Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Thursday 15 December 2016

MAI THẢO = PHÙNG QUÁN =HOÀNG ANH TUẤN = VÕ PHIẾN = TRUYỆN SƠN TRUNG

=

NGUYỄN HƯNG QUỐC * MAI THẢO

Thơ Mai Thảo, tiếng mưa thầm rơi trên Nam Hoa Kinh

Mai Thảo qua ống kính Nguyễn Bá Khanh
CỠ CHỮ - +
Bài này chỉ là một phần trong một bài viết cùng tên đã được đăng trên tạp chí Văn Học (California) số 49 (3.1990). Tôi cho đăng lại vì nghĩ nó thích hợp để minh hoạ cho luận điểm chính đã được trình bày trong bài “Tháng Tư và ký ức tập thể” vừa rồi.

***

Hẳn Mai Thảo phải thích bài “Ta thấy hình ta những miếu đền” lắm, ông mới lấy tựa bài này đặt tên cho cả tập thơ. Mai Thảo thích, tôi đoán, có lẽ vì bài thơ thể hiện cô đọng một tư tưởng mà ông hằng ôm ấp:

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương.

Không nên nghĩ Mai Thảo, ở vào cái tuổi ngoài sáu mươi, đâm ra ngạo thế, như một số nhà thơ trẻ, vì phẫn chí, giả vờ nghênh ngang. Ở hai câu kế tiếp, Mai Thảo giải thích:

Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương.

Hạt cát và đại dương. Là gì nhỉ? Là cái cực tiểu và cái cực đại trong Nam Hoa Kinh đấy.

Trong suốt tập “Ta thấy hình ta những miếu đền”, Mai Thảo chỉ nhắc đến mấy chữ Nam Hoa Kinh có ba lần: một lần trong bài “Bờ cõi khởi đầu” và hai lần trong bài “Thơ say trên máy bay”, tuy nhiên, ở hầu hết những bài thơ khác, nếu để ý, người ta sẽ bắt gặp, đâu đó, thấp thoáng, lung linh, một chút ánh sáng dịu dàng và lặng lẽ đến từ vầng trăng Nam Hoa Kinh.

Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, có lẽ Mai Thảo và Chế Lan Viên là hai nhà thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Trang Tử sâu sắc nhất. Thơ của họ phần lớn như một chiếc võng đong đưa giữa hai bờ cực tiểu và cực đại, giữa một bên là thế giới của cá Côn, của chim Bằng và một bên là thế giới của con ve, của chim cưu.

Có điều, Chế Lan Viên chỉ chịu ảnh hưởng của Trang Tử một thời gian ngắn, từ sau tập “Điêu tàn” đến những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Sau đó, tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, một triết thuyết xây dựng trên căn bản sự mâu thuẫn, dấu ấn của Trang Tử trong thơ Chế Lan Viên càng lúc càng mờ. Cái cực tiểu và cực đại trở thành hai phạm trù riêng biệt, thậm chí, đối lập nhau. Vầng trăng Nam Hoa Kinh vẫn còn đấy, trong thơ Chế Lan Viên, nhưng chỉ còn là một vầng trăng khuyết, hay nói như Thanh Tâm Tuyền, trong một câu thơ thật đẹp: “Một đoá trăng tàn lẩn lút bay.”

Ở phương diện này, Mai Thảo đi xa hơn Chế Lan Viên: thỉnh thoảng ông đạt đến cái nhìn “huyền đồng.” “Huyền đồng” là vượt lên trên tinh thần nhị nguyên, không còn áy náy về những sự mâu thuẫn, không còn băn khoăn về những cái lớn, cái nhỏ, cái đúng, cái sai, cái mình và cái không phải mình. “Huyền đồng” là ý thức về cái Một: con người và vũ trụ là Một (“Vạn vật dữ ngã đồng nhất” - Nam Hoa Kinh, thiên 'Tề vật luận'.)

Cái nhìn “huyền đồng” này được Mai Thảo diễn tả khá hoàn chỉnh trong bài “Cục đất”:

Biển một đường khơi xa thẳm xa
Núi vươn trượng trượng tới mây nhoà
Thì treo cục đất toòng teng giữa
Cho cái vô cùng vẫn nở hoa.

Biển và núi là những cái cực đại, cục đất là cái cực tiểu. Cái cực tiểu ở đây lại là “hoa” của cái cực đại. Vẫn có khác nhau đấy. Nhưng khác mà không biệt. Trong đoá hoa kia có đất có biển có núi có cả những áng mây xa, nghĩa là có cái vô cùng. Thì thành là Một.

Cục đất và biển và núi là Một; hạt cát và đại dương là Một; cái “tiểu ngã” và cái “đại khối” (tức vũ trụ, theo chữ dùng trong Nam Hoa Kinh) là Một. Vậy tại sao Mai Thảo lại không có quyền nghĩ là bao nhiêu huyết lệ trong trời đất đều phát sinh từ huyết lệ mình; bao nhiêu vòng quay của vũ trụ đều phát sinh từ hạt bụi của mình, từ đó, tiến xa hơn, nhìn thấy hình ảnh của mình trong những miếu đền, giữa những trầm hương nghi ngút; trong những công viên, giữa những tượng thờ nghìn bệ; trong trời cao, giữa những vì sao chi chít; trong lịch sử, giữa những trang sách nặng trĩu tên người? Tại sao không?

Kết quả của cái nhìn “huyền đồng” là một tinh thần ung dung tự tại, cái tinh thần “không ham sống, không ghét chết, ra không vui, vào không sợ, thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi” (Nam Hoa Kinh, thiên 'Đại Tông Sư'), hay nói như Mai Thảo, trong bài “Sáu mốt”, là cái “tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm”:

Sáu mốt cùng ta đứng trước thềm
Đợi trời thả tặng chút xuân thêm
Trời thôi tặng phẩm, xuân còn hết?
Còn cái tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm.

“Tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm,” trong ý nghĩa tuyệt đối của nó, là một trạng thái “chân không” tịch lặng, trong ngần, ở ngoài mọi gió bão, xa lắc những xôn xao:

Sao phải đợi chờ chim én báo
Một đoá vui người đủ tuyết tan.
(Tin xuân)

Tuyết, đâu phải chỉ là tuyết. Tuyết, ở đây, còn là một cục bướu ung thư đang phục kích trong thân hình Mai Thảo. Mai Thảo kể, cái lần đầu tiên, sau khi rọi hình, biết chắc ông bị ung thư, vị bác sĩ quen đã yêu cầu ông nằm lại phòng khám để nghỉ ngơi, nhưng Mai Thảo đã từ chối. Ông ra về. Đi bộ. Ghé vào một quán rượu. Gọi một chai Cognac. Đem cái cay của cuộc đời đổ vào cái đắng của lòng mình. Dần dần, ông coi cái cục bướu ung thư trong thân thể mình như một người bạn để thỉnh thoảng lại chuyện trò:

Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện
Ta lại cùng cơ thể chuyện trò
Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn
Nó nghĩ sao rồi nó lại cho.

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng.
(Dỗ bệnh)

“Không hiểu,” theo tôi, là một trong những bài thơ tuyệt cú hay nhất của Mai Thảo và là một trong những bài thơ tuyệt cú hay nhất của thi ca Việt Nam:

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao, khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.

Đáng để ý hơn cả, trong bài thơ trên, là hai chữ “chẳng sao.” “Chẳng sao,” rất bất cần. Bất cần cái chuyện “có triệu điều không hiểu.” Bất cần cả cái chuyện “khi đã nằm trong đất.” Câu cuối, như một vì sao xa xăm, mở ra những chân trời vời vợi.

Hiểu hay không hiểu, rốt cuộc, thì cũng vậy thôi mà:

Có lúc nghĩ điều này điều nọ
Cảm thấy hồn như một biển đầy
Có khi đếch nghĩ điều chi hết
Hệt kẻ ngu đần cũng rất hay.
(Có lúc)

Và cả cái chết nữa, trong bài “Món đất” sáng tác sau khi tập “Ta thấy hình ta những miếu đền” xuất bản, đăng trên tạp chí Văn số 88 ra vào tháng Mười 1989, Mai Thảo cũng hình dung như một bữa tiệc:

Đất tưởng còn xa trời vẫn gần
Giờ đất đã gần trời xa dần
Khăn bàn trải sẵn cùng thân thế
Đợi chiếc khay trời món đất ăn.

Hơi hai câu thơ đầu, tôi rất thích: nó có hình ảnh một đường nghiêng. Khởi đầu là “đất tưởng,” hai chữ vần trắc, trên cao, thoải xuống từ từ với chữ “gần” được lặp lại hai lần và cuối cùng, xuống thật thấp, tận thung lũng sâu và rộng với ba chữ vần bằng thoi thóp “trời xa dần.” Té ra, bên trong cái dáng vẻ điềm tĩnh, rất Trang Tử của mình, tâm hồn Mai Thảo vẫn có một chút đìu hiu.

Ở trên, tôi có viết thỉnh thoảng Mai Thảo đạt đến cái nhìn “huyền đồng.” Chỉ thỉnh thoảng thôi. Không phải luôn luôn. Mai Thảo chỉ giữ được thái độ thanh thản, ung dung khi đối diện với những vấn đề có tính chất siêu hình, những vấn đề liên quan đến cuộc đời, đến con người, đến kiếp người nói chung. Nhưng khi đối diện với những vấn đề cụ thể hơn, đến đất nước, đến hoàn cảnh lưu vong, đến bạn bè mình và bản thân mình đang trầm luân trong thời cuộc, thơ Mai Thảo biến thành những tiếng mưa thầm:

Bước một mình qua ngưỡng cửa năm
Nhân gian tịch mịch tiếng mưa thầm.
(Trừ tịch)

Mưa thầm. Những cơn mưa lê thê và tái tê của quốc nạn cứ tuôn rơi dào dạt trong lòng mọi người Việt Nam. Mưa sướt mướt trên trại giam có Nguyễn Sỹ Tế, có Phan Nhật Nam, có Tô Thuỳ Yên... vác thánh giá. Mưa ngùi ngùi thương “những Thanh Tâm Tuyền trăm năm đã xa,” “những Vũ Hoàng Chương nghìn ngày đã khuất,” những Bùi Giáng “ngày ca múa khóc cười giữa chợ,” “tối tối về chùa đêm làm thơ.” Mưa phơi phới bay theo Mai Thảo trên đường vượt biển “giữa đất tận trời cùng giữa chỉ một mình ta.” Mưa giàn giụa trên Vũ Khắc Khoan, trên Nghiêm Xuân Hồng, trên Võ Phiến, trên Mặc Đỗ, trên Thanh Nam, trên Tuý Hồng... đội mũ gai nơi cõi lưu đày. Mưa. Mưa trùng trùng. Mưa điệp điệp. Những tiếng mưa thầm và những giọt mưa đen:

Nửa khuya đợi bạn từ xa tới
Cửa mở cầu thang để sáng đèn
Bạn tới lúc nào không biết nữa
Mưa thả đều trong giấc ngủ đen.
(Đợi bạn)

Mưa. Mưa trên niềm nhớ nhung quê hương không nguôi:

Nhánh hương thắp nửa này trái đất
Bay đêm ngày về nửa bên kia.
(Năm thứ mười)

Mưa. Mưa rơi trên từng ngày, từng ngày trôi giạt:

Mỗi ngày một gạch mỗi ngày giam
Lên bức tường câm cạnh chỗ nằm
Gạch miết tới không còn chỗ gạch
Gạch vào trôi giạt tới nghìn năm.
(Mỗi ngày một)

Mưa từ quá khứ xa mưa tạt về:

Đôi lúc những hồn ma thức giấc
Làm gió mưa bão táp trong lòng
Ngậm ngùi bảo những hồn ma cũ
Huyệt đã chôn rồi lấp đã xong.
(Quá khứ)

Mưa. Vẫn mưa. Mưa trong những tách trà buổi sáng. Để thành một “ngụm đau trời đất” dành cho kẻ ly hương:

Trà đựng trong bình trí nhớ câm
Rót nghiêng từng ngụm nỗi đau thầm
Hoà chung cùng ngụm đau trời đất
Là mỗi ngày ta mỗi điểm tâm.
(Điểm tâm)

Có lúc Mai Thảo tự nhủ:

Đừng khóc dẫu mưa là nước mắt
Đừng đau dẫu đá cũng đau buồn.
(Em đã hoang đường từ cổ đại)

Thì cũng là một cách tự động viên. Làm sao mà hết não nề được khi vẫn còn đây, mỗi ngày, những bước chân lang thang giữa phố người, những mắt nhìn ngơ ngác giữa “rừng vô tuyến, ống thu lôi”.

Làm thân sư tử cao nghìn trượng
Tự thuở xa rừng khóc chẳng thôi.
(Manhattan)

Thanh Nam, lúc còn sống, từng có một kinh nghiệm thấm thía:

Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do.
(Thơ xuân đất khách)

Chắc chắn Mai Thảo cũng từng chia xẻ kinh nghiệm ấy:

Tôi tự do phơi phới một đời
Sao từng lúc lòng còn nhỏ lệ.
(Thơ say trên máy bay)

“Từng lúc” khác với “đôi lúc.” “Từng lúc” là triền miên một nỗi đau dài thỉnh thoảng ứa ra một giọt nước mắt nghẹn ngào. Nỗi đau hoá thành đất thành trời thành chiều thành đêm:

Ngồi tượng hình riêng một góc quầy
Tiếng người: kia, uống cái chi đây?
Uống ư? một ngụm chiều rơi lệ
Và một bình đêm rót rất đầy/
(Một mình)

Tôi ngờ là, trong những bài thơ say của Việt Nam, hiếm có bài nào bi thiết và tha thiết như bài thơ nói về cái say của bức tượng lữ thứ này.

Bức tượng? Vâng, một bức tượng bất động lặng lẽ như một khối buồn câm:

Tựa lưng vào vách tường thân thuộc
Trong cõi riêng buồn lại thấy ta.
(Bộ đồ cũ mặc)

Trong bài “Lộ trình,” Mai Thảo tự gọi mình là một bức tượng: “tượng người vô giác.”

Xe lao chở tượng người vô giác
Vào ngả lâm chung lối tử hình.

Bức tượng ấy, giữa cõi nhân gian, bước từng bước lạc lõng và lạc loài. Ấn tượng nổi bật nhất toát lên từ thơ Mai Thảo là ấn tượng nặng nề, day dứt của sự cô đơn. Mai Thảo có đông bạn bè. Trong tập “Ta thấy hình ta những miếu đền”, có khá nhiều bài Mai Thảo viết về bạn bè, viết cho bạn bè, viết nhân lúc đi thăm viếng bạn bè. Có điều, từ hơi thơ đến hình tượng thơ đến cảm xúc thơ, người ta vẫn thấy dường như bao giờ ông cũng lẻ loi. Ông thường làm thơ trên đường đi chứ không phải lúc đã đến.

