Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday, 15 December 2016

XUÂN VŨ =VÕ PHƯỚC HIẾU =THANH TÂM TUYỀN=TÔ THÙY YÊN

XUÂN VŨ * ÔNG XÀ BENG

ÔNG XÀ BENG
Khán giả đến đông nghẹt nhưng ủy ban ra lệnh dẹp hết phông màn buổi diễn kịch của khóa huấn luyện Thanh niên Cứu Quốc Khóa Chiến Thắng để lấy ngôi đình họp phiên tòa khẩn cấp. Chỉ chập sau là các vị quan tòa đã bước lên sân khấu. Trời sụp tối nhanh. Trên bàn giữa, để một chiếc đèn chân gỗ đốt bằng dầu cá. Ba ngọn đèn đỏ chạch như ba miếng giẻ rách te tua bay phất trong gió biển thổi mạnh. Bộ sậu tòa vừa an tọa thì bên dưới khán giả đến xem kịch lại bị bắt xem xử án – xôn xao. Không hiểu đến giờ phút chót “kịch” mới đổi ra “tòa” hay đó là một sự sắp đặt? Vì nếu người dân biết trước thì sẽ đi loe hoe vài người. Ai ở không đi coi xử án? – Như vậy tòa sẽ “diễn” không hứng thú và dân sẽ không có dịp biết oai cách mạng chăng?
Khán giả xoay đầu nhìn về phía căn giữa của ngôi đình rộng lớn nơi các “tội nhân” đang bị dẫn vào. Bốn người đàn ông, hai người đàn bà: hai người đàn ông đi đầu, kế đến, một người đàn bà, hai người đàn ông, lại một người đàn bà. Không hiểu cách mạng khoan hồng và nhân đạo nên để vợ gần chồng trong lúc nguy nan hay họ được xếp theo thứ tự tội nặng đi trước tội nhẹ theo sau, chỉ thấy tất cả đều bị trói thúc ké bằng nhiều loại dây khác nhau: dây dàm trâu, dây nịt da, dây giềng lưới, khăn rằn… Đây là sự thi hành một cách sáng tạo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch “… ai có súng dùng súng ai có gươm dùng gươm, không có súng gươm thì dùng gậy gộc…” trong lãnh vực bắt trói. Ai quơ được dây nịt thì trói bằng dây nịt, ai chộp được lưới thì xé lấy giềng lưới, ai có khăn rằn thì xài khăn rằn… không có khăn, dây thì dùng áo quần trói cũng được – miễn trói chặt thì thôi..
Trong đám “tội nhân” chỉ đàn bà là đủ quần áo, còn đàn ông thì phơi lưng trần với những vết bầm to nhỏ ngang dọc, mặt mũi không biết có còn nguyên vẹn không vì họ gục đầu, không trông rõ.
Tất cả được xỏ xâu bằng một sợi dây luộc dừa và một người nắm đầu dây dắt đến đây. Người đó là ông Xà Beng.
Vừa trông thấy ông, tiếng xì xào đã nổi lên. Mặt ông đỏ bầm như trái sắn, đầu bịt khấc đầu rìu làm cho tóc ông xửng đứng lên như chiếc nôm dựng ngược. Hai cánh tay ông thòi ra thay cho hai tay áo bành tô đã bị cắt mất, như cặp trăn cuộn mình xâm những hình thù kỳ quái. Từ túi áo trái nhô ra một cái có chai bầu. Nó cũng là một khán giả đi coi hát hụt phải dòm những người đang ngồi trên sân khấu mà tưởng tượng đó là kịch.
Ông Xà Beng làm nhiệm vụ dắt tội nhân vào trình tòa xong thì ngồi phệch xuống gốc cột, móc chai rượu ra ngửa cổ tu một hơi dài, giơ cái chai lên ánh đèn như để xem rượu còn đủ hay không cho ông tẩm gân để hát màn chót mà ông chắc mình sẽ là kép chính. Tự nhiên đám đông vẹt xa ông ra nhường cái gốc cột danh dự cho ông.
Từ lâu chẳng ai còn lạ gì tên Xà Beng. Ông là trưởng ban trừ gian xã. Trước kia ông ở trong một cái thum ngoài rìa chợ dưới một gốc gáo già đứng ở mé sông. Do đó người ta gọi ông là ông Gáo. Ông Gáo sống bằng rác chợ. Đôi khi người ta cũng có thí cho ông một con cá biển ế nhưng chưa thối.
Cách mạng tháng 8 nổ ra. Chánh quyền cướp được. Viên Hội đồng địa hạt ở trong xã bị xử tử tại sân chợ. Người ta trói lão vào cọc bắn rồi đem dập ở sau đình. Hôm sau, thấy ông Hội bò lê trên bãi cỏ. Ủy ban nhân dân khiếp vía. Trưởng ban Công An là Tư Quắn, mặt mũi hì hợm, được coi là hung dữ nhất làng và là kẻ đã bắn ông Hội đồng bằng cây súng bắn chim của chính ông ta. Ủy Ban gọi anh ta đến để “giải quyết” vấn đề, nhưng anh ta nói: “Tiết Cương oan oan tương báo”1 rồi bỏ xứ đi biệt luôn. Do đó, ủy ban mới “tam cố gốc gáo” thỉnh ông Gáo. Ông Gáo nhận công tác nhưng đòi một chai rượu đúng một lít. Ủy Ban cho ông một thùng năm lít lấy của tiệm Chệt. Làm gì lắm thế? Ông Gáo chỉ cần một xị thôi mà. Ông Hội đồng thay vì được hưởng phát súng ân huệ lại bị ông Gáo đập bằng Xà beng. Cây Xà beng một đầu dẹp một đầu tà ông nhặt được của lơ xe hơi bỏ quên ngoài bến xe ven tỉnh lộ. Đầu tà để nện, đầu dẹp để đâm, xeo.
Thấy ông Gáo hoàn thành công tác xuất sắc, ủy ban dùng ông luôn, cho ông nhà cửa, cơm áo, rượu thịt, ngoài ra còn tặng thưởng ông chức trưởng ban trừ gian. Đúng ra là Công An bắt người, người nào đáng tội chết thì giao cho ông. Người nào ông nhận là ông giết, cách nào cũng được, không cần giấy tờ hoặc lệnh lọt của ai cả.
Ông trưởng ban trừ gian chuyên đập đầu người ta bằng xà beng. Trong làng có một chiếc cầu đúc xi măng bắc ngang con rạch chảy qua suốt làng. Ông Gáo đem người lên cầu, kê đầu lên thanh cầu đập bằng xà beng rồi đạp xuống rạch. Đó là những tội nhân tốt phước. Vì người nhà chỉ cần đón ở vàm rạch đổ ra sông cái thì vài ngày sau vớt được. Còn những kẻ bất hạnh ông Gáo chở bằng xuồng ra sông Cái, ghếch đầu lên be xuồng mà đập – cũng bằng xà beng – rồi hất xác xuống sông. Xác trôi mênh mông người nhà không vớt được. Do đó mà Cách mạng có cái danh từ đặc biệt “mò tôm” mà xuất xứ là ông Gáo chăng? Sau cách mạng tôm cá vùng này ế nhệ, không ai mua vì người ta cho là chúng ăn thây ma. Mà thật vậy thây ma sau cách mạng nhiều lắm. Không mấy hôm là nó vắng trôi trên sông.
Một người lạ mặt đến tìm bà con vớ vẩn bị dân quân hỏi giấy – không có – bị xét, thấy trên lai áo có ba lằn chỉ xanh-trắng-đỏ, thế là bị hồ nghi dọ thám cho Pháp (ba lằn chỉ đó là rìa vải của hãng dệt). Một người mặc đồ trắng mang giày Tây quen thói cũ nói chuyện xen mấy tiếng “bông-giua và toa toa moa moa” là bị gán cho tiếng Việt gian, một người đàn bà góa có nhân ngãi, do đó ông trưởng công an ấp không xơ múi được, thế là nhân ngãi bà ta bị bắt không với tội danh cũng không có sự giải thích nào… Tất cả những hạng người kể trên đều được giao cho ông Gáo đưa đi đầu thai bằng xà beng hết cả. Do đó mà có cái tên “ông Xà Beng” và trong xã có câu rủa ác: “Cho xà beng ăn mày đi!” và câu thề độc: “Đứa nào có làm như thế mà chối hoặc đứa nào nói thêm sẽ bị xà-beng ăn!”
Và đó là câu làm cho người trong cuộc sợ hãi nhất. Bởi vì ông Xà Beng ở ngay đó, bởi vì cây xà beng ông lận lưng đó, dưới vạt áo bành tô không tay càng ngày càng thêu thêm những đốm những sọc đỏ sậm, hoặc tươi ướt chồng lên nhau ghi dấu những thành tích của ông. Cái khúc sắt ấy khá nặng nhưng ông giắt lưng như trưởng ban công an giắt súng lục nhờ một sợi dây nịt to bảng của một chú chệt bán thịt heo dùng đựng tiền đã rách vứt đi. Người lối xóm hễ thấy ông đi vô quán đong rượu thì biết tối đó ông có công tác. Cách mạng trả lương cho ông hậu quá, một chai bầu một mạng người, thảo nào ông chả hăng hái? Cái xà beng đã có cô hồn, người ta bảo vậy, nên ông đi đến đâu chó cụp tai lủi trốn, và ban đêm nó rên rỉ như tiếng người vì vậy lối xóm của ông đã dời đi hết. Cũng như xóm nhà ở vùng Cầu Đúc, Tây không ruồng tới nổi mà cũng tản cư sạch láng.
Bộ sậu tòa đã chỉnh đốn tư thế xong, sắp diễn trò. Người đứng bên cực trái của chiếc bàn dài, mặt nhọn như chữ V đứng lên tuyên bố, không thưa hỏi đồng bào để mào đầu gì cả.
“Hôm nay tỉnh bộ Việt Minh đặt ra phiên tòa dân chủ nhân dân này để xét xử sáu tên Hòa Hảo phản động bị bắt ở quận Chợ Lách. Thần phần phiên tòa gồm có ông chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh làm chánh án, ông trưởng ty Công An làm ủy viên Chánh phủ, ông Đoàn trưởng Nông dân cứu quốc làm hội thẩm và tôi làm lục sự. Ngoài ra, còn có hai bà Đoàn trưởng và cán bộ Phụ Nữ Cứu Quốc, ông Đoàn trưởng Thanh Niên Cứu Quốc làm biện hộ luật sư. Vậy mọi người hãy im lặng để phiên tòa bắt đầu.”
Thế là phiên tòa bắt đầu, không chào cờ, không hát quốc ca, không cả treo ảnh cụ Hồ để chào – có vẻ hấp tấp như Hòa Hảo Chợ Lách sắp tấn công tới đây vậy.
Ông chủ nhiệm Việt Minh tỉnh gầy nhom, mũi rất to, suýt che bít cả môi trên, còn môi dưới thì xệ và thâm sịt như môi người ghiền á phiện. Ông nói giọng đặc dấu nặng:
“Tội thạy mặt tọa tuyện bộ khại mạc phiện xự sạu tện phạn động.”
Bên dưới dân quân xô đẩy xâu tội nhân giàn ra cho ngay ngắn thành một hàng ngang trước mặt tòa. Ông chánh án móc túi lấy một tờ giấy, mở ra. Tiếng giấy khua sột soạt trong không khí im đặc. Ông nghiêng vào ánh đèn xao động vì gió thổi ác liệt. Ông đọc chậm chạp, dừng lại ở từng tên, ngó xuống như để nhận diện và hốt hồn họ – những tội nhân chưa được xét xử nhưng đã bị đối đãi như tử tội. Bằng chứng là tốp dân quân ở sau đình đang hì hục đào lỗ và nói oang oang một cách vui vẻ cố ý cho mọi người nghe rằng “hai con đàn bà và bốn thằng đàn ông sẽ ngủ chung trên cái giường này!”
Đọc tên xong, ông Chánh Án bắt đầu làm việc của quan tòa. Ông hất hàm xuống người đàn ông đứng cực phải:
“Anh Nguyễn Văn X…! Tại sao anh không chịu hạ cờ Già xuống để treo cờ đỏ sao vàng lên trong ngày quốc khánh đầu tiên của nước ta?”
Bị hỏi, người đàn ông bây giờ mới ngước mặt lên, hất mớ tóc xụ xộp qua một bên phơi trần nửa vầng trán và đuôi mắt tím bầm, từ tốn và run run, anh ta đáp:
“Thưa quan “tà”, hồi nào tới giờ tôi vô đạo của Huỳnh Giáo Chủ thì tôi treo cờ đạo của Huỳnh Giáo Chủ chớ không treo cờ nào khác”
“Nhưng cờ của Huỳnh Giáo Chủ…ủa…ủa” viên quan tòa “ủa” liên tục. “Cờ Đạo không ai được treo trong ngày Quốc Khánh, anh biết không?”
Bây giờ mọi người mới vỡ nhẽ ra là người đàn ông và có thể cả mấy người kia nữa bị bắt và xử vì tội không treo cờ đỏ sao vàng trong ngày Quốc Khánh.
Nhiều người không treo cờ nhưng đâu có bị bắt. Chắc mấy người này bị bắt vì họ là tín đồ Hòa Hảo, vì họ thờ Huỳnh Giáo Chủ. Vì Huỳnh Giáo Chủ có chân trong Ủy Ban Nam Bộ và đã bị ám hại chăng?
“Dạ, chánh phủ đâu có nói là cấm treo cờ Đạo!”
“Anh coi trọng cờ đó lắm hả?”
“Dạ.”
“Còn cờ đỏ sao vàng?”
“Dạ cờ đỏ sao vàng thì mới có đây nên tôi còn lạ.”
