Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday 17 December 2016

NAM TRÂN=PHAN LẠC TIẾP= ĐẶNG PHÙNG QUÂN=NHÃ CA=CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

THƠ NAM TRÂN

 
 Đẹp và Thơ
( Cô gái Kim Luông )
Nam Trân
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo.
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết,
Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo.
Thuyền qua đến bến: cô lui lại,
Vẩy chiếc chèo ngang giọt nước gieo.
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo,
Chèo cô quấy nước trong veo giữa giòng.
Biết không cô hỡi biết không?
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao?
(Huế đẹp và thơ)
BACK


 
Trước chùa Thiên Mụ
Nam Trân
Êm êm giòng nướcHương giang chảy,
Xúm xít thuyền con chỗ bảy ba.
Tiếng hát ngư ông đẫm bóng cây,
Như luồng khói nhẹ lên lên mãi,
Tháp cao nhòm nưóc: vết meo trôi.
Đồi thấp sừng trăng dõi dõi soi,
Mờ ớ, xa xa ,gà gáy sáng...
Trong chùa cảnh cảnh tiếng chuông hồi.


 

HUẾ ĐÊM HÈ
 Trời nóng băm bốn độ.
Đèn, sao khắp đế đô,
Mặt trăng vàng, trỏn trẻn
Nấp sau nhánh phượng khô.

Ba dịp cầu Trường Tiền
Đứng dày người hóng mát;
Ngọn gió Thuận An lên,
Áo quần kêu sột sạt.

Đủng đỉnh chiếc thuyền nan
Qua, lại bến sông Hương...
Tiếng đờn chen tiếng hát,
Thánh thót điệu Nam Bường.

Hai tay xách hai vịm,
Một vài mụ le te,
Tiếng non rao lảnh lói:
Chốc chốc: "Ai ăn chè?"






HUẾ NGÀY HÈ


Tặng Hà Xuân Tế

Lửa hạ bừng bừng cháy,
Làn ma trốt trốt bay.
Tiếng ve rè rè mãi
Đánh đổ giấc ngủ ngày.

Đường sá ít người đi,
Bụi cây lắm kẻ núp,
Xơ xác quán nước chè,
Ra vào người tấp nập.

Phe phẩy chiếc quạt tre,
Chú nài ngồi đầu voi
Thỉnh thoảng giơ tay bẻ
Năm ba chùm nhãn còi.

Huê phượng như giọt huyết,
Giỏ xuống phủ lề đường.
Mặt trời gay gay đỏ
Nhuộm đỏ góc sông Hương.






HUẾ MƯA DẦM



Tặng Nguyễn Lân

Đã quá nửa tháng rồi
Mà mưa, mưa chẳng dứt.
Lúng túng cảnh nhà pha,
Ai ai xem cũng bực.

Rải rác, chú phu xe
Co ro thân mèo ướt,
Lóng ngóng các ngã ba,
Lù xù như gà xước.

Con bạc họp tứ tung
Tha hồ xe, pháo, mã.
Rét mướt đánh càng hay:
Được tiền mua áo dạ.

Đạo đức các cụ ta
Giở chuyện cũ ra bàn.
Dưới nhà, cô nổi lửa:
Lốp - đốp nhả ngô rang.



PHAN LẠC TIẾP * NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÊN TÀU

Người Đàn Bà Trên Tàu 502

Phan Lạc Tiếp

Chuyến di tản của Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, đang trong thời kỳ sửa chữa, chở theo trên 5000 người, rời cầu tàu trong Hải Quân Công Xưởng đêm hôm 29 tháng 4 năm 1975 với bao nhiêu là khó khăn, hãi hùng, nguy hiểm. Hầu như trên mười năm sau đó, đã định cư ở Mỹ an toàn, nhiều đêm ngủ, thần trí tôi vẫn bị trôi theo cơn hốt hoảng kinh hoàng bởi chuyến đi này. Trong những giấc mơ kinh dị đó, tôi vẫn thấy rất rõ rừng người đặc nghịt ở trên sàn tàu. Bầu trời thì đen thẫm, những ánh đèn xanh đỏ của những chiếc trực thăng vần vũ, nặng nề bay qua bay lại. Những đám cháy sáng rực bùng lên ở mấy góc trời. Kho xăng Nhà Bè trắng xoá, lấp loáng dưới ánh lửa đang cuồn cuộn bốc cao từ Căn Cứ Hải Quân .Những tiếng nổ oà vỡ bên tai, kéo theo những tiếng rít của những trái đạn rời nòng từ hai khẩu đại bác của Đặc Khu Rừng Sát. Con tàu ôm sát bờ lửa đạn ấy để vào nhánh sông Soi Rạp, bò ra cửa biển.

Sáng ngày 30 tháng tư, con tàu liệt máy, buông trôi ở cửa sông. Biển ở trước mặt, sóng trắng xô xô từng đợt. Lại những đợt máy bay từ phía Sài Gòn túa ra. Nhũng chiếc trực thăng bay thấp, dọc theo hông tàu, thấp hơn chiều cao của đài chỉ huy chiến hạm. Cửa máy bay mở rộng. Chúng tôi thấy trong lòng máy bay chật ứ những đàn bà, trẻ con. Mấy bà già hướùng về chiến hạm, quy,ø cúi gập người, chấp hai tay mà lễ. Trong khi đó viên phi công rà được tần số của chiến hạm. Bằng một giọng nói đầy khấp thiết :" Anh em Hải Quân ơi, cứu chúng tôi với. Chúng tôi được lệnh bay ra biển để đáp xuống tàu Mỹ. Nhưng tới điểm hẹn chỉ thấy biển mông mênh, tàu Mỹ đâu không thấy, nên phải quay về. Tàu tôi chỉ còn 5 phút xăng. Xin cứu chúng tôi, gia đình tôi, mẹ tôi..."Không cầm lòng được, Hạm Trướng Nguyễn văn Tánh và " Ban Tham Mưu " chấp nhận những khó khăn, bất chắc, đồng ý là cho trực thăng đáp xuống sân chiến hạm. Sân chiến hạm đông đặc những người, lùng nhùng những chiếc mền đủ màu căng ra che sương gió qua đêm. Nắng bắt đầu oi ả. Tất cả phải giải toả cấp kỳ. Mọi người phải xuống hết sân chiến xa. Sân tàu trống vắng. Chiếc trực thăng từ từ đáp xuống. Một chiếc. Lại một chiếc nữa. . .

Tới gần trưa ngày 30 tháng 4, ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Cả tàu mấy ngàn người xốn xang, cuống quýt. Có những tiếng khóc vỡ oà đâu đó. Một buổi họp khẩn cấp để đi đến quyết định : Bằng mọi giá phải thoát ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Phải ra đi cho bằng được. Toán thợ máy kết hợp lạ lùng cố sửa chữa. Máy tàu nổ, một máy. Tàu ra được ngoài khơi, lết đến gần Côn Sơn, gặp được hạm đội mình ở đó.

Lệnh từ Soái Hạm HQ 3 chỉ thị cho HQ16 tới kéo HQ502 đi. Những đêm lừ đừ ở ngoài khơi, đoàn tàu vừa đi vừa đợi nhau. Những chiếc ghe đầy ứ người sáp vào chiến hạm. Không thể làm ngơ, tàu thả thang giây, lại vớt thêm người. Đêm xuống, hải đăng Vũng Tàu loé lên từng đợt như thách thức, như mời gọi,như những vẫy tay giã từ. Bờ biển quê hương đấy mà giờ đã trở nên kinh khiếp, chia lìa, đớn đau. Ngày đêm, qua làn sóng điện của đài Sài Gòn, không còn là những giọng nói thân quen, mà là những lời kêu gọi chát chúa, đe doạ của kẻ thù : ". . . quân, cán chính của nguỵ quân Sài Gòn mau mau ra trình diện ". Những ngày thiếu thốn, chật chội, chia nhau từng ngụm nước, từng nắm cơm chỗ sống, chỗ khê, chỗ thì thiu chua.

Mấy ngày sau, bờ biển Phi Luật Tân hiện ra, núi non chập chùng đen thẫm. Lễ chào và hạ Quốc Kỳ VNCH lần cuối được diễn ra, đơn giản nhưng vô cùng nghiêm trang mà rất đớn đau. Lá Quốc Kỳ nền vàng ba sọc đỏ bacï màu từ từ được kéo xuống, cùng với hàng ngàn giọng hát, gìa, trẻ, nam, nữ cất lên, vừ a hùng tráng, vừa chất chứa những nghẹn ngào. Những lời hát như trùm kín cả vùng trời biển nước mênh mông. Lời ca dứt. Những tiếng kêu khóc bỗng bùng vỡ. Nhìn đâu tôi cũng chỉ thấy những cặp mắt đầm đầm nước mắt. Trong những tiếng kêu khóc thảng thốt ấy, tôi thấy có tiếng kêu của một người đàn bà :" Oái, con ơi, con ơi. . ." .


Trong tập bút ký viết về cuộc di tản này, tôi đã không quên ghi lại tiếng kêu thảng thốt, lạ lùng này. Taiï sao tôi lại không ghi những tiếng kêu khóc khác tràn ứ quanh tôi trên con tàu Thị Nại HQ 502 lúc đó. Tôi không trả lời đươc. Vì khi viết lại giây phút xúc động lịch sử này, tay tôi như chỉ tuân theo những gì mà thần trí tôi đã ghi dấu mà tự động viết ra. Viết ra như vẽ lại rất tự nhiên, không có một sự lựa chọn nào. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Tình cờ tôi đã hiểu . Có những hình ảnh tuy mờ nhoà, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ biến mất trong trí nhớ của tôi. Tôi không bao giờ quên. Tôi nhớ lại rồi. Tôi nhớ thật rõ. Tôi hiểu tại sao tôi lại ghi lại tiếng kêu này. Xin hãy cho tôi từ từ nhớ lại.

Tôi bỏ chiếc xe hơi nhỏ ở ngoài cửa Hải Quân Công Xưởng, sát bên Bệnh Xá Bạch Đằng. Tôi đi đầu, hướng dẫn cả gia đình trên mười người, theo đoàn người lũ lượt chạy bộ dọc theo chiều dài của Hải Quân Công Xưởng. Vừa chạy vừa ngoái cổ nhìn trở lại để kiểm soát đoàn " rồng rắn" của gia đình. Chỉ sợ có người bị lạc. Lạc là vô cùng khốn khổ, khó khăn. Tìm đến cầu tàu trước Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Con tàu Thị Nại, HQ 502 nằm đó, vị trí một. Bên ngoài con tàu này còn ba con tàu khác cặp song song. Tất cả bốn con tàu xám ngắt, hướng mũi phía hạ giòng. Người từ phía sau tràn tới. Như đã hẹn, tôi sẽ phải lên cho được con tàu này. Con tàu do bạn thân cùng khoá với tôi làm Hạm Trưởng, Hải Quân Trung Tá Nguyễn văn Tánh.


Chúng tôi cũng đã hùn tiền mua thêm nhiều gạo, mì và những thức ăn khô chất sẵn ở tàu này. Nước lấy tối đa. Lúc này nước thuỷ triều dâng cao, bắt đầu xuống. Người ken sát nhau như gạch trên cầu tàu, nhích tới, nhích tới. Cái thang dài độc nhất dựng dốc ngược bên hông tàu. Tôi biết rằng khi khẩn cấp, chỉ cần thả hai mối dây là cái thang tự động tuồi xuống cầu tàu, lăn theo hai bánh xe ghì trên mặt đất, không một chút khó khăn.

Tàu sẽ tách bến dễ dàng. Nhưng bây giờ rừng người đang ùn ùn tiến tới. Những quân nhân, trai tráng thì tìm mọi cách bám vào thành tàu mà lên. Gia đình tôi tất cả mười ba người, con số tình cờ không vui, trong đó có hai ông bà nhạc tôi ốm yếu, bốn đứa con nhỏ dưới mười tuổi. Chúng tôi không có cách nào khác là phải leo ngược cầu thang nhỏ, dốc ngược này để lên tàu mà thôi. Tôi lên đầu tiên, bế trên tay thằng con út hai tuổi bụ sữa, nặng chĩu. Trên lưng đeo một ba-lô quần áo và các thứ cần dùng. Một tay sách cái va-ly nhỏ đựng đầy giấy tờ, bản thảo và hình ảnh. Rất nhiều hình ảnh. Cầu thang dốc và trơn, tôi khiến trượt chân. Cái va-ly trở nên nặng quá bung ra phía ngoài. Tôi buông tay, nắm vội vào sợi giây cable, cái va-ly rơi tòm xuống nước, mất tăm. Hai tay ôm chặt thằng nhỏ trong lòng.

Tôi cúi người xuống để ghì lấy mặt thang. Trong phút chông chênh đó có bàn tay ai rất mạnh giữ chặt lấy cánh tay tôi. Chỉ trong một sát na kinh khiếp đó, tôi gượng lại được và bò lên sàn tàu. Không biết cánh tay ấy của ai. Ai đã cứu bố con tôi. Đặt con xuống sàn tàu tim tôi còn đập bập bùng hồi hộp. Tôi quay lại cùng các em tôi kéo vợ tôi, hai ông bà nhạc lên tàu. Kiểm điểm lai " quân số " gia đình. Đủ cả. Tôi quay lại cầu thang, đứng chân trước chân sau thật vững trên sàn tàu. Một tay vịn vào hàng rào chắn, một tay chìa ra kéo những người đang trèo ngược thang lên. Bao nhiêu bàn tay tôi đã nắm.