Thơ Mai Thảo rất ít tiếng động. Cho dù có tiếng động đi nữa thì những tiếng động ấy cũng chỉ được dùng để làm đậm nét thêm cái lặng lẽ, cái tịch mịch trong tâm hồn Mai Thảo. Đi giữa rừng giữa suối; rừng xôn xao, cũng mặc; suối ào tuôn, cũng mặc, Mai Thảo vẫn chìm đắm trong cõi trời đất quạnh quẽ của riêng ông. “Với buổi chiều ta giữa lối buồn.” Đó là Mai Thảo. “Tai đã từ bao lạc tiếng đời.” Đó là Mai Thảo. “Đi dưới mưa một mình.” Đó là Mai Thảo. Và cũng là Mai Thảo nữa, cái bằn bặt não nề này:

Ngất đỉnh cây kia gió thét gào
Trọn mùa. Thành động biển trên cao
Bến ta tối khuất từ xa biển
Bờ chẳng còn ngân tiếng sóng nào.
(Santa Ana Winds)

Tôi yêu bài thơ “Không hiểu” dẫn trên, tôi cũng yêu lắm bài thơ “Không tiếng” dưới đây, rất Đường thi, ngỡ như một bài thơ thiền:

Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in cái bóng gầy.

Bài thơ mang tựa đề là “Không tiếng” nhưng thật ra nội dung lại nói đến chuyện không hình. “Không tiếng” chỉ ám chỉ sự đi về lặng lẽ; đi, đi rất sớm; về, về rất trễ. Nhưng ai đi? ai về? Cả hai câu đều thiếu chủ từ. Không ai đi, không ai về cả. Cái dấu mà đôi lúc vầng trăng tìm thấy chỉ là một cái bóng gầy nơi vách tường. Chỉ là cái bóng thôi. Chỉ là cái ảo thôi. Thế đấy, cái con người từng thấy tên mình trên các bảng đường, thấy hình mình ở những miếu đền lại cũng thấy nữa, thấy rất rõ cái hư vô, cái hư ảo của cả kiếp mình.

Cái ảo ấy lại cưu mang một nỗi buồn rất thực:

Tả ngạn đời ta một nhánh hoa
Bên kia hữu ngạn vẫn thơm và
Hương bay thần chú qua lìa đứt
Mỗi tới bên này mỗi lệ sa.
(Tả ngạn)

Thơ Mai Thảo, những bài làm sau 1975, có thể nói là những giọt lệ rơi trên một triền núi thẳm, cái triền đi xuống những thung sâu. Đôi lúc, Mai Thảo dùng động từ “khóc,” nhưng thơ của ông, rất lặng lẽ, chỉ là những tiếng khóc thầm, những nỗi đau thầm. Tất cả đều âm thầm. Như những tiếng mưa thầm.

Thơ Mai Thảo là những tiếng mưa thầm rơi trên Nam Hoa Kinh.

THƠ PHÙNG QUÁN


Hôn 


Trời đã sinh ra em
Để mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Để yêu em tha thiết!

Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải đi ra trận!

Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu!

Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ đuợc hôn!

Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ!




HUYỆT


 Tết không vào nhà tôi
Tết đi qua truớc ngõ
Tim tôi tan nát rồi
Không còn lành đuợc nữa!

Thi sĩ tôi cô đơn
Giữa đời tôi lạc lõng
Giữa chông gai cuộc sống
Trần trụi không hành trang...

Bạc đầu vẫn trẻ con
Dại khờ cho đến chết
Giữa nghiệt ngã trần gian
Trái tim thơ thấm mệt...

Tôi sẽ đào nấm huyệt
Cạnh mồ cha mẹ tôi
Tôi sẽ lăn xuống đó
Thế là xong một đời!

Đàn mối của quê huơng
Sẽ thay phu đào huyệt
Bao nghiệt ngã trần gian
Chỉ dăm ngày vùi hết!

Căn hộ mới đáy huyệt
Ruợu đất tôi uống tràn
Cụng ly cùng dòi bọ
Mừng trắng nợ trần gian!

TRƯỜNG CA CÂY CÀ
Ba muơi năm truớc
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ
Tôi lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang
Chính cây cà quê mùa lao lực
Đã dạy tôi dũng khí bền gan!

Chuơng I
Cây cà
Quả da trinh nữ
Cuống hoa văn tiền sử
Hoa tím sắc xuân
Lá xanh men ngọc
Thân lao lực màu quê.

Chuơng II
Thuơng cây cà
Chắt nắng
Gạn mưa
Mà xanh
Mà tím
Tím chỉ còn cuống
Xanh chỉ còn xuơng
Khổ thân em sâu róm đầy cành!...

Chuơng III
Lời cây cà
Biết khổ đấy
Mà không ngại khổ
Bởi đất sinh là để làm cà
Mặc cho sâu róm đầy cành
Rễ còn bám đất
Còn khôn nguôi tím nguôi xanh.

Chương IV
Cà giống
Bạc tóc học trồng cà
Tôi mới hiểu ra
Vì sao Gióng
Truớc khi lên ngựa sắt
Vung roi trừ giặc
Chỉ ăn cơm cà
Vì Gióng biết
Trong trái cà lao lực khiêm nhuờng
Ẩn giấu
Tiềm tàng
Cái bền gan của Đất
Trí khôn của Nuớc
Cái ngoan cường không khuất của Cây
Sức mạnh của những gì rất Thật
Tấm lòng thơm thảo của Dân
Ăn hết bảy nong cơm
Ba nong cà
Chú bé không cha
Làng Phù Đổng
Đứng dậy vuơn vai
Thành Thánh Gióng
Người-Cứu-Nước-Khổng-Lồ!

Chuơng V
Cà Nghệ
Cà Nghệ
Thịt dòn
Ruột đặc
Người Nghệ
Tiện tằn, chân chất
Muối một vại cà
Ăn một năm
Sử kháng chiến ngàn trang
Người Nghệ ưa vắn tắt:
-Đánh Pháp hết chín vại cà
Đánh Mỹ hơn hai chục vại
Bù đi bù lại
Đánh bại hai đế quốc to
Hết ba chục vại cà!

THƠ HOÀNG ANH TUẤN


 Bài Thơ Còn Lại  

Bước rất nhẹ như mây mềm dưới gót 
E nắng buồn làm rối tóc mưa ngâu 
Em tìm anh nước uốn nhịp ven cầu 
Năm tháng cũ rợn tình xưa tỉnh thức.
 
Em vẫn bé, anh vẫn còn ngây ngất 
Màu áo hường còn gợn bóng âm thanh 
Mắt thuyền qua nên nón vẫn nghiêng vành 
Chân cuống quýt nên guốc ròn gõ cửa.
 
Anh mở vội cả nghìn lần hớn hở 
Cho hồn nhiên, mắc cở với hoài nghi 
Em cúi đầu và lặng lẽ bước đi 
Từ hôm ấy cửa nhà anh bỏ ngỏ. 

Bước rất nhẹ như hường qua sắc đỏ 
Như màu trời len lén bước vào xanh 
Như thời gian vò nát lá thư tình 
Bước rất nhẹ như vẫn còn đứng lại. 

Bước rất nhẹ như mùa thu con gái 
Như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh 
Như chưa lần nào em nói: yêu anh 
Như mãi mãi anh còn nguyên thương nhớ.

Bước nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở 
Như ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao 
Em có về ăn cưới những vì sao 
Ðể chân bước trên giòng sông loáng bạc. 

Ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc 
Yêu một người mà cảm thấy mênh mông 
Em đi ngang nhịp bước có lạnh lùng 
Mà sao vẫn y nguyên bài thơ cũ ? 

Vẫn lặng lẽ để anh nghe vừa đủ 
Vẫn thờ ơ cho rủ hết màn the 
Vẫn mỉm cười rồi vẫn lấy tay che 
Cho cặp mắt bỗng nhiên mười sáu tuổi.
 
Tay vụng quá nên thư không viết nổi 
Mực trong bình như cẩm thạch ngẩn ngơ 
Giấy trắng tinh đem bóc nhẹ từng tờ 
Tầu bay giấy ngượng ngùng bay qua cửa ! 

Em nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ 
Anh còn nguyên là một kẻ yêu em 
Em đi ngang xin ráng bước cho êm 
Ðừng đánh thức thời gian đang ngủ kỹ.
 
Ðừng đẹp quá để anh đừng rối chỉ 
Lấy gì đây khâu vá lại tình xưa ? 
Có đi ngang xin chọn lúc bất ngờ 
Ðừng nói trước để anh buồn vơ vẩn.

Có đi qua xin em đừng đánh phấn 
Tóc buông rèm lúa tuổi thích ô mai 
Mắt vương tơ của những phút học bài 
Tay khéo léo khi đánh chuyền với bạn. 

Em dấu đi những nỗi lòng vỡ rạn 
Anh cũng thề dấu hết gió mưa đi 
Bao nhiêu ánh đèn rũ rượi tái tê 
Những ngõ vắng, tối tăm anh dấu hết. 

Hoàng Anh Tuấn



BAN MAI
 

Mở toang cửa sổ nhà tôi
Hoa cau bung nở khung trời nắng xanh
Dậy đi sương đọng cỏ lành
Con sẻ gọi bạn trên nhành hoa cau

Lá khô rủ gió đuổi nhau
Mảnh sân vấn chiếc khăn màu gạch non
Mặt trời là chiếc mâm son
Nghe tiếng gà gáy lăn tròn lên mây

Đêm qua có sợi heo may
Lặn chùm quả ngọt căng đầy vườn quê
Gánh hàng mẹ bước ven đê
Bán ban mai để mua về hoàng hôn...

NỖI NIỀM LIỀN CHỊ...

Em buồn ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỉ ra vào vấn vương
Những là năm nhớ, mười thương
Gió buông vạt áo quên đường sang mây...

Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu em đợi một ngày dài ghê
Thương nhau xin nhớ lời thề:
"Quan họ chẳng thể đón về...thương nhau"

Đêm qua gió đánh buồng cau
Sớm nay sương muối giàn trầu héo hon
Cái duyên ngồi gốc cũng mòn
Dọn quán em bán có còn ai mua?

Bồng bềnh câu hát vào chùa
Đèn nhang em khấn mà chua chát lòng
Hỡi người quân tử biết không?
Năm canh ra ngó vào trông em chờ...