“Trước lạ sau quen, Chánh Phủ biểu treo thì anh treo nghe chưa?”
“Dạ để ít lâu coi sao rồi treo cũng không muộn.”
“Bây giờ anh có treo cũng đã muộn rồi.”
Người đàn ông vẫn chẫm rãi đáp:
“Thưa quan tòa, trong hiến pháp cụ Hồ Chí Minh có tuyên bố với toan dân là khi độc lập, người dân được năm quyền Tự Do dân chủ. Quyền số một là tự do bầu cử, quyền số hai là tự do hội họp, quyền số ba là tự do tín ngưỡng, quyền số bốn là tự do thư tín, quyền số năm là tự do đi lại. Vậy tôi theo đạo của Đức Thầy tôi làm trúng vô quyền tự do tín ngưỡng, tôi đâu có mần gì sái mà người ta bắt đánh tôi dử vầy?”
Quan tòa hất hàm:
“Nhưng tại sao anh không treo cờ đỏ sao vàng chớ?”
“Dạ vợ tôi không chịu may nên không có để treo.”
“Tại sao lại may cờ đạo?”
Chị đàn bà đứng cách đó một người nghe câu hỏi của tòa bèn ngẩng đầu lên. (Té ra cách mạng chia loan rẽ túy đến kỳ cùng, không để cho vợ bị xâu gần chồng như người ta lầm tưởng tự nãy giờ). Chị đáp:
“Dạ, tôi không có may cờ đạo!”
“Không may tại sao lại có cờ treo?”
“Dạ, thưa tà cờ có đâu hồi nẵm tới giờ rồi, chớ không phải tôi mới may. Có trước chớ đâu phải vợ tôi may cờ đạo mà không may cờ đỏ sao vàng.” Người chồng phân trần.
Quan tòa gắt nhẹ:
“Này, anh nghe cho rõ đây: nếu anh lỡ treo cờ đạo thì cũng được đi, nhưng anh phải treo cờ đỏ sao vàng trên cờ Già. Có dân tộc mới có đạo giáo, anh rõ không?”
Người đàn ông đáp:
“Dạ, phàm trong tâm con người, hễ thờ đạo nào thì chỉ thờ một đạo thôi.”
“Nhưng cờ đỏ là của chung đất nước, là dân thì phải thờ. Treo cờ đỏ là thờ đất nước. Không treo cờ đỏ là anh đứng ngoài dân tộc là anh đi lạc đường rồi. Tôi coi bộ anh là người hiểu biết, anh hiểu điều đó không?”
“Dạ thưa tà…”
Ông ủy viên Chánh phủ đập bàn trỏ mặt người đàn ông:
“Anh câm ngay! Anh là người hiểu biết, sao anh gọi “tòa” là “tà”?”
“Dạ tôi nói vậy đã quen miệng rồi!”
“Anh coi tòa là quan gia tà, tà mị hả? Anh dám coi cách mạng là tà mị hả?”
“Dạ không phải! Ông nói vậy chớ tôi đâu có nghĩ vậy!”
“Ngoan cố!” – Ủy viên chánh phủ lại đập bàn quát:
“Anh nói tiếp đi!” Quan tòa gắt.
“Dạ thưa quan t…, thưa quan, tôi hổng biết tiếp ở chỗ nào.”
“Ở chỗ anh không chịu treo cờ đỏ, mà chỉ treo cờ Già!”
“Dạ tôi đâu có hổng chịu treo. Cờ đỏ treo ở đằng trụ sở Ủy ban ai đi ngang cũng thấy! Bữa nào có mít tinh nghe ở trên xuống tuyên truyền thì đồng bào đứng chung quanh, tôi cũng có đứng. Còn đây là cờ đạo của Đức Thầy, ai theo đạo mới thờ, ai không theo thì thôi. Đức Thầy đâu có bắt treo. Đức Thầy cũng không có dạy tôi là đạo đứng ở ngoài dân tộc!”
“Nhưng nếu anh không treo cờ đỏ thì anh phải hạ cờ đạo xuống, anh rõ không?”
“Dạ nếu Chánh phủ cụ Hồ phán vậy thì dân đâu dám cãi.”
“Không phải cụ Hồ đâu, mà là ủy ban tỉnh thôi.”
“Dạ, ủy ban có muốn hạ thì hạ chớ cần gì phải hỏi, nhưng hạ cờ còn cột cờ.”
“Hạ luôn cột cờ!” Quan tòa nổi giận thét.
“Dạ hạ ở ngoài nhưng không hạ được bên trong…”
“Trong nhà cũng hạ luôn. Dẹp luôn bàn thờ Thầy, cấm luôn tụng kinh gõ mõ.”
“Dạ không phải trong nhà…”
“Mấy người đem bàn thờ giấu trong buồng hả?”
“Dạ không phải trong buồng mà trong b…ụng!”
Ông ủy viên Chánh phủ nãy giờ như ngồi bàn chông. Bộ mặt chè bè nung núc những thịt của ông run run như nở bạnh ra. Cặp mắt lồi của ông tia xuống tội nhân. Đến đây thì ông không còn kiên nhẫn nữa, ông lại đập bàn quát. Đập bàn là tác phong dân chủ nhân dân của ông.
“Thằng này cứng đầu, chối quanh không chịu nhận tội!”
Cánh tay hộ pháp của ông đập quá mạnh làm tiêm đèn sụt xuống. Đèn tắt một ngọn. Hai ngọn còn lại lắc lư trước gió như cái chân lý của phiên tòa.
Quan tòa nói:
“Như vậy đã rõ! Xin mời ông ủy viên chánh phủ buộc tội!”
“Tử hình!” Một tiếng buông ra cộc lốc từ cái bộ mặt nở bạnh có những luống thịt run run nhịp nhàng với bàn tay đập bàn phát nữa để chấm dứt một cuộc đời. Tiếng quát của ủy viên Chánh phủ làm ông Xà Beng giật mình tỉnh giấc mơ tiên. Ông nhướng mắt nghiêng đầu nhìn người đàn ông vừa bị ném cho tiếng “tử hình” rồi lại ngã vào gốc cột ngủ tiếp yên trí rằng đêm nay ông sẽ bận rộn nhiều.
Các ông các bà biện hộ sư ngồi ở phía dưới sân khấu không có phản ứng gì khi án tử hình đã gán cho tội nhân mà chưa kịp mở miệng cãi lại. Quan tòa vẫn nhớ rằng những ông bà ấy có mặt đêm nay ở đây là để biện hộ cho những tội nhân mà án tử đã được định trước khi phiên tòa khai mạc. Hoặc ông không nhầm thì các vị biện hộ sư này có nhiệm vụ lý luận bằng cách nào đó để nhắc khéo ông ủy viên chánh phủ rằng nếu tội nhân chỉ đáng tù chung thân thì phải tăng lên tử hình, còn nếu đáng tử hình thì phải chồng hai án một lúc – nghĩa là thay vì cởi ra lại buộc thêm.
Do đó, quan chánh án thấy không có gì phải thắc mắc khi ông ủy viên chánh phủ tuyên án tử hình mà các biện hộ sư chưa có một lời cãi… hộ. Và có lẽ cũng hiểu chuyện đời như vậy nên người tử tội vãn thản nhiên, không nói gì thêm mà cũng không cúi đầu nhận tội.
Quan tòa tiếp tục hỏi cung người đàn ông thứ hai. Theo kế hoạch đã định trước thì quan tòa chỉ hỏi một người rồi kết án chung một lần cho đỡ mất thì giờ, vì 6 người cùng bị bắt trong một đêm và cùng một hoàn cảnh, nhưng vì ủy viên chánh phủ nổi cáu đã tuyên án tử hình ngay người thứ nhất rồi, nên quan tòa phải bắt sang người thứ hai. Ông hất hàm:
“Tại sao anh gõ mõ tụng kinh chuyền cho nhà bên cạnh để cả xóm đồng tâm không đón đội tuyên truyền xung phong vào và đồn Cầu Ông Ngò gồm ba phần tư là lính Hòa Hảo canh giữ đã đem lính ra phục kích bắn chết ba đội viên của đội tuyên truyền xung phong khu?”
“Dạ thưa tà…”
“Tòa”! Không phải “tà”! Anh liệu cái thần hồn!” Ông ủy viên chánh phủ lại vỗ bàn làm thếp đèn nhảy lên, nhưng may quá cái ánh sáng chân lý chỉ run run, chưa cái nào tắt thêm.
“Dạ thưa bẩm… bẩm quan.” Người đàn ông có vẻ khiếp sợ, đáp.
“Đây là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải thực dân mà “Dạ, Thưa” rồi còn “bẩm”. Ở đây cũng không có quan quyền gì hết. Chỉ toàn là những nô bộc của dân. Ông Chánh án gọi các anh bằng “anh” để chứng tỏ cho mọi người thấy nước ta là nước dân chủ, anh rõ chưa?”
Ông Bồi thẩm ngồi bên trái ông Chánh án tự nãy giờ chỉ có mấy nhiệm vụ. Một là khêu đèn nghĩa là giữ cho ánh sáng chân lý không trụt xuống mỗi khi ông ủy viên chánh phủ đập bàn. Hai là xua muỗi cho ông chánh án. Muỗi cũng là một loại khán giả quan trọng và náo động nhất ở đây. Nhiệm vụ thứ ba là phải giải thích cho tội nhân về cái sự dân chủ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như vừa rồi và để chắc chắn rằng tội nhân đã nhận rõ lời ông giải thích, ông hỏi gặn:
“Anh có thấy nước ta ban hành tự do dân chủ đầy đủ chưa?”
“Dạ thấ…ấy!”
“Vậy thì anh hãy trả lời vì sao anh đánh mõ gõ chuông chuyền như vậy? Nếu anh khai thật và nói cho tòa biết trong vùng anh còn mật hiệu nào khác để báo động khi bộ đội tới nữa không, thì anh sẽ được chánh phủ tỏ lượng khoan hồng.”
“Dạ đánh mõ tụng kinh như vậy là chuyện thường đêm của người đạo chúng tôi chớ đâu phải mật hiệu gì.”
“Xin tòa hỏi xem anh ta tụng kinh thiệt hay kinh giả?” Viên Bồi thẩm nói.
“Dạ, kinh là kinh chớ đâu có kinh thiệt kinh giả.” Người đàn ông đáp ngay.
“Kinh anh đọc tên là Kinh gì?”
“Dạ, Kinh Giác Mê Tâm Kệ!”
“Có ý nghĩa gì?”
“Dạ có ý nghĩa làm tỉnh dậy những người mê muội chìm đắm bể trầm luân.”
Quan tòa thở hắt ra, ngó sang ông Bồi Thẩm như để cầu cứu một câu giải thích tiếp trong khi ông tìm thêm lý lẽ để vặn tội nhân, nhưng ông Bồi Thẩm chỉ hỏi:
“Ai mê đắm bể trầm luân, anh nói nghe thử?”
“Dạ, chúng sanh mê muội giết người đồng loại. Dạ, Đức Thầy đã kêu gọi thiện Nam tín Nữ chúng tôi hãy làm lành lánh dữ, lấy thiện chống ác, lấy minh chống u, lấy phước chống tội, lấy chánh chống tà…”
“Bốp!” Ông chánh án mặt to lại đập bàn. “Đây không phải chỗ cho anh đọc kinh!”
Trong hai nữ biện hộ sư, có một bà mặt rỗ, một bà mặt trái soan rất đẹp. Thấy tòa nổi giận, bà trái soan khẽ thúc cùi chỏ bà mặt rỗ. Bà này vội vã đứng lên không xin phép, nói ngay – vì bà biết, nếu chậm trễ ông ủy viên Chánh phủ sẽ phun thêm một cái án tử hình mới. Giọng bà eo éo như tiếng đờn cò lên cao:
“Thưa đồng chí Chánh án, thưa ông Ủy viên Chánh phủ! Thân chủ tôi nghĩ rằng giác mê tậm kệ sẽ làm người ta hết mê muội, nhưng chính anh ta lại là kẻ mê muội đáng được ánh sáng của cách mạng soi rọi để dắt ra khỏi cõi mê, từ chỗ u ra chỗ minh, từ kẻ dữ hóa lành, từ ác quỷ ra thiện nhân, từ tội lỗi ra phứ…c ức…ức!” Một con bồ hông bay tới lao vào cái lỗ phóng thanh – như một chiếc Thần Phong của Nhật Hoàng nhủi xuống ống tàu chiến của đồng minh – rấp tâm trám bít nó lại, nhưng vì thân bồ bé bỏng nên chỉ làm cho máy phát tiếng trục trặc chút thôi.
Nhưng sự hy sinh của nó không phải là vô ích. Người nữ tội nhân nãy giờ gục đầu nức nở vì cái án tử hình đã giáng xuống cho chồng, vừa nghe tiếng ho “ức ức” của bà biện hộ sư thì tưởng bà ta cùng giới mà cảm thương phận đàn bà bị “ức” hiếp…, nên chị khóc ré to lên.
Còn bà biện hộ sư thì lại nghĩ rằng lời bào chữa của mình đã xuyên thấu tim đen của tội nhân làm bật tung dòng lệ thảm cho nên sau khi nuốt chửng chiếc Thần Phong tí hon bà lại tiếp tục biện hộ:
“Thưa đồng chí Chánh án, thân chủ tôi đã vì mê muội của thứ bàn môn tả đạo nên phạm tội sát nhân. Luật pháp trên thế giới là giết người thì phải đền mạng dù rằng ngộ sát hay cố sát. Trong trường hợp này thân chủ tôi đã cố sát nhưng xét cho cùng đoàn tuyên truyền xung phong chỉ mất có mấy cán bộ, thay vì tổn thất nhiều hơn nữa. Và xét cho cùng nữa thì đó không phải thân chủ tôi rắp tâm mà do sự mê muội…”
Ông Bồi Thẩm chờ bà biện hộ sư dứt câu, bèn mớm:
“Đồng chí biện hộ sư đã giảm tội cho thân chủ được bảy phần rồi đó, chỉ còn câu cuối cùng nữa là thân chủ được tha bổng.”