Có bao nhiêu bàn tay bè bạn thân quen, nắm chặt tay nhau kéo lên, buông ra với những nụ cười. Anh Trần văn Tâm, ( nhà văn Trần quán Niệm ), anh Nguyễn hưng Quảng, anh Nguyễn đa Phúc và bao nhiêu người nữa. Chúng tôi xúm nhau ở đó để tiếp tay, đỡ đần những người yếu đuối. Có bao nhiêu là những bàn tay già nua, hay non dại của những ai tôi chưa bao giờ gặp gỡ. Tất nhiên chúng tôi cũng đã chuyền, bế bao nhiêu là con trẻ ở tuổi các con tôi. Lúc kéo người lên như thế, cũng là lúc tôi nhìn xuống khoảng trống giữa thành tàu và cầu tàu, tôi không còn thấy cái va-ly của tôi đâu cả.


Nước đã cuốn nó đi trôi nổi ở góc kẹt nào. Khoảng trống dọc theo thân tàu chỉ độ bốn mươi phân thôi, là bề dày của trái độn cao-su. Cái khe này hun hút đen thẳm dọc theo thân tàu dài hàng trăm thước. Dưới sâu là mặt nước, những làn sóng nhỏ, lấp lánh ánh đèn trôi đi, trôi đi. Tôi biết sức nước trông thế nhưng thật là mạnh mẽ. Chân cầu tàu lù xù những vết xò hến, tác rưởi bám đầy. Nếu ban nãy tôi không có cánh tay nào bám lấy, ngã xuống đây. . .Mới thoáng nghỉ thế, toàn thân tôi như lạnh buốt. Tôi nghĩ đến con tôi. Đứa con út của tôi.

Rời cầu thang quay gót trở lại với gia đình, tôi vừa quay gót, có tiếng người đàn bà thảng thốt kêu lên : " Con tôi, con tôi rơi . . . rồi. Oái con ơi là con ơi..." . Tôi quay phắt lại, người ta đen đặc, đang kéo người đàn bà vào sàn tàu. Ở phía cầu thang người vẫn cứ ùn tấn lên không dứt. Người đàn bà khốn khổ, mất con như mê đi, đang được người ta xúm lại chữa chạy, giựt tóc, bôi dầu. Hình như không ai quan tam gì đến số phận của đứa nhỏ vừa rời tay mẹ rơi xuống cầu tàu, mất tăm. Vô phương cứu tìm. Mà ai còn có thì giờ đâu để ngó xuống cái khe đen thẳm đó. Người càng lúc càng lên thêm, đứng đen đặc cả sàn tàu. Không ai biết, chẳng ai quan tâm đến cảnh huống bi thảm vừa mới xẩy ra. Đêm mỗi lúc mỗi sâu. Nỗi khốn khổ của người mẹ mất con như bay theo, mất hút giữa đêm đen mỗi lúc mỗi thêm kinh sợ.

Lên được trên tầu, tìm gặp bạn tôi, HQ Trung Tá Nguyễn văn Tánh, Hạm Trưởng, anh nhường phòng của anh cho gia đình tôi. Tôi ngần ngại, nhưng anh bảo : tôi còn cái phòng nhỏ trên Trung Tâm Hành Quân. Tạm yên tâm, tôi sát cánh cùng anh, tập họp tất cả những quân nhân có mặt, tìm mọi cách để đem tàu ra khơi. Người thì chật cứng ở sân boong chính, ở hầm chiến xa, và la liệt cả hành lang, mọi chỗ. Nhưng như anh Tánh sau này cho biết thì " nhân viên cơ hữu trên 100 nay chỉ còn có 9 người..." Tình trạng chiến hạm thì còn đang sửa chữa : " Hai máy chánh ráp xong, nhưng chưa thử tại chỗ.


Hai máy điện chưa được ráp song song. Bơm nước ngọt và bôm cứu hoả chưa ráp. Bình cứu hoả CO2 còn nằm trên Hải Quân Công Xương. Hai máy neo trước và sau bất khiển dụng. Sàn tàu cắt mở lối đem máy chánh lên chưa hàn lại". Biết bao nhiêu la trở ngại, khó khăn, nguy hiểm. Khi khởi động được máy thì tay lái bất khiển dụng. Giây cable lái bị cắt đứt. Nói ra không hết những nguy khốn của cuộc đi này. Bao nhiêu điều, bao nhiêu hình ảnh vẫn đầy ắp trong trí nhớ của tôi. Nhưng hình như tiếng kêu vô vọng, thảng thốt của người đàn bà khốn khổ đó đã thấm nhập sâu đậm vào trí não tôi. Lúc mờ lúc tỏ, nhưng tiếng kêu đó không bao giờ mất được trong tiềm thức của tôi. Khi có những sự tương quan, hình ảnh ấy sẽ tự động hiện ra mà lý trí tôi hình như không thể can dự vào. Và sự việc đã được xẩy ra rất tình cờ mới đây, gần 30 năm xa cách.

Trong một buổi gặp gỡ thu hẹp của mấy bà bạn cựu nữ sinh Trưng Vương của bà xã tôi tại San Jose, chuyện trò đang nổ như cái chợ, bỗng khựng lại, khi tình cờ chị D. N. nói : " Thế ra gia đình tao cùng di tản trên con tàu Thị Nại HQ 502 với tụi mày à. A, sao cả tuần lễ trên tàu mà mình không gặp được nhau. Ừ, người đông như kiến. Trên 5000 người. Khiếp thật !". Anh Ng., chồng chị N. nói:" Khi ở trên tàu tôi xung phong trong toán nhà bếp, nóng như cái hầm. Lúc có điện lúc không.

Cơm nấu suốt ngày mà không đủ. Lúc sống, lúc khê. Khi ra đi đại gia đình chúng tôi có 20 người. Nếu kể cả thằng cháu P. bị rơi ở cầu tàu là 21. Bây giờ tổng số đã là 40. . ." Lòng tôi như có điện giựt. Cả một khung trời kinh khiếp đêm 29 rạng 30 tháng 4 năm cũ lại hiện ra rõ ràng. Cái khe sâu dài dọc theo cầu tàu đen thẫm, lấp lánh những lượn sóng trôi đi, trôi đi. Tiếng kêu thảng thốt của người đàn bà :" con tôi, con tôi rơi rồi. . Oái con ơi là con ơi." Lạ nhỉ. Quả đất tròn thật. Tôi phải tìm gặp cho đươc người đàn bà ấy.

Bà D. t. L, qua điện thoại kể lể :". . .một tay tôi cầm cái túi. Một tay tôi dắt thằng cháu P. bước lên cầu thang dốc ngược của con tàu. Người từ phía dưới cứ nống lên. Mà là người nhà mình cả chứ đâu. Gót giày tôi như kẹt vào khe cầu thang, chân tôi bỗng nghiêng đi, lao chao muốn ngã. Thế là tôi buông tay thằng nhỏ ra. Nó rơi ngay xuống khe tàu, mất tiêu. Tai tôi như chỉ còn thấy tiếng cháu kêu : mẹ L. . .. Tôi kêu lên, nhưng có ai giúp được gì đâu. Mà có ai thấy gì đâu mà giúp. Tay tôi bỗng trống không.


Tôi được người ta kéo lên sàn tàu. Tôi mê đi chẳng còn biết gì nữa sất. Bên tai tôi cứ như loáng thoáng tiếng kêu của nó. Từ đó, nói ông bỏ quá đi cho, tôi cứ ngơ ngẩn, chả còn thiết gì nữa cả. Tôi nằm như chết ở sàn tàu, chả thiết ăn uống gì . Khi đoàn tàu sửa soạn vào cảng ở Phi Luật Tân, mọi người lên sân chính để chào quốc kỳ lần cuối, trong tai tôi vẫn vang vang lời kêu của cháu : Mẹ L. ơi ... Vì thế, trong giờ phút ấy tôi bỗng oà khóc và kêu lên . . ."Vẫn lời kể của bà L. :" Lúc ấy cháu T t. P. được 6 tuổi rưỡi.


Cháu nhờ trời cũng chịu ăn, chịu chơi nên cũng có da có thịt, chắc nịch. Mỗi khi cháu trái nắng, trở trời cháu cứ hay kêu : Mẹ L. ơi cứu P. Tôi không quên được tiếng kêu ấy của cháu, ông à. Tiếng kêu ấy cứ vang vang ở trong đầu tôi, hình như không lúc nào dứt. Lúc thức, lúc ngủ, lúc tụng kinh, không lúc nào tôi không nghe thấy tiếng kêu ấy của con tôi, nên tôi nghĩ rằng con tôi còn sống. Vì thế suốt mấy chục năm, ngày nào tôi cũng thắp hương cầu Phật Bà Quan Aâm cứu khổ cứu nạn phù hộ độ trì cho cháu. Sau này chúng tôi trở lại đạo, tôi hàng ngày lại cầu xin Đức Mẹ Maria che chở cho cháu. Tôi tin tưởng hoàn toàn vào đấng thiêng liêng và tôi vẫn tin rằng cháu còn sống ông à."

Vẫn lời kể của bà L. : "Rồi cách đây ít năm, người Việt Nam từ hải ngoại về nước mỗi lúc mỗi đông. Tôi cũng về thăm lại làng xóm, thăm thân nhân. Trong câu chuyện qua lại giữa bà con, có người nhắc rằng : nếu chị tin là cháu còn sống, thì phải có người vớt được cháu. Chị thử đăng báo tìm xem thế nào. Không thiếu những trường hợp thất lạc con cái, rồi người ta cũng tìm lại được đấy. Thế là tôi nhờ đăng tin tìm cháu ở báo Tuổi Trẻ, thì có 6 người cùng tuổi với cháu liên lạc với tôi. Người thì ở ngay trong thành phố Sài Gòn, người thì ở dưới quê. Cũng là người tử tế cả. Có anh nói : thôi con không qua Mỹ đâu.

Đã có vợ con và sống ở đây quen rồi, mẹ có thương con thì cho con ít cây (vàng), con mua mấy mẫu ruộng. Thì nghe thế biết thế, tôi cũng chưa có gì đích xác để quyết định cả. Trong 6 người nhận là con tôi, có một anh cao, giống thằng con tôi hiện ở Mỹ. Anh này hiện học nghề Đông Y, chưa vợ con gì cả. Với tôi anh ấy đối sử lịch sự, bình thường, không vồn vã mà chẳng đề nghị xin sỏ gì. Vì theo bà mẹ nuôi của anh kể lại thì câu chuyện khá dài, nhiều uẩn khúc lắm".
Vẫn theo lời kể của bà L. :

" Bà này giầu có lắm. Trước 75 bà là dược sĩ, có tiệm thuốc tây rất lớn. Bà đã có gần 10 người con do bà đẻ ra. Nhưng trong hoàn cảnh tang thương của thời loạn lạc, có mấy người không nuôi được con, đem cho bà, bà đều nhận hết. Bà săn sóc trên mười đứa con, con đẻ cũng như con nuôi, như nhau. Đứa nào học được bà cho đi học. Nhiều đứa thành tài là kỹ sư, bác sĩ. Có đứa lớn lên xin về nhà bố mẹ đẻ, bà cũng vui lòng, còn cấp vốn liếng cho để làm ăn. Có đứa làm ăn thất bại lại bò lên xin ở lại với bà, bà lại nhận nuôi nấng cả gia đình vợ con nó như xưa. Bây giờ trong thời đổi mới, bà đang kinh doanh về ngành du lịch. Bà mua cả một khu rừng xây khách sạn, đắp núi non, vườn cảnh.

Trong đó có những nhánh sông, bà cho xây cây cầu qua lại thật là đẹp. Nói ra có lẽ khó ai tin được. Thật cái nhà của tôi bên Mỹ không bằng cái nhà xe của bà ấy. Bà ấy nói với tôi rằng thằng Mỹ do một bà bán chè ở bến sông Sài Gòn cho bà ấy. Thằng nhỏ này trôi trên sông Sài Gòn, có một người lái đò vớt được, đưa lên bờ. Thằng bé bơ vơ, rét mướt khóc quá xá, nên cho đứng tạm cạnh bà bán xôi chè, đợi bố mẹ nó tìm đến. Nhưng chả thấy bố mẹ nó đâu, bà hàng xôi tìm đến bà dược sĩ bảo rằng : bà làm phước nuôi dùm thêm đứa nhỏ này. Hỏi bố mẹ con đâu, nó nói trong nước mắt : đi Mỹ rồi. Do đó bà dược sĩ mới đặt tên nó là Mỹ."

Vẫn lời của bà L. :"Cái anh tên Mỹ này lớn lên trong gia đình bà dược sĩ. Dù không ai nhắc nhở, nhưng anh ta vẫn tin rằng sẽ có lúc anh ta phải qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ ruột. Thời gian vùn vụt trôi, gần ba mươi năm cơ hội chưa đến. Trong khi chờ đợi, anh ta quyết không lập gia đình, sợ lôi thôi khi đi đoàn tụ. Và để có một nghề qua Mỹ không cần học lại, anh ta học nghề đông-y-sỹ. Bà dược sĩ nói với tôi rằng, tuy là con nuôi, nhưng tôi thương thằng Mỹ như con ruột. Nó muốn gì, tôi không tiếc. Đấy cái cửa hiệu đông y đấy, rất khang trang, đủ mọi thứ thuốc, từ sâm nhung hảo hạng, đến các thứ quế đắt tiền, thứ gì tôi cũng đặt mua đầy đủ. Nó vừa sửa soạn là thầy lang vừa làm người bào chế, rất mát tay tuy chưa ra trường nhưng cũng đông khách lắm. Sang Mỹ chưa chắc gì đã có một cơ sở vững vàng như thế. Nhưng nó biết, nó tin là nó không ở đây lâu đâu. Thế nào nó cũng qua Mỹ đoàn tụ với bố mẹ ruột của nó. Nó muốn thế, tôi cũng sẵn sàng giúp nó được toại ý khi cơ hội đến. Nếu nó thực sự là con bà, bà chứng minh được nó là con bà, tôi sẽ cố gắng tìm mọi cách để nó về với bà."