Phongdiep.net

ĐỖ ĐỨC THU * TÌNH XƯA

 Tình xưa
Đỗ Đức Thu
I
Akita-dancing đã đông khách từ chín giờ. Tiệm khiêu vũ ấy lịch sự nhất trong thành phố, có nhiều vũ nữ xinh đẹp, nhiều bản nhạc hay và giá thực phẩm cao hơn mọi nơi làm dân ít tiền không dám bén mảng tới.
Cảnh mưa gió bên ngoài làm tiệm càng thêm ấm áp. Mấy dãy ghế đã gần kín người ngồi.
Cánh cửa vào phía trong hé mở: một thiếu nữ cùng vào với một làn gió. Liễu, một vũ nữ khá nhất tiệm, có nhan sắc và thêm chút học thức, nó phân biệt hẳn nàng với các bạn cùng nghề. Liễu vừa mỉm cười chào mọi người, thì Hưng, một thiếu niên mặc lễ phục, từ nãy vẫn gõ tay xuống bàn, đã đứng dậy bắt tay nàng, và mời uống rượu. Từ hôm Liễu đến - được chừng tuần lễ - tối nào Hưng cũng đến tiệm, và quấn quít lấy Liễu. Các vũ nữ, cả đến khách hàng, phần nhiều quen nhau vì thường gặp nhau chỗ chơi bời, đã coi Hưng là tình nhân của Liễu. ở những chỗ này, họ hiểu tình ái một cách giản dị, dễ dàng lắm.
Càng về khuya, tiệm khiêu vũ càng thêm vui, các bản nhạc kế tiếp nhau luôn, k� binh, vũ nữ càng mềm, dẻo, nhất là Hưng và Liễu. Cặp này nhảy khá, trông họ rất hay mắt.
Trong khi ấy một thiếu niên khác không bỏ sót một cử chỉ của Liễu. Người này ngồi tận góc buồng, không nhảy bài nào. Những lúc sáng đèn, đôi mắt sắc, hơi sâu, thường cúi nhìn chiếc tẩu thuốc lá lớn ở miệng, hoặc cốc rượu; khi ánh xanh đỏ làm buồng tối hơn, đôi mắt lại ngửng tìm Liễu trong bọn đang nhảy, thêm một vẻ mơ màng.
Một lúc sau, Liễu quay sát vào góc buồng, nhìn thấy thiếu niên. Nàng giật mình, hai mắt mở to, thốt ra một giọng kinh ngạc:
- Anh Thanh !
Thiếu niên hơi tái mặt, mắt chớp luôn mấy lần, môi mấp máy. Nhưng cử chỉ đó qua rất mau, người con gái không nhận thấy. Chàng lại trấn tĩnh, lạnh lùng nhìn khói thuốc. Liễu ngơ ngác vài giây, tưởng mình nhầm, lại theo k� binh. Nhưng từ đấy, Hưng thấy nàng nặng nề, chân vướng luôn, như một người mới tập.
Về chỗ ngồi, Hưng hỏi:
- Liễu hỏi ai vừa rồi thế ?
- à, người ngồi kia, trông quen quen. Anh có biết ai không ? Nàng ra vẻ uể oải chỉ sang góc buồng.
- Có biết, nhưng không quen. Ngũ Lăng, một nhà viết báo, còn tên thật không biết là gì.
Liễu nhìn lên trần, lẩm bẩm :
- Ngũ Lăng... Ngũ Lăng...
- Phải, Ngũ Lăng, người viết cuốn "Tình xưa". Liễu đọc chưa ?
- Anh tính chúng tôi còn thì giờ nào xem sách. Mà cũng chẳng có tiền đâu mua nữa!
- Liễu muốn xem để tôi mang đến, quyển ấy hay lắm. 
Coi ý Hưng muốn tìm hết dịp để vui lòng người con gái. Liễu thờ ơ trả lời : - Cảm ơn anh.
Câu chuyện thành lạnh nhạt. Liễu chỉ nói tiếng một, lại từ chối không nhẩy với Hưng mấy bài sau. Anh chàng tức bực, mời vũ nữ khác để khiêu khích Liễu. Liễu chỉ mong có thế, để được tự do nhìn sang góc buồng. Thiếu niên vẫn kín đáo, và trong tối, cặp mắt vẫn không rời Liễu, yên lặng như cặp mắt thủy tinh. Chàng càng bình tĩnh, trầm mặc, thì Liễu càng nóng nẩy, bồn chồn. Nàng chỉ đợi một nụ cười, khóe mắt; một dấu hiệu gì để chạy lại. Dấu hiệu ấy không thấy có. Trường hợp ấy kéo dài mãi. Quá nửa đêm khách lẻ tẻ về. Thiếu niên cũng đứng dậy, nhét gói thuốc lá vào túi, kéo chiếc mũ dạ xuống mắt, thủng thỉnh bước ra, dáng cứng cỏi như một nhà binh. Liễu toan chạy theo thì vừa bị Hưng nắm lại, hỏi một câu chuyện. Liễu phải nén lòng, không muốn vô lễ với một người khách hàng lịch sự, nhiều tình cảm với nàng.
II
Xong giờ làm, các vũ nữ xô nhau lên gác. Trên dãy phản dài suốt gian nhà, những va ly để sát tường, hay rương con dưới gậm đã định chỗ từng người. Họ thay áo, ra sân rửa mặt. Tiếng cười nói, đùa bỡn vang động; bọn thiếu nữ ở đâu cũng gây nên cái không khí trẻ trung. Một lúc sau dãy phản đã gần kín người nằm, trừ chỗ trống của mấy cô đi với tình nhân.
Liễu ngồi bên cửa sổ, trông ra đường. Thỉnh thỏang gió hắt hơi lạnh vào Liễu. Nàng không muốn kinh động giấc ngủ của bạn, đứng dậy tắt đèn và khẽ mở va ly lấy một cuốn sách, cuốn "Tình xưa", rồi lại ra cửa sổ. ánh sáng bên ngoài không đủ đọc, Liễu vuốt ve cuốn sách để trong lòng, nghĩ lại...
... Đôi ấy đã yêu nhau bằng hết cả tình ái của tuổi trẻ, của hai trái tim mới mẻ, hết lòng tin ở cuộc đời. Sau một năm, Thanh sang Pháp học. Cha mẹ Liễu không cho nàng đợi một người danh nghĩa chưa quyết định. Rồi gia đình chuyên chế đưa Liễu đến giường một người nàng không yêu. Đoạn tuyệt. Liễu sa vào vòng trụy lạc...
Càng dấn thân vào đời mưa gió, Liễu càng tiếc thủa xưa, cảnh tối tăm càng làm thèm thuồng ánh sáng. Những người sau vẫn không làm quên được Thanh. Người ta chỉ yêu một lần, tình ái buổi đầu bao giờ cũng chân thành. Thanh đã đánh dấu người con gái, một vết vào tâm hồn, vĩnh viễn hơn là vào xác thịt.
Cuốn "Tình xưa" đã tả tâm hồn nàng bằng những đoạn văn bất diệt. Con dao trích của ông lang nạo sâu vào cái nhọt, người ốm càng thêm đau. Liễu tự hiểu mình hơn, lại càng tha thiết tiếc thời đã mất. Ngẫu nhiên Liễu gặp người cũ, lại biết Thanh đã viết "Tình xưa", sự vui mừng mạnh đến thành hỏang hốt. Nàng muốn kể hết tâm tình với Thanh trong một giọt nước mắt, một tiếng kêu, nếu Hưng không giữ lại.
Liễu bất giác mỉm cười một cách chán chường, nghĩ thầm: "Còn anh chàng si tình này nữa, theo đuổi mãi! Để im có phải mình đã được nói chuyện với Thanh rồi không?"
Người thiếu nữ ngồi mãi. Lâu dần tâm trí sinh hỗn độn, các mối ký ức không còn rõ rệt, chỉ rõ ràng một cảm giác ê chề.
Liễu nhìn lại các chị em đang ngủ vùi, như đàn con nít. Nàng chép miệng:
- Ngủ được như họ, có lẽ lại hay.
III
Âm nhạc dưới nhà đưa lên, chị em đã xuống cả. Liễu còn ngồi ở trước gương, sắc mặt sút kém vì suốt đêm thao thức. Quầng đen chung quanh mắt, một đường răn chảy xuống má, nước da bệch và xanh. Liễu phải nhồi thêm phấn, thoa nhiều son để vớt vát lấy nhan sắc lộng lẫy thủa xưa.
Đẩy cửa vào buồng khiêu vũ, tay Liễu hơi run. Hưng đã đợi sẵn. Liễu nhìn ngay vào góc: Thanh như vẫn ngồi đó từ đêm hôm trước. Hưng mời uống, Liễu từ chối:
- Hôm nay mệt lắm, anh ạ. Tôi không uống gì đâu, ngồi nói chuyện thôi.
Câu chuyện cũng chẳng ra gì. Nàng chỉ nói gióng một, không đâu vào đâu, không để ý gì đến lời Hưng, luôn luôn nhìn lại phía Thanh. Những lúc nhảy lại càng chán nản, mọi người phải ngạc nhiên vì cô gái nhất tiệm đi không thành bước. Trước mắt Thanh, nàng mất vẻ tự nhiên, thấy bị ôm trong tay người khác là một việc khó chịu gần như ghê tởm.
Hưng đứng dậy ra về. Liễu lại ngay chỗ Thanh, ngồi xuống chiếc ghế; nàng ấp úng:
- Anh!
Chưa thêm được câu gì thì đã nghẹn. Thanh nhìn nàng bằng cặp mắt lặng lẽ và nghiêm nghị, như mắt một tay dạy thú vật. Liễu càng tấm tức. Nàng biết rằng hễ cất tiếng, bất cứ nói câu gì, thì nước mắt trào ra. Mỗi lần có người mời, nàng chỉ lắc đầu, không muốn cho ai đụng đến mình nàng. Cử chỉ đó trái ngược với phận sự một gái nhảy. Có người ra ý bất bình, nhưng chủ tiệm đến xin lỗi ngay, lấy cớ Liễu mệt. Họ lại vui lòng nhảy với người khác.
Liễu mong Thanh nói một câu, dù là oán hờn, trách móc, cùng đến mắng nhiếc, xỉ vả, Liễu sẽ vui lòng nhận. Nhưng nàng còn có thể trút được nỗi tấm tức trong tim. Đọc "Tình xưa", Liễu đoán là Thanh vẫn yêu nàng, và thấy nỗi đau đớn u ẩn trong lời văn. Liễu muốn Thanh hiểu tâm tình duy nhất của tâm hồn nàng, khi tấm thân tàn tạ. Thanh vẫn không nói, cái tẩu thuốc lá liền ở môi, thỉnh thỏang sẽ nhếch, để thoáng một vẻ hoài nghi cay độc.
Suốt đêm ấy như vậy, rồi cả mấy đêm sau. Liễu khốn khổ về cái hình phạt quái ác. Tối nào cũng thấy Thanh, thấy lại thời trong sạch, nhắc lại quá khứ để nàng hiểu rõ nỗi sẩy chân. Người nàng yêu ngay trước mắt, mà xa xăm như cách mấy vạn dặm.
Cô vũ nữ mất ăn, mất ngủ. Mỗi tối khi đến giờ khiêu vũ, âm nhạc như gọi tội nhân ra pháp trường. Liễu biết chắc đao phủ đang ngồi chờ dưới góc buồng, với dáng mặt nghiêm nghị nó làm lạnh giá cả tâm hồn.
Một buổi sáng, Liễu thu xếp quần áo vào va ly, bỏ tiệm khiêu vũ Akita.
IV
Thanh vẫn yêu nàng.
Nỗi đau thương của Thanh đã thành những trang tuyệt tác cuốn "Tình xưa". Viết xong cuốn sách, tâm trí Thanh như nhẹ nhàng hơn.
Rồi chàng cố quên, thời gian dần bọc lấy trái tim.
Khi gặp Liễu, mớ lửa Thanh tưởng là đã tắt, kỳ thực vẫn âm ỷ, bùng lên. Thanh cố dập tắt, chàng coi Liễu như đã chết, đã vùi bên kia cuốn "Tình xưa". Cô gái nhảy bây giờ không phải là người thiếu nữ ngây thơ chàng yêu khi trước.
Tuy vậy Thanh vẫn không dứt bỏ được Liễu. Đêm đêm chàng đến tiệm khiêu vũ, để nhìn Liễu, để sống lại trong tưởng tượng thời kỳ không bao giờ lại thấy. Con tim vẫn rình trở dậy, nhưng lòng tự ái mạnh hơn.
Mấy hôm sau khi Liễu đi, Thanh tự nhiên thấy thiếu thốn. Chàng đọc lại "Tình xưa", lại càng thấy nỗi trống trải. Bây giờ Thanh mới thấy đã đem văn chương dối lòng một cách ác nghiệt. Chàng đi tìm Liễu, nhưng người con gái không để lại vết tích gì.
Từ đấy, đêm nào người thiếu niên cũng la cà trong các tiệm khiêu vũ, hoặc lang thang ngoài phố, hai tay chắp sau lưng, mắt ngửng nhìn đếm các ngôi sao.
Rút từ tập truyện ngắn Vỡ Lòng
Nxb. Đời Nay, Hà Nội, 1940

[ Trở Về  ]

VÕ PHIẾN * MỘT CHỖ THÂT TỊCH MỊCH

Một Chỗ Thật Tịch Mịch

<<< Trở lại Các Truyện Ngắn Của Phiến - Cô Quỳ Còn KhôngCác Truyện Ngắn Của PhiếnKế tiếp >>> Các Truyện Ngắn Của Phiến - Nằm Chơi
Bài này là một phần của Các Truyện Ngắn Của Phiến.
Một Chỗ Thật Tịch Mịch

Phiến - tvvn.org



Chàng vẫn tin rằng cứ đến giữa khung cảnh ấy mà an tọa, một mình, rồi lặng lẽ suy tưởng, thì chẳng mấy chốc sẽ có chim chóc đến làm tổ trên đầu. Một chiếc tổ chim thật rối trên đỉnh đầu, một vòng hoa tư tưởng đáng ước ao như thế có lúc chàng đã dám nghĩ là không khó. Chỉ cần đến đó, một mình. Chỉ cần có thế, nhưng ấy là điều chàng chưa bao giờ làm. Đâu khó gì? Chỉ vì chàng chưa bao giờ có cái duyên đối với một hành vi như thế.

Khung cảnh nọ cách xóm làng không xa. Nằm trên vùng đồi hơi cao. Xế trưa, thơ thẩn trên đồi, chàng trông xuống thấy dừa với tre trong xóm xanh um, nổi bồng lên cuồn cuộn như từng đám rong lớn trong hồ nước. Xóm làng coi xinh xắn, nhỏ hẳn đi. Nhà cửa thì thưa thớt, nằm khuất trong đám cây xanh. Và sự sinh hoạt của dân làng thì càng khuất xa hơn nữa.

Tha hồ nhìn ngắm, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lắng tai hàng giờ, không bắt được tiếng hát tiếng la nào. Họa hoằn, như có tiếng ai kêu ơi ới, nhưng tiếng văng vẳng rồi tắt ngay, mơ hồ, không rõ rệt.

Một đôi khi, mắt chàng bắt gặp một bóng người ngoài đồng, trên một con đường bờ ruộng ngoằn ngoèo nhỏ xíu. Một dáng người tí teo ngọ nguậy trong nắng xế bao la. Một chiếc nón trắng lấp lánh giữa đồng trống, tận xa tít... Chiếc nón lấp lánh, di động chậm chạp, trong lúc con ó rằn giăng đôi cánh xác xơ giữa nền trời, trong lúc con cuốc phát tiếng kêu đều đều trong nắng rưng rưng... Chàng càng có cảm tưởng xa cách cuộc sống khiêm tốn của xóm làng hơn bao giờ hết...

Chỉ cần dừng lại, an tọa, chẳng mấy chốc...


Nhưng chàng không đến đó để an tọa.

Và càng tiến xa, cảnh càng vắng hơn. Có một vùng đồi chia làm nhiều khoảnh lớn, như những khoảnh vườn rộng với hàng cây bao bọc bốn bề. Trong số ấy có khoảnh vốn là vườn thật, nhưng vườn cũ, vườn hoang. Bởi vì xưa kia trên đồi có một số gia đình sinh sống, về sau bỏ đồi xuống xóm. Trong những khu vườn hoang ấy còn lại hoặc một cây mít, hoặc năm ba cây dừa, có cây cụt ngọn chết khô từ lâu.

Những khoảnh khác là đất trống, bỏ hoang cho cỏ mọc quanh năm. Cho bò, cho dê ăn. Từ đám đất này qua đám khác chỉ có một lối thông rất hẹp, phải vạch cây vạch lá, lách mình len lỏi. Len qua xong, lọt vào khoảnh đất mới, nhìn quanh quất lại bốn bề có cây vây kín, một ngọn gió không vào nổi. Lại càng vắng vẻ thêm lên một bậc. Vài con chim giật mình quay đầu nhìn khách lạ. Có con nhấp nhỏm mãi, không yên tâm. Có con dứt khoát bay vụt đi, làm rung rinh một chùm quả dái ngựa. Bỏ khách lại với cái bóng của mình, in dài trên nền cỏ.

Thử vạch lá, lách mình len qua một khu đất nữa. Lại càng xa nhân gian thêm lên một bậc. Một con cút cụt đuôi cắm đầu lủi trốn vào bụi rậm. Một con gà rừng chậm hiểu, ngẩng nhìn giây lát trước khi hoảng hốt vỗ cánh một cách nặng nề. Gió không len vào nổi: nắng xế càng nồng.

Cứ thế từ đám đất này qua đám đất khác. Chàng không gặp gì khác hơn là những cây dái ngựa, cây bông trang, là lá giang, lá vằn, là thỉnh thoảng một con bò, mấy con dê. Và thường xuyên là cái bóng chàng, in dài trên nền cỏ. Tuy vậy, mỗi lần lách mình qua một khu đất mới, thoạt tiên chàng đều có một ngạc nhiên mới, trước một khung cảnh vắng vẻ mới.

Cái vắng vẻ chồng chất lên nhiều tầng. Sau cùng đến một bãi rộng mênh mông. Cuối bãi cỏ là khu rừng nhỏ, cây cao bóng cả. Mé rừng là một ngôi miếu.

Hẳn nhiên đây là nơi xưa kia con chằng tinh từng mài răng chờ xé thịt Thạch Sanh. Một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, hẳn nhiên...


Nhưng một ngôi miếu cổ, khuất nẻo như thế, cũng là nơi mà một thiếu phụ trong truyện của Pearl Buck từng ném chiếc áo vừa cởi ra, trùm lên đầu các tượng thần để che mấy cặp mắt lom lom. Chi không thích những cặp mắt lom lom.

Khi chàng lần đầu trông thấy Chi, chàng bị thu hút ngay. Chàng nhìn không chớp mắt chiếc cổ trắng muốt tuyệt diệu, nhìn mấy sợi tóc xòa xuống má, cặp mắt sâu, đen nhánh, mở to, trông thông minh và nồng nàn lạ lùng. Chi ngồi giữa bạn bè. Chàng không hề biết người con gái ấy tên là gì, từ đâu tới. Mới trông thấy lần đầu, chàng mê mẩn ngay. Chàng chăm chú nhìn: chàng mê cặp chân mày đen đậm, mê đôi mắt sâu, mê những sợi tóc sau gáy và những sợi tóc mai bên má v.v...

Chàng chăm chú, lom lom. Suýt thành lố bịch. Có lẽ chàng đã có vẻ lố bịch cũng nên. Trong phòng, ai nấy có lẽ đã để ý đến chàng. Còn chàng thì khốn khổ, vẫn chưa tìm ra cái gì để mở miệng, chưa biết nói câu gì.

Dĩ nhiên Chi không hề trông thấy chàng, không hề ngó qua một tí nào về phía chàng. Thình lình Chi ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào mắt chàng, cười xòa, kêu: “Nóng quá”, rồi hai tay nắm hai chéo áo dài, ngửa cổ ra, quạt mấy cái.