Bà nữ biện hộ sư thấy phấn chấn hẳn lên. Những nốt rỗ chứa bóng tối trên mặt bà làm chúng đen ra như những trái sắn già không ai hái cũng như cái tuổi của bà bây giờ.
Bà tằng hắng to lên vì con bồ hong còn kẹt trong họng, nhưng quan tòa lại nghĩ rằng bà biện hộ sư hăng hái bảo vệ nhân dân quá mức nên đã dám cả gan nạt tòa làm tòa giật mình suýt giảm án cho tội nhân. Quan tòa sực nhớ ra rằng ông bà thầy cãi ngồi dưới kia chỉ là cây cảnh, hơn nữa các án đã được định bằng mồm trước khi tòa xử.
… Các tội nhân tiếp tục được biện hộ một cách nhiệt tình cho nên khi dĩa dầu cá được châm thêm ba lần và cạn đến lần thứ ba thì ủy viên Chánh phủ cũng vừa buộc thêm cái án nữa, cho người cuối cùng: một người đàn bà có thai gần ngày. Nhưng lần này ông không đập bàn, có lẽ sợ làm trụt mất ánh sáng công lý hoặc không muốn làm thai nhi trong bụng mẹ giật mình, cho nên ông chỉ chém bàn tay ông trong không khí.
“Tử hình luôn!”
Những tội nhân sụp quỳ xuống cùng một lúc như để tỏ lòng biết ơn Chánh phủ. Nhưng không phải! Họ bắt đầu niệm kinh.
“Dắt chúng nó đi ngay!” Ông ủy viên Chánh phủ hét. “Đưa ra ngoài kia!”
Ông Xà Beng đã tỉnh giấc từ khi ông Ủy viên chánh phủ thét cái án thứ nhất để chờ lệnh đi công tác. Như máy, ông rút chai rượu trút vào mồm để chuẩn bị. Nhưng, tội nghiệp, hôm nay ông phí của giời!
Ông ủy viên Chánh phủ có một lô người võ trang đi theo hộ tống và giữ trật tự cho phiên tòa. Ông chỉ mượn ngôi đình để xử tội nhân và đất để chôn họ thôi, còn việc đưa linh hồn họ về cõi U thì đã có đám võ trang kia. Bị tranh mất công, ông lấy làm ức lắm, ông vùng vằng đứng dậy định đi về không chơi với Cách mạng nữa, nhưng cái món phép ông giắt trong lưng như ngọ nguậy làm ông ngứa ngáy. Ông không về nhà được. Ông rút nó ra cầm tay và xăm xăm đi ra bãi pháp trường.
Ngài Ủy viên Chánh phủ đã được ủy ban xã giới thiệu rõ thành tích của ông Xà Beng nên chận ông lại và năn nỉ:
“Tôi biết tài đồng chí! Nhưng để khi khác tôi sẽ dùng đến. Tôi còn cả trăm tên nữa. Đừng lo. Còn hôm nay thì xử bắn; trước mặt đồng bào, mình phải văn minh. Cất binh khí đi, kẻo người ta trông thấy bảo mình dã man.”
Ông Xà Beng nhìn ngài ủy viên Chánh phủ bằng cặp mắt quái dị, đến nỗi ông này phải sụt lùi, vừa sụt lùi vừa cảnh giác, như sợ bị một phát xà beng bất ngờ. Còn ông Xà Beng thì cứ lầm lũi đi ra sau sân đình.
Đoàn trại sinh của khóa huấn luyện TNCQ hụt diễn kịch được phân công giữ trật tự vòng ngoài trong lúc một nửa đội võ trang làm nhiệm vụ ấy ở vòng trong, nghĩa là gần miệng lỗ. Viên đội trưởng cầm chiếc đèn dẫn đầu sáu cái án bằng xương bằng thịt ra huyệt. Mấy ngọn đèn cũng rất phải chăng, đợi tòa xử xong mới lụn, như hàm ý rằng ánh sáng công lý không còn hoặc nó không thể soi sáng cái gì ở đây, thà biến đi cho xong. Hũ dầu cá dự trữ cũng đã cạn nên không thể giúp cho chân lý sáng thêm.
Viên đội trưởng cứ để cho ba cái tiêm đèn cháy lan trên thếp sành thành một ngọn to như đuốc, đuốc cách mạng tả tơi trước gió. Dầu cạn, nước đọng cháy xèo xèo và nổ lắc rắc nghe rõ mồm một. Theo sau ngọn “Đuốc cách mạng” thay vì ông Xà Beng lại là một đội viên, tay nắm sợi dây luộc dừa xâu tử tội, tay cầm súng, miệng nạt đường. Người xem kịch hụt bỗng nhiên đông lên gấp hai gấp ba. Mặt trận tỉnh đã lầm tưởng rằng nếu nghe tin xử án phản động chắc ít người đến xem và cách mạng sẽ mất cơ hội thị oai với quần chúng. Ngược lại, nghe tin đó, người ta đi xem đông hơn đi xem kịch. Những vụ xử bắn như thế này làng nào không có mà sợ.
Người ta bu chung quanh đám tử tội, không ai nói gì, cũng không ai dám đụng họ nhưng không hiểu tại sao người ta cứ ùa tới cho gần như muốn đưa họ ra nơi yên nghỉ cuối cùng bằng một lời tiễn biệt câm chăng?
Từ chỗ họ đứng hứng bản án đến nơi họ thụ án chỉ hơn trăm thước. Trăm thước đó dày đặc những người cuồn cuộn như sóng không ngăn được. Người ta quyết tình xem oai võ của cách mạng ra sao không phải trên thân xác một ông Hội đồng già nua, cũng không phải qua tiếng gào thét của người bị đập đầu trên cầu đúc hay tiếng rên rỉ của cây Xà Beng yêu tinh, mà trên thân hình của đàn ông lẫn đàn bà và đàn bà có thai: sáu người hiện hữu, một công dân chưa kịp thành người.
Viên đội trưởng đặt chiếc đèn xuống đất và quát giữ trật tự, cái trật tự không giữ được từ lâu. Đám tử tội đã đến miệng lỗ. Họ vẫn còn bị xâu chùm. Viên đội trưởng ra lệnh cho đội viên buông dây và quát:
“Bắt nó quỳ xuống! Hai đứa!” Rồi tiếp. “Hai đồng chí sẵn sàng thi hành lệnh.”
Một người đội viên đẩy hai người đàn ông đứng meo trước miệng lỗ rồi ấn vai bắt họ quỳ, thay vì ra lệnh. Cả hai đều quỳ quay mặt về phía họng súng.
Viên đội trưởng quát:
“Bắt nó quay lưng ra họng súng quay mặt nhìn lỗ.”
“Chúng tôi muốn nhìn họng súng của các ông!” Một tử tội ngoảnh lên nói.
“Không được! Chúng tao không có sẵn vải bịt mắt.”
Một cánh tay từ đám khán giả tiếp cận chìa vào một mảnh khăn.
Viên đội trưởng chụp lấy xé làm đôi nhưng một tội nhân quắc mắc:
“Chúng tôi không cần phải bịt mắt.” Rồi cả hai quỳ mím đó không chịu quay lưng và mắt vẫn nhìn hai họng súng đã chĩa ngang tầm ngực họ. Miệng họ lâm râm niệm kinh, không rõ tiếng chỉ nghe giọng và thấy môi mấp máy đều đều. Mắt họ trợn lên nhìn họng súng cách chỉ một vói tay. Cách mạng tuy mới thành công nhưng đã có mút-cơ-tông, không phải xài súng bắn chim nữa.
“Bắn!” Viên đội trưởng giơ ngọn đuốc lên và hét.
Bùm! Hai phát súng nổ cùng một lúc nên nghe như một. Nhưng hai tín đồ về chầu Phật thì vẫn cứ hai và hai linh hồn rời xác. Một rơi nằm sấp một nằm ngửa dưới đáy lỗ. Nhưng cả hai đều lồng lên khi vừa đụng đất. Vì sợi dây luộc quá chắc, không đứt, cho nên người đàn bà và người đàn ông đứng kế bị giật nhào xuống lỗ. Cả người bị đạn lẫn người sắp bị đạn đều gào thét dãy dụa như muốn phá vỡ bốn vách thành của cái thảm huyệt để trở lại trần gian. Một người đàn ông đã ngoi lên và bất thần nắm được chân viên đội trưởng đang đến gần miệng lỗ xem xét, để cất mình trườn lên. Tên này hoảng kinh nhảy tưng và chạy lùi ra vừa hét vừa quơ tay loạn xạ:
“Bắn! Bắn! Bắn!”
Hai tay súng chạy tới nhắm mắt mũi cứ lên đạn dí súng bóp cò, bất kể đầu mình tay chân của đối tượng và bất kể bắn bao nhiêu phát.
Người đàn ông và người đàn bà cuối cùng còn lại vẫn đứng trơ trơ bên miệng lỗ. Lần này thì sợi dây xâu bị bắn đứt nên họ không bị giật té xuống lỗ. Họ không quay lưng lại họng súng, họ bị bắn từ sau lưng. Họ ngã chồng lên đồng đạo dưới lỗ.
Súng cách mạng thật tốt, bắn đến viên đạn cuối cùng của gấp đạn thứ hai mà không lép phát nào và nổ to gấp trăm lần súng bắn chim.
Miệng lỗ rưới đầy máu tươi đã trở thành miệng cối ngoáy trầu khổng lồ be bét chỉ khác là lỗ hình chữ nhật còn miệng cối tròn.
Người đàn bà bị bắn từ phía sau lưng, viên đạn xé rách bụng ruột lòi ra từng cuộn. Một tay chị ôm bụng, một tay soài tới ôm lấy người đàn ông cùng ngã một lúc với chị, úp mặt lên một người đàn ông khác. Chị gào lên: “Chết con mình rồi mình ơi! Mìn…h ơi ơi…!! Mì…ơ ơ…” tiếng gào tắt lịm dần. Huyệt mộ cạn xợt nên sáu cái xác chồng đầy tới miệng, một người đàn ông nhô hẳn đầu lên quá mặt đất. Một nửa cái cằm đã bay mất. Anh muốn nói gì, muốn la hét, nhưng máu phún ra có vòi, anh chỉ ngáp ngáp, lấy máu thay lời.
Một ngọn gió thổi qua như luồng oan hồn cuộn mất ngọn đuốc tàn làm mặt đất càng ùn lên oai vũ cách mạng, một thứ oai vũ màu đen và mùi tanh.
Bất thần một ánh đèn pin xẹt lên xanh lét làm mặt người hóa ra mắt quỷ và mảnh sân đình trở thành con sông Nại Hà lúc nhúc quỷ sứ đuổi bắt người ăn thịt. Đó cũng lại là ánh sáng công lý phát ra từ tay ông ủy viên Chánh phủ. Ông cầm đèn pin đứng xa xa để giám sát cuộc hành quyết tự nãy giờ.
“Đừng bắn nữa! Lạc đạn! Đập cho chết!” Thấy biến động bất ngờ, ông quát.
Tức thì “cốp, cốp, cốp!” Một người lao tới, hai tay hộ pháp hươi lia lịa một chiếc gậy sắt. Người đàn ông mất cằm bị ánh đèn soi rõ và tức thì “cốp”, một nửa chiếc cằm còn lại bay luôn. Máu phọt tràn đất.
“Khoan lấp!” Một tiếng quát. “Để đập cho thiệt chết!”
Chiếc gậy sắt vẫn quơ loang loáng. Cái ánh đèn xanh bây giờ đã trở thành đỏ lòe như một tia máu vĩ đại xối vào mặt đám khán giả gan lỳ muốn xem đến phút cuối cùng của màn kịch.
“Ông Xà Beng! Ông Xà Beng!” Một tiếng la hoảng ré lên.
Đây đúng là công tác của ông. Ông chờ đợi rình rập cái giờ phút này. Chưa bao giờ ông được tung hoành đến thế. Trước đây ông loay hoay trên chiếc cầu, sợ người bất ngờ qua lại, hoặc xoay trở trên sông cái, nhiều lúc suýt lật úp xuồng. Thật là gian khổ vô cùng. Còn ở đây thì dù đến sáu bảy mạng, vẫn dễ dàng hơn, tha hồ đập, dù chúng có la rú cũng chẳng sợ, đã có Chánh phủ đứng ở đây rọi đèn cho ông hành sự mà. Cái Xà Beng lầy lụa, nắm cứ tuột hoài, ông phải lau tay vào vạt áo hoặc muối cát hai ba lần để quay cho chắc cú.
Ông ủy viên Chánh phủ đứng điềm nhiên quơ ánh sáng qua lại để chỉ đạo ngọn Xà Beng ban hành luật tự do tín ngưỡng đến tận đáy huyệt. Ông khuyến khích ông trưởng ban trừ gian xã:
“Tôi đề bạt đồng chí lên Phó ban trừ gian tỉnh, đặc trách vùng này.”
Ông tân phó ban trừ gian tỉnh ngừng tay đứng thẳng người, quay mặt về phía thượng cấp tỏ vẻ biết ơn và nhận chức mới. Bất thần ông ủy viên Chánh phủ sụt lui mấy bước liền và bấm tắt đèn. Ông không muốn hoặc không dám nhìn cái mặt thật của cái con người mà chính ông đã tạo ra và vừa thăng chức.
“Thôi, được rồi đồng chí Phó Ban! Để chúng nó lấp lại.”