Vẫn lời của bà L. :" Tôi trở lại Hoa Kỳ, tôi cứ nhớ cái thằng Mỹ này quá. Chắc chắn nó là con tôi. Nhưng bảo rằng chứng minh cụ thể thì tôi chưa có cách. Tôi có đem chuyện này hỏi ông bác sĩ gia đình. Oâng bác sĩ nói rằng : Dễ lắm. Nếu nó là con bà, chỉ đem đi thử máu, thử DNA là ra ngay. Thì cái vụ thử nghiệm này thì chắc rồi.


Nhưng tôi lại không muốn làm thế. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng, nhờ tôi thành tâm lễ bái, khẩn cầu, nên đấng thiêng liêng đã đưa đẩy cho tôi tìm thấy cháu. Bây giờ lại đem thử nghiệm thì có khác gì không tin vào đấng linh thiêng nữa, nên tôi không làm. Nghe thế, ông bác sĩ ngồi thừ ra hồi lâu rồi hỏi tôi. Nếu nó là con bà, thì nó không giống ông bà cái tai, cũng phải giống cái tóc chứ. Ba ønhìn nó bà có thấy nó giống ai trong nhà không, chắc là phải giống ông nó nhà tôi.

Khốn nỗi ông nhà tôi sang bên Mỹ được ít năm thì mất. Oâng mất cũng là tại tôi một phần. Oâng cứ cằn nhằn tôi bao nhiêu năm : sao đang nắm tay nó bà lại buông tay ra. Làm gì cũng phải có ý có tứ chứ. Nắm thật chặt tay thì nó đâu có rơi được. Đành rằng thế, nhưng nào tôi có muốn buông tay ra đâu. Trời xui đất khiến nó hoá như thế, chứ có người mẹ nào lại nỡ buông con ra cho nó rơi xuống sông hở ông. Thế là bao nhiêu năm đằng đẵng xót sa, rồi ông ấy mất. Lúc mất hình như ông ấy còn gọi trên nó trong phút lâm chung. Thế là bao nỗi cay đắng đổ cả trên đầu tôi. Thôi thì trăm sự tôi trông vào đấng linh thiêng, Đức Quan Thế Aâm khi trước và bây giờ là Đức Mẹ Maria. Đêm nào tôi cũng thắp hương, cầu khẩn."

Vẫn lời bà L. :"Tôi thẫn thờ đau khổ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nó. Còn thằng em nó hầu như tôi quên bẵng để mặc cho ông nhà tôi trông nom. Nhà tôi mất đi, trên bàn thờ bây giờ có hình ông ấy nhà tôi nữa. Hàng ngày khi đọc kinh, nhìn hình ông nhà tôi trên bàn thơ,ø tôi bảo : Ông có khôn thiêng thì ông mách bảo cho tôi tìm ra thằng P. Một hôm, em thằng P. đi đánh banh về, từ trong nhà tắm đi ra, nó ngồi trước mặt tôi, lấy khăn lông lau đôi bàn chân. Nó lau kỹ lắm, khiến tôi chú ý. Sao mà hai ngón chân cái của nó lại xoè ra như người Giao Chỉ ngày xưa. Tôi hỏi nó sao thế.


Nó bảo thì ngón chân con nó thế. Đi giầy thì hai ngón chân cái ép lại. Để chân không, nó lại xoè ra. Tôi trở lại Việt Nam, trở lại nhà bà dược sĩ. Bà vẫn ân cần, niềm nở đón tôi, và vẫn một mực nói : tôi sẽ trả con cho bà, với điều kiện bà phải chứng minh được nó địch thực là con bà. Thì cũng là tình cờ thôi, hôm ấy thầy-lang-Mỹ lội xuống khúc sông trước nhà, bơi, tắm. Tắm xong, lúc ngồi ở nhà ngang anh ta ngồi lau chân, trời ơi, hai ngón chân cái của thằng Mỹ cũng xoè ra như thằng con tôi, em nó ở bên Mỹ. Không sai được nữa rồi. Tôi bỗng bật khóc và kêu lên P. ơi, con ơi. Thầy-lang-Mỹ trố mắt nhìn tôi. Bà dược sĩ cũng thảng thốt, đứng lên. Ba chúng tôi ôm choàng lấy nhau, nước mắt chan hoà. Thằng P. ôm tôi và nói : con là P. của mẹ đây, mẹ L. ơi. Bà dược sĩ thì bảo : " Sao trước đây bà không cho tôi biết tên nó trước đây là P.."

Vẫn lời bà L. :" Bà dược sĩ nói rằng : hàng ngày chúng tôi kêu nó là Mỹ.Nhưng những khi đau ốm, mê sảng, nó đều kêu : Mẹ L. ơi cứu P. Nhưng quả đúng 100% nó là con bà, bà dược sĩ lại hỏi tôi, vừa cười vừa nói, trong người nó có vết tích gì đặc biệt không. Tôi đáp ngay : mông đít nó có một vết chàm. Thế là chúng hai chúng tôi lại ôm lấy nhau lần nữa. Và lần này thì bà dược sĩ dành dọt nói : Đúng thằng Mỹ đây, khi bé có trên là P. Nó đích thực là con bà. Tôi dàn dụa nước mắt xà lại ôm lấy P. Hai mẹ con chúng tôi ôm nhau thật chặt. Tôi bấu vào vai nó. Tôi nắm chặt cánh tay nó.

Không rời ra được nữa đâu. Và trong lúc xúc động này, tôi lại hốt hoảng kêu lên : Oâi, con ơi, con ơi. . ." Tôi buông P. ra, buông con tôi ra, tôi chấp tay, đọc thầm một đoạn kinh tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, Phật .Nước mắt tôi tuôn như mưa. Tôi quỳ xuống, tôi vái tứ phương. Tôi gọi tên nhà tôi. Oâng ơi, tôi tìm thấy con. . . rồi. Hai mẹ con tôi quay lại, thấy bà dược sĩ đứng nhìn chúng tôi, mếu máo với hai hàng lệ chảy. Chúng tôi, mẹ con tôi tiến tới, choàng tay ôm chặt bà vào lòng. Tôi nói : Bà ơi! Bà là ân nhân của chúng tôi, bà mới thật là mẹ nó. Trời, Phật đã dẫn dắt nó là con bà. Con tôi cũng nói : Con xin đa tạ mẹ…. . . Thật, chưa bao giờ tôi vui sướng như thế mà cũng khóc nhiều như thế. Và cũng chưa bao giờ tôi tin tưởng mạnh mẽ như thế vào sự huyền diệu của các đấng thiêng liêng."

Cho đến khi chúng tôi viết những giòng này thì Bà L. dã hoàn tất mọi thủ tục để đưa người con trai tên P. sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Khi mọi việc đã xong, tên tuổi những người liên hệ sẽ được in đầy đủ trong bài viết.

Gần 30 năm đã qua. Một thời gian đủ dài để một thế hệ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Những con em chúng ta khi ra đi còn bé dại, nay đã không thiếu những người thành tài, có mặt trong hầu hết những sinh hoạt cao cấp nơi quê hương mới, là niềm vui sướng và hãnh diện cho cha mẹ, cho cộng đồng. Nhân câu chuyện trên, người viết đang thu thập những gương thành công của con em những gia đình ra đi trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502, để viết thêm vào phần cuối cuốn bút ký di tản này, như phần thưởng cho lòng can trường, liều chết ra đi vì Tự Do, vì tương lai của con cái. Rất mong được đón nhận những kết quả đẹp đẽ của những ai cùng đi trên chuyến tàu trên. Mọi liên lạc xin gửi về cho người viết, PO Box 888, La Jolla, Ca 92088. Đt : (858) 484-9193.


E Mail tphan2@san.rr.com Bài viết có thể viết bằng tiếng Việt hay tiếng Anh. Nếu không có gì trở ngại, cuốn bút ký di tản của tác giả và những gương thành công của con cái chúng ta di tản trên Dương Vận Hạm Thị Nại, HQ 502 sẽ được xuất bản để kỷ niệm 30 năm di tản.

Phan lạc Tiếp
---------------------------------
Vài hàng về nhà văn Phan lạc Tiếp

Ông Phan lạc Tiếp nguyên là một Hạm Trưởng, một nhà văn. Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã tận lực hỗ trợ vị Hạm Trưởng chiến hạm HQ 502, rời bến đem theo trên 5000 đồng bào thoát được ra khơi. Cuối năm 1979, khi làn sóng người vượt biển lên cao, và thảm nạn của thuyền nhân trở nên khủng khiếp nhất, ông đã cùng Giáo Sư Nguyễn hữu Xương thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển ( Boat People SOS Committee ). Liên tục trong 11 năm hoạt động, Uỷ Ban này hợp tác với những tổ chức nhân đạo thế giới, đem tàu ra Biển Đông, cứu vớt được 3103 thuyền nhân, và xin định cư cho hàng ngàn đồng bào tại các quốc gia đệ tam. Mới đây Quốc Hội Tiểu Bang California, Hoa Kỳ đã gửi đến tặng nhà văn Phan lạc Tiếp một bằng tưởng lệ, viết :
California State Assembly Certificate Of Recognition presented to
TIEP LAC PHAN
In honor of Your Hard Work and Accomplishments in becoming a
Proud Member of our community.
Your Dedication to your Community is Greatly Apprreciated

**

ĐẶNG PHÙNG QUÂN * PHÊ BÌNH

ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Mario Vargas Llosa,
người đọc Flaubert
(kỳ chót)