Chết một nỗi là sau đó chàng càng bối rối, vẫn không tìm được câu nào để nói. Và chàng hóa ra lố bịch hẳn. Chàng loay hoay, khốn đốn. Tuy vậy đồng thời chàng đã biết chắc chắn mình có hy vọng. Bắt đầu có hy vọng ngay từ lúc ấy.

Như vậy không đáng lo lắng sao? Nếu chỉ cần nói “Nóng quá” để tỏ tình thì có thể Chi đã nói câu ấy biết bao nhiêu lần, với biết bao nhiêu người? Thế nhưng chàng nghĩ lui nghĩ tới, nhớ đến con mắt Chi nhìn chàng lúc ấy, miệng nàng cười lúc ấy, giọng nàng nói lúc ấy; và chàng quả quyết: không lầm được.

Quả nhiên, dần dần, hai người quen nhau. Rốt cuộc Chi đến với chàng nơi ngôi miếu cổ.



Hai người tìm đến để nói với nhau những câu chuyện tuyệt vời.

— À này anh...

— Gì?

— Anh biết không...

— Không. Anh chưa biết. Gì thế Chi?

— Bà ngoại đóng đinh bị búa đập trúng ngón tay cái...

— Thật hả? Trời ơi, bao giờ?

— Mới hôm qua. Khiếp, ngón tay bầm tím.

— Tội nghiệp chưa... Nhưng em may áo mới lúc nào thế?

— Dốt! Áo thế này mà mới!

— Anh có trông thấy em mặc áo màu tím này bao giờ đâu.

— Đố anh biết ở đâu ra?

— Anh thua.

— Nhuộm đấy.

— Em nhuộm lấy?

— Anh coi được không?

— Được quá chứ lại. Em khéo thật.

— Thôi ông. Muốn nịnh cũng phải am hiểu mới nịnh được, chứ dốt như anh... Mua được thuốc tốt, nhuộm đâu khó gì.

— Em đem cái này cho anh, phải không?

— Cây ổi trước rào đấy... Có quả to nhất để dành cho anh, dơi nó vừa khoét đêm qua.

— Em tránh qua phía này đi. Có kiến...

— Để yên em coi. Mình không cử động nó không cắn. Anh thấy không, con này bò mãi trên chân em mà không cắn.

— Dại gì. Nó còn muốn bò dần lên cao...

— Thôi ông. Lại bắt đầu nói bậy!

Trên trời cao, nắng gắt, mây trắng sáng lòa. Nhưng xung quanh ngôi miếu cây cao mịt mùng. Bóng cây mát lạnh. Màu của cây xanh lá xanh ánh lên quần áo, thấm mát vào da thịt!

“U cảnh mỗi bạch nhật

Thanh huy chiếu y thường”


Gần như mỗi nhật, thanh huy đều có chiếu y thường một lần. Hai người thủ thỉ, trong lúc con sóc trèo ngược trèo xuôi một nhánh cây thị, trong lúc đàn két hái rớt lộp độp trái cây đâu đó phía sau miếu, trong lúc con ó rằn giăng cánh xác xơ trên trời xanh...

Và đến khi chàng ra về thì trên cỏ bóng chàng đã ngã quá dài. Trong mỗi khoảnh đất hoang, bờ cây bao bọc ngã bóng quá dài. Và những quả dái ngựa thì chúng in một cái bóng cũng dài quá cỡ, thành ra kỳ hình dị tướng. Một quả dái ngựa hơn sải tay! ôi chao, trên đường về đôi khi chàng tưởng thấy bị giễu cợt.

Tuy nhiên không có một cơn gió lay động, không có một tiếng huyên náo. Cảnh vật nghiêm trọng, thâm trầm. Chàng tha hồ sống với cảm xúc của riêng mình, tha hồ gìn giữ cẩn trọng nguyên vẹn cảm xúc riêng.

Chàng giữ gìn cho đến lúc đêm về. Nằm trên chiếc chõng tre đặt ngoài vườn, chàng nhìn trăng cao. Chàng nhìn lá tre trên đầu mình với những giọt nước long lanh tụ ở đuôi lá. Chàng nhìn mây kéo nhau lướt êm đềm bên cạnh mặt trăng. Tai chàng lơ đãng theo dõi tiếng chày giã gạo đều đều trong xóm. Và chàng lặng lẽ ôn lại những lời chàng nói, những lời Chi nói, những cảm xúc của hai người. Chàng như con bò nhàn hạ nhai lại cảm xúc của chính mình. Chàng sống lại, trong đêm, ở một góc vườn, những giờ nồng nàn dưới trưa...

Và tre trúc, và sương đêm, trăng sao v.v...tất cả giữ một xa cách kính cẩn đối với tâm sự của chàng.


Tất cả đều giữ một sự xa cách kính cẩn. Ngay cả cái lúc mà Chi lặng lẽ khóc.

Phải, có lần Chi khóc. Chuyện đó gần như dĩ nhiên. Vì sự gần gũi lâu ngày, thanh huy chiếu y thường nhiều lần, quá nhiều lần. Rồi một hôm, Chi khóc lặng lẽ.

Chàng hỏi: “Em làm sao thế? Chi, anh có làm em khổ không? Hả, Chi, Chi. Em...” Nàng lắc đầu không trả lời, tiếp tục khóc. Còn chàng thì loay hoay. Như một con gà mái loay hoay trong ổ sau khi đẻ xong chiếc trứng, hoàn toàn không hiểu gì về công việc mình vừa làm.

Ngay cả cái lúc ấy, tất cả vẫn xa cách kính cẩn. Két vẫn ăn trái làm rơi lộp bộp sau miếu, con rắn lục vẫn hút một tiếng dài thoang thoảng lửng lơ, con sóc vẫn nhảy nhanh nhẹn từ cành nọ sang cành kia trên cây thị, con kỳ nhông nghểnh đầu rồi lủi đi... Tất cả đều khuyến khích: “Tự nhiên, xin cứ tự nhiên! Xin các người tự nhiên!”

Và Chi thấy an ủi. Và nước mắt nàng khô dần trên mi.


Hạt nước mắt Chi đã khô trên phần tư thế kỷ. Trong chừng ấy thời gian, giặc giã liên miên. Xóm cũ mất đi sáu phần mười nhà cửa. Dân làng mười người tản mác hết tám. Cây cối xâm chiếm hết vùng đồi, bao trùm ngôi cổ miếu...

Còn chàng, bây giờ chàng ngược xuôi trên các con đường nhựa của đô thị, mũi hít mùi xăng nhớt mùi rác rến, mặt mày tóc tai mỗi chiều về phủ dày một lớp bụi. Còn chàng, bây giờ ngày ngày chàng tất tả chạy vào chạy ra sở nọ sở kia, chàng leo lóc cóc các thang lầu, chàng đụng đầu đều đều với những công việc buồn nản.

Mỗi tối, trong tiếng muỗi vo ve bên màn, chàng lắng nghe sự tàn tạ của cuộc đời.

Nhưng cuộc đời không cam phận tàn tạ. Nó không chịu cam phận. Giữa tiếng muỗi vo ve những khi thức giấc nửa đêm, từ trong cùng thẳm của tâm hồn chàng nổi lên tiếng kêu đều đều, tiếng kêu gióng giả, khắc khoải như tiếng cuốc trong nắng đậm xế chiều, tiếng đỗ quyên tiếc nhớ tiền triều. Nó gọi kêu một khung cảnh tịch mịch, thật tịch mịch...

1-1969

LƯU NA * PHAN LẠC TIẾP

PHAN LẠC TIẾP: NHỮNG MẢNH HỒN QUÊ

Lưu Na


Nhà văn Phan Lạc Tiếp
Những ngày ở Seattle mưa rả rích. Sáng dậy mình rời nhà đi đó đây chụp hình xem cảnh uống cà phê. Cũng có lúc nắng, người địa phương cho hay chỉ có khoảng 56 ngày nắng trong năm, Trần mộng Tú đã từng than van “nắng ở đây hiếm hoi hơn hạnh phúc.” Đêm về trong tiếng mưa rỉ rả buồn mình đọc những trang sách ấy. Hóa ra cái êm đềm tha thiết u hoài từ “Quê Nhà, 40 năm trở lại” vẫn còn nguyên, nối tiếp không ngằn mé không khoảng cách ngỡ ngàng trong Một Thời Oan Trái. Những giọt mưa Seattle như chuyền qua trang sách rớt xuống hồn mình những giọt trong mát u buồn. Có lẽ Phan lạc Tiếp không phải một nhà văn lớn, mà mình cũng không biết thế nào là nhà văn lớn, và những giòng chữ về cảnh cũ người xưa cũng không như những truyện quê nhà của Võ Phiến. Nhưng lạ, mình thấy PLT đặc sắc chính ở những cái không là, không như, như thế. “Quân tử hòa nhi bất đồng” chăng. Nhưng viết, đâu có chuyện quân tử hay tiểu nhân? Viết, chỉ nên hỏi viết ra sao, viết cái gì, và người viết chuyển đạt được điều gì đến lòng mình.
Phan lạc Tiếp viết rất đơn sơ không kiểu cách. Ông có lời mộc mạc, giọng từ tốn tha thiết ân cần; ông viết những điều chân thật về mình, khúc chiết mạch lạc về việc, và chừng mực thận trọng về người. Ở PLT, cái viết là chia sẻ tâm tư, kể chuyện của mình như một hồi tưởng một suy niệm và ghi lại những điều ông trân trọng. Ở Phan Lạc Tiếp, cái chừng mực như xuyên suốt từ cách viết đến con người. Hãy nói đến cái viết. Ông nói chuyện cảnh cũ người xưa, với biết bao hoài niệm, những hình ảnh tục lệ lễ tiết thói quen phong hóa ngày xưa của làng quê ông. Những món ăn, những hội vui, những nghi lễ, thói tục, niềm tin, cách ăn mặc, của một thuở đã xa trên đất Bắc, thay vì là những chuyện phong hóa trong các quyển sách văn hóa ngày xưa nhờ cái chừng mực dừng đúng lúc của ông đã trở thành bức tranh sinh động. Nếu ngon trớn thì ông đã viết phăng phăng và thành Nguyễn Tuân Vũ Bằng Thạch Lam hay Lê minh Hà và những chuyện đó trở thành những cái chung chung không mang dấu ấn của riêng ai. Nhưng ông dừng kịp để vẫn là mình. Làng Nủa và tộc Phan, chuyện làng chuyện họ chuyện xóm giềng bè bạn và quá khứ, trở thành tập ảnh vàng úa mà giở từng trang mình tìm thấy được cu Tiếp quần chúc bâu áo vải nắm tay chị Đan những ngày Tết, trò Tiếp lên tỉnh đi học, và “đằng ấy” phải bùi ngùi từ giã bạn quê ra đi không hẹn ngày về. Làng Nủa và tộc Phan, đâm ra thành những mảnh hồn quê nối người với đất mà những trang sách viết về quê hương đã gắng trao nhưng mình chỉ nhận được qua dòng chữ của Phan lạc Tiếp.
Cái chừng mực trong cách viết của PLT khi qua đến thời oan trái càng sáng rạng, khi sự việc được nhắc thật chi tiết với trọn tâm tình dẫu thương cảm hay buồn phiền. Nhưng đặc biệt, là chỉ cần thêm một chi tiết trong những nỗi oan trái của chiến tranh thì chắc mình sẽ thấy oán hờn, thêm một cái tên trong những việc hậu trường chính trị thì mối bất hòa nghi kỵ sẽ thêm kết nặng. Chính cái chừng mực biết dừng đúng lúc ở những điều muốn viết mà mình cảm nhận được cái hòa ái, cái an lạc cho tâm hồn. Cái chừng mực đó làm cho mình nguôi lại những đớn đau, nó như những giọt nước mưa làm mát dịu những vết thương lòng mà loạn lạc chiến tranh đã gây ra. Hơn thế, nó còn là mảnh đất bằng cho lứa con em lớn lên sau như mình tìm được chỗ để chân. Mình nhớ có một nhà văn miền Bắc đã kể, nhà văn ấy đi vào chiến tranh vì lý tưởng, đã khóc khi thấy ra mình bị gạt. Nhưng cũng chính nhà văn ấy trên làn sóng truyền thanh nói rằng một nửa nước, miền Bắc, cam tâm làm tay sai cho Trung cộng Liên sô; và miền Nam cho Mỹ. So với lời PLT:
Ơi những anh lính kẻ Nam người Bắc
Chết là oan cho một cuộc tương tàn
thì mình tin ông đã đúng khi nhất định chỉ là một người nhà quê chân lấm tay bùn. Không phải cứ hễ chữ nghĩa nó chọn mình thì đánh rơi bản sắc.
Đã rằng viết không có chuyện tiểu nhân quân tử, nhưng có chuyện bản sắc, và PLT có một bản sắc để mình tin cậy muốn đọc hoài. Bản sắc đó có nằm ở chỗ quân tử tầu đang làm trưởng phòng Tâm lý chiến dễ mưu lợi thì lại chỉ thấy cái phiền mà rút lui để đi làm hạm trưởng cái ghe rách bươm, hay có ở chỗ quân tử gàn xin biệt phái qua sở Hỏa xa để khỏi thấy những ánh mắt lạc thần của người dân trong vùng lửa đạn, khỏi phải tham dự vào cái hơi kỳ kỳ của những cuộc hành quân do Mỹ chủ động? Hay bản sắc ở chỗ luôn nhận gốc gác làng quê và ôm giữ theo mình những kỷ niệm, những quan hệ với người muôn năm cũ? Có lẽ tất cả mọi điều.
Trong những điều đó còn thêm là chút nghệ sỹ trong tâm hồn để đau thấy ánh mắt lạc thần của người dân quê khi lạc vùng lửa đạn, thấy cái đơn sơ mà nên thơ của “những đọt lá mới trồi lên xanh non, cuộn tròn như những khúc nhung xanh” (trang 306, 307). Bản sắc, cũng là chút chính kiến, chút phản ứng trước những việc mình không thích. Người lính VNCH dù vì hoàn cảnh hay chọn lựa, dầu sao cũng có và còn được đôi lúc là mình. Bản sắc, ở những ân tình với những người muôn năm cũ, hay những hình bóng tình cờ mang đến nghĩa ân: ông luôn viết trong cái nhìn ly nước một nửa đầy. Gặp những oan trái, những việc cần làm mà ông đã gánh vác thì ly ấy đang một nửa vơi. Và như vậy, những khi mình nhỏ giọt nước mắt cho những điều ông viết xuống gợi ra, mình yên tâm khóc, nghĩ mình không thương vay khóc mướn chuyện trời ơi.
Một Thời Oan Trái không chỉ cho mình những mảnh hồn quê hay nỗi u hoài. Qua đó có những lúc mình mỉm cười thú vị, như trang tả nghi lễ ăn uống thật kiểu cách mà món ăn thật bình dân (mình tự hỏi anh sĩ quan ẩm thực có mời tư lệnh “xơi rau nhúng nồi nước lèo !!!”). Một thời Oan trái còn có những chi tiết thuộc về lịch sử ở góc của người lính Hài quân. Chính ở chỗ chi tiết thuộc về lịch sử mà phải nhìn lại chữ của Phan Lạc Tiếp. Văn hay tùy bút thì câu chữ tùy nơi người viết. PLT đã nói ông không chọn nghiệp văn chương, nên không cần phải chỉ ra những dấu chấm ngang xương hay câu không chủ từ, mà phải khen tùy bút của ông có những câu thật đẹp, như:
“…Từ sâu thẳm trong lòng sân, như có một sự cựa mình, nhưng vi tế quá, tôi hình như chỉ thấy tự tâm tôi. Tôi bước những bước rất từ tốn trên mặt sân, mỗi bước chân đặt xuống nhẹ nhàng êm ả, chỉ sợ đất buồn. Tôi vẫn cố gắng nghe, mà như đất khô già quá, đất lặng lẽ nín câm.” (trang 50).
PLT còn có những cách dùng chữ rất đắt, thí dụ: “tôi như chột đi khi không có chị,” …hay những câu thật hay: “ôm cả cái nao nức chờ đón mùa Xuân vào lòng” (trang 35), “vài lá tía tô tím thẫm làm nền cho các cọng rau muống chẻ xanh non, xoăn tít như nụ cười mời gọi của bà hàng bún” (trang 168), hay thật u hoài: “nhắm mắt lại,…không còn thấy quê cũ là đâu nữa” (trang 134). Những trang viết về Tào Mạt thật ngậm ngùi, nhưng mình thích nhất là những dòng về người bạn “đằng ấy” trong “Người Nghệ Sỹ Miền Quê,” cũng như trang viết tả chị Luông với hàng guốc thật thú vị (trang169). Bên cạnh đó lại có những câu vô ý (!!!!), thí dụ “Như thế, mẹ tôi và dì tôi cùng lấy chồng thiên hạ” (trang 69). Mình sinh trưởng trong Nam, đọc thì bật cười, tuy hiểu ý ông nói lấy chồng ngoài xa, khác thôn làng, nhưng câu đó người trong Nam ý nói hoặc là giật chồng người, hoặc làm bé. Cái vụng về của ông chỉ gieo một cái mỉm cười, nhưng những lỗi typo trong in ấn ở 60 trang viết của bài “Những Chặng Đời Nghiệt Ngã” (trang 288-347) có thể tai hại nếu dùng làm ghi-chép bên lề sử liệu, dù lỗi ấn loát đúng là phải chịu trong mọi chuyện in ấn. PLT nhắc trận Ba Rài có ghi vào Hải sử, cái “ngà” đã làm ông phải ngưng viết lách 6 năm để vác với biết bao công sức của đồng đội bạn bè cấp trên người ủng hộ bảo trợ, v.v…
Trận Ba Rài trang 297, “Chiếc Tiền Phong đỉnh khác, HQ6001, do trung úy Nguyễn Ngọc Giang chỉ huy…, tàu bị B40 bắn thủng phải ủi bãi để tránh bị chìm. (Hiện anh Giang định cư tại thành phố Houston, Texas. Chiến đỉnh này do trung sĩ I Trọng Pháo Lê Phước Đức….làm thuyền trưởng, bị tử thương…” Ở đoạn vừa trích có mở ngoặc mà thiếu đóng ngoặc, ý chấm dứt ở đâu, và HQ6001 do Giang chỉ huy thì Đức làm thuyền trưởng chiến đỉnh nào? Mình không hiểu việc chiến tranh binh bị, những điều về HQ cũng lại là một chuyên môn, nên đọc chỉ căn cứ vào cái mạch lạc để hiểu. Đọc những lời báo cáo đã làm xếp lạnh cẳng, những bài chuẩn bị khi hành quân, những chi tiết nghi lễ dù nhỏ nhặt cũng thứ tự đầy đủ của PLT thì mình tin rằng cái rối ren đã nêu đó là lỗi in ấn, hoặc chính là mình ngớ ngẩn có chứng chỉ (do bạn ông PLT cấp), chứ không thể là lỗi của một người đã viết 2000 trang chữ. Trận Ba Rài trong Hải sử có viết khác hay không? Dù sao, cũng chỉ là chuyện nhỏ.
Với mình Phan lạc Tiếp đã viết xong một cái kết luận cho riêng ông, và mình cũng đã nguôi ngoai nổi bực phiền của chuyện còn mất được thua năm xưa. Quả thật “ân hận nay đã thuộc về người khác…” (trang 328). Nghĩ đến một người viết đã quá cố: nhà giáo Nguyễn Hiến Lê, mình cũng muốn mượn lời nhà giáo ấy mà nói rằng Phan Lạc Tiếp đã viết những lời “văn thơm tho, tình hiện u hoài.” Tuy PLT không viết trong chủ đích giáo dục như Nguyễn Hiến Lê, nhưng cái chừng mực ôn hòa của ông khẳng định cái thiện tâm cái hòa ái tự chủ mình nên học. Mình mong ông mãi là “đằng ấy,” chứ không phải nhà văn lớn và không như ai hết, để thế hệ 36 tuổi (Ngô Nhân Dụng) sẽ có dịp và có duyên may như mình, tìm được qua hàng chữ của Phan Lạc Tiếp những mảnh hồn quê.
Lưu Na,
05/15/2011

