hồ và cả đảng Cộng Sản Việt Nam muốn ông ta có cơ hội giải quyết sinh lý của một con người bình thường, nhưng không chịu công khai hóa một cách danh chánh ngôn thuận đời sống vợ chồng, nhắm tạo cho ông ta thành huyền thoại về một siêu nhân suốt đời sống cô đơn, hy sinh bản thân cho đại cuộc của đất nước.
        Đó là chưa kể chính bản thân của ông Hồ là một người say mê công danh đến cùng tột, và sự say mê đó được thể hiện rõ qua việc đảng Cộng Sản đã in cả hàng chục triệu quyển sách để thần thánh hóa ông Hồ, mà ông vẫn chưa thỏa mãn.
        Ông ta còn lấy những bút hiệu khác để viết sách tự đề cao mình. Đó làhai quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch”, bút hiệu Trần Dân Tiên, và “Vừa Đi Vừa Kể Chuyện”, bút hiệu T. Lan.
        Các danh nhân trên thế giới viết hồi ký kể lại quá trình hoạt động của mình là chuyện bình thường. Trong hồi ký của họ, đôi khi họ cũng ca ngợi chính bản thân họ, nhưng vấn đề là họ tự đề tên thật và chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Ngược lại, Hồ Chí Minh giấu mình qua những tên khác để tự ca tụng mình. Dưới tên Trần Dân Tiên, ông Hồ đã mở đầu sách “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch” như sau:

        "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế của mình..."

        Sau đó, ông Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh tự đề cao mình: "...Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi [?] nghe bình sinh của người được?..." (23)

        Trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Sự Thật đã viết lời dẫn nhập như sau: "...Trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, Hồ Chủ Tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới..." (24)
        Nhà xuất bản Sự Thật là cơ quan chuyên xuất bản sách vở kinh điển của Trung ương đảng Cộng Sản, không thể không biết rõ lai lịch của quyển sách, lý lịch của người viết. Nếu nhà xuất bản Sự Thật không biết sách của ai, hoặc tác giả chỉ là một nhà báo tầm thường không tên tuổi như Trần Dân Tiên hoặc T. Lan, thì chắc chắn không bao giờ sách được nhà xuất bản Sự Thật in ra. Do đó, chắc chắn nhà xuất bản Sự Thật biết Trần Dân Tiên và T. Lan là Hồ Chí Minh mới dám in hai quyển trên. Chẳng những được in trong nước, mà các sách nầy còn được nhà xuất bản Ngoại Văn dịch thành
nhiều thứ tiếng khác nhau để phát hành khắp các nước trên thế giới trong suốt cuộc chiến tranh từ 1960 đến 1975.
        Đây không phải chỉ là ý đồ cá nhân của Hồ Chí Minh mà còn là chủ tâm của toàn đảng Cộng Sản Việt Nam nhắm suy tôn lãnh tụ, thần thánh hóa Hồ Chí Minh để đánh lừa chẳng những đồng bào Việt Nam ở trong nước, mà còn cả toàn thể dư luận thế giới trong thời gian chiến tranh trước đâỵ  Trở lại chuyện vợ con của ông Hồ, ông ta cũng chỉ là một con người bình thường như mọi người, có vợ có con, nhưng lúc trẻ tham vọng trở thành lãnh tụ chính trị đã thúc đẩy ông chối bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha, và nhất là giấu kỹ tất cả những quan hệ tình cảm cá nhân, nhắm tự tạo cho mình hình ảnh của một lãnh tụ chính trị độc thân, trong sạch, hy sinh cá nhân để suốt đời tận tụy lo toan việc nước, nhắm lôi cuốn quần chúng đi theo đường lối cộng sản của ông ta.