Trong phân tích Sarrasine, Barthes đánh số phân chia ra 561 bộ, với năm mã đã xuất hiện ngay ở nhan đề và câu mở đầu truyện ngắn này. Nhà phê bình ghi nhận một hay nhiều mã ở những bộ kế tiếp, với 93 tiết, hai phản đề/Antithèse ở tiết 14  và 27, hai nghi nghĩa/équivoque ở tiết 62 và 69, hai khả độøc/Lisible ở tiết 66 và 77. Trong các từ hoa, Barthes cho phản đề là cái bền vững nhất, có chức năng biểu kiến của một danh từ, một đối tượng siêu ngữ cống hiến hay thuần hóa sự phân chia những tương phản. Nghi nghĩa I như trong câu nói: anh không thể liều với đối thủ, hàm hai nghĩa 'vì được yêu' hoặc vì 'tán tỉnh một người yếm hoạn’; nghi nghĩa II nhằm tiết lộ chủng (tôi bị tước danh tịch) hoặc ỉm loại đi (tôi là tên yếm hoạn) như một nói dối hoán dụ. Khả độc theo Barthes bị nguyên tắc không mâu thuẫn chi phối, trong câu “mọi sự có quan hệ với nhau” , diễn ngôn khả độc. Khả độc II  hàm ngụ luật giá trị của khả độc, nghĩa là hoàn tất những khâu nhân quả, mỗi tất định cũng là bị xác định.
Vị trí của câu nói đến ở trên được thể nghiệm trong tiểu luận viết về Flaubert và câu văn của Barthes [in Nouveaux essais critiques], ông nhận xét công việc văn phong đối với Flaubert là “một nỗi thống khổ không thể tả xiết, đau đớn tuyệt đối, vô cùng, vô dụng, như vĩnh biệt biền biệt với cuộc đời”, Flaubert nhốt mình vì dâng mình cho chuyện văn phong, khác với Proust cũng giam kín mình cho đối tượng là phục hoạt toàn diện tác phẩm, vì có quá nhiều điều để nói, hối hả vì cái chết, còn Flaubert muốn sửa văn đến vô tận (gạch xóa, trở lại từ số không). Theo Barthes, văn rõ ràng đưa toàn hiện hữu của nhà văn nhập cuộc, vì lẽ đó có thể gọi nó như thể một chữ nghĩa: viết tức là sống, như Flaubert nói: Một quyển sách luôn luôn đối với tôi mà một cách sống đặc biệt. Chữ nghĩa là chính cứu cánh của tác phẩm. Flaubert đã đem lại một hiện hữu kỹ thuật và siêu hình của một lực không gì sánh bằng, đó chính là câu văn. Có thể nói ông đã trải cuộc đời để dựng lên những câu văn, làm thành lịch sử cho tác phẩm, thâu gồm văn phong, lao động và đời sống. Câu văn của Flaubert là một sự vật, có một lịch sử đến từ chính ngôn ngữ, như trong thư tín bất hủ, ông đã viết; làm việc để kết thúc câu văn, như thể mâu thuẫn với điều ông hô hoán, không bao giờ kết thúc.   Barthes ghi nhận, câu văn Flaubert là dấu vết của mâu thuẫn này.
Barthes không là một Flaubertiste. Vargas Llosa là một Flaubertiste, tuy nhiên khi ông phân tích Madame Bovary   ông đã thực hiện cùng lúc hai mục tiêu: nói chuyện với nhân vật/ảo như chính tự thân và giải đáp vấn đề tiểu thuyết như một nhà thuyết thoại học.
Trong mục tiêu thứ nhất, đã có trong lịch sử tư tưởng, một triết học Bôvarít của Jules de Gaultier (1858-1942) và tranh luận của Georges Palante (1862-1925). Mối tương quan giữa Gaultier và Galante đi từ chỗ đồng cảm đến ác cảm, ở thời kỳ đầu 1912 là sự ngưỡng mộ từ một trung gian là tư tưởng Nietzsche, dẫn khởi những bí mật của thiên tài đời sống và thiên tài tri thức; ở thời kỳ sau 1925  là sự thất vọng trước xu hướng phản lý hay giả lý. Tuy nhiên, cả hai cùng khởi hứng từ một vũ trụ Bôvarít của Flaubert, như chính Palante diễn giải: chủ nghĩa Bôvarít là cha đẻ của ảo tưởng về tự thân đi trước và đồng bước với ảo tưởng về tha nhân và thế giới; tuy nhiên không phải chỉ là một quy luật tâm lý cá thể hay tập thể, nhưng còn chuyển biến thành một nguyên lý siêu hình, một mô thức chủ yếu của Hữu phổ quát, nghĩa là có thể từ góc nhìn thể nghiệm  và vai trò sinh lực, như một hiện tượng nhân tính.
Một người Flaubertiste như Jean Bruneau, nghĩa là chuyên khảo Flaubert, khi phê phán và phản biện lại Sartre trong L'Idiot de la famille [q. I, tr. 485 nêu ba vấn đề căn bản với Bruneau chung quanh truyện kể l'Anneau du Prieur của Flaubert] đã dẫn câu văn quan trọnbg của Flaubert là con người ông “có hai đời sống hiện hữu khá phân biệt; những sự biến ngoại tại là biểu tượng chung cuộc của cuộc đời trước và khai sinh ra cuộc đời sau”.
Khi giới thiệu tác phẩm L'Orgie perpétuelle (Flaubert et Madame Bovary) của Vargas Llosa, tôi không có ý phê phán quyển sách, mà chỉ đưa ra những lời thích nghĩa (commentaires, hiểu theo nghĩa của W. Benjamin, là phân biệt với phê phán ở chỗ chỉ chú ý đến vẻ đẹp và nội dung tích cực của bản văn/mit der Schönheit und dem positiven Gehalt seines Textes). Sự khu biệt giữa thích nghĩa và phê phán ở đây còn hàm ngụ vị thế của hai người đọc quyển tiểu thuyết của Flaubert. Vargas Llosa đọc Madame Bovary để nói chuyện thân tình với Emma Bovary, đương nhiên là nói nhiều về ông hơn là về nàng. Như Harry Levin khi viết A Literary Enormity: Sartre on Flaubert, nhận xét: Chúng ta biết ít về Flaubert hơn là về Sartre; như Benjamin F. Bart cũng biểu đồng tình: đọc quyển sách của Sartre không thấy điều gì về con người mang tên Gustave Flaubert. 
Ở đây đối với Vargas Llosa là kết thúc của chuyện tình của ông.  Trong chương Một nỗi đam mê không được phản hồi ông viết: Mỗi lần, ở nỗi buồn và sầu muộn lẫn lộn một cảm xúc an ủy kỳ lạ và kết quả của cuộc lễ từng trải là sự ngưỡng mộ và nhiệt tình cho tôi: Emma tự vãn để cho tôi sống. Trong những dịp tương phản khác, thất vọng hay gỉan dị chỉ là rầu rĩ, tôi lai cầu cứu đến phương thuốc này và hầu như luôn luôn có một kết quả thông lợi như vậy. Kinh nghiệm này và những kinh nghiệm tương tự thuyết phục tôi về trạng huống tranh cãi những lý luận bảo vệ một nền văn chương khuyến thiện theo những kết quả của nó. Không nhất thiết là những câu chuyện hạnh phúc và với đạo lý lạc quan nâng đỡ tinh thần lên và làm trái tim người đọc vui vẻ; trong nhiều trường hợp, như trường hợp của tôi, cũng có thể đạt kết quả ấy, trong cái vẻ đẹp u buồn của chúng, với những câu chuyện cũng khổ sở và bi quan như chuyện nàng Emma Bovary. Thật hiếm thấy người đọc nào yêu nhân vật say đắm như Vargas Llosa với Emma vậy.
Trong phân tích Madame Bovary, Vargas Llosa rõ ràng chịu ảnh hưởng những trào lưu tư tưởng văn chương hiện đại và những khoa học liên hệ (ngữ nghĩa học, thuyết thoại luận, hiện tượng luận, ký hiệu học v.v..). Ở những yếu tố bổ khuyết, ông chú ý phân tích thời tính, dựa trên cấu trúc ngữ pháp của Pháp ngữ như những thì bán khứ, quá khứ đơn giản và hiện tại chỉ định khi xác định thời gian hư cấu không bao giờ đồng nhất với cái thực. Georges Poulet trong Etudes sur le temps humain 1950 khi luận về Flaubert chú ý đến phương thức tri giác đối tượng, quan năng tri giác, những cảm giác khoái lạc khi nhìn sự vật trình bày trong Thư tín của nhà văn, nhận xét Flaubert trải qua kinh nghiệm toàn diện  về tự thức trong những thời khoảng ông đắm mình để đồng nhất với đối tượng của tri giác này. Poulet xem đó là một chuyển tải sáng tạo của học thuyết Spinoza, trong cái sâu thẳm bất biến của Bao la, của đời sống vũ trụ, của kinh nghiệm huyền nhiệm phiếm thần. Cho nên ông xác định bản thể của hiện tại sinh động là thời gian của những ký ức cấu thành, không phải của những kinh nghiệm giác quan. Hiện tại là nơi tận cùng của những ảnh tượng gom lại, những ảnh tượng giác quan; chẳng hạn , trong những ngày không nắng khi tinh thần không mở ra đón nắng hiện tại, mà mở ra với mù sương vàng óng vẫn tỏa ra từ nắng đã nhận được từ lâu rồi. Những ký ức thời niên thiếu, như trong Thư tín mô tả nhẩy múa như hình xoắn ốc.  Poulet cũng dẫn những đoạn văn trong Madame Bovary minh họa những kỷ niệm với người cha qua lá thư của ông , rồi từ ảnh tương đầu này, từng bước, ký ức như chặng đường của cuộc đời dẫn đến khoảnh khắc hiện tại:
hạnh phúc nào…đầy những ảo tượng…giờ đây không còn gì giữ lại. Nàng dùng chúng để ngược trở lại những kinh nghiệm ngẫu nhiên trong trí nàng, qua mọi hoàn cảnh kế tiếp…liên tục đánh mất trong suốt cuộc đời dài này, như người lữ khách bỏ lại một chút gì của cải nơi quán trọ dọc đường…”
rồi, cuốn theo những ký ức của nàng như thể dâng lên từ giòng nước lũ đầy bọt, nàng nhớ ngay đến những ngày qua…”
Poulet nhận xét, khác với Balzac là nhà văn viết tiểu thuyết về cái đang xác định, Flaubert là nhà văn tiểu thuyết của cái đã xác định, kinh nghiệm của người khi viết một câu văn, từ mệnh đề điều kiện đến mệnh đề hiển nhiên, những yếu tố khác nhau được phối trí sáng tạo trong một tổng hợp trồi lên, rơi xuống, đến lúc hoàn tất, mang lại khám phá trong câu đã viết ra từ một thống nhất bất  biến, trong đó mọi sự trở thành hiện tại. Vấn đề thời gian đơn giản chỉ là một vấn đề của văn phong.
Đối với triết gia hiện tượng luận Paul Ricœur, trong Temps et récit 1983,   khi khảo những nan đề về kinh nghiệm thời gian qua quyển XI bộ Confessions của Augustin và ssắp đặt tình tiết của kịch bản, văn bản qua đọc Poétique của Aristote, đã liên kết hai nghiên cứu độc lập như một gỉa thuyết căn bản, nghĩa là giữa hoạt động của kể một lịch sử với thời tính của kinh nghiệm con người, có một quan hệ giao hỗ không thuần túy ngẫu nhiên, mà tạo thành một hình thái tất yếu xuyên văn hóa. Ông viết: thời gian trở thành thời gian của con người trong khuôn khổ nó được tiết hợp trên một phương thức thuyết thoại, và truyện kể đạt tới ý nghĩa toàn diện khi trở thành một điều kiện của hiện hữu thời tính.
Những nan đề về kinh nghiệm thời gian của Augustin không phải hoạt động kể một câu chuyện, còn phân tích tình tiết kịch bản hư Aristote đã làm thì không là lý luận thời gian mà từ vật lý học. Cho nên Ricœur đề nghị phải có trung gian làm đạo tuyến để khai thác quan hệ thời gian với truyện kể, qua lý giải ba thời khoảng, mà ông đặt tên là mimèsis/biểu tượng mô phỏng 1, 2 và 3; ông coi mimèsis 2 như  cơ sở của phân tích. Phương pháp phân tích của ông dựa trên ký hiệu học bản văn  là khoa học có thể thành lập trên trừu tượng hóa mimèsis 2 và chỉ xét đến những quy luật nội tại của tác phẩm văn chương, song, đảo lại, nhiệm vụ của thông diễn học nhằm tái tạo toàn bộ khai triển để dựa vào đó kinh nghiệm thực tiễn có thể tiếp cận tác phẩm, tác giả và người đọc. Cơ sở khai triển bộ ba mimèsis này theo một quá trình, từ vận hội của một thời gian  biểu thị trước đến một thời gian tái biểu thị qua trung gian của một thời gian dịnh hình. Những chiều kích thời gian được xác định, như qua cấu trúc không điều hòa-điều hòa của thời gian theo Augustin trên bình diện phản tư đã vạch ra một số những nét nghịch lý mà chỉ có hiện tượng luận hành động mới chỉ ra được phác thảo  đầu tiên; khi nói không có thời vị lai, qua khứ và hiện tại, có nghĩa là chỉ có bộ ba thời hiện tại (một hiện tại của những sự vật tương lai, một hiện tại của những sự vật quá khứ và một hiện tại của những sự vật hiện tại). Ông nại tới Heidegger trong phân tích hiện hữu đóng một vai trò quyết định khi chỉ ra cấu trúc của nội-thời tính (Innerzeitigkeit) là cách tốt hơn để xác định thời tính của hành động, từ một hiện tượng luận về tự ý/bất tự ý sang một ngữ nghĩa học về hành động.
Cấu trúc thời gian qua bốn bình diện của Vargas Llosa, đã nói đến trước đây, cấu tạo thành một thể thống nhất bất hoại. Ông ví nhà văn như người nhạc trưởng  điều khiển và phối trí những nhạc cụ (là những dữ liệu bốn thời mà Vargas Llosa đã phân tích). Harald Weinrich trong Tempus: Besprochene und erzählte Welt (Thời: Tranh biện và thế giới truyện kể 1964) đã liệt kê chỉ trong một chương của tiểu thuyết Madame Bovary đã có hơn bốn mươi câu văn sử dụng trạng từ thời gian. Những thảo luận này sẽ nói đến ở một chỗ khác.
Khi bàn về tiểu thuyết hiện đại, Vargas Llosa đã đối chiếu Brecht với Flaubert, sự tương phản giữa yêu/ghét con người, nhà dân chủ giáo dục/nhà hoài nghi song lại tôn trọng tự do của người đọc - nhưng khởi từ một điểm chung: vấn đề đạo lý và xã hội. Ricœur trong Temps et récit 3 1985 cũng đưa ra nhận xét là tác phẩm như Madame Bovary có ảnh hưởng nhiều đến phong hóa xã hội hơn là những can thiệp hay tố cáo về mặt luân lý của những nhà văn mệnh danh là nhập cuộc: “sự vắng mặt mọi đáp án cho những lưỡng luận đạo đức của một thời đại có lẽ là vũ khí hữu hiệu nhất cho văn chương  hành xử trên những phong tục xã hội và biến đổi thực tiễn. Một trực tuyến đi từ Flaubert đến Brecht”. [sdt, ch. 7, chú thích 52].
Thật sự, Brecht là một hiện tượng khó hiểu (Bert Brecht ist eine schwìerige Erscheinung), như  Benjamin nhận xét trong Versuche über Brecht. Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, ông đã nói “người bôn-sê-vích chẳng biết làm thế nào để phát triển văn chương”, tỉnh mộng trước chính sách văn hóa của Xô viết, những năm sau đó là cuộc lưu đày. Những nghịch lý trong kịch và thơ Brecht, muốn giáo dục quần chúng song lại gặp những trở ngại, những nan đề xã hội, điều Vargas Llosa không thể hiểu.
Phụ chú:
1.Những vấn đề nêu trong phần trình bày trên đây là một phần của khai triển Khái luận về phê bình lý trí văn chương.
2. Gustave Flaubert: sinh năm 1821 tại Rouen và mất năm 1880 ở Croisset, lớn lên trong một nhà thương (vì thân phụ ông là y sĩ trưởng khoa giải phẫu của Hôtel-Dieu de Rouen). Ông mang thể chất yếu đuối nên phải gián đoạn việc theo học luật. Ngay từ thuở thiếu niên, ông đã bị cuốn hút trong những chủ đề khai triển sau này, những bút ký tản mạn như lam bản của những tác phẩm ông viết ra La Tentation de saint Antoine, l'Education sentimentale, Madame Bovary, Bernard et Pécuchet, Salammb6, le Candidat (kịch)những bản văn như Mémoires d'un fou 1938, Novembre 1841, Correspondance 13 q. đã hoàn tất và xuất bản sau khi ông mất. Những bài ký trong du lịch như Par les champs et par les grèves.
Có thể tham khảo tiểu sử của ông qua những tác giả như R. Dumesnil : Flaubert, l'homme et l'œuvre ; Jean Bruneau : Les Débuts littéraires de Gustave Flaubert.   
3. Những tên như  Léon, Charles, Rodolphe, Lheureux, Homais là nhân vật trong tiểu thuyết Madame Bovary, xuất hiện trên Revue de France năm 1856 và xuất bản thành sách năm 1857 : câu chuyện bắt đầu từ chỗ Charles Bovary, nguời học sinh mới nhập lớn trong một trường trung học tỉnh lỵ. Y  học tập hăm chỉ và thi đậu để trở thành y sĩ. Từ đó, y lập nghiệp ở Tostes, gần với Rouen và theo lệnh mẹ cưới một bà góa lớn tuổi nhưng giàu có. Trong một dịp đi khám bệnh, Bovary si mê thiếu nữ con một trang chủ, tên Emma Rouault, và khi vợ mới qua đời, y cầu hôn được nàng. Emma là người ham mê những mơ mộng tiểu thuyết ngay lúc còn học nội trú trường đạo, và luôn luôn mơ mộng hôn nhân này sẽ thực hiện những giấc mơ của nàng. Song nàng mau vỡ mộng với đời sống lứa đôi bình dị, chẳng giống như những khung cảnh đam mê, say đắm như trong tiểu thuyết. Khi họ di chuyển đến ở một thị trấn sang cả hơn, Yonville-l'Abbaye, nàng vẫn gặp lại bầu không khí tầm thường như trước, với những người như Homais, nhà dược sĩ chống tăng lữ và Binet, viên chức thuế vụ khật khùng. Sau khi sinh con gái đầu lòng, nàng gặp gỡ được Léon Dupuis, viên lục sự có dáng dấp như hình ảnh trong mộng của nàng. Tuy Leon chinh phục được tinh thần nàng, song y lại ngỡ nàng không đáp ứng, nên rời bỏ Yonville. Emma thất tình, nên một thân sĩ giàu có Rodolphe Boulanger dễ dàng quyến rũ được nàng. Emma tưởng bỏ di theo Rodolphe, song y ngại tai tiếng đã bỏ rơi nàng. Ở Rouen, Emma gặp lại Léon trong một chuyến đi Paris và trở thành tình nhân của y. Một kỷ nguyên sung sướng bắt đầu, Emma đắm chìm trong những dục vọng sang cả, thiếu nợ và sa vào tay một lái buôn, Lheureux ; gã sở khanh này đòi những món nợ nàng thiếu, và khi cầu cứu Léon không thành, Emma đã dùng thạch tín tự vận. Charles chỉ biết thốt lời : đó là lỗi của số mệnh !   