LÊ THỊ HUỆ *GIỮA THƠ VÀ NGƯỜI

GIỮA THƠ VÀ NGƯỜI
H. như một niềm bí mật. H như một tình yêu ngần ngại
Thi sĩ gọi tôi là H.
Chỉ có tôi mới gọi tôi là Huệ. Tên tôi là Huệ, Lê Thị Huệ.
Ngày đầu quyết định viết văn, tôi suy nghĩ mãi, nên lấy một cái tên văn chương nghe thật choáng, thật đặc biệt, thiên hạ đọc lên nhớ liền. Thiên hạ nhớ cái tên trước, thế là mình thành danh ngay lập tức.
Hay giữ cái tên cha sanh mẹ đẻ cho. Lê Thị Huệ, nghe trần trụi đời thường. Không có văn chương bóng bẩy gì hết.
Tôi quyết định chọn cho mình cái tên Lê Thị Huệ, vì tôi nghĩ như thế tôi có thể viết một cách chân thật.  Tôi tuyên xưng tôi chọn tên chứ không phải giữ tên Lê Thị Huệ.
Tôi bị ám ảnh Sự Thật. Tôi chỉ có thể thật nhất trong vai Lê Thị Huệ. Tôi đã tưởng tác phẩm là chứng nghiệm của đời sống. Lê Thị Huệ sống theo những nhân vật trong tiểu thuyết, trong những bài thơ. Tôi nghĩ mình đã, đang, và sẽ sống như một bài thơ.
Một ngày kia, tôi mới khám phá, chết cha, mình đã trở thành nàng thơ của thi sĩ, không phải là một thi sĩ, mà là của nhiều thi sĩ, của nhiều người đàn ông. Họ tôn tôi lên vai nàng thơ. Tôi là nguồn cảm hứng của nhiều bài thơ của nhiều người đàn ông.
Còn mình là ai. Mình đớn đau đến chết đi được. Mình bị oan nghiệp suốt kiếp. Mình tranh đấu đến phải đi nhà thương. Mình thay đổi bao nhiêu số phận. Mình run rẩy như một con gái tim non nhẹ dạ. Mình ẩu tả thấy bà. Mình ích kỷ thấy mẹ. Mình nhát lắm đi lận. Mình hút đàn ông, chó, và con nít, như một cục nam châm. Mình không thích nổi tiếng. Mình không thích ai theo đuôi mình hết, just leave me alone. Mình đâu có chọn mình là nhà thơ, mình chỉ khóai viết truyện. Mình muốn tắt thở ngay phút giây này. Cả đời còn lại mình nguyện chỉ lo cho Tôm Hùm. Mình chả biết sợ ai trên đời này, chỉ sợ một điều mình chết đi Tôm Hùm bị người ta đối xử tàn ác với con. Ôi mình đơn giản biết bao vậy mà bị mang tiếng là cà chua, cà chớn, phản động, việt cộng, cực đoan, lộng ngôn, xa cách, khó khăn, kiêu ngạo.
Kệ đi.
Rồi một bữa,  tôi thấy tôi tách được ra khỏi tôi. Tôi thấy một Lê Thị Huệ ngồi phụ với thi sĩ  nâng H. lên ngôi nàng thơ. Tôi thấy Lê Thị Huệ không phải là H. Như thể H là một khám phá thơ của thi sĩ.
Tôi làm chủ biên và tôi đưa bài thơ nhớ H. của thi sĩ cùng tấm tranh vẽ H. của hoạ sĩ lên như thể tôi đưa một kẻ lạ nào đấy lên trang thơ gio-o
Ngày hôm nay có hơn một thi sĩ réo gọi tên tôi, viết tặng tôi những bài thơ. Tôi đưa một bài thơ tên H. ra ánh sáng. Đẩy những bài thơ khác vào bóng tối.
Thi sĩ ạ, cuộc đời luôn luôn là những hoàng hôn đớn đau giữa bờ vực ánh sáng và bóng tối, mà chúng ta là những tấm thân và những linh hồn quá mẫn cảm.
Chúng ta cùng đớn đau ngang nhau.
Chúng tôi bị giằng xéo giữa nhân vật trong tác phẩm và đời thường. Chúng tôi sống gian nan đớn đau không tách bạch được đời sống của tác phẩm và đời sống thật của mình. Không có ranh giới giữa thơ và người.
Tin tôi đi thi sĩ, tôi hơn cả những mỹ nữ tuyệt vời.
Như một lời cám ơn: Những nàng thơ ấy xứng đáng với niềm mơ mộng của thi sĩ lắm, thi sĩ ạ.
Hãy cứ để những người thơ ấy được sống vĩnh cửu trong những tác phẩm, trong lòng của chúng ta.
Khi tôi tự nhủ mình phải tiêu hóa đời sống và nhào nặn ngôn ngữ nhuyễn nhừ ra để sáng tạo một tác phẩm nghệ thuật, đã bất ngờ tôi thấy một bó đuốc Sự Thật le lói từ phía xa. Tôi là người sáng tác đa đoan. Điều gì đã bật khởi trong tôi cung điệu phục vụ cho Sự Thật.
Sự Thật chỉ là mùi hương. Nhưng tôi đã bị dí như ma đuổi. Tôi bị khủng cụ vào chân tường để đôi khi gần như tôi đã bị cứa cổ gần lìa đời vì mùi hương ấy.
Và đêm đêm ghì siết Sự Thật.
Ồ, mà không phải những Nhà Nước cũng bị ma ám Sự Thật như tôi sao. Pravda, Pravda, Pravda. Nhà nước Cọng Sản Nga còn bị ám ảnh bởi Sự Thật đó thây.
Sự Thật giàn dụa dãy chết trước mắt tôi. Tôi đã quay mặt nhiều lần trong đêm tối khóc than cho những người dân Iraq vô tội bị nướng vào lò chiến tranh Trung Đông. Tôi đã đi biểu tình phản đối nước Mỹ mang quân sang Iraq năm 2003. Nước Mỹ nói dối rằng Iraq có vũ khí nguyên tử. Nước Mỹ mang quân sang Iraq đánh cho nát tan xứ sở người ta. Chả thấy cái đầu đạn nguyên tử nào. Cả thế giới im lặng phủ phục trước sự dối trá tăm tối của nước Mỹ. Im lặng để cho Iraq biến thành nồi nướng xác người dân Ia Rắc vô tội .
Chỉ mình tôi thôi. Ân ái với Sự Thật.
Rất tình cờ Nguyễn Thế Hoàng Linh đọc một bài thơ tương tư Sự Thật.
Tôi để lên gio-o bài thơ của tôi được Nguyễn Văn Xuyên, một người bạn học ở Đà Lạt, một người đóng vai Sơn Ca vở Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan hay nhất ở sân khấu Spellman Đại Học Đà Lạt thời ấy, ngậm ngùi phổ thành nhạc cho tôi.
Bài hát ngậm ngùi ở cái giọng của bạn tôi là Ngọc Phụng. Ngọc Phụng giọng yếu nhất cũng chính là tôi. Sự yếu đuối của hai chúng tôi. Những người đàn bà có khi muốn qụy ngã trước những khốc liệt của lịch sử đã đàn áp số mệnh của chúng tôi như thế nào.
Tấm thảm đỏ giữa đời không sự thật.
Tôi không có sức lực để tranh đấu với sự thật lịch sử.
Sự Thật để làm gì chứ
Sự Thật để làm gì chứ.
Sự Thật để làm gì chứ.
Dối trá tràn lan và sáng láng khắp mặt đất. Điều ấy qúa hiển nhiên.
Tôi ngây thơ. Vô cùng ngây thơ. Khi cất tiếng thơ, không ngã qụy giữa những cơn say Sự Thật.
Tôi ơi hãy đầu hàng đi. Hãy chấp nhận hãy tôn thờ sự dối trá đi. Linh hồn mi sẽ hết run rẩy. Tiếng lòng mi sẽ hết thổn thức. Đời sống mi sẽ bớt chật vật. Mi sẽ nhắm mắt đi ra khỏi cuộc đời này với một thân xác thanh thản.
Tuổi tác rớt xuống kẽ giường
Đêm lau những sợi tóc rối
Son từng tụm run môi sứt
Nhoà vang Napa xưa
Vài đứa con lọt hầm cầu
Bị ám râu rậm chiến tranh
Những người đàn ông không đầu
Sắp hàng qua phiên chờ thay panty hose
Tôi giấu đời sống qua những chiếc khăn
Khăn nhầu và những giọt lệ rơi qua vai sô
Chiều ngập ngực những tiếng khóc oà
Tình chị em bị bắn tóe đớn đau như tụ ung thư bướu
Chết tôi đi đời sống đầy sự dối
Tôi bị thắt cổ bởi môt. sợi chỉ hồng chân thật
Có không màu thời gian chiều nay làm không chứng
Con dấu lạnh tanh
Tôi một mình lái xe ra công viên vắng
Nhảy xuống qua bao nhiêu vực mây bay
Trở về làm người đàn bà già mốc
Ôm một bầu ngực cạn
Thương mình mong manh
Trĩu vai má hiền