Ông Xà Beng ngừng tay. Nhiệm vụ đã hoàn thành, chức vụ mới đã nhận xong, ông đi về. Rảo bước qua những tiếng lào xào của khán giả bên tai, ông ngỡ đó là những lời khen ngợi triền miên. Ông thọc tay vào túi áo rút cái chai bầu ngửa cổ tu rượu, nhưng lần đầu tiên kể từ khi đập chết “tên Việt gian” thứ nhất trên Cầu Đúc, ông nghe mùi rượu lạ kỳ. Ngửi thì tanh đến buồn nôn, mà nuốt thì nhám. Ông vừa phun vừa khạc. Rượu đã pha máu lẫn cát. Máu và cát dính ngay ở mặt ở môi ông. Ông quệt ngang, ông nâng vạt áo lên chùi, lại phun, khạc. Ông không về nhà. Ông đi thẳng tới quán đạp cửa đòi rượu mới. Người chủ quán nghe tiếng thì biết ông khách hàng đầu rìu, nên thòi chai rượu qua kẹt vách. Ông đớp lấy mở nút nốc dài về tới nhà, quăng cái vỏ chai, dựng binh khí trong hóc và văng mình lên võng, bó thân trong chiếc áo bành tô vừa điểm thêm nhiều hoa mới.
Chiếc võng lắc lư, cột kèo run rắn rắC. Ông co chân đạp vào vách cho võng đưa nhanh ru ông sớm vào mộng tiên.
“Ta bây giờ là Phó ban tỉnh. Ở nhỉ… tỉnh lớn bằng mấy chục xã!”
Cũng may là ông không có vợ con. Nếu có, chắc vợ con ông sẽ khổ. Nhưng nếu ông có vợ con thì ông không làm tới chức Phó ban trừ gian tỉnh cũng không làm cả trưởng ban trừ gian xã để được trả công một chai rượu một mạng người.
Ông Xà Beng thức giấc khi rượu đã loãng. Ông nằm im trong sự bó chẹt của chiếc võng lát đã hết đong đưa tự bao giờ.
Bỗng ông nghe trong tiềm thức sâu xa tiếng kêu rống. Không phải trong tiềm thức của ông mà từ âm ty vọng lên. Ông vụt nghe ốc mọc đầy lưng rồi khắp người. Ông nghe tiếng rống văng vẳng càng lúc càng to. Ông vùng dậy bước lại cửa thò đầu ra, lắng nghe. Tiếng rống đến từ phía đình. Một cách bản năng, ông quơ lấy binh khí chạy trở lại sân đình. Trăng non y hệt cái liềm không cán, cong như mõn quỷ. Đụn cát run run phập phều như lượng sóng. Tiếng rống phát ra từ đây. Như quỷ giục ông quơ xà beng lên nhắm ngay chỗ có tiếng rống to phóng thẳng. Ông đu người lên để găm lút chiếc cọc sắt. Nhưng mỗi lần ông ấn xuống thì in như tiếng rống càng bật lên to hơn. Ông bỏ chiếc xà beng đứng run rẩy. Ông thở hổn hển giữa mô cát nhấp nhô. Ông chạy vào xóm tìm một chiếc chày. Ông vọt trở ra, giơ thẳng cánh bổ xuống đầu Xà Beng như giả gạo. Cốp cốp cốp. Chiếc Xà Beng lút tới cán nhưng tiếng rống đã không tắt lại còn vang to hơn. Không gì dập được tiếng kêu đau.
Ông ném chiếc chày, hai tay nắm cán xà beng lôi lên. Vuột tay, ông té ngửa. Chiếc xà beng vẫn ghim lút trong cát như có người níu giữ. Ông chụp lấy chày và nện và bổ bất cứ chỗ nào đang run động để dập tắt tiếng rống. Nhưng nó vẫn không tắt. Nó cứ vang lên bằng nhiều giọng, nhiều cách, nhiều nơi khắp nấm đất và dường như khắp mặt đất. Năm người và hai mẹ con nằm vùi dưới lỗ. Bảy mảnh linh hồn lởn vởn bay trên đầu. Cả xác lẫn hồn đều không chịu im. Ông bỗng nhận ra vật gì như một cái đầu đang trồi lên khỏi nấm cát rồi hai cánh tay mọc thẳng lên trời quơ qua quơ lại như muốn lôi tuột cái liềm kia xuống.
Ông nghe cả thân mình mềm nhũn. Ông vứt cái chày và quay đầu chạy. Ông lại đụng nhằm một bóng đen đang lù lù đi tới. Ông không phân biệt được đó là ai, người hay ma quỷ? Ông thụt lùi rồi vừa chạy vừa la. Lần đầu tiên ông Xà Beng biết sợ.
Sáng hôm sau người đi qua đình thấy ông nằm sải tay sải chân trên cát
xuanvu_sign

VÕ PHƯỚC HIẾU * ĐÁM CHÁY ĐẦU XUÂN

Đám Cháy Đầu Xuân Võ Phước Hiếu Bà Bảy Nở vội kéo hai vạt áo dài, buộc tréo phía trước lưng quần, miệng rang rảng vọng xuống hướng bến sông. Nơi đầu bến có cái cầu vó, cất bằng thân cây mù u già chắc thịt, thêm tiện nghi nhờ có mái lợp với chỏng tre dùng để ngã lưng đêm hôm tăm tối: - Bún! Bún! Chiếc xuồng ba lá đổi bún quày quả chĩa thẳng hướng bến sông. Thím Chín Tý lanh tay, ghịt mũi xuồng vào chân cầu vó. Thím nói như có ý trách vu vơ: - Nước rặc quá! Bến cạn queo. Nghe rồi chị Bảy. Tui neo ghe ở cầu vó đây. Chị cảm phiền chịu khó xuống bến nghe! Chẳng mấy chốc, bà Bảy Nở đã đối diện xuồng bún. Tay bà cầm cái rổ quảo có lót một mớ lá chuối xanh um mướt mượt. Trước đó không lâu, bà vừa đi vừa rọc vội vàng trên đường xuống bến: - Hôm nay ăn mấy vậy thím? Lúa của tôi kỳ này là nàng hương thơm ngon chớ không phải loại sóc nâu, nàng phệt hay nàng quớt như mấy lần trước đâu. - Nàng hương sạch, tui đổi hai quảo rưỡi. Quảo lum lúp. Còn sóc nâu, nàng phệt, nàng quớt… phải ba quảo gạt mặt. Thím Chín Tý độ non bốn mươi tuổi. Nhà ở cheo chéo đình làng, có bến nước công cộng với một cầu ván lâu đời láng o. Nước lớn ngập khỏi chân cầu, nuốt trọn tấm ván, chỉ còn lé đé đoạn kê trên bờ. Nhưng lúc nước rặc ròng như hôm nay, chảy mạnh như cắt, tấm ván cầu chúi nhủi thòng xuống lòng sông cả đôi ba thước tây, giúp người qua đò không phải lội sình, lấm lem lúc bước lên bờ. Những lúc này, phải tuyệt đối thận trọng, chú ý từng bước đi. Tấm ván cầu trơn chùi đó do bụi bùn non bám vào càng trơn như thoa dầu trét mỡ. Không khéo, khách trợt chân nhào xuống sông như trở bàn tay. Nhờ ở sát bến nước công cộng, có con đò nhỏ đưa rước khách bộ hành, người qua kẻ lại tuy không tấp nập rộn rịp nhưng chẳng ngày nào vắng bóng. Ngoài công việc đồng áng phụ giúp chú Chín ngày mùa, thím còn có cái nghề tay trái, bổ sung phần thu nhập gia đình nơi vùng khẩn hoang lập ấp, lúc nào cũng cần một số vốn tối thiểu để chịu đựng đường dài. Đất khẩn hoang, một hai mùa đầu, đôi khi cả ba bốn mùa tiếp nối là khác, đã vất vả khổ cực trần thân nhưng đất mới còn ráo hổi nào có huê lợi chi đáng kể. Mùa màn èo uộc. May mắn lắm mới đủ ăn. Thím nghĩ ra một cách giúp chồng khá độc đáo. Thím xay gạo làm bún rồi đem đổi lấy lúa kiếm chút lời. Cứ đôi ba ngày đổi một lần. Riết rồi bà con tôi thuộc lòng ngày nào lò bún của thím hoạt động. Công việc cũng đăng đăng đê đê liền tay. Xay lúa, giả gạo, tẻ bột, giáo trùng, đổ bún... May nhờ có mấy cô cháu chồng, tuổi vừa cập kê, tận tình tận lực giúp một tay nên bà con trong xóm có bún ăn thường xuyên. Bún đổ xong từ hừng đông được thím Chín bươn bả chất lên chiếc xuồng ba lá, bơi dọc theo sông rạch, kinh đào, từ ấp này qua ấp kia rao lanh lảnh gọi mời: - Đổi bún! Đổi bún! Lò bún của thím Chín Tý rất đơn sơ do hoàn cảnh phương tiện thiếu thốn nơi vùng đất mới khẩn hoang. Mỗi lần thím đổ không nhiều. Chỉ ngam ngám vừa đủ nhu cầu tính theo đầu nhân mạng trong xóm có thói quen đổi bún. Thím còn canh theo thời tiết mùa màn hoặc lễ lộc, Tết nhứt. Có thiếu cũng tốt. Nhưng tuyệt đối không cho dư. Ế ẩm, lỗ vốn. Bộ ván ngựa được tách đôi, kẹp chặt khuôn bún với cần ép bằng lỏi cây dẹt rắng chắc mà bọn róng mắc, lục lăn lục lửa chúng tôi hay nhảy thót lên ngồi ép bún hụ hợ với mấy anh chị lớn. Có đứa quen thói trửng giỡn phá phách cứ đánh đu lúc la lúc lắc khiến thím Chín la ó không ngớt miệng. Dưới bộ ván ngựa có nồi nước to bình rỉnh, nám khói đen xì. Lửa củi phừng phực, nước sôi bùng, khói nóng quyện cuồn cuộn. Mặt mày thím thường xuyên tươm lấm tấm mồ hôi hột cứ quyện vào nhau nhỏ giọt xuống sàn đất nhưng dường như thím không bao giờ để ý đến. Mỗi quảo bún được đổi lấy mấy quảo lúa tùy theo lúa tốt xấu, mới cũ, sạch dơ và cũng tùy theo sự kỳ kèo mà cả của bà con. Bún của thím Chín trắng ngần, mềm nhủn lại dai nên bà con rất ưa thích. Nhờ cái nghề đổi bún này, thím Chín đỡ vất vả so với bà con lối xóm, dầm sương dãi nắng quanh năm suốt tháng ngoài đồng không mông quạnh. Bà Bảy Nở và thím Chín Tý trao đổi thêm bớt một đỗi rồi sau cùng cũng đồng ý với nhau về tỷ lệ bún và lúa. Cả hai đều tỏ ra bằng lòng ưng ý lắm qua những nụ cười giã từ níu kéo, niềm nở cảm thông. Chiếc xuồng thím Chín vừa trở mũi tách khỏi cầu vó, bà Bảy Nở băng tắt qua liếp mía huyết, khom lưng dưới giàn bầu lòng thòng đôi ba chục trái lớn nhỏ đủ cỡ. Có trái được gióng bằng một vỉ tre, ghịt lên giàn để trái nặng không làm đứt dây bầu cái. Bà hối hả đổ bún vào rá, treo lủng lẳng ở trần mái hiên nhà, đậy đượm cẩn thận. Chó treo mèo đậy mà! Ông bà xưa cảnh giác đề phòng nhưng thực tế không sai chút nào. Chiều nay cả gia đình bà có dịp cùng quây quần ngồi chung nhau nơi một mâm cơm ấm cúng, hạnh phúc và sẽ thỏa thê với bún nước mắm tỏi ớt. Loại nước mắm này lấp lánh những miếng ớt hiểm cay thấu mây xanh, vừa xanh mơn mởn vừa đỏ au, to nhỏ không đều, nổi lềnh bềnh hấp dẫn nhãn quan. Bún ráo hổi, thơm ngon lại được trộn với mỡ hành hương, dậm thêm một ít tép mỡ gáy dòn rụm, ăn lúc đói sau ngày dài làm lụng cực nhọc thấy đời lên hương vô bờ bến. Trong xóm, khi nói đến bún ngon là biết ngay bún của thím Chín Tý. Hôm nào đau ốm ể mình, thím đóng cửa lò bún, bà con phải gởi mua bún ở chợ quận. Đường nước xa xôi cả ngày cả buổi, bún để lâu lạnh ngắt, đóng thành về, không sao so bì được. Cái tên Chín Tý đã gắn liền với lò bún quê hương tôi từ bao thập niên nay. Và cái tên Chín Tý cũng đã đảm bảo phẩm chất bún Rạch Rít, không cần phải dựng bảng hiệu để giới thiệu hay quảng cáo lăng nhăng phiền hà. Chỉ cần cái tên Chín Tý là có sự tín nhiệm của bà con tôi rồi. Họ lấy cái tên cúng cơm cha mẹ đặt hay tục danh làng xóm gán cho để đảm bảo uy tín mình. Bún thím Chín Tý cũng như ba xi đế ông Bảy Sô, cối xay lúa của chú Bảy Cối... đã đi vào huyền thoại trong sinh hoạt và sự phát triển làm nên một thời của xóm tôi. Bà Bảy Nở cất bún xong, têm miếng trầu bỏ vào miệng nhai rào rạo ngon lành. Bà đến giá áo, kéo cái khăn rằn choàng vai, đoạn bước chéo ra hiên vói lấy nón lá cũ bạt màu, bươn bả phóng nhanh ra hướng đầu ngõ. Ông Bảy trước khi đi thăm ruộng đã căn dặn bà đôi ba lần: - Bà nhớ đánh một vòng xóm trên xóm dưới, báo cho bà con biết rằm tới mình làm heo chia thịt. Bà con nào muốn chia, đến chia. Ông Bảy lại nhắc thêm: - Bà nhớ đừng bỏ sót một ai. Bà con đều là bà con cả. Không có ai trọng ai khinh. Kỳ rồi mình sơ ý bỏ sót thằng Mười Tống. Nó là em út dễ thương lại biết điều nhưng để sót nó, tôi buồn và ngại quá. Gặp nó tôi ngường ngượng làm sao! Nó nghèo thật đó. Nghèo tiền, nghèo bạc nhưng không nghèo nhân nghĩa. Xóm mình mấy ai lạ gì nó. Tôi chỉ sợ nó hiểu lầm mình khinh dễ nó, bộ mình sợ nó không tiền chia thịt sao mà không báo nó biết. Từ dạo xóm Rạch Rít của tôi phát triển sung túc, bà con an cư lạc nghiệp, phất lên mau vùng vụt. Họ thoải mái thảnh thơi trong cuộc sống hằng