Đặng Phùng Quân

© gio-o.com 2011                                

NHÃ CA * BÀ BẮC VÔ NAM TÌM CHỒNG

Nhã Ca
Bà Bắc Vô Nam Tìm Chồng
Đó là một bà vợ Bắc kỳ có chồng tập kết từng một thời quen mặt với khu phố Tự Do- Lê Thánh Tôn. Không ai cần biết tên bà ta là gì, nghe nói giọng Bắc thì gọi là bà Bắc. Bà ta nhỏ thó, gầy gò, khuôn mặt nhọn hoắt vì hai gò má cao quá, có hàm răng hô khó khép miệng, lúc nào cũng như cười mà không phải cười.
Thời đánh Mỹ cứu nước, ông chồng tập kết của bà phải trở lại miền Nam. Đại thắng mùa xuân, ổng về thành phố gặp lại vợ cũ, vậy là cặp lại, bà vợ Bắc kỳ ra rìa.
Đôi vợ chồng cũ được cấp hai phòng lớn trên một tòa bin-đinh góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn. Vợ cũ còn tài sản, mua cho chồng chiếc xe Honda kiểu đàn bà. Bà vợ Bắc Kỳ vô Nam dành chồng, bà đã ở lì khu xóm này cả năm, đi kiện, ăn vạ, làm đủ kiểu, chửi xiên xỏ, nói móc nghéo, cả hai vẫn trơ trơ. Rồi chính bà ta phải lặng lẽ biến mất.
Bẵng đi một thời gian, bà Bắc xuất hiện lại trên đường Tự Do. Vẫn chiếc quần đen, chỉ cũ hơn, sờn rách hơn và cái áo nâu thêm nhiều miếng vá hơn, vải có co rút mà người mặc càng lúc càng thấy rộng, chỉ là bà đã gầy tới không còn cách nào để gầy hơn. Khuôn mặt, hàm răng hô như mái hiên tơi tả, thêm nỗi đau không khép miệng được, và thay vì cái mếu, thì nó đã trơ răng ra, mới nhìn, thoạt giống cái miệng cười !
Một buổi sáng cuối năm, khi chị Mùi mở cửa lấy thùng rác vào thì đã thấy bà Bắc ngồi lù lù trước cửa.
"Mèn ơi, dì vô khi nào vậy ?"
Bà Bắc hỏi:
"Bà Muội dậy chưa?"
Bà Bắc, trước đây hay "ngồi dính" mấy bậc cấp này để ngó cho rõ "kẻ đoạt chồng", đã thường kể lể tâm sự với bà Muội. Khi còn cơm thừa, cá cặn, bà Muội lén đem cho người đàn bà khốn khổ này.
"Dì hổng biết gì hết trơn sao ? Bà cháu ở riêng với cô Hợp rồi..."
Người đàn bà chưng hửng:
"Thế à ?"
"Dạ. Cô Hợp cháu lóng này ăn nên làm ra. Cô là ca sĩ nổi tiếng lắm, có hình đăng nhựt trình đó, dì..."
Có tiếng trong nhà réo gọi, bà Bắc nhìn vô, bóng dáng hai tiểu thư thấp thoáng, cô nào cũng nhớn quá là nhớn.
"Hở một chút là hổng được, kêu réo om sòm..."
Chị Mùi lắc đầu, kéo tấm cửa sắt lại.
Còn lâu con đường này mới có sinh hoạt. Cũng còn lâu, bà Ba bán thuốc lá mới khệ nệ bưng sạp ra, đặt trước cửa bin-đinh. Bà nhớ, ông thường đi làm trễ. Ông vẫn làm ở cơ quan báo chí gì đó. Dáng người ông rắn rỏi, tóc hoa râm, áo sơ mi trắng, quần xanh, trông cứ trẻ trung hoài. Thấy ông dắt chiếc xe Honda nữ, sao mà giàu có sang trọng quá. Nhiều khi thấy trên môi ông gắn điếu thuốc, khói bay vu vơ, bà hâm mộ quá, những lời cay đắng không làm sao thốt ra được. Chỉ khi nào có con mẹ, quần xoa đen, lót tót vội theo và nhảy ngồi đằng sau xe, lúc đó, máu ghen mới dâng lên, bóp nghẹt cổ, và bà nói bậy nói bạ, chửi bới như con mẹ điên.
"Hê, bà Bắc vô khi nào dzậy ?"
Bảy cà tong đây mà. Còn hỏi nữa:
"Tính dàn trận nữa sao đây, bà."
Bà Bắc lắc đầu. Thua lâu rồi. Chẳng qua, lết vô đây vì uất, vì hận, và cũng vì ở ngoài không có công việc gì để sống nữa. Căn hộ được chia như cái chuồng chim, tù túng, khi đứa con dâu có thêm một đứa con thì bà không còn chỗ đặt chân.
"Đi đâu sớm thế ?"
"Đi làm. Thôi tui đi kẻo trễ xe buýt nghen chị."
Bảy cà tong tất tưởi bước đi. Bà Bắc nhìn theo, cái miệng cười há hốc thèm thuồng. Để vào được đến đây, lần này, bà ta đã phải ăn xin ngay từ trên xe hỏa.
Bà Bắc tiếp tục thả bộ qua công viên. Dân bụi đã đi kiếm sống, chỉ còn con Quê đang cho con bú bình sữa. Con này chị biết, nó đã rà mòn đường Tự Do này rồi.
"Mày đẻ rồi hả ?"
Con Quê nhìn lên. Người đàn bà này đâu xa lạ gì. Trước đây nó cũng không thích bà ta. Lúc nào cũng thấy bà ta ngồi bệt xuống đất, trước, hoặc cạnh bin-đinh, chửi xiên chửi xéo nhức cả đầu. Mà sao, mới đây, trông bà đã bệ rạc tiều tụy vậy ?
"Giai hay gái, hả ? Thằng cu hay cái đĩ thế ?"
Nghe hỏi tới Bò Lai, con Quê thấy vui.
"Thằng cu, thím. Nè, thím ngó..."
"Ối giời ! Thằng cu kháu quá nhỉ ? Mà "lày", tớ hỏi không phải đừng “rận”, "ló nai” Tây gì thế ?"
"Biết đâu, thím."
Giọng người đàn bà có chút ghen thầm:
"Mày mà cũng "nấy" được Tây cơ à ?"
Con Quê suýt cười lớn. Ối giời, chỉ mong là đừng dính, đừng đẻ, chớ để bình thường thì đường Tự Do này mấy năm nay, con lai các nước chạy đầy như cóc nhảy trời mưa ! Báu gì ! Nó hỏi:
"Thím muốn có một đứa hôn ? Muốn thì đẻ".
"Tao ? Mày nói cái gì thế ?"
"Phải, thím cũng hết đẻ được rồi !"
Thấy con Quê nói chuyện hay hay, bà Bắc ngồi xuống.
"Mày cho tao "bế" nó một chút. Kháu ơi "nà" kháu, xinh quá "nà" xinh chứ "nị"... Cho bà bế tí nào..."
Làm như đứa con lai nó khác con người mình, bà phủi phủi vạt áo, chùi hai tay vào nhau, rồi đưa tay ra. Bế cũng nhẹ thôi, không dám ôm siết, ngắm nghía. Thằng bé không được mũm mĩm lắm, da trắng như trứng gà bóc, mắt xanh mà lông mi thưa, màu vàng như tóc. Bà nghĩ, ở ngoài Bắc, nhà nước nhồi nhét bắt nhân dân ghét thằng Mỹ, thử hỏi, ai ngoài miệng không phải nói "ghét", nhưng nếu bà có một đứa cháu như thế này thì ước mười đời cũng không có. Nghĩ cũng hãi, nếu con gái bà mà đẻ ra một thằng cu như này, ngày trước ở Bắc thì có yên mà sống không đã nào, nói gì việc lo cho cháu ? Mà thằng nhỏ chắc gì sống nổi mà lo !
"Nó đẹp quá "nà" đẹp... Cho bà hít một cái "lào". Bố đĩ nhà mày, biết cười chưa nào. Biết cười một cái cho bà ngắm, hả, hả...?"
Bà Bắc say sưa với thằng bé. Con Quê thấy bà nựng nịu con mình cũng bớt dần ác cảm.
"Thím mới vô ?"
"Ừ. ."
"Sao thím không ở ngoải cho khỏe, vô ra hoài tốn tiền lắm."
Đang vui vẻ nựng nịu thằng bé, mặt người đàn bà héo úa.
"Ở ngoài đó không biết lấy cái "rì" mà ăn."
"Vô đây cũng vậy, không nhà cửa, khổ lắm, thím biết ?"
Người đàn bà thở dài. Bà kể:
"Ở ngoài đó, tao cũng khổ lắm, đói là đằng khác mầy ơi ! Có căn hộ ở quê, phòng không ra phòng, con giai, con dâu, cháu, ba người đã không quay trở được. Chúng nó cũng khổ, mà mày coi, cha chúng nó như thế, đi Hon-đa đẹp "nà" đẹp", ăn mặc sang như lãnh đạo, mê con mẹ "cướp chồng" tao, có màng gì đến con với cháu..."
"Hồi lấy bà có làm giấy tờ không ? Sao bà không đi kiện ?"
"Ối giời ! Hồi đó đánh nhau gay lắm mầy ơi. Tao lấy ông là đám cưới tập thể, có cơ quan chứng nhận đàng hoàng. Tao có hỏi cấp trên, họ trả nhời, ông ấy cũng có hôn thú với người vợ trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ nữa là do hoàn cảnh chiến tranh, “nà” đảng chỉ đạo. Nay thống nhất, ông ấy không bị tội, mà kiện "rì" mày ơi, đời này đồng bạc đâm xoạt tờ giấy, ai "nại nà" không biết."
Con Quê cảm thấy xót thương người đàn bà Bắc, mỗi người, mỗi nơi, khổ vì những cảnh ngộ khác nhau.
"Vô đây, thím lấy gì sống ?"
"Tao cũng chưa biết lấy "rì" sống. Ở ngoài, tao nhờ viết cả chục đơn kiện không ở đâu xử hết. Ức quá, tao vô đây, ‘nần này nà’ tao liều mạng... "
"Rồi thím ăn ngủ ở đâu ?"
"Thật giời có mắt, cái bà Ba bán thuốc lá bên kia kìa, mày biết không, nói ra "nà" người cùng "nàng" với tao khi xưa. Không có bà ấy tao "nàm" sao dám vô đây. Ối này, nó bĩnh ra rồi đây, mày có ngửi thấy mùi "rì" không ?"
Con Quê đón lấy thằng nhỏ. Cái áo cũ quấn đã muốn thấm ướt ra ngoài. Nó lấy đồ thay cho con. Coi, bả ngồi chòm hỏm, mắt nhìn chăm chú soi mói. Bộ cứt con lai khác cứt con người mình sao mà ngó dữ thần vậy, thiếu điều đưa ngón tay quẹt cho vào miệng thử. Con Quê buồn cười sự thật thà của người đàn bà Bắc nên khi cúi xuống gầm ghế đá, lôi ra ổ bánh mì thịt để nguội từ hôm qua, của thằng Được gửi cho, nó bẻ ổ bánh ra làm đôi:
"Thím ăn một miếng đi. Đói bụng lắm phải hôn ?"
Bà Bắc cười, có chút ngượng ngập.
"Không... không thấy đói..."
"Nhìn thím là biết. Cái bụng xẹp lép hà... Thôi, cầm đi, còn ngượng gì chớ. Tui mời thiệt à nghen."
Vẫn còn cái thói giữ kẽ của người miền Bắc:
"Không dám đâu."
Con Quê xởi lởi kiểu miền Nam "ruột để ngoài da":
"Ăn đi mà, mời hoài mệt quá !"
Thì ra vậy, không nề hà, không kiểu cách. Bà Bắc nhìn con bé cụt một tay, bế đứa con lai trên cánh tay còn lại, mặt mày khắc khổ, thiếu ăn, ốm đói, nhưng vẫn có một vẻ gì nhẫn nhịn, chịu đựng. Thương con bé, bà cầm tay thằng nhỏ hít hít:
"Con mẹ mày tốt quá !"
"Bữa nào không có chỗ, thím qua đây ngủ với tui nghen."
"Tao sợ..."
"Sợ gì ? Tui đây nè, cũng không nhà không cửa, tui ở đây ai làm gì tui. Thím biết, nhà của trời, của đất cho mình chớ của ai mà sợ, thím."
Nói thì phải. Nhưng sự thật không có dễ vậy đâu, bà Bắc biết. Bà cảm kích con Quê lắm.
"Nuôi thím thì không được, tụi này cũng đói lắm, nhưng chỗ ngủ thì tụi này nhường. Tui bảo đảm cho thím, hổng sao đâu, đừng sợ."