LÊ THỊ HUỆ
Amerika
Mother Day
13.05.2007

NGÔ SỸ HÀN *GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI LÀM TRÂU

GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI LÀM TRÂU

Ngô Sỹ Hân
thân tặng Phạm Văn Tố và Ngô Thị Ngọc-Dung
     Cũng như các cô giáo khác, đa số bạn bè của cô Nga là dân chợ. Khi hay tin cô sắp lấy chồng về quê, họ ngạc nhiên lườm:
     - Thành thị không ở, lại đút đầu về quê?
     Những người khác ớn cái cảnh theo ông xã nhà binh rày đây mai đó, lại muốn lấy chồng thầy giáo, hoặc kẹt lắm thì đức phu quân ít nhất cũng là công chức cho hạnh phúc đến đầu bạc răng long:
     - Bộ hết người rồi sao?
     Cô giáo Nga cười phân bua:
     - Không phải hết người, nhưng tìm hoài nay mới gặp người trong mộng!
     Các cô bạn mỉa mai:
     - Chà! Lý tưởng dữ ha!
     Cô Nga hơi mắc cở, phang ngang:
     - Kệ tôi. Thời buổi trai thiếu gái thừa, tôi sợ ở giá như bà dì! Không khéo già kén chẹn hom nghe các con!
     Họ cũng trả lời:
     - Kệ tôi. Bà lo thân bà đi!
     Nga khích:
     - Ừ! Thì thân ai nấy lo. Tôi rán chống mắt đặng xem mấy bà về tỉnh thành hay về quê!
     Như vẫn còn ấm ức, cô giáo Nga gỡ gạc:
     - Sợ lấy chồng nhà binh hả? Coi chừng cuối cùng rồi cũng lên núi sống với cọp hay về rừng chơi với vắt và ngủ dưới giao thông hào!
     Cô giáo Nga nghĩ cũng phải! Thời buổi chiến tranh, không lấy chồng nhà binh chỉ có nước thành gái già! Thanh niên học đại học nửa chừng hoặc mới vừa xong trung học đút đầu vào lính, chưa kịp lập gia đình, mới còn độc thân. Còn mấy ông thầy giáo và công chức sống thọ thì đã có người đặt hàng nâng khăn sửa túi từ trước; làm lễ ra trường xong là vội hớn hở bước lên xe hoa để sớm rút kinh nghiệm cuộc đời cay đắng, “đâu tới phiên mình -trẻ lắm cũng hăm bốn hăm lăm!”.
     Các cô vớt vát:
     - Rồi đời con sẽ khổ nghe con!
     Mặc các cô bạn nói gì thì nói, cô giáo Nga lấy chồng về nhà quê thật. Nhưng cô có ở dưới quê ngày nào đâu mà khổ! Ông xã dám về làm đám cưới đúng truyền thống của tổ tiên chỉ để vui lòng gia đình. Ông anh chồng phải nhờ người bạn, trước học cùng lớp, cho một trung đội Địa Phương Quân giữ an ninh cho đám cưới nhà binh. Đấy là ảnh lo xa vậy thôi. Sau Mùa Hè Đỏ Lửa, mấy anh cách mạng nằm vùng biến đâu mất tiêu hết, chắc đang co cụm. Vành đai an ninh quận nới rộng ra đến tận bên này bờ sông Vàm Cỏ. Có lẽ chỉ trừ đám lá Tối Trời bên quận Bình Phước và quận Tân Trụ còn là chỗ dung thân cho những cán bộ còn sống sót. Lúc này nếu có ai cắc cớ tìm một anh cách mạng để xin đóng thuế đỏ con mắt cũng không ra. Từ ngày lấy chồng cho đến lúc trời xập, cô giáo Nga cũng chưa từng nhìn thấy một tên cách mạng thật bằng xương bằng thịt!  
     Hết cái cảnh đào đường cuốc lộ, hết cái cảnh phóng loa kêu gọi lính Nghĩa Quân bỏ đồn theo giặc. Lính tráng và cán bộ Xây Dựng Nông Thôn vô tới tận thôn làng. Họ chơi với con nít, dạy đám trẻ hát, giúp bà con sửa nhà chữa cửa, làm ruộng làm nương; tối lại còn nhậu với đám thanh niên và mấy ông già gân. Điện chưa về làng nhưng ánh sáng văn minh lấp ló đâu đây. Sáng tinh sương trên con đường làng dẫn đến chợ, các cô gái yêu đời nhí nhảnh trong những bộ đồ bà ba cổ trái tim màu mè, cười giỡn líu lo như là sống trong cảnh thái bình. Dĩ nhiên, hơi quê mùa nhưng không đến đổi nào. Rải rác cũng có người học hành đỗ đạt làm công chức, làm thầy cô giáo ngoài thành, và đi sĩ quan khắp bốn vùng chiến thuật. Là dân chợ, cô tự an ủi tại vì hai người “yêu nhau hết biết” thì phải chịu thiệt thòi một chút cũng không sao!
     Tuy nhiên, điều khiến cô giáo tự hào về gia đình chồng không phải là ngôi nhà ngói móc ba gian hai chái, cái sân gạch tàu phơi lúa rộng thênh thang, và vườn dừa sai trái hầu như bốn mùa..., mà là một gia đình nhân từ và đạo đức, được nể vì của lối xóm. Ông cha chồng không học nhiều nhưng còn nhớ đủ để trâm tiếng Tây được với anh Thống học sinh ngữ thứ hai Pháp văn với thầy Lê Văn Nguyện. Ngược lại, bà mẹ chồng mù chữ như đa số người đàn bà ở quê vào lứa tuổi ấy. Bà rất mực nhân từ nhưng nếu diễn tả thì nhiều khi vô tình hay vụng về làm giảm cái lòng nhân ái của bà đi. Ông bà, do cha mẹ đặt đâu ngồi đấy, ở với nhau từ hồi chưa đến tuổi hai mươi cho tới lúc bạc đầu, chỉ sinh được hai thằng con trai rồi ông trời bắt nghỉ luôn không cho biết lý do. Ông anh lớn làm thầy giáo chưa lập gia đình, chỉ một mình phu quân của cô giáo là sĩ quan. Bà con lối xóm nói nhà có phước mới có người làm quan!
     Nhưng sau ngày cách mạng thành công, gia đình bác Tám “có phước mới có người làm quan!” tự nhiên trở thành ngụy, mặc dầu từ trên xuống dưới ai ai cũng mẫu mực đàng hoàng, chớ không hề đầu môi chót lưỡi, giả nhân giả nghĩa, và tranh sống bằng cái mánh lới mới của cách mạng! Con nít lối xóm gọi bác là ông nội ông ngoại như ruột thịt. Đám trẻ xem hai bác như cha mẹ, tá điền lớn tuổi thì coi như anh cả, ông bà già thì như anh em bè bạn; trong vùng này không ai có thể lớn tuổi hơn bác được nữa. Từ bao nhiêu đời, dòng họ ông không có truyền thống tham gia chính quyền làm ông cả ông chủ trong làng, chỉ là thường dân Nam bộ. Dù vậy, cũng nhờ có hai thằng con ăn học mà gia đình được thơm lây. Cưới hỏi, đình đám, đơn từ một tay hai anh học trò. Tết nhất họ mang quà tặng đầy nhà cho dù ông bà không nhận họ cũng bỏ đấy, chạy băng qua cái sân gạch mà về. 
     Ngay tại ngỏ, dù không có cổng như đình làng hay của những gia đình khá giả khác, bác Tám kiểu cách trồng hai khóm hoa dâm bụt cao tới cổ người lớn, lá xanh mướt và bông đỏ lòng thòng trông không giống như cái lồng đèn xưa thu nhỏ lại. Phía bên trong khóm hoa khoảng hai thước là cái cầu thấp dùng để rửa chân trước khi bước lên hai hàng gạch xi-măng ước chừng bốn năm mươi thước dẫn vào nhà. Người ta không thấy tượng Phật, hình Chúa, Khổng Tử, Lão Tử, Quan Công..., mà chỉ thấy hình ông bà tổ tiên theo thứ tự ba đời trên bàn thờ. Bộ trường kỷ chạm trỗ cầu kỳ ở gian giữa dùng tiếp khách quý trang trọng khi có đám tiệc; hai bên là hai bộ ván gõ đỏ lên nước bóng láng nhờ bác trai ở trần ngủ trưa hầu như quanh năm, mãi cho đến cái ngày lỡ khóc lỡ cười!    
     Lúc mới đổi đời, tự nhiên thằng Hai Cò mua ve chai được làm bí thư xã. Con vợ nó giờ đây đổi lốt cho khác với đám đàn bà con gái thường dân; trong bụng không có bếp lò mà nó cũng hét ra lửa được! Tay chân bộ hạ của vợ chồng thằng Hai đa số dân cô hồn các đảng miệng bằng tay tay bằng miệng nên dân ngụy phải sợ! Nếu thế cũng chưa đủ, nó phải dùng thêm một số con nít mới lớn biết đọc biết viết để làm giấy tờ. Không biết do lệnh trên hay chạy theo mốt cách mạng, mấy cô cậu cách mạng ba mươi người nào cổ cũng quấn khăn rằn đỏ, mang một cái túi dết cán bộ nhập từ miền Bắc, và mang dép râu của bộ đội nên đi đường đồng trợt lên trợt xuống!     
Thằng Hai Cò mang súng lục đi với thằng phụ tá đến từng nhà ra lệnh bắt treo cờ xanh đỏ sao vàng và hình ông già râu lên bàn thờ. Bác Tám không thể làm trái nhưng có ý kiến khác với văn hóa cách mạng một chút. Ông tửng tửng theo kiểu kẻ cả:
     - Bàn thờ ngay chánh giữa nhà là để thờ tổ tiên ông bà. Cờ và hình thì tao có treo rồi đó!
     Anh bí thư bây giờ phát tài phát tướng thành bí thơ Hai Mập, không còn là thằng Hai Cò nữa. Nó làm lớn như thế mà không hiểu sao sau lưng hắn, người ta vẫn gọi bằng thằng, thằng bí thơ. Nó nài nỉ:
     - Còn hình Bác Hồ? 
     Hình như Bác Tám khoảng tuổi con heo hoặc con chuột hay trẻ lắm cũng con cọp, biết thằng bí thơ Hai Mập dốt đặc, nói đại: 
     - Tuổi ổng là bác của tụi bây chớ bác tao sao được?
     Thằng Hai Mập, không biết Bác Hồ của nó bao nhiêu tuổi, nhìn theo ngón tay bác Tám chỉ:
     - Bây xem hình tao treo chỗ cao nhứt và sạch sẽ nhứt đó! Tao vẫn kính trọng ổng, tao kêu ổng bằng ông Hồ hay ông chủ tịch mà! 
     Hai Mập đuối lý nói lảng qua chuyện khác để gỡ gạc. Gương mặt hồng hào của nó chuyển sang màu “đấu tranh chánh trị”:
     - Anh Thống có nhiều nợ máu với nhân dân, cách mạng...
     Hiểu thằng bí thơ sắp trả bài, bác Tám cướp lời:
     - ... Thôi! Nó có tội để cách mạng trị nó, không liên quan gì tới tao. Cách mạng vẫn nói “ai làm nấy chịu” mà!
     Mấy ông anh của bác Tám trước khi hy sinh cho cách mạng có nói “ai làm nấy chịu” nên chính quyền Quốc Gia không dám làm gì gia đình ông hết! Nghe phong thanh hình như chính bác Tám cũng có tham gia một thời gian. Anh thầy giáo kể lại rằng Hiệp định Sơ Bộ mồng Sáu tháng Ba tăng cường thêm sự hoài nghi của bác Tám. Hoặc là im lặng nhịn nhục tới đâu hay tới đó hay là đi mò tôm [1]. Cách phản đối tiêu cực nhất và đỡ nguy hiểm nhất là bỏ về. Thừa kế chưa tới một mẫu, ông già gân suốt cuộc đời làm lụng vất vả mới dư được mấy mẫu ruộng và căn nhà ngói, và ráng cho hai thằng con trai ăn học nên người. Thằng anh nối gót theo chú nó đi dạy thầy giáo rồi. Còn thằng nhỏ, thời buổi giặc giã, phải đi lính thôi, chớ chẳng lẽ bỏ vô bưng theo mấy thằng thất học:
     - Thắng làm vua, thua là giặc. Chuyện đời mà!
     Nhiều lúc nhìn mông lung ra ngoài, bác mơ màng đến những mùa xuân thanh bình cách đây không lâu. Lúc ấy tụi trẻ con tung tăng trong những bộ quần áo còn thơm mùi hồ đi chúc Tết ông bà để hí hửng nhận những đồng tiền lì xì mới còn thẳng nếp mang theo vào giấc ngủ mộng mơ. Bác nghĩ đến những nương mạ non màu đọt chuối đầu mùa và màu xanh lúa trổ đòng đòng mởn mơ con gái. Bác nghĩ đến cánh đồng lúa vàng trĩu hạt mùa gặt, gánh về phơi đầy sân gạch. Trả công trâu cày và thợ thầy xong, dư tới mấy thiên. Cái bồ lúa ba tầng cao gần đụng nóc nhà kho. Thuế má có bao nhiêu, chẳng qua như tiền ăn bánh! Chỉ cần mấy mẫu ruộng đồng cũng đủ sống tàng tàng -ngôn ngữ của bác- ở cái xứ quê mùa này: 
     - Hồi thời ông Diệm bình yên biết mấy! Cả đến thời ông Thiệu, họ cũng đâu có hành mình như mấy thằng này!
     Bác gái nghĩ đời nào mình cũng làm dân, ai làm hội đồng xã hay chủ tịch nước cũng được, nhưng hoang mang không ít:
     - Thời buổi gì kỳ: Muốn làm gì thì làm, muốn nạt ai thì nạt, muốn lấy của ai thì lấy! Coi dân như con nít. Thời Tây đô hộ cũng chưa đến đổi như vầy!
     Như mọi khi, ông an ủi:
     - Bà à! Hết rồi những ngày tháng bình yên.... Tôi đã nói trước. Còn gì nữa mà tiếc!
     Không biết gia đình ngụy này có bị ghi tên vô sổ bìa đen của anh bí thư cách mạng ba mươi không nhưng anh ta không ép nữa. Cờ đến tay, vợ chồng Hai Cò dẹp cái nghề mua bán ve chai khổ nhọc. Hồi trào ngụy, nó chỉ mơ được một chân làm lao công ở trường học Tiểu học Tân Chánh cho nhàn tấm thân và đỡ vợ con. Chính nó cũng không ngờ nó nhảy một bước đến chín tầng mây xanh. Đúng như cách mạng nói “chết là cùng -chết là hy sinh cho cách mạng còn hơn sống vất vưởng, mà thắng thì cái gì cũng có...”. Nhưng không dưng người ta mang của đến cho mình à?! Cũng phải dùng cái gì đó mới khiến người ta đưa tiền chớ! Dâng tiền mà ngược lại họ phải cám ơn mình đã nhận nữa! Sống cuộc đời cán bộ cách mạng ở cái xứ này, giấc mơ đã thành hiện thực: Nhà đúc bê-tông, mái ngói móc, tường tô...; nếu ở chợ thì anh cũng phải có cái ô-tô con! 
     Cuối cùng thì không thấy hình ông già râu gian ác đâu. Bác Tám xối nước trây đất cho lem luốt đem dấu đi ở một góc kẹt nào đó. Ông chuẩn bị câu trả lời nếu bị nó hỏi:
     - Bị mưa dột ướt hết trơn rồi. Để mai mốt tao sẽ mua cái khác đàng hoàng đẹp đẽ hơn thay.
     Thấy ông cương với thằng bí thơ Hai Mập, bác Tám gái lo lắng nhìn ông:
     - Ông à! Thời buổi sâu bọ làm người, ông coi chừng tụi nó! Tụi này không hiền đâu!
     Trái với tâm tính nhân từ và độ lượng, tướng tá bác Tám cao lớn, vạm vỡ, và mặt mũi bặm trợn. Bác chỉ cần đứng dậy là anh bí thư tưởng bị tấn cống, định chạy liền:  
     - Bà đừng lo! Tôi biết đánh thì tôi phải biết đỡ chớ!
     Bác gái cũng ậm ừ:
     - Ờ! Để đó cho ông đỡ!
     Bác Tám cương thêm:
     - Má nó à! Trâu già đâu nệ dao phai!
     Ông già trong tư thế chuẩn bị hoài mà nó không đánh cho ông có dịp đỡ. Rồi thời gian nhục nhằn ngày này qua ngày khác chồng thêm gánh nặng khiến tâm hồn bác trai chai đá và lưng bác gái còng thêm. Hai bác không biết ông bà tổ tiên đã sống ở cái đất này từ hồi nào. Nhưng mở mắt ra là bác đã nghe tên và lớn lên chút nữa là biết cái bến đò Bà Nhờ, cái Xóm Vồng, Ấp Chợ, Xóm Bà Lựu, Xóm Lưới...; kéo lên đến ngã ba Tân Lân, Nhà Dài, và con tỉnh lộ 18; đổ xuống Kinh Nước Mặn, đồn Rạch Cốc; qua Cầu Nổi, Mỹ Lợi, tới Vàm Láng.... Bác biết cả tiên nhơn của mấy thằng cách mạng ba mươi và thằng bí thơ này không sót một chỗ nào. Tụi nó mượn nợ ai rồi quịt luôn thế nào, đi ăn trộm bị lính Nghĩa Quân bắt quả tang ra sao, bác biết hết mà bác chưa hề kể cho ai nghe.
     Bác trai giải thích:
     - Hồi xưa chánh quyền người ta dùng người có chữ nghĩa. Bây giờ không xài mấy thằng này thì xài ai? Người có học và đàng hoàng ai chịu làm tay sai cho tụi nó! 
     Khi có dịp ngồi chung với gia đình, bác gái tâm sự:
     - Ba má ít học không có nhiều tiền của ruộng nương. Ăn hiền ở lành chỉ mong để đức lại cho con cháu.
     Còn ông già thì xác quyết như đinh đóng cột:
     - Ở hiền gặp lành. Ở ác gặp ác. Ông trời coi vậy mà có con mắt. Quả báo nhãn tiền chớ chẳng đâu xa!
Nhưng điều xác quyết của bác Tám ít nhất tới ba bốn năm rồi chưa ứng nghiệm. Mới trước ngày ông Dương Văn Minh tuyên bố buông súng, lối xóm còn nể nang và vồn vã gia đình có người làm thầy giáo và làm quan, mà bây giờ tự nhiên xa lánh. Họ lấm la lấm lét, không dám nói chuyện cũng không dám lại gần, chắc sợ vạ lây! “Liên hệ với ngụy quân ngụy quyền” mất mạng như chơi, “nếu không chết thì cũng èo uột khó nuôi”, không sợ sao được?! Gia đình sĩ quan và công chức chế độ cũ trong xóm ấp cũng cùng chung số phận, chớ không riêng gì gia đình bác Tám.
     Trong hai người con của bác, anh Hai làm thầy giáo chỉ mới bị xài xể sơ sơ nên chưa mất dạy, bị buộc tội gián tiếp dạy cho “bọn ngụy tụi nó” đỗ đạt đi sĩ quan chống phá lại cách mạng. Còn anh Thống đi giang đoàn hay giang thuyền hay giang đĩnh gì đó không hề làm hại một sợi lông của cách mạng. Anh chỉ giết mấy thằng Việt cộng phá làng phá xóm thôi, theo lời thành thật khai báo khi ở tù! Thậm chí anh cũng không trực tiếp cầm súng bắn mà chỉ ra lệnh cho xạ thủ bóp cò. Vì không có nhiều nợ máu với nhân dân nên ở tù chưa tới ba năm thì được về sớm. Hộ khẩu thì Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã chuyển sang Hoa Kỳ từ năm 1975, vợ chồng anh sĩ quan và cô giáo trẻ phải về quê ông già làm ruộng. Nhưng cách mạng đã lấy gần hết rồi, còn lại mấy sào gia đình năn nỉ cách nào họ cũng không chịu cày cho mình.
     Nước đã nổi, hầu hết ruộng người ta đã cày rồi, chỉ phần của đám ngụy quân ngụy quyền là còn nguyên. Anh con trai dù lo lắng nhưng có vẻ chịu đựng, nhìn cha mẹ:
     - Ba má đừng lo! Con đã có cách.
     Bác Tám trai nôn nóng:
     - Cách gì? Nói tao với má mày nghe đi!
     Anh Thống giải thích:
     - Tụi nó không cày thì mình làm trâu cày!
     Sống từ đầu thế kỷ Hai Mươi tới lúc Đức đánh các nước Âu châu, rồi đến Nhật đánh Pháp tại Đông Dương, bà con và gia đình bác sống lầm than khổ sở trăm điều, nhưng bác Tám cũng không hình dung có cái ngày này, cái ngày thành công của cuộc cách mạng vô sản, mà thằng con sĩ quan nhà ông phải thế trâu cày ruộng!
     Bác nghi ngờ: 
     - Được không? 
     Anh Thống nhìn ông già:
     - Mỗi bên ba con trâu người! 
     Bác Tám thở dài:
     - Coi vậy mà không dễ như hồi xưa tao làm trâu cho hai đứa bây cỡi đâu! 
     Cái lưng thớt của bác gần bằng cái mặt ghế, bác gái cỡi còn được huống hồ gì trẻ con! Thằng em ngồi trước, thằng anh sau, kẹp chân vào bụng và ngực ông già; hai anh em khoái chí cười “hắc hắc”, còn nhún lên nhún xuống khiến bác gái xót ruột cho ông chồng, cứ sợ gãy xương sống nằm một chỗ chẳng làm ăn gì được. Bác bảo các con phải nhẹ nhàng như cỡi con nghé! Ông thầy giáo và ông sĩ quan tiếc rằng từ lúc bắt đầu đi học lớp vỡ lòng - kể như người lớn - thì hết còn đặc ân ấy nữa!
     Bác Tám gái lên tiếng:
     - Hồi xưa ông chỉ làm trò cho tụi nó cỡi thôi! Bây giờ phải thế trâu kéo cây cày thiệt!
     Quay sang Thống chia sẻ, bà hỏi:
     - Làm sao kéo nỗi, con?
     Thống quả quyết:
     - Trong tù, tụi con đã cày rồi!
     Cô giáo Nga bủn rủn tay chân. Không có bầu mà cái cổ dài ra, tong teo ốm yếu vì phải đi bộ hàng ngày và ăn độn khoai lang. Bụng lép, ngực cũng lép; ai không biết cứ tưởng là đứa học trò con nhà nghèo chừng khoảng mười một mười hai tuổi. Vậy mà cô vào lớp sau khi có trớn, người ta không ngờ trong thời xã hội chủ nghĩa lại có một bộ óc đề kháng khôn ngoan đến đổi vài lần bị mời lên văn phòng làm việc! Cô nhớ lại bài học bồi dưỡng chính trị cho giáo viên nói từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa -một xã hội khoa học tiên tiến, phải hiểu ý nghĩa sâu xa là hồi trước dùng máy cày thay trâu, bây giờ dùng sức người thế máy cày!
     Nhìn khuôn mặt nhợt nhạt thất vọng của vợ, anh Thống an ủi:
     - Nga đừng có quá bi quan!
     Cô giáo sư dạy sử địa xuất thân trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn tên Ngô Thùy Ngọc-Nga nhỏ thó như đứa con gái suy dinh dưỡng và vàng vọt như người mắc bệnh sốt ngã nước, ngồi đây, mắt mở mà như đứng tròng nhìn những người thân tàn lụi dần theo năm tháng. Cô cũng như đa số thầy cô giáo trong tỉnh được lưu dụng để tiếp tục làm kỹ sư tâm hồn cho thế hệ kế tiếp cũng may mắn nhờ ông Trưởng Ty Giáo Dục tỉnh Long An gốc là thầy giáo hồi kết! Dù cách dạy và những gì phải dạy không đúng theo ý mình hoàn toàn nhưng ít ra cũng còn là sở trường. Nhưng những nơi khác, và nhất là sỹ quan, công chức, và cán bộ, trình độ đại học mà đi làm ruộng, cuốc đất trồng khoai để mỗi ngày cầm hơi bằng bữa đói bữa lép và giải trí bằng đọc báo quốc doanh! 
     Chiều lại anh Thống bàn với đám “ngụy quân ngụy quyền”:
     - Hộ khẩu ở đây, làm sao đi đâu được? Hết cách rồi! Mình áp dụng bài bản cũ trong tù đi! 
     Vì mấy người bạn không ở chung trại Trảng Lớn -Tây Ninh nên còn thắc mắc:
     - Là sao, mậy?
     - Cày người ông ạ! Ba thằng bằng một con trâu!
     Mọi người mới vỡ lẽ ra, thở dài chán ngán:
     - Tưởng tù-trong chúng nó bắt mình cày không cách gì tránh được, không ngờ tù-ngoài mình cũng phải tự nguyện bổn cũ soạn lại!  
     Thế là mấy người tù-ngoài trong phút chốc trở thành trâu hết, không anh nào thoát được. Nhưng nếu được làm trâu thật cũng sướng chán! Chỉ làm việc chừng nửa năm là cùng, có nơi chỉ trong mấy tháng. Không bị mấy thằng cóc cắn hành hạ đánh đập như các anh cải tạo. Cây roi chỉ để hù cho đừng lơ là công việc đồng áng. Cày bừa xong về nhà nằm nhơi cỏ, mùa lúa thì nhơi rơm khô còn hơn khoai mì H34 tồn kho hư mốc. Không ngủ, mắt lim dim nhìn mấy anh chị cách mạng ba mươi, mà khinh bỉ trong lòng, mong có ngày họ sáng con mắt ra. Lại khỏi đi họp tổ mỗi buổi tối để nhàm tai nghe mấy ông quan con cách mạng ba mươi nói xàm nói điên, và để ngoáy lỗ tai nghe những lời chửi rủa buộc tội.
     Trong một xóm nhỏ, nghèo, và kém văn minh như thế, dễ gì mà kiếm đủ bảy ông quan để thành lập một ê-kíp cày. Không đủ sĩ quan làm trâu, phải bắt công chức chế độ cũ; ngoài ra, còn phải tập cho thanh niên em út của gia đình ngụy quân ngụy quyền làm trâu luôn mới đủ trâu cày. Bộ đồ nghề cày có sẵn, nhưng dây dàm và cây roi không xài tới! Cái ách nhà nghề đẽo cong cong cho vừa cái cổ trâu cũng không dùng nữa, mà cái ách bây giờ phải đủ dài cho sáu người, nhưng cũng không quá ngắn cho “trâu” khỏi đụng nhau. Cây dẽo quá thì oằn, mà dùng loại gỗ cứng quá thì dễ gãy, ngay chính giữa dành cột cây đõi nối với cái cày mà một con người làm việc nhẹ -đàn bà con gái cũng được, không kỳ thị nam nữ- theo sau để thá dí cho khỏi lõi đất. Quý quan chuẩn bị đâu đó xong xuôi, quyết định ngày hôm sau ra quân.
     Quen kỷ luật nhà binh, ngay sáng sớm khi mặt trời cách mạng chưa thức dậy, quý quan đã tập hợp điểm danh như trước khi hành quân thật, hay ít nhất trong quân trường. Dù được coi là cải tạo tốt mới được cách mạng khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình và làm trâu thế con trâu thật mà cày, nhưng quý quan cũ vẫn chưa bỏ được lối sống tiểu tư sản! Bên đống lửa lùi khoai lang vừa để đuổi bù mắc, còn có café, trà hoa ngâu, và thuốc rê Long Khánh -vẫn hơn dế[2] và thuốc giả[3] trong tù!
     Một anh nhìn những sợi khói lửng lơ tan chậm vào không gian, hồi tưởng:
     - Như tráng đoàn đi cắm trại!
     Anh khác nhớ cuộc tình dang dở và ngày tự nguyện xách ba-lô rào rọ: 
     - Thật không ngờ! Như giấc mơ!
     Một anh ngồi bẹp trước lò dã chiến đang dùng cây que khều khều những cục than hồng, thấm thía về quyết định ở lại vì không nỡ bỏ người yêu. Giá anh đi thì cuộc tình vẫn đẹp:
     - Mơ còn có thể gặp em. Ác mộng thì có!
     Anh nào đó xổ nho:
     - ĐM! Sáng tạo xã hội chủ nghĩa mà!
     Cứ nghĩ chuyện chưa đánh đấm đã phải buông súng, anh khác hằn hộc:
     - Tao cứ ấm ức hoài! Đâu phải mình dở! Phải chi tụi nó giỏi hơn mình và văn minh hơn mình cũng cam! Giải phóng cái gì? Mình không giải phóng nó thì thôi! Sao nó lại giải phóng mình?
     Anh Thống vốn ít nói ngồi nghe các bạn thảo luận kinh nghiệm xã hội chủ nghĩa cho đã, hai bàn tay đang vấn điếu thuốc rê. Anh le lưỡi liếm cho mép nó dính lại:
     - Tụi bây phải học tánh kiên nhẫn của Nguyễn Công Trứ! 
     - Thắng không kiêu bại không nản!
     - Không phải đâu! “Thắng không kiêu bại không nản!” là binh thư. Còn của Nguyễn Công Trứ là lên voi xuống chó cũng tàng tàng như nhau! 
     Đang nói, bất chợt anh Thống xuống hò dứt câu sáu vọng cổ, tất cả cùng cười vui vẻ cứ như là ở đơn vị khi xưa. Bề ngoài có vẻ an phận, nhưng trong tận cùng, tuy các anh không nói, người ta cảm giác có cái gì cay đắng mỉa mai!
     Anh vừa phát biểu cãi:
     - Đảo đời chớ lên voi xuống chó gì? Lên voi xuống chó khác!
     Một anh gắp cục than đưa cho Thống:
     - Lửa nè, Thống!
     Anh khác phê bình:
     - Chà! Ngon lành như còn làm sếp!
     Anh phân bua:
     - Kệ, để tao điếu đóm cho nó! Coi như phần thưởng cho mầm non văn nghệ! Còn sếp tao hả? Đừng có hòng! Chuyện này để tụi nhỏ làm!
     Không khí mát dịu nhưng ẩm thấp. Nghe mùi cỏ quê hương ngọt lịm từ dưới những bàn chân đất. Lâu lắm mới nghe lại tiếng chim ríu rít trong tàng cây. Lâu lắm mới gặp lại giọt sương long lanh buổi sớm.   
     Đến giờ, anh Thống ôn tồn kết luận:
     - Thôi bỏ mấy chuyện đó đi! Bây giờ rán hy sinh chịu cực để mai mốt con cháu mình được khổ! 