ngày. Nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương đỏ au, chen lẫn với những nhà lá vách bổ kho, nền cao cửa rộng, cùng lẫm trại thênh thang dọc ngang ngang dọc. Ngoài cháo rau cá tép, mắm muối ngày xưa, thuở những năm đầu khẩn rừng lấn vũng quần quật đêm ngày, bây giờ đã là quá khứ. Nay trong mỗi bữa cơm thường nhựt hầu như bà con đều có thêm thịt thà và cả niềm vui nữa. Thường nhất là thịt heo nhưng thỉnh thoảng ông Bảy Nở cũng mổ bò giết trâu. Những lần chia thịt này rậm đám lắm. Kẻ nấu nước. Người cạo lông, ra thịt. Nói cười inh ỏi, vui nhộn cả góc vườn. Họ lẩn quẩn ở mé mương, được lót bằng tàu dừa tươi xanh với những tàu lá chuối hột to lớn. Con heo khá to vừa cạo lông xong, sạch sẻ trắng phao, được treo tòn ten thòng đầu ở nhánh ổi xá lị. Ông Bảy Nở chìa cái nia có lót lá chuối cẩn thận rồi ra lịnh cho Tư Ty chịu trách nhiệm ra thịt kỳ này: - Thằng Tư! Mầy nhớ cắt cái thủ vĩ rồi bảo bầy trẻ làm lông cho thật sạch. Thêm bộ đồ lòng nữa. Đừng để thiếu coi không được à. Tao đã hứa từ mấy tuần trước dành cho anh Hương thân Bưởi để ảnh làm lễ cúng căn cho thằng cháu nội đích tôn của ảnh. Cái nia của ảnh đây nè. Xong, nhớ bảo bầy trẻ quảy qua cho ảnh. Tư Ty chọn con dao bén ngót nó ưng ý nhứt, te te đi thẳng một mạch đến miệng lu vú kê sát hè nhà. Anh lanh tay liếc qua liếc lại nhiều lần cho dao bén thêm. Trông cử chỉ cũng điêu luyện lắm. Anh day qua nói với giọng khẳng định: - Chú Bảy đừng lo. Tôi nhớ mà. Quên làm sao được. Tôi còn trẻ mà chú. Lần xẻ thịt này vắng mặt chú Bảy Cối, chuyên viên sành sõi của xóm tôi nên thằng Tư Ty mới có dịp được chọn thay thế. Dù đã chuẩn bị kỹ nhưng nó loay hoay xoay trở vụng về thế nào khiến ông Bảy Nở bực mình xăng tay áo, chê nó rậm rề: - Tư ơi là Tư! Mầy ra thịt kiểu này, đã mất thịt mà trông chẳng thấy thèm ăn chút nào cả. Thôi đưa con dao cho tao. Cái thằng chẳng phải hạng làm biếng làm nhác chảy thây. Nhưng nảy giờ tao thấy mầy làm bằng tay trái, tao ngứa con mắt quá! Quả thực thiên hạ nói không sai: “tay trái bóp dái không đau” mà. Tao nói mầy đừng buồn nghe Tư. “Không có chó bắt mèo ăn cứt” làm sao vừa ý được?! - Chị Hai đưa rổ chị đây. Hai kí ba chỉ phải không? - Phải đó anh Bảy. Thêm cho tôi cái giò sau, một khúc xương mông với cái đuôi về hầm măng Mạnh Tông. - Cảm phiền nhe chị Hai. Cái đuôi không thể được. Anh Hương thân đã dặn rồi cho đủ bộ để cúng căn thằng cháu nội ảnh. Cái nia của ảnh kia kìa. Chị thấy đó, bầy trẻ làm lông chắc cũng gần xong. Chị lấy đỡ mấy cái khu lẳng được không? Nói khu lẳng nhưng tôi ra nới tay lắm, thịt thà còn hiếm. Chị thử lần này đi. Lần sau chưa chắc có. - Tất cả bao nhiêu tiền vậy anh Bảy? Ông Bảy Nở đưa tay vuốt mồ hôi trán, chép miệng: - Thì chị Hai đem về nhà trước đi. Đăng đăng đê đê quá, tính toán gì kham. Cứ lấy đi, thủng thẳng vài ngày tôi quởn quởn sẽ qua tính sau. Bà con mà, mất mát ở đâu?! Bộ nhiều nhỏi lắm sao chị? Bà Hai Khánh quày quả bưng rổ thịt, miệng rổ như dính khắc bên hông, thong dong đi ra ngõ trong khi ông Bảy Nở lấy ra tấm giấy lịch, có ghi bút chì ngoằn ngoèo: - Tư à! Mầy nhớ nhắc tao kẻo tao lu bu để sót mếch lòng. Coi chừng đừng quên cái nồi gọ, 3 kí 4 kí thêm bớt chút ít cũng được. Phần của bác Sáu Ngởi đặt cọc trước, căn dặn đôi lần ba lượt, tao sợ quên nên ghi làm tin đây. Đám giỗ đó, bây biết không? Quên là đến ngày đó mình tren quẻn. Chắc tao phải bỏ xứ này trốn đi tìm nơi khác làm ăn. Mặt mũi nào dám nhìn ảnh. Một đỗi sau, ông Bảy Nở bấm từng đốt tay, chú ý kiểm tra từng người một trong xóm rồi thở phào ra chiều đắc ý: - Tao duyệt kỹ rồi. Hầu như đầy đủ cả. Thằng Mười Tống cũng có chén huyết với non một kí thịt nọng. Tội nghiệp! Nó nghèo bẩn chật. Dường như bây có cắt thêm cho nó một chéo hông xôi thì phải. Bây làm tao coi được đến. Thây nó! Mình rộng rãi cho nó vui. Mà thật tình nó đâu có đòi hỏi gì mình! Ông tiếp: - Kỳ rồi mình quên phức nó. Nó cũng chẳng nói gì. Nhưng khi gặp lại nó, tao ái nái quá trời. Mình sống với nhau vì tình vì nghĩa chớ có trọng khinh ai đâu. Hôm nay kể như xí xóa với nhau và tao mới nhẹ nhỏm, thơi thới trong lòng, xem như vơi phần nào bầu tâm sự. Cái nồi cháo lòng bắt trên ba thỏi đá xanh giữa sân phơi lúa trước nhà đang sôi bùm bụp bùm bụp... Mỡ heo óng ánh trên mặt làm thành một lớp dầy cui lềnh bềnh. Mấy miếng thịt vụng được Tư Ty thả vào nồi từ lúc bắt đầu ra thịt, lặn hụp trôi lêu bêu. Ba mớ thịt xà bần, loại thịt và mỡ thập cẩm lớn bằng nắm tay trở xuống, loại thịt tạp nhạp không thể chia cho ai, được Năm Lịch xắt nhỏ. Xong anh ướp xả ớt, củ hành hương, tiêu hột, đường muối, thêm ít lá chanh non thái nhuyễn, hòa với ruột non thố linh bầm, dồn thành mấy xâu dồi no phồng cả thước tây cũng được thả gọn vào nồi cháo. Cả ban tổ chức sẽ say sưa la liệt đêm nay. Thím Bảy Nở đẩy củi vào lò xong, gánh hai thúng thịt được buộc thành xâu đem giao tận nhà bà con bận bịu đồng áng hay đơn chiếc không đến được. Lúc đi ngang nhà Tám Thôi, anh đang vỡ vồng khoai mỡ, thím đánh tiếng: - Chú Tám vẫn chưa qua lấy thịt. Sao còn ở đó? Bà con ở bển sắp xong hết rồi. - Cám ơn chị Bảy có lòng tưởng nhớ nhắc nhở thằng em. Mấy hôm nay tôi bận quá trời nhưng chị an tâm. Tôi đã nhờ thằng Tư Ty mang về giùm phần thịt của tôi chiều nay. Mà cũng chẳng có gì nhiều. Lấy tay vuốt mồ hôi trán, anh tiếp: - À lượt về, chị nhớ ghé lấy vài củ khoai mỡ về ăn. Năm nay tôi thả mấy vồng trúng mưa trúng nắng. Củ nào củ nấy to bằng đầu gối người lớn. Đã chắc thịt, dầy cơm mà chẳng có sâu sùng chi cả. Anh còn nói vói theo: - Chị nhớ nhé chị Bảy. * * * Bà tôi cầm cái đèn dầu trứng vịt để ở đầu giường, vén mùng chun vào, cẩn thận ém đi ém lại rất kỹ. Muỗi mòng ở xóm Rạch Rít của tôi cũng như những nơi khẩn hoang lập ấp khác nhun nhúc, vo ve ngày đêm như trẩy hội. Bà nhè nhẹ thò tay ra ngoài, phất tay liên tiếp mấy cái mạnh để tắt đèn. Tim đèn hãy còn đỏ ửng, từ từ uốn thành vòng cung rồi lịm dần trong u tối. Cử chỉ quen thuộc đó, bà tôi đã làm từ hơn nửa thế kỷ nay. Một cử chỉ sản khoái toại nguyện vì bà tỏ ra sung sướng đã kết thúc một ngày làm lụng không ngừng tay, đón đợi giấc ngủ an tịnh trong lành. Bên ngoài vắng vẻ tĩnh mịch như thường lệ. Nhạc bản ngàn đời của côn trùng ếch nhái bắt đầu trổi lên dai dẳng buồn tênh, ru giấc ngủ ông bà tôi thêm nồng nàn say đắm. Vài tiếng chim ăn đêm quá quen tai chập chập vút lên đâu đó bên liếp mía, vồng khoai, ngoài vườn cau vườn dừa, cũng không thể phá giấc ngủ vùi đó, chuẩn bị sức lực cho ngày mai đón đợi. Bỗng cặp chó Mực, chó Mốc của ông bà tôi cất tiếng sủa thúc bách lắm. Chúng nó hùa nhau sủa càng lúc càng thêm hậm hực. Khi nhảy ào tới ngừ ngừ to tiếng như ở tư thế đối đầu tấn công, khi khịt khịt sợ hãi như muốn thối lui cầu cứu bên trong. Ông tôi khẽ thức. Tuổi già đêm đêm khó ngủ. Đêm nào ngủ đuợc khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, ông cho là ngon giấc. Ông biết ngay có động tịnh. Nhanh như chớp, ông choàng phóc dậy xem xét tình hình. Bà tôi cũng vừa giựt mình, vói tay lấy ống quẹt để ở đầu giường. Bà định đốt đèn để dễ quan sát. Ông tôi suỵt nhỏ vừa đủ nghe, ra dấu cản ngăn. Thình lình con chó Mực bị một đòn độc hiểm kêu ăng ẳng thiểu não vang trong đêm vắng. Dù đau đớn, nó vẫn hùa với con Mốc tiếp tục sủa về hướng sát hàng ba nhà. Có tiếng chân người đi thình thịch vội vã bên ngoài. Ông tôi đoan quyết có tai biến. Ông lanh chân đến sát cửa sổ, nhìn xuyên qua mấy lá sách. Trăng non còn lu lúc đầu hôm, nhưng ông tôi cũng dễ dàng nhận định: - Cướp! Cướp! Tôi đếm kỹ chúng nó ít lắm cũng năm sáu đứa với dao mác, gậy gộc. Bà vào buồng tìm nơi ẩn trốn với đám nhỏ. Để mình tôi ngoài nầy ứng phó. Bà tôi chưa kịp quay gót, ông tôi đã phi thân nhanh như gió, giống như những nhân vật huyền sử huyền thoại trong bộ truyện chương hồi Phong Thần của Tàu. Ông âm thầm biến dạng trong u tối đêm đen khiến cho bà tôi thêm âu lo sợ hãi. Ở ngoài hàng ba và chái hiên, cửa cái cửa hông bắt đầu bị bọn cướp chia nhau đập phá ầm ầm, dồn dập khẩn trương lắm. Mấy khuôn ảnh, ông bà tôi chụp chung nhau lúc còn thanh xuân cùng hình ông bà cố tôi treo trên vách trang trí lâu ngày, bị động mạnh sút đinh đứt giây, rớt xuống nền gạch, kiếng bể rổn rảng. Bà tôi càng thêm hồn phi phách tán. Bà bắt đầu chắp tay lâm râm cần nguyện. Tiếng lao xao giục giã thúc hối nhau bên ngoài, nghe tiếng được tiếng không, chen lẫn tiếng sủa của hai con chó Mực và Mốc vẫn tiếp tục làm phận sự. Mấy cái song hồng gài cửa bị nện mạnh liên hồi cọ vào cột nghe lập cập lập cập… như run rẩy trước bạo lực. Cửa trước bị đập, bị dọng nhưng chưa hề hấn. Nhà ông tôi rất chắc chắn. Nơi khỉ ho cò gáy xa xôi cách trở, quyền lực cách ngăn vời vợi nên ông tôi chuẩn bị phòng vệ kỹ càng từ lâu. Ông lo xa đối phó tai biến do bọn lưu manh đàng điếm, lòng tham không đáy, chực chờ chém giết, khủng bố người dân lương thiện, khảo tra cướp của. Song hồng dọc. Song hồng ngang. Tầng trên, tầng dưới dầy cui. Cửa nẻo bằng ván gỗ chắc nịch. Thuở nhỏ, cứ chiều chiều, tôi hay lẻo đẻo theo ông tôi đóng cửa. Hết cái nầy đến cái kia. Mỗi lần gài song hồng xong, ông còn rà tới rà lui xem nó ngám chưa? Nhà ngói ba gian hai chái, cửa trước cửa sau, cửa cái cửa sổ khoản khoát nên đóng cửa xong, đốt nhang cắm lên dãy bàn thờ ba bốn cái, trèo lên trang gióng chuông, thắp hương trong thế giới tĩnh lặng như đong quánh lại, cũng phải mất một thời gian dài. Thường cứ chạng vạng tối, ông tôi đã làm xong an toàn cả. Ông có ý thức cảnh giác và thận trọng lắm. Cướp càng hung hãn. Bên trong bà tôi đâm lo, hiệp cùng người ăn kẻ ở trong nhà bắt đầu la ó kêu cứu inh ỏi, đập thùng thiếc ầm ầm, vang vọng chát chúa trong đêm. Dọng cửa trước không xong, cướp chuyển ra phía sau. Chúng dùng búa bửa cửa, cũng ì đùng, cũng bóp chát rờn rợn. Lại thêm tiếng quát tháo hăm dọa vọng ngược vào nhà. Bên trong vẫn ở tư thế ứng phó, sợ hãi. Chập chập, bà tôi ngồi bệt nơi kẹt vách, lần chuỗi hột, miệng tiếp tục lâm râm khấn vái Phật Trời, các đấng khuất mày khuất mặt hộ trì cho sớm tai qua nạn khỏi. Bà lắng tai nghe phía trước đã im tiếng hẳn và phía sau đang bị tấn công dồn dập nhưng bà tỏ ra an tâm hơn. Dù cửa sau có bị phá vỡ, cướp còn phải vượt qua một giàn cửa ăn thông lên nhà trên nữa. Bên ngoài đã có tiếng mõ hồi