Nhớ ra, hồi trước nó ăn ở với một thằng. Bà ta có nhìn thấy, một đứa đi, một đứa bò, giỡn hớt, đuổi nhau, cười cợt nối đuôi khít rịt trên đường phố.
"Thằng kia đâu rồi ?"
Con Quê chưa kịp nhớ ra:
"Thằng nào, thím".
"Cái thằng nó chỉ bò. Sao không thấy nó đâu ?"
À, thằng Bò. Con Quê nuốt một tiếng thở ra. Lại có người nhắc. Nó ở đâu, có ông trời biết. Nó cũng từng ngửa mặt lên trời, kêu, xin giúp nó. Ông cũng làm ngơ rồi. Còn có tin nó được đưa đi Mỹ chữa bệnh. Bệnh gì nó chớ, có tật trời sinh thì còn chữa gì nữa. Chuyện hoang đường !
"Không biết, thím."
"Bộ nó bỏ mày hở ? Sao thằng đó độc thế ?"
"Không phải đâu thím ơi. Bị bắt. Công an bắt đó."
"Bị bắt ? "nàm" sao mà tin được. Giời ơi, nó "nàm rì" mà bị bắt chứ ? Bắt thì cũng phải thả..."
"Tui biết đâu, thím. Bị bắt, ai cũng thấy, chỉ không thấy về..."
Người đàn bà thở dài. Sao cảnh ở đâu cũng vậy, trong này hay ngoài kia cũng đầy người khổ như thế. Chịu thôi. Thấy con Quê cứ thở ra. Thở ra, nuốt vô, đã quá thường đối với những người như chị.
*
Khi bà Bắc trở lại góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn thì dì Ba đã dọn xong hộp thuốc lá. Dì Ba ngồi đằng sau hộp thuốc, gác một chân lên kiểu "nước lụt", ngó mông lung. Thấy người đàn bà bất thần hiện ra, khuôn mặt dì Ba không được vui.
"Lại vào rồi hả ?"
"Vâng."
"Bà thiệt chưa tởn ? Người ta đã không ngó ngàng, làm cách chi cũng trơ trơ vậy thôi..."
Giọng dì Ba nửa Bắc nửa Nam.
"Ở ngoài đó sống không nổi..."
"Vô đây sống nổi ? Bà không biết thì thôi. Tui vì bà cũng bị cảnh cáo mấy lần. Lần này không yên với họ đâu."
Người đàn bà cúi đầu. Mấy sợi tóc bạc không ăn nếp trong vành khăn rung rung. Dì Ba lại thương cảm, thở dài:
"Đã nói rồi, kiện tụng còn chưa đi tới đâu. Người ta làm lớn, nhà báo kia đấy bà ạ... Gớm, hà tiện vắt cổ chày ra nước. Lâu lâu, ve chai cân báo “Sài Gòn Giải Phóng”,, ghính một ghính đi không nổi. Tiền không đó. Bà lấy cái gì ra mà so với người ta..."
Thấy người bạn cùng quê cúi đầu, khuôn mặt khổ ải, dì Ba lại sót, giận:
"Đã nói ở ngoài đó cho yên. Làm cái gì được nữa mà ra với vô. Nó có sót có thương gì không ? Tui thấy là... Còn nữa, con mẹ còn nói xỏ nói xiên tui... a, dám chứa dân lậu, không giấy tờ, không hộ khẩu. Con này cũng đừng tưởng, không vừa. Xăn quần, chống tay vặt lại liền.. vặt cho một cái là im re, tưởng giỏi...Thấy bất bằng, không nhảy vô tức chết !"
Còn nữa, hễ thấy bà Bắc này là dì Ba nhớ quê:
"Ngoài ra sao, có khá hơn không ?"
"Ôi dào, khá cái "rì" mà khá. Chúng "ló" giàu lên, dân mới "nà" khổ nhiều chứ "nị"..."
"Ruộng ngoài đó, có máy cày chưa ?"
"Máy ? Máy "nà" cái "rì" ? Con trâu còn không có mà cày, người làm trâu cày thế thôi... "
Như sợ dì Ba không hiểu ra, bà tiếp:
"Mới đây, bên Tàu mua móng trâu giá cao lắm, vậy là ở quê mình, chặt, lột móng trâu đem qua biên giới bán, trâu còn mấy con !"
"Mua làm gì vậy ?"
"Tui "nàm" sao biết được. Chỉ biết giá cao lắm, bốn bộ móng chân mua giá nhời hơn bán một con trâu mới "nà nạ"..."
Lạ quá ! Nhưng cả hai người đàn bà đều không hiểu. Họ nói qua chuyện khác. Đến trưa, dì Ba mua bánh mì ăn, bà Bắc lại được nửa ổ.
Cả buổi chiều, bà Bắc đi xuống đi lên con đường Tự Do, ngắm nhìn dãy phố quen thuộc với những tiệm buôn. Đã thay đổi nhiều. Vài tiệm đóng cửa, vài tiệm đã thay đổi mặt hàng khác. Xuống nữa là khách sạn, nhiều Tây Mỹ ra vô quá. Bộ thằng Mỹ nó trở lại rồi sao ? Theo sự hiểu biết của bà thì nhà nước thù thằng Mỹ lắm, đời nào để cho nó sang nước mình đi khơi khơi như thế. Bà nhớ ở ngoài Bắc hồi đó, bắt được một thằng Mỹ giặc lái là trói gô lại, dẫn đi khắp đường làng quê, hô hào, vận động bà con căm thù, ném đá. Người vận động là ông chồng của bà chứ ai ? Bà nghe chồng, đã ném đá, nhiều hòn đá đã ném trúng. .. mà kể cũng lạ, ném trúng mà bà không thấy vui, còn thấy chùn tay... Không lẽ trở mặt nhanh như vậy, chắc là mấy ông "Liên Xô" cố vấn vĩ đại thôi. Bà ngó hoài từng tốp đi ra đi vô khách sạn, như con mán lạc chợ !
Bà canh giờ trở lại chỗ bán thuốc lá của dì Ba. Trước giờ công nhân viên đi làm về thì không trật được. Phải nhìn cho rõ coi con đàn bà giành chồng ra làm sao, thằng đàn ông phụ bạc thế nào. Dì Ba hỏi chuyện, bà không định tâm, trả lời tầm bậy tầm bạ. Dì Ba lắc đầu:
"Khổ, già hai thứ tóc mà còn chưa muốn yên. Ghen cái gì nữa mà ghen!"
Không uổng công chờ. Chiếc xe Honda phụ nữ từ ngã tư Lê Thánh Tôn quẹo lại, tấp vô lề. Ông đó. Bà run lên. Phải mà, con người đó, cánh tay đó, đã từng ôm ấp bà suốt mười mấy năm với cuộc sống gian truân, cùng khổ. Vậy mà bây giờ, con người đã khác đi, béo tốt, tươi tắn. Còn con đàn bà đâu không thấy ? Chắc giờ này nó đang dọn mâm cơm ở trên lầu cao kia. Bà đứng như trời trồng nhìn ông dẫn chiếc xe lên lề. Ông chợt nhìn thấy bà, ánh mắt vừa thoáng gặp đã quay đi. Bà chạy lại:
"Ông..."
Ánh mắt quắc lên:
"Lại vô nữa, vô đây làm cái gì ?"
"Tui..."
"Hừ. Đừng có lải nhải…”
Lạnh lẽo, tàn nhẫn, ông dẫn chiếc xe vào bên trong nhà. Người đàn bà lùi lại đứng kéo vạt áo nâu rách lên chùi nước mắt.
Hôm đó, bà Bắc lang thang cả buổi tối, buồn bã, thất thần. Bà cũng không ngờ ma đưa lối quỷ dẫn đường gì mà khi gặp ông, miệng bà cứ gọi, cứ hỏi... Bà còn biết con đường nào để đi. Về quê, con trai trăm bề vật lộn với sinh kế, con dâu phàn nàn thêm một miệng ăn, thằng cháu thì có lần chửi bà "Đéo mẹ mày, không bà nội bà ngoại gì hết”. Phân bua thì con trai đấm ngực kêu trời, con dâu đay nghiến "Bà không ra bà, cháu nó mới hỗn".
Đường phố buổi tối nhộn nhịp. Qua một con đường, bà nghe tiếng nhạc inh tai nhức óc. Toàn là người ăn vận lịch sự, con trai con gái từng tốp. Con gái ở trong này ăn mặc như vậy sao ? Váy ngắn cũn cỡn, áo mỏng bày cả da, còn bá vai bá cổ con trai, cười đùa, giỡn hớt. Bà thấy chói mắt, xót trong bụng quá... Bà lại lầm lũi đi ngược trở lại, lúc băng qua đường ở nhà hát thành phố, suýt chút bà bị một đoàn xe đạp đang đua tông phải. Bà nhảy được lên lề đường, mặt tái xanh mà trống ngực đập liên hồi.
Đứng một lúc cho cơn sợ giảm đi, bà mới lo đi tìm chỗ ngủ. Lúc này đã khuya, chắc dì Ba ngon giấc lâu rồi. Bà nhớ tới con Quê, vội bước tới công viên.
Khu công viên tối thui, bà con ngủ cả rồi chứ gì? Càng hay, sẽ không ai nhìn thấy bà ta. Bà Bắc cẩn thận bước lên mấy bậc cấp. Có mấy con gì nhúc nhích từng cục ở cạnh bụi cây? Bà định thần nhìn xuống, suýt nữa kêu lên. Một cặp đang làm chuyện "bậy bạ". Bà lắc đầu, bước tới nữa, lại đụng một bóng người đang đi tha thẩn:
"Con mẹ mày, ở đâu tới đây ?"
Bà Bắc đứng lại. Mũi bà thoáng ngửi một mùi thơm hăng hắc. Cô gái tóc xõa, gầy còm, lại nạt tiếp:
"ĐM. Cút xéo ngay... Mắt với mũi để đâu ?"
Bà đoán ra rồi, một cô gái "bán hoa" đây thôi. Bà cũng không vừa:
"Này, cái đĩ, tông người ta còn "na" cái "rì", hở ?"
"Nói ai là cái đĩ, con mụ kia..."
Trong bóng tối, một giọng:
"Nè, việc ai nấy làm, ồn ào nửa đêm nửa hôm... ĐM con nào đó..."
Cô gái lỉnh. Bà Bắc cũng nín khe. Một sự nhịn chín sự lành mà, mấy chục năm bà đã quen nhịn.
Lần đến chỗ con Quê, ghế đá bỏ trống. Bà ngồi xuống, rồi mệt mỏi, bà đặt lưng, và ngủ liền.
Ai kéo, ai đá bà bình bịch vậy. Bà trở dậy. Một người đàn bà bế đứa bé con.
"Ai cho nằm đây ngủ, đồ vô duyên..."
"Tui...."
"Kinh tế mới phải không ? Ở đây không còn chỗ chứa, tìm chỗ khác đi..."
"Tui không phải kinh tế mới đâu..."
"Không phải ? Ở tù ra phải không ? Biết mà, coi, kiểu này là mới ra khỏi tù. Tội gì ? Ăn cắp, lường gạt ? Vô gia cư há ?"
Tất cả các tội người kia nói ra bà đều không có. Nói là "vô gia cư", bà có một chỗ che mưa che nắng ở ngoài quê kia mà, nhưng giờ đây...
"Sao, hổng trả lời... Muốn gì nữa đây ? Tính ăn cắp gì đây ?"
Khó khăn lắm bà mới lên tiếng được.
"Tui tìm con cụt..."
Bà định nói "con cụt tay...", nhưng sợ chọc giận người đàn bà kia nên sửa lại:
"...con...Que. .."
"Ở đây không có ai là que, là nhánh gì hết trơn... Bà đừng có nói láo... Đi đi..."
Bà Bắc nhận ra đứa nhỏ trên tay chị đàn bà rồi, cái thằng bé lai mà lúc sáng bà đã bồng, đã ôm...
"Tui tìm gặp mẹ của thằng bé này này.
Người đàn bà là chị Thìn, ngó kỹ bà ta một lần nữa....
"Chị biết ?"
"Vâng, mẹ của nó... cụt một cánh tay..."
"Xì, cụt tay thì ăn nhằm gì chớ !"
"Vâng, vâng..."
Chị Thìn ngần ngại. Lỡ họ quen biết nhau thì sao. Chị muốn gọi chị Bảy hỏi cho ra lẽ, nhưng giờ này Bảy cà tong cũng đã ngủ. Tự nhiên chị thấy giận con Quê. Giờ này còn chưa thấy về. Làm ăn thì cũng có chừng mực chớ. Chết nghen con ! Nhưng rồi giọng chị vui mừng:
"Kia, con Quê nó dzìa..."
Con Quê tới, ngó bà Bắc:
"Thím phải không ? Tui tưởng ai..."
Chị Thìn:
"Tao cũng tưởng ai nên tới đuổi bả đi đó mày..."