        Huyền thoại nầy rất cần thiết để xây dựng chế độ độc tài, nên ông Hồ và các đảng viên thân tín của ông càng ra sức gia công phát huy rộng rãi huyền thoại nầy cho những toan tính của đảng Cộng Sản. Nhưng một khi nhà lãnh tụ vong thân trong huyền thoại thì họ không còn được cuộc sống bình thường của con người, mà nhất nhất đều phải theo sự điều hành trong guồng máy của chủ nghĩa độc tài. Do đó, khi trở thành lãnh tụ nhà nước ở Hà Nội, ông Hồ muốn quyết định bất cứ việc gì, dù có tính cách riêng tư, cũng đều có ý kiến của bộ chính trị đảng Cộng Sản, tức là nhóm lãnh đạo chóp bu của
đảng Cộng Sản Hà Nội lúc bấy giờ. Vì thế mới có chuyện đảng Cộng Sản đi tìm phụ nữ cho Hồ Chí Minh thỏa mãn nhục dục, nhưng một khi các cô gái đòi chính thức hóa bằng hôn lễ công khai, thì lại thoái thác rằng "bác" không lấy vợ để lợi cho uy tín chính trị hơn.

        Trong chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam, không phải chỉ có một trường hợp điển hình là Hồ Chí Minh, mà có thể còn nhiều khuôn mặt khác nữa... Hiện tượng nầy cũng không phải chỉ riêng ở Việt Nam màlà một hiện tượng chung của thế giới cộng sản. Lý do chính là trong thế giới cộng sản không có cơ chế dân chủ, không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí; từ dó không có sự chế tài đối với các lãnh tụ và các lãnh tụ vượt ra ngoài vòng dư luận, muốn làm gì thì làm, không sợ sự phê bình của dân chúng.
Điều nầy đưa đến nhiều hậu quả tai hại rộng lớn và lâu dài cho đất nước, khiến đất nước càng ngày càng đi xuống thê thảm như tình trạng Việt Nam ngày naỵ

Chú Thích:

1. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 63, 145. Báo Tuổi Trẻ của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh (tức Sài Gòn cũ) đã trích đăng lới tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991. Tổng biên tập báo nầy lúc đó là bà Kim Hớnh liền bị kiểm điểm và bị mất chức.
2. Thành Tín, Về ba ông thánh, 1995, California, tr. 150. Lược dịch và giới thiệu kết quả nghiên cứu của nhà nữ sử học Hoa Kỳ Sophia Quinn Judge. Theo Thành Tín, bà Sophia Quinn Judge là nhà sử học Hoa Kỳ, đã nghiê n cứu hồ sơ mật của Quốc tế cộng sản sau khi Liên Xô sụp đổ, tìm ra một số tài liệu mới về Hồ Chí Minh, và đã công bố kết quả nghiên cứu tới đới học Yale (Hoa Kỳ), và trong một cuộc họp về tài liệu lịch sử ở Aix-en-Provence (Pháp) năm 1995.
3. Thành Tín, sđd. tr. 151. Thành Tín dựa vào danh sách trong một lá thư từ văn phòng cộng sản ở Hồng Kông gởi về Moscou ghi danh sáu đại biểu phái đoàn Đông Dương về dự đại hội của cộng sản quốc tế năm 1935. Kao Bang là Hoàng Văn Nọn tức Tú Huy hay Văn Tân.
  4. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 380. Thành Tín, sđd. tr.151.
5. Thành Tín, sđd. tr. 136.
6. Thành Tín, sđd. tr. 151.
7. Thành Tín, sđd. tr. 152.
8. Chính Đạo, sđd. tr. 208.
9. Chính Đạo, sđd. tr. 161. Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam, Thành mang tên Hồ Chí Minh từ ngày 13-8-1942, nhưng theo một tác giả Trung Hoa, ông King C. Chen, trong sách Vietnam and China, 1938-1954, Princeton Univ Press, Princeton, 1969, tr. 56-57, thì Hồ Chí Minh bị bắt năm 1942 tới Liễu Châu vì một giấy thông hành đã quá hạn được cấp năm 1940 mang tên Hồ Chí Minh.
10. Stanley Karnow, Vietnam a History, The Viking Press, New York 1983, tr. 126. Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người & huyền thoại, tập 2: 1925-1945, tr. 258.
  11. Chính Đạo, sđd. tr. 283.
12. Chính Đạo, sđd. tr. 301. Bảy uy viên chính thức là: Trương Bội Công, Trương Trung Phụng (QĐD), Trần Báo (QĐD), Bồ Xuân Luật (Phục Quốc), Nghiêm Kế Tổ (QĐD), Lê Tùng Sơn (Giải Phóng, Côn Minh), và Trần Đïình Xuyên. Ba uỷ viên kiểm soát là: Nguyễn Hải Thần (Đồng Minh Hội), Vũ Hồng Khanh (QĐD), và Nông Kính Du (Phục Quốc). Trương Bội Công tên thật là Trương Bội Hoàng, được giới hoạt động cách mạng ở Trung Hoa lúc đó kính trọng nên gọi là "Công." Trương Bội Hoàng là phụ thân
của Trương Tử Anh, lãnh tụ của Đại Việt Cách Mạng Đảng. 
13. Các tác giả ghi khác nhau ngày Hồ về tới Pắc Bó. Tài liệu đảng CSVN nói tháng 7-1944, tài liệucủa King C. Chen viết là 25-9- 1944, tài liệu tình báo Mỹ ghi tháng 11-1944.
14. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, tr. 75.
15. Đầu năm 1945, giới chỉ huy quân sự Hoa Kỳ tới Trung Hoa không tin tưởng ở Hồ dầu Việt Minh đãcứu một phi công Mỹ bị bắn hạ ơ Cao Bằng cuối năm 1944 và Hồ đưa sang Quảng Tây trả lại cho giới chức Mỹ, đồng thời Hồ đã dịch truyền đơn cho Mỹ. Khi Nhật đảo chánh ở Đông Dương (9-3-1945), các giới chức Mỹ đổi thái độ, đồng ý hợp tác với Hồ để Hồ cung cấp tin tức hoạt động của Nhật ở Đông Dương, và ngược lại Mỹ cung cấp thuốc men, vũ khí cho người của Hồ. Ngày 17-3-1945, Hồ gặp CharlesFenn, một sĩ quan của Sở tình báo chiến lược (Office of Strategic Services: OSS), Fenn đặt bí danh cho
Hồ là Lucius. Trong tiếng Latin, Lucius là tên đàn ông, Lucia là tên phụ nữ; cả hai tên nầy do chữ "Lux" mà ra. "Lux" nghĩa là "ánh sáng." (Có thể Fenn đặt tên nầy cho họ Hồ vì họ Hồ tên Minh, có nghĩa là sáng.)
  16. Tới Việt Nam, từ nửa thế kỷ nay, xuất hiện cụm từ "gia đình cách mạng" tức là những gia đình có công đóng góp với hoạt động của cộng sản về nhân lực (có con vào đảng, đi bộ đội, che giấu đảng viên, nuôi quân...) hoặc tài lực (tài sản, nhà cửa, thực phẩm, tiền bạc mua thuốc men, vũ khí...).
  17. Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi kýÏ chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 607. Về vụ bà Xuân, xin xem Đêm giữa ban ngày tt. 605-609, và nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, số 96, tháng 4-1997, bài "Thêm vài mẫu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh", của Nguyễn Minh Cần, tt. 33-40. Theo Vũ Thư Hiên, cô Xuân họ Nông, nhưng theo Nguyễn Minh Cần, cô Xuân họ Nguyễn. Theo Thao Thức,"báo chui" trong nước, số 3 tháng 6-1998, bà Xuân họ Nông.
Báo Thao Thức còn nhắc đến một phụ nữ Trung-Hoa có con với ông Hồ, nhưng không cho biết danh tánh cụ thể để kiểm chứng. (Thao Thức, tháng 3-1998, rút từ Internet).
  18. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tt. 37-38.
19. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tr. 38.
20. Thành Tín, sđd. tt. 149, 152.
21. Theo hệ thống tổ chức của đảng Cộng Sản Việt Nam, ở mỗi tỉnh có một ủy ban đảng hay tỉnh ủy. Tỉnh ủy do một bí thư đứng đầu và một số tỉnh ủy viên tuỳ theo số lượng đảng viên trong tỉnh.
22. Nguyễn Minh Cần, báo đd. tt. 36-37.
  23. Trần Dân Tiên, Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, in lần thứ hai, 1976, tt 7 và 9. Ngày nay, trong các thư viện trong nước, khi tra cứu về tác giả Trần Dân Tiên hay T. Lan, thư mục ghi rõ: "Xin xem chủ tịch Hồ Chí Minh."
  24. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 5.

No comments:

Post a Comment