một vang vang. Lúc đầu rời rạc ở đầu xóm. Dần dần có tiếng cốc cốc, cốc cốc… sát bên nhà. Chừng một đỗi sau, mõ rợp trời. Đầu trên xóm dưới không ngưng, rền tai. Có tiếng kêu gọi nhau dồn dập xa xa. Loại mõ này làm bằng rễ tre già, được đục đẽo khéo léo láng nhẵn, to bằng bắp chân, cong cong ở hai đầu. Ruột được khoét rỗng. Tiếng thanh tre đánh vào mõ, dội khoảng trống nghe vừa to vừa thanh. Nhưng cái mõ to tiếng nhất là cái mõ ở đình làng. Nó lớn cả hai tay thanh niên lực lưỡng ôm chặp lại, dài hơn thước tây. Thường xuyên nó được đặt trên cái giá cây với cặp dùi bằng cườm tay người lớn. Bà tôi tỏ ra an tâm hơn với tiếng mõ hồi một đó. Bọn cướp dường như nao núng nên việc đập cửa, dọng vách có mòi lơi hơn trước nhiều. Chúng nó cãi cọ nhau, chỉ trích chê trách nhau, chưởi thề với những ngôn từ tục tằn, bẩn thỉu xa lạ vang rân ngoài sân, mà bà con tôi vốn mộc mạc chất phác, chí thú làm ăn với mồ hôi nước mắt ít khi nghe lọt tai. Một tiếng súng nổ đoành, xé tan màn đêm làm cho lũ chim chóc giật mình thức giấc, kêu lên vài tiếng ngơ ngác hoảng hốt. Bị động quá sớm do sự đoàn kết nhất trí của bà con trong xóm quyết tâm chống bọn bất lương cướp của giết người và chán nãn trước viễn ảnh thất bại chua cay không tránh khỏi, bọn cướp giục nhau thu dọn đồ nghề, chém vè chuồn nhanh. Bà tôi nghe rõ ràng giọng thúc hối của chúng và tiếng chân người hấp tấp ngoài vách nhỏ dần, nhỏ dần… Trong khi hai con Mực và Mốc bị chúng đập mấy hèo chí tử, thấm đòn chui trốn nơi nào không biết, im hơi lặng tiếng. Số là ông tôi rất nhanh trí. Thêm bản tính tự vệ bao phen trước đây đã giúp ông tôi vượt hiểm thêm lần này nữa. Khi nhận định có cướp, ông trổ lên nóc, tuột gọn theo máng xối hiên nhà sau, thòng chân nhảy nhẹ nhàng gọn gàng trên nắp hàng lu vú, vừa cao vừa chắc chắn. Ông thoát thân ra ngoài báo động bà con chòm xóm nên mới có phản ứng đồng loạt mõ hồi một làm cho bọn cướp núng thế. Đến khi Hương quản Quan bắn một phát súng hai nòng kể như dứt điểm. Cướp đành bườm ấm ức. Ông tôi, con người từng trải, lưu lạc nhiều nơi, lăn lóc chốn phiêu lưu giang hồ trước khi trụ hình trụ bộ đến xóm Rạch Rít khẩn đất hoang. Ông thành công lên vồng lên liếp thành khoảnh với đìa rộng mương sâu, nuôi cá nuôi tôm ngoài việc đồng áng lúa nếp. Ông biết và thuộc nằm lòng địa thế cuộc đất nên khi báo động bà con xong, ông trú mình ẩn núp ở mấy đống rơm cao nghều nghệu cạnh con đường mòn ăn thông xuống lạch ô rô. Ông đoán chắc thế nào bọn cướp cũng bườm qua con đường độc đạo này. Ông đoán trúng phong phóc. Chúng nó sáu đứa khuân vác hèo gậy và quơ quào vật dụng làm mùa của ông tôi chứa nơi lẫm trại bên ngoài. Ông ẩn nhẫn đếm từng tên một khi tạt qua trước mặt ông. Chờ đến tên đi chót, ông phóng ra khất nhượng bằng rựa đốn củi thủ trong tay lúc thoát thân. Thằng cướp đau đớn ngã quỵ, kêu la cầu cứu. Đồng bọn khựng lại, lôi nó khiêng đi trong lúc nó vẫn kêu la đau đớn. Nó bị đồng bọn lấy khăn bịt mồm bịt miệng, sợ bà con nương dấu rượt theo. Xóm Rạch Rít của tôi phát đạt, trù phú. Ruộng lúa bát ngát, óng ánh vàng hực mùa gặt. Cây trái oằn cành. Kinh đào tăm tắp ngút mắt. Nhà ngói kinh dinh đỏ au. Đêm đêm, đèn «măng-soong» rực trời ngày lễ lộc. Ghe máy xình xịch, sông rạch dậy sóng, tung bọt trắng xóa làm cho mấy chiếc xuồng ba lá và ghe tam bản nhảy sóng liên hồi, chồm lên sụp xuống dịu dàng. Hội hè đình đám tấp nập người xem. Hát cải lương, hát bội dù là những đoàn hát bầu tèo nghèo xơ xác chỉ lưu diễn ở làng ở tổng, thỉnh thoảng tạt ngang trụ lại trình diễn năm bảy đêm liền. Nhưng cảnh giàu sang, thoải mái thạnh mậu đó quến bọn trộm cướp kiêu căng bất lương. Nhiều băng đảng nổi tiếng lưu manh đàng điếm, giết người không gớm tay, từ những vùng xa xôi tận đâu đâu, vượt vạn dậm đường dài thường kéo tới ăn hàng. Chúng manh tâm khảo tra đánh đập, đả thương ngay cả chém giết người dân lương thiện để vơ vét của. Chúng là một lũ ăn không ngồi rồi, bản tánh gian trá, chuyên dòm ngó theo dõi những người giàu có để thỏa mãn lòng tham không đáy cố hữu của chúng. Bà con tôi đã từng chung lưng đâu cật biến rừng thiêng nước độc, đất đai hoang vu, không ai quan tâm để ý tới trước đây, thành nơi phì nhiêu màu mỡ, huê lợi đảm bảo trong cảnh an sinh hạnh phúc tập đoàn. Bao nhiêu thế hệ đi qua, vất vả khổ cực trăm bề mới có ngày sung túc hôm nay. Bây giờ bà con tôi còn phải đối đầu với bọn bất lương đầy tham vọng. Sự chung lưng đâu cật, nương tựa nhau trong tang khó, hoạn nạn được củng cố thêm mãi. Họ đoàn kết vì sự sinh tồn, bảo vệ cơ ngơi sự sản dày công tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt của chính mình. Ngoài gậy gộc, song hồng, chỉa đôi, chỉa ba, mõ tre, thùng thiếc, trong xóm còn có cây súng hai nòng của ông Hương quản Quan. Sự bảo vệ xóm làng nhờ đó có phần hữu hiệu hơn xưa. Bà con rất mực an tâm vững bụng. Nhiều lần, xóm Rạch Rít của tôi bị cướp nhưng chúng đều gánh lấy thất bại chua cay. Nhưng mỗi lần chúng đáo lại, chúng tỏ ra hung hãn hơn, võ trang đầy đủ hơn với mưu thần chước quỷ hiểm độc. Tuy thất bại nhiều lần, chúng chẳng bao giờ buông tha cái xóm mới đang trên đà phát triển thịnh vượng này. Và bà con tôi vốn nhẫn nhục, chịu đựng, trông cậy ở tình đoàn kết keo sơn gắn bó, ở sự hy sinh bất kể đến sinh mạng mình để bảo vệ xóm làng. Cái triết lý tự vệ để sinh tồn, duy trì sự sống đáng sống ấy là niềm hãnh diện lớn lao của bà con tôi. Niềm hãnh diện ấy cùng với khí thế tự hào chung được thể hiện tròn đầy qua tiếng cười vui bất chợt trong những câu chuyện dong dài nhắc nhớ nhau sau mỗi đêm thức trắng. Họ ríu rít không ngưng ở những buổi sáng uể oải chống cướp quấy nhiễu dân tình. * * * Những ngày cuối năm, ở xóm Rạch Rít quê mùa của tôi cũng rộn rịp đáo để. Tết sắp đến trong vài ngày. Mấy ai không nôn? Ghe lúa của khách trú vừa ăn hàng xong ở nhà ông tôi, vội vàng chèo chống neo ở bến sông nhà ông Xã Kề cho kịp con nước. Người người bận rộn, nói cười vui nhộn. Lực lưỡng, vai u thịt bắp, họ vác lúa, mỗi lần hai bao chỉ xanh chồng lên nhau, chạy nhanh như gió, không biết mệt. Cái cầu ván bắt xuôi từ mé sông lên thành ghe chài nhún lên nhún xuống nhịp nhàng như muốn gãy làm đôi. Bà Hai Khánh bán một lượt tám, chín con heo ú na ú nú, mập lút chỉ, ăn rồi nằm ụ một chỗ, không còn sức di chuyển dù trong chuồng chật hẹp. Cái vòng bắt chân heo được giựt mạnh. Hai ba nhân công xáp lại, lần lượt đè từng con xuống. Họ trói giò chụm vào nhau, cạy miệng kéo lưỡi ra khám xem heo có gạo hay không, khiến heo la té đái té cứt, ầm cả xóm. Mái nhà của thím Chín Tý ngun ngút khói từ tang tảng sáng đến tối thui tối thủi vẫn chưa dứt. Thím đổ bún gấp ba bốn lần ngày thường. Thím bảo mệt đừ, làm không nỗi nữa trong khi bà con đặt mua tới tấp. Đành phải ráng vậy. Vui vẻ phục vụ bà con, một năm chỉ có một lần. Đỡ một phần là thím khỏi phải bơi ghe đi đổi hay giao bún. Nhưng nôn ruột hơn cả là việc ông Bảy Nở kéo về hai con bò tơ, vàng hực, non chèo. Đại kỵ loại bò vá mà bà con tôi có thói quen, không biết căn cứ vào đâu, bảo ăn thịt bò vá nổi phong, ngứa ngáy khó chịu. Trông chúng nó hồn nhiên vô tư lự ngoạm cỏ ở ngôi vườn sau nhà ông, thật là dễ thương làm sao! Chúng nó không ngờ cuộc đời của chúng vắn số quá, chỉ thọ vài giờ nữa, đến sáng hôm sau thôi. Trời còn tờ mờ. Mặt trời ưng ửng ở chòm tre. Ông Bảy Nở dắt một con, cột ở gốc trâm bầu, nhanh tay buộc choàng một tấm vải đen che hai mắt nó. Linh tính báo cho biết nó sắp về bên kia thế giới nên bỗng dưng hai hàng nước mắt nó chảy dài thảm thương. Con bò còn lại chờ đến lượt mình, dâm ra bơ phờ, lẻ bạn buồn hiu, không màng ăn cỏ nữa. Một phát búa tài xồi được Út Quyên phóng mạnh vào tam tinh. Con bò thét lên một tiếng trầm thống rồi ngã quỵ xuống đất ngay. Nó tiếp tục giãy dụa lạch đạch. Bốn chưn nó vẫy vùng rung rẩy yếu dần. Vì nó không còn sinh lực như những cánh tay con người sắp chết đuối, vận dụng sức tàn còn lại cố giơ cao lên không trung diệu vợi bao la, cầu cứu Thượng Đế một cách tuyệt vọng. Nó thở hào hển trước khi nhắm mắt xuôi chưn trong khi tôi ngoảnh mặt nơi khác, không còn dám tò mò chứng kiến những gì xảy ra sau đó. Cảnh chia thịt bò Tết năm ấy đã để trong tôi một hình ảnh khó phai. Chiều ba mươi Tết rước ông bà. Mâm cỗ, thịt cá ê hề. Xóm Rạch Rít tôi tưng bừng nhậu nhẹt. Pháo nổ đì đùng. Đầu trên chưa dứt tràng pháo điển dài từ ngọn cây mãn cầu xiêm sát thềm nhà, lốp bốp, lốp bốp… inh tai chen lẫn tiếng pháo tre nấc cục nặng nề bưng óc. Đầu dưới xóm không chịu thua, cho nổ ống tre với hơi khí đá nghe nhức óc điên đầu. Tiếp theo là trận la ó, cười vui, vỗ tay rầm rập như thể thách thức nhau. Đèn đuốc sáng rực. Trong nhà lư đồng và hai chân đèn óng ánh. Hoa quả thơm ngào ngạt, sắc màu đẹp mắt. Ông tôi chuẩn bị sẵn sàng, chờ đúng mười hai giờ khuya rước Xuân. Bánh in Bổn Lập hảo hạng bày biện trên bàn với mấy dĩa thèo lèo, cứt chuột mà mấy tay buôn bán chuyên nghiệp con cháu Thiên Triều ở Chợ Lớn sản xuất lục cục lòn hòn pha trộn lẫn lộn. Có cái hình thù bầu dục, cái vuông vức, cái thon thon hình chữ nhựt, bọc đường quện mè chung quanh, màu sắc vàng có, đen có, xám có. Nhang đèn bày biện xong. Ông tôi tới lui kiểm tra đầy đủ, tỏ vẻ bằng lòng. Bộ tách với bình trà xưa đã được lau chùi kỹ lưỡng để trên khai chờ pha trà Thiết Quan Âm mà ông tôi còn ướp thêm bông lài cho trà thêm thơm tho mùi vị vườn tược quê nhà. Mọi việc được chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ đúng giờ ông tôi rước Xuân. Giờ phút thiêng liêng truyền thống duy nhứt đầu năm từ bao nhiêu đời nay. Một dịp huyền bí để mọi người lớn nhỏ trong gia tộc hội nhập Đất Trời, hồi hướng Tổ Tiên dòng tộc. Ông cũng cầu nguyện năm mới mưa thuận gió hòa, xóm làng được mùa, bà con an cư lạc nghiệp. Bỗng có nhiều loạt súng nổ chát chúa, rải rác khắp nơi. Ông tôi đâm nghi, nhíu mày lắng tai nghe tiếng nổ là lạ như để phân biệt tiếng pháo, tiếng nổ của hơi khí đá. Linh tính báo cho ông tôi biết lại có tai biến. Ông ngạc nhiên tự hỏi thầm, chẳng lẽ bọn cướp lại ăn hàng nhân ngày Tết thiêng liêng sao? Ông hỏi thầm nhưng sự thực phũ phàng là thế! Bọn cướp đồng tình kết hợp với vài ba băng đảng khét tiếng hung bạo từ phương xa kéo đến đánh phá, ăn hàng xóm tôi trong lúc mọi người trong