"Hiểu lầm hết. Nè, thím, đây là chị Thìn, còn đây là thím... thím gì...à thím Bắc...Bắc là tên thím, còn thím ở ngoài Bắc mới vô..."
Chuyện gì lạ vậy. Bộ con Quê có bà thím ở ngoài Bắc ? Bà con mới ở trên trời rớt xuống ? Con Quê liếng thoắng:
"Chị Thìn tốt lắm thím. Hổng có bả là tui mệt rồi, đâu biết nhờ ai coi con để đi làm..."
Bà Bắc ngơ ngác:
"Đi làm giờ này ?"
"Phải, đi làm vào ban đêm chớ ban ngày tìm đâu ra mối..."
Tai bà Bắc nghễnh ngãng, nghe chữ mối, không hiểu rõ lắm, đoán, con này đêm đi bắt thằn lằn rắn mối sao ? Nếu có vậy, bà cũng đi bắt kiếm ăn, khó khăn gì.
"Rắn mối ở đây nhiều lắm hả ? Đâu, tao đi bắt cùng..."
Con Quê cười rộ. Rồi chợt nhớ đang nửa đêm nó bịt miệng lại. Còn chị Thìn thì lắc đầu, chê người đàn bà quê mùa, lại là thím của con Quê. Ở đâu ra có bà thím vậy.
"Mày bà con với bả ?"
"Không đâu chị Thìn. Tui biết bả lâu rồi nhưng mới nói chuyện sáng nay thôi..."
"Mới sáng nay... mèn ơi...Mày khùng rồi..."
Con Quê nói:
"Khùng gì, thì cũng như chị, không có thằng Hôi giúp, còn lâu chị mới nhập hộ được đây. Giúp người ta làm phước bà à..."
Con Quê bế thằng bé.
"Cám ơn chị Thìn, chị dzề ngủ nghen... Thôi được rồi, để tui..."
"Để tôi..."
Bà Bắc lại đón lấy thằng bé. Chị Thìn nhìn, lắc đầu bỏ đi. Chị còn biết nói gì nữa, hoàn cảnh chị, nếu không có thằng Hôi, không được dân bụi thương, giờ chị ra sao rồi...
Buổi tối hôm đó con Quê thu xếp cho bà Bắc ngủ chung cùng một chiếc chiếu. Chưa quen cảnh màn trời chiếu đất, bà Bắc khó ngủ, thức chong đến gần sáng mới thiếp đi một lúc. Vậy chớ sáng ra, bà Bắc cũng bỏ tiền ra mua khúc bánh mì đãi con Quê, tỏ lòng cảm kích.
"Mèn ơi, ai biểu thím mua. Tui có tiền nè..."
Con Quê còn dọa:
"Ở đây khó kiếm tiền lắm, giữ mà tiêu. Thím thì hết đi bắt "rắn mối" được rồi.
Bây giờ thì bà Bắc đã hiểu đi "bắt mối" không phải là bắt thằn lằn rắn mối. Rõ là bà không đi "bắt mối" được. Hai thím cháu cười nói vui vẻ. Con Quê định tối nay, nói với chị Bảy cà tong, giúp đỡ cho thím Bắc sinh sống chung ở đây. Nhưng đến tối nó lại "đi làm" sớm, Bảy cà tong bận. Lúc chiều, thím Bắc lại sang ngồi bên thùng thuốc lá với dì Ba, con Quê bỏ lỡ dịp giới thiệu. Phải mấy ngày sau, bà con mới biết rõ. Ai cũng thương con Quê, và khi nghe hoàn cảnh của thím Bắc, không ai nỡ xua đuổi. Sợ xẩy ra chuyện, con Quê dặn chị Thìn:
"Nhớ canh chừng bả, không bả lại nổi điên nổi khùng sinh chuyện..."
Chị Thìn phàn nàn:
"Tui đã canh giữ hai đứa nhỏ, lại còn canh chừng bả nữa, có là ba đầu sáu tay..."
Thiệt ra, ba đầu sáu tay cũng không canh giữ thím Bắc đươc. Vài ngày sau, mọi người dỗ dành, khuyên bảo tưởng đã nguôi ngoai. Vậy mà một buổi sáng lại sinh chuyện.
Lúc đó, bà Bắc ngồi với dì Ba ở thùng thuốc lá. Dì Ba ngồi trên ghế còn bà Bắc ngồi bệt dưới đất. Họ cùng ăn mấy củ khoai lang bọc trong tờ giấy vở học trò tèm nhem màu mực tím. Ở góc đường, sáng sáng có một bà cắp cái thúng bán khoai lang luộc, đắt hàng lắm.
Thình lình, bên trong, ông "nhà báo" dắt chiếc xe ra, bà vợ, quần đen láng, áo xoa thêu, cầm cái giỏ xách ni-lông, loại mới sản xuất của một công ty quốc doanh làm ra do nhựa tái sinh. Thím Bắc ngừng nhai, củ khoai nằm trên tay.
"Con giành chồng".
Người đàn bà quê mùa, tội nghiệp đứng bật dậy. Miếng khoai lang đang ăn dở rơi xuống đất. Hàm răng chìa ra và ánh mắt căm hờn. Dì Ba nắm tay người đàn bà:
"Thôi đi. Làm gì đây ?"
"Tôi..."
Giọng bà Bắc nghẹn ngào. Người vợ đang dướn người để ngồi sau yên xe. Xe nổ máy chờ. Thình lình bà Bắc nhào tới. Nhanh nhẹn, một tay túm cục tóc bối, một tay xô. Người đàn ông nhảy xuống khỏi xe, giằng vợ lại. Chiếc xe ngã, nằm vắt trên lề đường, máy vẫn nổ.
"Làm gì thế, hả ?"
"Con cướp chồng, tôi sống chết với nó... "
"Dang ra..."
Với người đàn ông đã từng cầm súng, từng vượt Trường sơn, một người đàn bà ốm đói như bà Bắc thì có nghĩa lý gì. Xô mạnh một cái, bà Bắc ngã xuống đất, đầu đụng vào lề đường kêu đánh cốp một tiếng.
"Ối giời ơi, nó giết tôi..."
Bà dãy đành đạch, kêu làng kêu nước, kêu ông phường, ông quận, ông sở công an, kêu luôn cả bác Hồ. Người đàn ông đỡ người vợ miền Nam, cơn giận làm mặt ông ta xanh dờn, hiện rõ từng nét nhăn. Tiện chân, ông đá bà vợ miền Bắc một cái rồi dằn chân lên người bà.
"Con đàn bà khốn nạn..."
Thằng Phu sửa xe cùng dì Ba chạy tới một lượt đỡ người đàn bà khốn khổ lên.
"Ông làm gì đánh người ta..."
Thằng Phu sừng sộ. Bên mé đầu của bà Bắc, máu rỉ ra, ướt mèm một mớ tóc, chảy dàn xuống một bên mặt.
"Quân giết người, bớ ông phường, bớ nhà nước..."
"Mày dám chửi cả nhà nước ? Con đĩ già... "
Ông xông tới. Một cú đá nữa, người đàn bà lăn xuống lề đường. Không nghe bà ta kêu la gì nữa. Dì Ba:
"Đánh chết người sao đây, coi..."
"Nó làm bộ, giả chết... Màn này thuộc lắm rồi..."
Ông ta dựng chiếc xe dậy. Máy vẫn nổ. Người vợ leo lên yên sau, tay ôm chặt eo ếch chồng. Chiếc xe vù đi, mất dạng.
"Khổ, còn ghen cái gì nữa mà ghen chớ. Sao mà ngu... "
Dì Ba cùng thằng Phu đỡ bà Bắc dậy. Bà đã bất tỉnh, máu trên đầu chảy rỉ rả. Quýnh quáng, dì Ba lấy một bánh thuốc lào gỡ ra, dém vào mảng đầu bị rỉ máu. Thằng Phu:
"Chở bả vô nhà thương đi..."
"Nhà thương gì mày, vô cái nhà ghét đó còn chết chắc hơn nữa mậy."
Chị Mùi và mấy người đàn bà nữa chạy ra. Bà Bắc được vực vào phía sau cầu thang, chỗ trú mưa nắng của dì Ba. Chiếc ghế bố được dựng ra và người đàn bà khốn khổ được đặt nằm trên đó. Con Quê và chị Thìn tất tả tới với mớ bông gòn và chai thuốc đỏ mới "năn nỉ" xin được bên nhà thuốc quốc doanh. Một lúc sau, bà Bắc đã khá hơn, mở mắt, nói được, nhưng toàn là nói sảng.
"Có sao không vậy nè ?"
Con Quê nóng nảy. Dì Ba thở ra:
"Tình đời vậy đó, khi lấy người ta, vợ vợ chồng chồng, một ngày cũng là tình nghĩa, con người hơn con chó một chút là ở chỗ đó thôi... "
"Thằng chả đánh ?"
"Thì ai vô đó, bây."
"Đồ ác nhơn, trời đánh nó đi."
"Đánh xong còn tàn nhẫn bỏ đi..."
"Rồi bả chết thì sao ?"
"Sao nữa. Chó chết là hết chuyện..."
"Phải vậy hôn ?"
"Hơ, vậy thì sao? Thưa đi. Mà thưa ai. Người ta là cán bộ, muốn bỏ tù ai còn được nữa kìa..."
"Ờ hén !"
Buổi khuya hôm đó, dì Ba biết người đàn bà này sẽ không chết chóc gì. Nhưng lúc bà ta tỉnh dậy, đòi uống nước. Bà cầm ly nước trên tay, bàn tay run rẩy và nước sóng đổ ra ngoài. Dì Ba trách:
"Mèn ơi, cẩn thận một tí được không..."
Bà Bắc cười. Vậy là ổn rồi. nhưng nụ cười không ngừng ở đó, mà cười nữa.
"Làm cái gì vậy ? Ma bắt sao cười dữ thần vậy, má !"
Dì Ba rủa. Bực mình quá đi chớ. Bộ chuyện vui lắm sao cười ! Vậy mà bà Bắc cười nữa.
"Vui lắm sao cười hoài vậy ?"
Giọng bà Bắc như một người nào khác:
"Vui ? Cũng vui chứ "nị". Cái đầu tui sao nó quay vòng vòng..."
"Có sao hông đây?"
Giọng Bắc của dì Ba lại đặc tiếng miền Nam. Bà Bắc đưa tay lên đầu xoa xoa, ly nước cầm một tay lại sánh ra ngoài.
"Chị nói cái "rì" thế !"
"Cái mả bố bà. Vớ vẩn ."
"Hi hi, cái mả bố. Mả bố... mả bố...
Dì Ba mở to mắt ngạc nhiên. Dưới ánh sáng của ngọn đèn từ phòng sau, nơi làm kho dọi tới, khuôn mặt bà Bắc đã như một người nào khác lạ. Vẻ khắc khổ, hờn oán đã tiêu tán mất đâu rồi. Trông cái mặt nghệch ngạc, cái miệng có hẳn nụ cười chớ không chỉ hở hàm răng hô. Vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, dì Ba nạt:
"Nói cái gì vậy hả ? Điên rồi hả ?"
"Ai điên ?"
Nói xong, bà Bắc ôm mặt. Ly nước bà đòi uống chưa có một giọt vô miệng.
"Đau đầu quá, tui ngủ..."
Bà Bắc nằm xuống, quay mặt vô tường, im lìm. Dì Ba lắc đầu. Lôi cái chăn cũ, bà trải ngay dưới chân ghế bố, đặt lưng xuống. Kệ chuyện gì xẩy ra, còn ngày mai mệt nhọc đang chờ. Hễ mở mắt ra là thấy khổ ! Chiếc ghế bố rung lên. Thì ra, bà Bắc cũng không ngủ.
Sau bữa "đụng độ" ít lâu, suốt ngày bà Bắc lân la bên con Quê và thằng “bò lai,” trở thành “thím Bắc” của xóm bụi. Con Quê lại thêm một miệng ăn.
Dì Ba sau đó nói phóng lên là bà Bắc khùng khùng. Khùng gì đâu. Chị Thìn cãi. Khùng gì mà khôn quá chừng. Đi qua đường biết tránh xe, bế con cho con Quê, biết rửa ráy, lau cứt đái cho thằng nhỏ gọn ghẽ.
Chiều ba mươi tết năm ấy, Bảy cà tong nấu một nồi cơm nếp. Con Nết gặp mối sộp, ra chợ Cũ mua hai con vịt quay. Nước lạnh do mụ Cùi mang từ máy nước. Chị Thìn và con Kiểm góp gói đậu phọng nấu với mấy củ khoai lang.
Ăn tết vui vẻ, dân bụi chọc thím Bắc:
“Nó "nấy" chồng của thím, thím không đánh chết cha con đĩ đi..."
Thím Bắc lắc đầu, trề môi:
"Mình khôn rồi, không ngu tranh thủ nữa."
Rồi thím cười:
"Cho nó hầu chết mẹ luôn !".
Đầu năm, thấy "chồng cũ" chở con mẹ "giành chồng" xuất hành, thím chỉ đứng nhìn theo với ánh mắt hiền lành, với cái miệng cười quá khổ không thể khép lại nữa.
Trích Đường Tự Do Saigon, tập II
NHÃ CA