xóm đang chung vui nên quá bất cập, thiếu đề phòng, không kịp trở tay. Nhà bà Hai Khánh mới bán hôm trong năm mấy bồ lúa nàng quớt trúng mùa, bị chúng xông vào ăn hàng trước tiên. Mấy phát súng chát chúa chúng dằn mặt thị oai trước hành lang nhà bà đã có hiệu quả. Chúng ập vào, hùm hổ như cọp đói vồ mồi, bừa bãi lùa mấy bó rơm khô lớn đại giữa nhà trên rồi phóng lửa đốt phừng phừng, khói lên nghi ngút. Bà Hai Khánh run rẩy, lập cập, ú a ú ớ không nên tiếng nên lời. Chúng bắt trói cả gia đình, hành hung khảo của. Cận bên, nhà ông Xã Kề cũng cùng chung một cảnh tượng hồn phi phách tán đó. Ông Xã Kề bị chúng trói thúc ké, xô té nằm ngửa bất động trên nền gạch tàu. Chúng đổ dầu lên rún, hươi hươi ngọn đèn chong, bảo phải chỉ chỗ dấu vàng vòng, nữ trang, của tiền. Chúng hăm dọa đốt rún cháy lở tầy hoầy nếu không nộp của. Xa xa văng vẳng tiếng kêu la đau đớn vì bị cướp đánh đập dã man. Mấy con chó trong xóm im hơi thin thít. Chúng đã hoảng sợ chui rúc tìm chỗ trốn từ khi có mấy tràng pháo đầu tiên rước ông bà. Lần này bọn cướp đông lắm. Chúng võ trang tận răng với dao găm mã tấu và súng ống lớn nhỏ. Chúng huy động bọn giết người không gớm tay, đám đàng điếm khắp nơi, có tổ chức hẳn hoi, phối hợp phân công đàng hoàng dưới sự chỉ đạo của tên đầu đảng tuy trọng tuổi với râu dài bạc trắng nhưng uy quyền. Chúng đánh cùng một lúc nhiều nơi, nhiều nhà. Dương đông kích tây. Những nhà kiên cố, chúng uy hiếp cầm chân. Thỉnh thoảng chúng bắn cầm chừng vài loạt trấn áp tinh thần, ngăn ngừa tiếp ứng. Kỳ ăn hàng này, chúng áp dụng hỏa công, tiêu thổ áp đảo bà con tôi, khảo người giựt của. Tiếng kêu la thảm thiết vang vọng cả một góc trời. Lửa phựt cháy phừng phừng nhà bà Hai Khánh vô phương cứu chữa. Nhà nào nhà nấy hầu như bị kềm chân, thúc thủ tự đối phó với bọn cướp dùng chiến thuật phân tán mỏng. Khổ nỗi, lần đánh cướp này, bọn cướp lạ mặt lại được mấy thằng mất dạy khù khờ trong xóm, nghe lời khuyến dụ đường mật của chúng để tiếp tay chỉ lối dẫn đường. Bọn mặt trơ mày trẻn này bôi mặt với lọ chảo đen xì, giọng nói ú ớ để đánh lạch hướng bà con. Nhưng chúng tỏ ra tận tình tận lực lắm để lập công. Do đó, bà con tôi phải một phen trầy vi tróc vãy đối đầu, ứng phó trối chết. Bọn này là những con dòi trong xương, ngày ngày ăn cơm bà con tôi mòn răng nhưng lại đan tâm muối mặt thờ ma bọn cướp bất kể hậu quả về sau. Nhưng chúng có biết đâu một khi đã vơ vét đầy hồ bao, bọn cướp nào có đối hoài công lao của chúng bao giờ đâu. Một khi thức tỉnh vỡ mộng thì mọi việc đã rồi, chỉ còn chuốt lấy chữ nhơ nhuốt đến chết và tiếng nguyền rủa muôn đời cả họ hàng nữa. Chẳng mấy chốc, lửa cháy lan rộng thiêu rụi mấy nhà lân cận, tạo thành một cảnh tượng não nề, tang khó chưa từng thấy trong chuỗi ngày dài khẩn hoang lập ấp ở đây. Lúc trăng vừa lặn, chúng vơ vét xong tiền của, vật dụng quý giá, chất đầy mấy ghe lườn khẳm sát be rồi bắn nhiều loạt súng thị oai dằn mặt trước khi bườm theo hướng kinh rạch um tùm chằng chịt. Bà con tuông ra chữa cháy tận lực. Nhưng đã muộn, chỉ cứu được một phần xóm, những nhà rải rác xa xa tàn lửa phun phún bay theo gió chỉ bám phớt sương. Sáng hôm sau, một cảnh đổ vỡ điêu tàn trong xóm. Mọi gương mặt đều mệt mỏi, thiểu não, buồn xo qua một đêm kinh hãi, lưng tim vỡ mật. Nhà ông bà Bảy Nở chỉ còn trơ vơ mấy cây cột gỗ nám đen, chĩa thẳng lên không trung. Cây cầu vó nên thơ nơi thím Chín Tý cột ghịt xuồng đổi bún ngày nào cũng bị thần lửa viếng, nằm chúi nhủi dưới bến sông. Cây ổi xá lị thường được ông Bảy treo lủng lẳng con heo cạo lông sạch sẽ trắng bông mỗi lần chia thịt, lá nám vàng, đứng cú rũ buồn tênh. Cây trâm bầu nơi buộc con bò tơ cách đây mấy ngày để xẻ thịt ăn Tết, cháy đen, gãy ngang, chỉ cần một luồng gió nhẹ cũng đủ ngã lăn trên mặt đất ngổn ngang. Nhà thím Chín Tý còn non non nửa mái, nhờ đám cháu chồng phụ giúp đổ bún xả thân cứu chữa trong lửa đạn hiểm nguy. Riêng chiếc xuồng ba lá dùng làm phương tiện di chuyển đổi bún, thím vừa kéo lên bờ trét chai hôm cuối năm, nhạy lửa bắt cháy chỉ còn lại một đống than vụn. Tội nghiệp Mười Tống. Vốn nghèo lại mắc cái eo. Cướp chê nghèo rớt mồng tơi đâu thèm đến viếng. Khốn nỗi, nhà Mười Tống là nhà tranh, vách lá phênh tre, bắt lửa dễ dàng. Mười Tống tiêu tan sự nghiệp chắt chiu ký cóp từ hai ba đời chưa kịp ngóc đầu. Nay anh đành tuột xuống hố, nghèo khổ thêm, trắng tay chỉ trong một phút chốc phù du. Nhà ông bà tôi bị cháy lốm đốm. Rất may. Lu hũ chứa nước mưa để uống quanh năm liền được dùng để chữa cháy, cái ngã lăn, cái hư bể la liệt ngoài sân. Ông tôi đánh một vòng thăm hỏi bà con, an ủi ủy lạo trong khi mọi người thu dọn những gì có thể dùng được trên bãi đổ vỡ còn nóng hổi. Vài nơi im ỉm hừng hực. Có chỗ khói uể oải vẫn tỏa lên từng không để sau đó tan loãng trong không khí chán chường, uất hận. Đi đến đâu, ông tôi cũng vỗ về, nâng đỡ tinh thần bà con: - Bọn cướp lần này quá quắt thật. Không còn xem luật pháp là gì. Bây giờ xóm mình mất mát hết. Bà con coi như trắng tay. Có xây dựng lại được như xưa cũng phải năm ba thập niên hơn. Tai ách cơ Trời! Dù sao mình vẫn còn có nhau. Mình sẽ gầy dựng lại. May là bà con mình ai ai cũng còn quyết tâm. Còn người là còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn sức lực, còn tiềm năng là còn tin tưởng ở tương lai mai hậu. Bà con lặng tinh, tiếp tục dọn dẹp trong âm thầm ấm ức như hàm ý tán thành ý kiến của ông tôi. Và cái Tết năm đó không được tổ chức riêng rẽ ở mỗi gia đình theo truyền thống dân tộc mà được tổ chức tập thể tại đình làng. Tuy không linh đình rình rang nhưng vẫn ấm áp trong cảm thông, chịu đựng và hy vọng. * * * Mấy mươi năm lăn xả vào đời, vui ít buồn nhiều trên đất nước quê hương triền miên khói lửa theo với dòng lịch sử đa đoan với bao kiếp nạn oái oăm bi đát, cảnh thổ xa xưa nơi cắt rốn chôn nhau, nơi xóm Rạch Rít buồn teo hẻo lánh của tôi không lúc nào phai mờ trong ký ức và tâm thức tôi. Nào ngờ, nghịch cảnh của dòng sử mệnh đó đã đưa đẩy tôi bồng bềnh trong kiếp đời lưu đày sống tạm. Hơn hai mươi mấy năm lần lửa trôi qua như chớp mắt. Đông đi Xuân lại, Hè đến Thu tàn, phũ phàng như giấc mộng vội bay. Nỗi buồn lưu đày ray rứt, nỗi tủi nhục về thân phận lạc lõng bơ vơ nơi xứ lạ quê người, nỗi chán chường đeo đẳng hiện tại với niềm uất hận tràn dâng ngút ngàn... tất cả nỗi niềm thầm kín đó gặm nhấm tim tôi khiến tôi càng thêm vọng nhớ quê hương xa xôi ngăn cách. Tôi nhớ, tôi yêu dậm đà tha thiết cái xóm hẻo lánh, nghèo nàn, nơi tôi sinh trưởng, cất tiếng đầu đời. Cái quê mẹ, quê cha, quê ông bà thân thương đó với những kỷ niệm chia thịt thà ngày tư ngày Tết thuở quê hương tôi thanh bình sung túc, những cảnh trao đổi thổ sản, thóc lúa, biếu xén không vụ lợi, không mảy may hậu ý... đương nhiên đã trở thành một cái gì thiêng liêng, quý giá nhất trong cuộc sống của tôi. Quê nhà đó cứ vấn vương réo gọi, thôi thúc không thôi, nhắc nhớ gọi hồn, giục giã hướng đến mùa Xuân ước mơ, thanh bình thực sự, hạnh phúc ấm no tràn đầy, vĩnh cửu. Bỗng nhiên nước mắt tôi nghèn nghẹn tuôn trào. Tôi nhớ đến những lần liên miên bị cướp, đến đám cháy lớn vào dịp Tết thuở xa xưa với những ngọn lửa màu đỏ máu, một màu đỏ nguyền rủa ghê tởm đã để lại bao nhiêu hoang tàn đổ vỡ. Tôi liên tưởng giờ đây đến hố thẳm sâu hun húc của nghèo đói, sa đọa và phá sản nơi quê nhà do bọn lưu manh, cướp của, cuồng tính bất lương, mù quáng gây ra. Bao nhiêu cảnh tượng và ý nghĩ xô bồ lần lượt diễn ra trong tâm trí tôi. Bất giác trong sự hổn độn đó, lời nói an ủi, vỗ về của ông tôi thuở nào văng vẳng bên tai tôi, xoáy quyện vào lòng: - Thôi không sao! Tai ách cơ Trời rồi cũng sẽ qua. Còn người là còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn quyết tâm là còn cơ gầy dựng lại và còn tin tưởng ở tương lai con cháu sau này. «Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời». «Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai». Nắng đã lên. Trời Xuân sáng trong, cao vời vợi. Niềm tin nơi tôi hừng hực, rạng ngời như ánh bình minh. Võ Phước Hiếu

NGÔ NGUYÊN NGHIỄM * LÂM HÁO DŨNG

Lâm Hảo Dũng, Ngày Đi Thương Sợi Khói Bên Nhà

Posted: 29/08/2012 in Ngô Nguyên Nghiễm, Tùy Bút / Tản mạn
Thẻ:
Ngô Nguyên Nghiễm
Chân dung Lâm Hảo Dũng (Nhiếp ảnh Thái Văn Sơn)
Chư Pao ai oán hờn trong gió / Mỗi chiếc khăn tang một tấc đường. Không hiểu sao, mỗi lần liên tưởng về Lâm Hảo Dũng, nỗi buồn rười rượi phủ trùm lên trái tim tôi, là mỗi lần hiện về hai câu thơ oan nghiệt đó. Không phải ở đây chỉ là một sự rung động chân phương, nghiệt ngã thẩm thấu trong một không gian vàng bay ngơ ngác, phủ trùm tang tóc suốt ấn tượng chiêu hồn, đang mọc nấm hoang dại trên con đường sử của quê hương . Mà còn đậm nét nhân bản, tàn bạo phủ chụp xuống kiếp người, kéo dài dằng dặc định kiếp của hơn mấy ngàn năm qua. Bản chất tôi, thường vô tình quá đổi với cuộc sống đời thường, suốt đời lặng lẽ đi vào ngõ vắng văn nghệ. Tôi chưa hề thuộc bất cứ một bài thơ nào, dù thơ tôi hay của thế nhân. Có lẽ ngoài điểm yếu đó, phải chăng cũng có cái hay không trùng lấp ngoại lai khi sáng tác? Nhưng với thơ Lâm Hảo Dũng, không hiểu sao vẫn thường nhỏ giọt quanh trí não tôi, từng câu thơ loáng thoáng bay nhảy khảm chặt vào từng tế bào. Nhiều lúc, bật tung lên như có một sự đồng cảm phù thủy, khiến tôi khổ sở có lúc gắng sức đè nén những câu thơ anh không trôi nổi quanh nỗi nhớ. Tôi vẫn thường xuyên du hành trong cái tâm không, quầy quả chấp tay sau lưng, tĩnh du cho đầy ngõ trống. Thơ Lâm Hảo Dũng như một bức tường pha lê dựng lên trước mặt, mặc khí hậu ra sao, vẫn hóa thân vào nhãn giới tôi và lặng lẽ bước đến…

Từ sơ giao đến ngày nầy, có lẽ cũng hơn 45 năm, bắt đầu từ thời gian 1966 dưới tàng cây phượng vĩ xum xuê lung linh sắc hè của trường Nông Lâm Súc Cần Thơ. Đó là ngày đầu tiên tôi diện kiến nhà thơ. Lâm Hào Dũng đã chính thức từ bỏ bút hiệu Mây Viễn Xứ trở lại nguyên hình bản lai. Tên thì có thể thay đổi, nhưng thơ Lâm Hảo Dũng vẫn trung trinh một hướng thơ chuyên biệt. Những năm Mây Viễn Xứ và tôi thường đăng chung ở nhiều tờ báo đương thời, mà bút hiệu Mây Viễn Xứ lãng bạt không định hướng của chòm mây lang thang, dù sao khắc ghi nhiều đồng cảm tin yêu của những kẻ làm thơ cô quạnh chung quanh.
Hướng đi cho thơ, một phần được thể hiện trong bút hiệu ban đầu, sự diệu vợi lãng du như cánh mây trời lang thang trôi dạt nửa trong hồn người làm thơ, nửa ký gởi quanh cuộc đời đầy sương gió. Có thể nói, sự tin yêu Mây Viễn Xứ, ngoài tài hoa từ những vầng thơ man mác, riêng lẻ của riêng nhà thơ, thì bút hiệu cũng gây nhiều thiện cảm cho những người đa cảm đồng điệu đương thời. Với một nhân dáng thư sinh thanh tú, Lâm Hảo Dũng bước vào đời bằng hồn thơ lưu xứ, lang bạt phiêu bồng như đám phù vân. Thanh thoát và mang nặng một hoài niệm vời vợi giữa bản thể và cuộc sống trôi dạt đời thường. Có lẽ chính vậy, sự đột khởi của tâm và ý giữa sự phù ảo hư không phiêu bạt, nên bút hiệu Mây Viễn Xứ là bước đầu định vị tâm thức của người làm thơ.
Thơ Lâm Hảo Dũng phiêu bạt nhiều trong thi ca, trên các vườn thơ các nhật báo, tạp chí đương thời thập niên 60-70 thế kỷ trước. Định vị thật sang trọng và bát ngát, nhất là khuôn mẫu của dòng thơ lục bát. Nên cái hay của Lâm Hảo Dũng là áp dụng tinh hoa văn hóa sáu tám đặc thù quê hương, sự trầm bổng điêu linh hóa hiện lung linh trong một hồn thơ dân tộc, đưa khí lực thơ đạt đến cảnh giới tinh túy phiêu bồng với quan điểm thi ca riêng cõi. Sự rung động trong dòng thơ trong thời khắc ban đầu đã bước được vào định nghiệp riêng, chẳng phải là một lối đi xuyên sơn, tâm huyết và độc đạo? Lâm Hào Dũng phiêu bạt trên hồn thơ mình, luân chuyển kỳ khu ngày càng tinh tế và siêu tuyệt. Chính vậy, trong giai đoạn chín mùi hỏa hầu được trui luyện thật can trường, bi thống nhất của những năm đầu thập niên 70. Sự trôi dạt tận cùng đất nước trong giai đoạn khốc liệt cuộc chiến trên quê hương. Nỗi nhà canh cánh mẹ già và đàn em dại, sự ngăn cách giữa tư thân trong bối cảnh tiêu điều trên bước đường nhà thơ đi qua, khiến dòng thơ Lâm Hảo Dũng chìm ngấm trong sự rung động tận cùng của trái tim. Ngôn ngữ chỉ là cầu nối của tâm thức và nhân gian, nên dù sao cũng có một sự hạn hẹp, nhưng dòng thơ bi thống của Lâm Hảo Dũng lại như tiếng chim chiều vội vã thu không tìm đường xuôi ngược về tổ ấm, rơi rớt trên những chiếc ráng chiều, những tâm khúc u hoài, mà nhà thơ cõng trên lưng đi khắp đoạn đường thống thiết băng ngang ….
Năm 1972, khi tuần báo Khởi Hành mở chuyên mục trao đổi với độc giả, chọn 100 nhà thơ đương thời được công chúng tin yêu, thì Lâm Hảo Dũng cũng thường xuyên được chọn trong nhiều bản nhận định đăng tải hàng tuần. Chỉ có điều sự nhận xét thơ Lâm Hảo Dũng trong dòng thơ hiện hữu, tương đồng với thơ Quang Dũng. Đó là điều góp củi thành bó, vô cùng dễ dãi trong thưởng ngoạn. Đi vào một chiều hướng văn hóa và định vị một khuynh hướng, ngoài sự thông thấu công tâm của người nhận định, còn phải thận trọng và thông thái trên quan điểm phán xét. Thơ Quang Dũng mang hình thức trưởnggiả trong sự khuynh khoái, kiêu hùng, câu thơ sang trọng cách tân trong giai đoạn tiền chiến, dung hòa giữa trào lưu mới và cũ. Nên sự làm mới ngôn ngữ và tư tưởng, là điều cần thiết của trí tuệ, chính vậy thơ Quang Dũng đậm nét trao chuốt bi hùng và trưởng giả. Thơ Lâm Hảo Dũng hoàn toàn không giống như vậy, không có một sự dung nạp đỗ đồng, vì dòng thơ Lâm Hảo Dũng chuyển biến từ thái cực của một sự trôi dạt  đa cảm, phiêu bạt của vầng mây lưu phương trong tâm thức, thai nghén từ bọc điều được xé toang ngay từ buổi thiên khai bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thi ca, không có một xấp đặt hậu thiên. Dĩ nhiên, bước đầu của một tài hoa chân đất khác biệt cực kỳ với những tâm hồn làm thơ trong tâm sinh lý trưởng giả, hoạch định hướng tới cho dòng thơ. Thơ Lâm Hảo Dũng quả thật định hình không từ rung động của trí tuệ mà từ rung động của trái tim, quầy quả lưu lạc từ hồn mây phiêu bạt đến sự trưởng thành vững chải của một thi nhân. Một quá trình hóa đá thành vàng, luyện kim trong một hỏa hầu tiệm tiến và đạt ngộ sau nhiều cuộc hóa thân. Thơ Lâm Hảo Dũng sở dĩ lưu lại lòng người một cách chân tình, bởi sự chân thật và ngôn ngữ thơ anh, không còn những sáo ngữ sang trọng, mà là những dòng nước mắt, là máu trái tim, mộc mạc giản dị đầy nhân bản. Tiếng thống thiết gọi đò của Trần Tế Xương, giữa thương hải biến vi tang điền, cũng ngơ ngác bi thống như vậy.
Sự bộc phát thơ Lâm Hảo Dũng từ thập niên 70, trước biến động của đất nước, đất nước của một dân tộc đã chịu nhiểu nỗi thống khổ ba lần hơn ngàn năm Bắc thuộc, hơn trăm năm thuộc địa thực dân Tây, mỗi người dân đều triều dâng tâm thức quyết liệt với ngoại xăm trên mọi hình thức. Văn nghệ sĩ có một hồn người nhạy cảm, sống nhiều nội tâm, nên thấu rõ bằng trái tim tâm huyết… Từ bởi chiến tranh hoài sao biết được / nên đời traigởi gió sương nuôi hoặc em khóc dòng sông ta khóc ta/ ngay đi thương sợi khói bên nhà/ ngày đi như thể không về nữa/ nghe gió rừng xa vọng tiếng ca…Thơ Lâm Hảo Dũng đầy bi thống, như ký gởi tất cả những hoài niệm của ngày tháng vô định, khi đi cố nhớ hàng cau nhỏ/ một liếp dừa xanh ngọn táo vàng / ta cũng hát bài chinh chiến tận…Hình như trong sương gió, ta thấy trùng trùng hình bóng chinh nhân khoát vội phong sương trên nếp áo, mang theo hồn đất, gió trăng, vườn xanh ổi chín, làn khói sau hè, tiếng ru buồn của mẹ với hình bóng còm cõi của mẹ già như khói bên thềm cũ …đã được nhà thơ nhốt vội vào hồn, cùng với gió trăng làm tàn cuộc tiễn đưa:
Mẹ có mắt sầu riêng cao chất ngất
Nên hồn con lạnh lẽo đến bao giờ
Nhà chắc dột bởi từ khi vắng mặt
Những thằng con đủ cánh để bay xa
Và dòng sông thương những hàng rơm mục
Những hàng cau buồn chết được lòng con
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Như lũ sáo vu vơ ngoài dậu cũ
Mắt đăm chiêu ngày nắng mới chang chang
Mẹ vẫn cứ mồ hôi trên áo vá
Đắp vồng khoai liếp cải nghĩ mênh mang
Bom đạn chắc không còn ru mẹ ngủ
Và đàn em dăm đứa nhởn nhơ cười
Mắt có xa cho một lần thương nhớ
Hình bóng con vời vợi cuối chân trời
(Còn không ngày về)
Nhiều khi, sự vận dụng chân phương những rung động của con tim hóa thân vào hình từ bóng chữ, chính sự chân thật như vậy bật tận đáy lòng, nên chất chứa đầy tâm huyết sâu lắng. Trong vầng thơ Lâm Hào Dũng, người đọc bỗng chợt được đánh động rung chuyển cả tâm cang. Từ ngàn xưa, những giọt nước mắt đầy cảm thông thường được trích lệ giữa quan hoài bi thiết của cuộc sống. Thơ Lâm Hảo Dũng tuyệt diệu như bắt chộp được hỏa hầu của chân tâm, khiến thơ thấm nhập được cảnh giới đầy phong vị của cái chân, trên đoạn đường tử sinh dàn trải lối đi. Phải chăng đó cũng là chuyện thường tình, bởi hạnh phúc và khổ đau vẫn là cặp bài trùng thường xuyên va chạm vào nhau, để ngọn lửa nội sinh bừng cháy:
Mai đi nghe khóc trong hồn đất
Bởi vì:
Đời ta chinh chiến lãng du rồi
Ngoãnh lại:
Thuở mẹ già biết cau còn kết trái
Biết con còn thấy mẹ lúc hoàng hôn
Đạo nghĩa Đông phương gói trọn trong tiếng kêu bi thiết , chất ngất nhân bản khảm vào tâm huyết sâu lắng giữa cuộc đời nầy .
Ngô Nguyên Nghiễm
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
Tháng 7 / 2009
Nhuận sắc tháng 5/2012
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh

VÕ ĐỨC HIẾU * TRẦU TÊM CÁNH PHƯỢNG

No comments:

Post a Comment