WIKIPEDIA * CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt NamChính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 19531956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ.
Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô hình thổ địa cải cách của Trung Quốc (19461949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để[1] với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc[2].
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, với tình hình nông thôn Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn khác nhau, việc áp đặt giáo điều các biện pháp đã gây ra nhiều phương hại[3]. Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc của người Việt. Suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự-tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.

Mục lục

Mục đích

Chương trình cải cách ruộng đất là một bước trong tiến trình đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, do Đảng Lao động Việt Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đã làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:
  1. Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang vì chiến tranh;
  2. Phân chia cho tá điền;
  3. Cắt giảm địa tô;
  4. Bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam thì các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 thì mới được phát triển rộng (khởi sự tại Thái Nguyên). [4]
Tại kì họp thứ ba của Quốc hội, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ". [5]
Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị kết tội thông đồng với Pháp.

Tổ chức

Tháng 11 năm 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhóm họp và thông qua dự luật cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành cải cách ruộng đất sâu rộng trên toàn lãnh thổ. Đảng này cũng chỉ định một ủy ban lãnh đạo chương trình cải cách ruộng đất và hoạch định tiến trình cải cách ruộng đất.

Ban lãnh đạo

  1. Phát động và làm tư tưởng chiến dịch: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước)
  2. Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp: Trường Chinh (Tổng Bí thư đảng)
  3. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
  4. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
  5. Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)

Tiến trình

Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính:

Huấn luyện cán bộ

Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953, và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc [cần dẫn nguồn]. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm: "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" [cần dẫn nguồn]. Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.

Chiến dịch Giảm tô

Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
  • Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con lợn đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
  • Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
  • Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm: sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó — gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát — vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[6]
  • Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều bi kịch xảy ra: con tố cha, vợ tố chồng... Du kích và cốt cán cải cách ruộng đất tìm bắt địa chủ, việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".[7]
  • Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.
  • Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, nếu bị kết án tử hình, đội tự vệ xã sẽ thi hành án trước công chúng. Những người không bị xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xã.

Chiến dịch Cải cách Ruộng đất

Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách Ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xã. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, bà là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam. [8]
Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường,[6] đã làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.

Chiến dịch Sửa sai

Trong tuyên bố của hội nghị TƯ 10, tháng 9/1956 đã nghiêm khắc phê bình:"Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị TƯ lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh đạo. Vì thế Ban chấp hành TƯ nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham gia trực tiếp đã kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc."
Do nhận định chiến dịch Cải cách Ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
  • Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
  • Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
  • Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
  • Ngày 24 tháng 8 năm 1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
  • Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đảng, hai ông Hoàng Quốc ViệtLê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị[9], và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương đảng.
  • Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương trình Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, thì chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân Dân thì chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi những người được phục hồi trả thù những người đã đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.[cần dẫn nguồn]
Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức trách phải điều động quân đội để đánh dẹp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân dùng gậy gộc gây bạo động khiến chính quyền phải dùng sư đoàn 325 để tái lập trật tự.[10] Một số gửi thỉnh nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy hội Đình chiến, xin di cư vào Nam.[11]
Tuy nhiên, theo một số nhân chứng, có những trường hợp việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không được trả lại tài sản, nhà đất. Đến năm 2004, theo báo Hà Nội Mới, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kì Cải cách Ruộng đất với mức ba triệu đồng một trường hợp. [1]

Các đợt cải cách

Đợt
Thời điểm
Địa bàn Số xã đưa vào
Cải cách Ruộng đất
Đợt Thí điểm
(25/12/1953 - 22/10/1954)
Thái Nguyên không rõ
Đợt 1
(1/4/1954 - 15/01/1955)
Một số các vùng kiểm soát không rõ
Đợt 2
(23/10/1954 - 15/01/1955)
Thái Nguyên 22
Phú Thọ 100
Bắc Giang 22
Thanh Hóa 66
Đợt 3
(18/02/1955 - 20/06/1955)
Vĩnh Phúc 65
Phú Thọ 106
Bắc Giang 84
Sơn Tây 22
Thanh Hóa 115
Nghệ An 74
Đợt 4
(27/06/1955 - 31/12/1955)
Vĩnh Phúc 111
Phú Thọ 17
Bắc Giang 1
Bắc Ninh 60
Sơn Tây 71
Thanh Hóa 207
Nghệ An 5
Hà Tĩnh 227
Hà Nam 98
Ninh Bình 47
Đợt 5
(25/12/1955 - 30/07/1956)
Bắc Ninh 8
Nghệ An 163
Hà Tĩnh 6
Ninh Bình 45
Quảng Bình 118
Vĩnh Linh 21
Hải Dương 217
Hưng Yên 149
Thái Bình 294

Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch

Thành tích tạm thời

Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đã góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dốc toàn lực cho trận chiến quyết định.
Cuộc cải cách đã phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[12]
Quyền tư hữu ruộng đất của nông dân tuy vậy chỉ được tạm thời vì sau đó năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định rằng tập thể hóa là mục tiêu phát triển nông thôn.[13] Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959 kế tiếp hợp thức hóa chính sách đó và xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó là quyền sở hữu tập thể.[14] Đất đai dần tập trung vào tay Nhà Nước qua việc thành lập những hợp tác xã do chính phủ quản lý. Nhà nông bị ép buộc gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960, 86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào năm 1970.[13] Khi Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 1980 được soạn ra thì quyền tư hữu ruộng đất của nông dân hoàn toàn biến mất, quyền sở hữu đất trên toàn cõi đất nước thuộc về Nhà nước.[15] Cuộc cải cách ruộng đất của thập niên 1950 theo quá trình trên thì chính quyền phát đất cho nông dân một lần nhưng thu hồi hai lần; một lần bán chính thức qua dạng hợp tác xã, lần sau qua quốc hữu hóa toàn diện.[16]
Năm 1988, sau khi chính sách Khoán 10 ra đời, các hợp tác xã nông nghiệp dần giải tán. Nông dân sẽ tự chủ canh tác trên những mảnh đất đã được Nhà nước cấp quyền sử dụng, giữ lại nông sản thặng dư sau khi trừ đi thuế. Đất nông nghiệp không được tự ý chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích sử dụng khi chưa có giấy phép của Nhà nước.[cần dẫn nguồn]

Sai lầm chung

  • Đánh giá sai lầm về tình hình khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc.[2]
  • So sánh mục tiêu và phương tiện thì phương pháp đấu tố và truất hữu quá cứng rắn khi mà nghiên cứu của Liên Xô tính rằng địa chủ trung bình ở miền Bắc chỉ sở hữu 0,65 hécta đất, một diện tích khá nhỏ so với mức của thế giới.[11]
  • Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ, số khác thì vì ghen tức với tài sản của địa chủ. Cộng với trình độ nhận thức thấp của đa số cán bộ cấp xã thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc đấu tố. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nhìn nhận như những "sản phẩm phụ" không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào[17] (tương tự như làn sóng tàn sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789)
  • Đánh giá sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít nhất phải 25, 28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là còn hơn một mẫu ta...". [18]
  • Chiến dịch càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến tình trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục hình với gia đình người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển hình như:
  • Trường hợp tử hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn ĐồngTrường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập. [2]
  • Trường hợp thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên tư lệnh mặt trận Hà Nội năm 1946, chủ tịch Ủy ban quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng". [cần dẫn nguồn]
  • Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là Trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ.[18]
  • Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê nhà Diễn Châu. [19]
  • Ngoài việc tịch thu nhà đất của những người bị quy là địa chủ và chia đều cho nông dân, những mục đích khác của chiến dịch không đạt được. Kết quả sản xuất sau cuộc cải cách ruộng đất lại không như người nông dân mong đợi khi vụ mùa năm 1957 được đánh giá là thất thu.

Sai lầm trên phương diện pháp lý

Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm là:
  • Không xử phạt các tội đã phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
  • Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đình.
  • Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
  • Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không được dùng nhục hình.
Các nguyên nhân sai lầm được cho là: quan điểm ta-địch, thù-bạn của chính quyền đương nhiệm rất mơ hồ; chính quyền bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý; bất chấp ý kiến của giới chuyên môn.[6]

Số người bị đấu tố

Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.
Số lượng người bị giết trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố[3] thì con số sẽ không ít.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:
  • Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 1957 thì khoảng 15.000 người bị giết. [20]
  • Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2500; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000. Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù[21]
  • Vũ Thư Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số 15.000 dẫn ở trên rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:
"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học." [cần dẫn nguồn]
  • Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ bị tịch thu tài sản.
Về thành phần của con số 172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau: Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến : 586 người, trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông : 62.192 người, trong đó 51.003 người bị oan (82%). Tổng cộng: 172.008 người, trong đó 123.266 người bị oan : 71,66%. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đình của những người bị quy sai, cũng bị cô lập và đối xử phân biệt.
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa thì chương trình Cải cách Ruộng đất là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954. Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng bị giảm sút trầm trọng trong những năm cải cách ruộng đất và ngay sau đó.

Ý kiến và nhận định riêng

  • Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội: “Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình” [...] “Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?”. [6]
  • Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn nhận "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế". [22]

Tham khảo

  • Lịch Sử Việt Nam, 1954-1965, Cao Văn Lượng chủ biên, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1995.
  • Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, 1945-2000 tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
  • Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt nam PGS TS Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nxb Chính Trị Quốc Gia: Viện Lịch sử Đảng, Học Viên Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
  • Việt Nam, 1945-1995 tập I, GS Lê Xuân Khoa, Nxb Tiên Rồng, Maryland, 2004.
  • Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo, LS Nguyễn Mạnh Tường, diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng Mười 1956 tại Hà Nội.
  • The Viet Minh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam, Bernard Fall, Greenwood Press, Connecticut, 1975.

Ghi chú

  1. ^ a b Báo BBCTrợ cấp cho nạn nhân cải cách ruộng đất
  2. ^ a b c Đài RFA — Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội), Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN (bài 4)
  3. ^ a b Bùi Tín — Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất: Những bài học còn nóng hổi
  4. ^ Theo Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, trang 94 thì từ đầu năm 1953, đảng và chính phủ đã phát động quần chúng triệt để tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất tại các vùng tự do.
  5. ^ Bài nói tại Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Khóa I, Kỳ họp thứ ba
  6. ^ a b c d Luật sư Nguyễn Mạnh Tường — Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất - Xây dựng quan điểm lãnh đạo, diễn văn đọc trước phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, ngày 30 tháng Mười, 1956.
  7. ^ Chương 5, Hồi ký Làm người là khó — cựu Phó Thủ tướng Đoàn Duy Thành [1]
  8. ^ Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN: "...Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên gọi khác là bà Cát Thanh Long)..."
  9. ^ Sau đó, Hoàng Quốc Việt (tức Hạ Bá Cang) làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và công tác ở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
    Sau này, Lê Văn Lương được bầu lại làm Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV (1976-1981); có những khoảng thời gian trong 1976-1986 ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội
  10. ^ Dommen, Arthur. The Indochinese Experience of the French and the Americans: Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Indiana University Press, 2001. Trang 341.
  11. ^ a b Lind, Michael. Vietnam, the Necessary War. New York: Touchstone, 1999. tr 153-156
  12. ^ Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Giáo dục, tháng 3-2007.
  13. ^ a b Trần Thị Quế. Vietnam's Agriculture: The Challenges and Achievements. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1998. Tr 12-27.
  14. ^ Ownership regimes in Vietnam
  15. ^ [www.harvard-yenching.org/sites/harvard-yenching.org/files/KUONG_Teilee_Development_of_Property_Law.pdf+state+ownership+land+vietnam+1959&hl=en&gl=us&pid=bl&srcid=ADGEESjIJtxpo8EN3hrmjNQJzYP1FyTeq-_SwwMZ16k1FzOedUnNjt7sKdBPLyzEdYF47E43N0ru1a5dzELlLxHs_OD-8e4ozIkT_HBibzKE4ZBwtq0XAktSvEQaFVFvgfJqYLYVEuRn&sig=AHIEtbRw86VIbsXMZdvsoVOuWy-h9vrB4Q Development of Propert Law in Cambodia, Vietnam and China]
  16. ^ Võ Nhân Trí. Vietnam's Economic Policy Since 1975. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1990. tr 8.
  17. ^ Ho Chi Minh: A Life, William Duiker, trang 152
  18. ^ a b Thư của ông Đặng Thái Mai gửi ông Trường Chinh năm 1953.
  19. ^ Entretien avec Dang Van Viet
  20. ^ “Land of the Mourning Widows”, TIME, 1 tháng 7, 1957.
  21. ^ The Endless War: Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149
  22. ^ Nhận định của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt về đại đoàn kết dân tộc trên Website Bộ Ngoại giao Việt Nam

Xem thêm

Liên kết ngoài

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 05:45, ngày 30 tháng 5 năm 2012.

No comments:

Post a Comment