     Đồng ý “Bây giờ chịu cực đặng mai mốt chịu khổ”, theo sự phân công trước, quý vị sĩ quan chiếu theo nhiệm vụ thi hành mang đồ nghề ra ruộng. Dù có mấy năm kinh nghiệm trong trại, không dễ sắp xếp một dàn cày với sáu người cao thấp không đều nhau. Ruộng dân và ruộng chính sách trâu đã cày xong, bây giờ dân cách mạng hay có hơi hướng cách mạng lo làm cỏ, bang đất, phản bờ, chuẩn bị đất, trong lúc ruộng ngụy mới bắt đầu. Nước lên cao quá cũng khó cày cho chính xác mà không bị lõi. Cày trâu cách mạng dù gì cũng không bằng cày trâu thật!
     Không biết anh nào có óc văn nghệ lên tiếng:
     - Nếu có máy hình, đứa nào đứng ngoài chụp một pô đặng tao gởi đi tranh giải phóng sự nhiếp ảnh, và đồng thời ghi vào sách kỷ lục Guinness! 
     Vậy là cả làng Tân Chánh phải học sáng kiến của mấy anh tù này. Quả là hiện tượng lạ lùng, rất mới mẻ, dân miền Nam vốn lạc hậu, từ tạo thiên lập địa tới giờ chưa hề nghe sách vở nào nói, và cũng chưa bao giờ dám nghĩ tới. Cả đám dân cách mạng hồ hỡi xem quên thôi. Họ trầm trồ “không ngờ mấy ông ngụy đi cải tạo được cách mạng dạy cho phương pháp tận dụng nhân lực”. Đúng là thời cách mạng, cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật..., dưới sự lãnh đạo của đỉnh cao trí tuệ loài người! Trước khi cách mạng thành công, rải rác đã có người mua máy cày nên trâu bán đi cho những vùng khác. Rồi máy cày cũng được cách mạng trưng dụng về nông trại của quý anh lớn trên tỉnh Long An hay ngoài trung ương Hà Nội!   
     Trong khi Thống và đám bạn tù-ngoài làm trâu cách mạng cày dưới ruộng, cô Nga xăng quần xách dép lội ra quận cách nhà ba cây số làm giáo sư dạy sử địa đệ nhị cấp. Chính nơi này trước đây mấy năm, máy cày thế trâu cho nhiều năng suất, thì mới chỉ hơn ba năm sau, viễn ảnh đất nước rừng vàng biển bạc qua cuộc cách mạng vô sản khiến sĩ quan công chức thay trâu kéo cày. Nga tưởng tiền nhân đời thứ nhất theo bà tổ Âu Cơ lên núi lập nghiệp đang làm việc. Cô xây xẩm tối mặt như bị máu xâm. Chân phải đá chân trái nhiều lần, cố kềm cho khỏi té. Nhưng khi khom xuống lượm đôi dép lại làm rớt cái cặp. Hai củ khoai lang lăng long lóc ra ngoài. Tập soạn bài phải trình cho hiệu trưởng duyệt dính đất lem luốt. Thân 38 ký mà như nặng ngàn cân khiến cô có cảm giác như ngồi trên phi cơ phản lực đang cất cánh. Nếu không nghĩ đến lời chồng chắc cô sẽ bỏ cuộc. Nếu không nhớ tới thái độ của ông cán bộ cách mạng chắc cô đứng dậy không nổi.
     Ông cán bộ đó không ai xa lạ mà là bạn học của anh chồng cô. Anh chồng của cô đi học sư phạm làm thầy giáo, còn ông ấy bỏ học đi theo giặc từ những ngày giặc mới nổi. Dù sau này khi được tín cẩn ông đi đâu cũng kè kè khẩu súng sáu bẻ cổ, nhưng người ta vẫn gọi ông là Mười Búa, vì trước kia ông có thói quen xử tử người ta bằng búa. Khi cách mạng thành công, ông Mười Búa còn sống sót trở về làm trưởng ban giáo dục huyện Cần Đước. Trong buổi họp giáo viên quận, ông sỉ vả những cô giáo có chồng cải tạo, trong số đó có cả những cô đã dạy ông ta học. Không biết sự thể thế nào, Mười Búa buộc tội ông thầy của ông ta trước kia là giáo sư Lê Kim Tiếng làm tay sai cho CIA đã chỉ điểm cho Cảnh Sát Quốc Gia bắt mấy đồng chí của ông nằm vùng trong đám học sinh Trường Trung học Cần Đước.     
     Sau khi qua cái cầu nhỏ xóm Cẩm Hà, cô giáo Nga ghé bệ đá bờ sông rửa chân mang dép vào trước khi bước lên con đường đá đỏ dẫn tới trường. Đối diện với cổng trường là ngôi nhà cha mẹ nơi cô sinh và lớn lên và ở suốt thời gian dài cho đến khi chồng ở tù trở về.
     Bác Tư dịu dàng nhìn con gái khóe mắt đỏ hoe:
     - Con có chuyện buồn?
     Tự nhiên như hồi còn con nít bị giật đồ chơi, cô òa lên khóc ngon lành không cầm được. Bác Tư nắm tay con, vuốt mấy sợi tóc trên trán và sau ót ướt đẫm mồ hôi, như những lần cô gặp tình huống khó xử trong đời. Bà chuyên môn may áo dài mà cô giáo con gái bà mặc áo bà ba cũ đi dạy học. Cách mạng thành công mới chừng ba năm mà con gái bà đã thực hiện một bước cách mạng nhảy vọt! Sao nó tiều tụy quá? Dáng dấp nó trông giống cô Hai Đàm bưng rổ bánh khoai mì bán dạo thường ngang qua nhà bà mấy năm nay.
     Bác Tư nhẹ nhàng như van lơn:
     - Có chuyện gì nói má nghe!
     Cô Nga nghẹn ngào ngập ngừng:
     - Hồi sáng này... mấy ảnh làm... trâu... cày!
     Bác Tư chưa hiểu:
     - Con nói cái gì trâu cày?
     Cô giáo giải thích sáng kiến của chàng rể cho mẹ nghe:
     - Không ai chịu cày. Mấy ảnh phải thế con trâu làm con trâu mà cày ruộng!
     Sống qua mấy thời kỳ bị giặc đô hộ, Bác Tư có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi với kiến thức của một sĩ quan, dưới ánh sáng quang vinh của cuộc cách mạng vô sản, bây giờ cày thế trâu!
     Qua ngấn lệ, bà nghẹn lời: 
     - Trời ơi! Rồi cày được không?
     - Con không biết. Nhưng không được cũng phải được thôi!
     Ngừng một chút, cô Nga mỉa mai:
     - Cách mạng dạy phải khắc phục mà!
     Bà bồi thêm:
     - Ờ thì khắc phục. Khắc phục là tự lo liệu. Khắc phục là chịu đựng. Khắc phục là bảo sao nghe vậy mà!
     Bác Tư nhìn con. Nó học ngôi trường này. Nó học sư phạm rồi có thời gian cũng về dạy ở ngôi trường này. Cấp trên của nó có giáo dục và lịch sự chớ không vô học và sỉ nhục giáo sư như thời này. 
     Chợt nhớ ra, bác Tư nghĩ không biết có nên nói hay không:
     - Có thằng gì nó nói bạn học cũ của con ghé tìm con.  
     Cô Nga tỉnh táo:
     - Con biết rồi. Nó đã ghé trường.
     Bác Tư hốt hoảng:
     - Con làm sao?
     - Không việc gì má phải sợ! Bộ ỷ cách mạng thì muốn làm gì thì làm sao?
Không biết bác Tư sợ gì nhưng bà vẫn sợ. Chắc bà sợ hơi cách mạng! Không nói rõ ràng nhưng cách mạng muốn làm gì thì làm, ai biết được. Cách mạng đã đưa bác trai đi cải tạo cho dù bác chẳng có dính líu gì tới lính tráng. Làm chủ cái tiệm may áo dài ọp ẹp như thế mà cách mạng cũng bắt bà đi học chính sách cải tạo công thương nghiệp.... Theo lý luận của cách mạng thì trong miền Nam ai cũng có tội. Thậm chí mấy người theo cách mạng có con cháu làm công chức hay lính tráng cũng có tội thì còn ai khỏi? Bây giờ thằng bạn theo giặc học chung với nó hồi đó muốn ỷ thế cách mạng đặng cưỡng đoạt đứa con gái của bà nữa sao:
     - Má đã nói với nó: Thôi cháu đừng tìm con Nga nữa. Nó đã có gia đình. Hơn nữa, chồng của nó cũng là bạn hoạc cũ của cháu. Đúng ra đạo đức cách mạng dạy cháu không nên tìm nó nữa! 
     Cô giáo làm thinh. Người mẹ tiếp:
     - Nó bảo thằng Thống bây giờ te tưa trụi lũi còn gì nữa? Phó thường dân còn chưa được!
     Cô uất ức nổi sung lên:
     - Thằng khốn nạn! Đồ vô liêm sỉ! Nếu nó không nói gì, con còn coi nó là bạn. Má đừng lo cho con. Giả dụ Thống có chết trong tù, con có ế chồng đi nữa cũng không tới cái thứ đó!
     Nó nói động tới anh Thống là cô giáo không tha thứ cho nó được. Hai vợ chồng hồi học chung một lớp là kẻ thù của nhau, bởi vì cả hai cùng học giỏi, tranh nhau từng tấc đất! Hai kẻ thù thay phiên nhau giật giải xuất sắc khi trong lớp hoặc khi toàn trường. Hai anh chị gầm gừ nhau cho đến khi cô Nga lên đại học thì hết, vì không còn đối tượng để mà trả thù! Anh Thống tới tuổi động viên phải vào Hải Quân. Trước khi mang ba-lô lên đường, anh Thống thức trọn một đêm, uống ba ly café đen và hút hết hai gói thuốc Bastos xanh, chong đèn ngồi nắn nót viết. Sáng hôm sau, anh ngập ngừng tạt ngang trao bức thư tỏ tình đầu đời cho cô Nga, mà bình thường anh không có can đảm làm. Bức thư của kẻ thù ra đi để sầu để nhớ cho kẻ thù ở lại suốt thời gian bốn năm đại học.      
     Bác Tư không biểu lộ nhưng hãnh diện về con gái, vì trong số các anh chị, tính cô Nga giống bác nhất: thâm trầm nhưng cương quyết. Từ hồi rất trẻ, bác gái đã cương quyết tuyệt tình vì cái tội bay bướm của bác trai. Thật ra thì bác trai cũng không có tội tình gì trầm trọng cho lắm! Chỉ là văn nghệ văn gừng, nhưng chẳng may bị bật mí![4]. Ở cái tuổi chưa tới ba mươi, người phụ nữ nào không cần một vòng tay đàn ông ôm ấp và chở che, nhưng bác dứt khoát. Sau biến cố, bác trai làm việc ở Sài Gòn, ở luôn trên đó lâu lắm mới về thăm con. Với cái tiệm may áo dài nho nhỏ, một bàn tay bác gái lo cho các anh chị nên người, mà thân cận nhất là cô Nga. Và cô Nga, giáo sư dạy sử địa lớp Mười Hai, có người chồng sĩ quan sau cuộc đảo đời làm con trâu cày!  
     Làm trâu cày khi ở tù-trong ù ơ ví dầu thế nào cũng được, nhưng ở tù-ngoài thu hoạch không đủ thì lấy lúa đâu mà đóng thuế cho nhà nước xã hội chủ nghĩa! Có người nghĩ các bà tù-ngoài khổ hơn các ông tù-trong. Ở lâu quá thì các ông liều mạng không cần biết đến ngày mai. Còn các bà ở tù-ngoài một nách mấy đứa con phải chống chọi cùng một lúc nhiều mối hiểm nguy! Cho nên về ở tù-ngoài, quý quan kê vai chia sẻ gánh cái khổ đó cho vợ con. Ngày đầu mới ra quân quý quan chịu không thấu nên về sớm cho trâu dưỡng sức. Bỏ cái ách ra, con trâu người bị thương nhưng còn gắng gượng lo dọn dẹp vườn tược. Ngôi nhà này, cái sân này, vườn dừa này, những con mương ngăn luống dừa này... tất cả không thay đổi nhưng khác xưa. Anh nghe thật rõ ràng tiếng lá xạc xào từng cơn gió đi qua. Anh cảm giác từng cơn gió mát ve vuốt tâm hồn. Nhìn ra thửa đất dưới ánh nắng có sao, một khung trời cách biệt. Ở đó những con người cách mạng đang hồ hỡi tiến tới thiên đường xã hội chủ nghĩa theo sách vở vẽ ra!  
     Ông sĩ quan nằm tại gốc cây không biết bao lâu. Không nhìn thấy tương lai huy hoàng trước mặt mà mơ về quá khứ êm đềm sau lưng. Anh nhớ con đường ướt sương buổi sáng, nhớ cái gò mả đôi tại ngã ba lộ đất, nhớ rặng trâm bầu nhà bác Sáu Tứ thợ mộc, và nhớ bụi mắc cở ven đường mà một trăm lần như một anh rắn mắc phải đá một cái cho lá nó khép lại.... Đến khi nghe tiếng rửa chân của cô giáo từ cái cầu thấp ngoài ngỏ, ông chồng sĩ quan, một tay đang xoa lên cổ đứng dậy bước ra ngoài đón. Trời không còn nắng. Trong cái không khí ảm đạm buổi chiều nhá nhem chỉ còn đủ để nhìn rõ mặt người thân, cô giáo dáng dấp tiều tụy mệt mỏi. Anh Thống nắm tay vợ, an ủi:
     - Nga cực lắm hả?
     Cô giáo nhìn chồng, thở dài:
     - Nga chỉ khổ!
     Ông sĩ quan nhẹ nhàng:
     - Có chuyện gì vậy Nga?
     Cô Nga trấn an: 
     - Thống đừng lo! Không phải chuyện ở trường đâu!
     Ông sĩ quan cố né tránh dấu cái cổ đỏ đang xát dầu dừa, nhưng không qua được mắt cô giáo:
     - Thống đưa cái cổ cho Nga xem!
     Cái cổ con trâu người làm sao bằng của con-trâu-cổ cày chuyên nghiệp! Cái cổ như cái cổ cò được gắn trên cây xương đòn gánh, bây giờ không gánh trách nhiệm quá trừu tượng mà mang cái ách cho cụ thể, nổi đỏ và sưng phù lên. Cô Nga nghẹn lời rươm rướm nước mắt, gục đầu lên vai Thống.
     Một tay vỗ vỗ lên lưng Nga, anh Thống an ủi:
     - Hồi trong tù, Thống còn cực hơn nữa!
     Cô Nga im lặng nuốt những giọt lệ. Anh Thống tiếp:
     - Ruộng tù đang cày, phân người nổi lềnh bềnh. Chúng nó gọi là phân Bắc. 
     Nga lại im lặng. Tiếng cười của Thống méo mó:
- Ruồi nhặng bay đầy! Riết rồi mũi mình hết biết mùi luôn!
     Cô Nga buồn mửa như bị thai hành. Thống không thêm lời nào. Ánh mắt ông sĩ quan đanh lại. Chuyến hải hành thằng bạn nói hôm nọ hiện ra trước trước mắt. 
     Anh Thống cụng trán vợ thì thầm:
     - Nga à! Mình phải đi!
     Cô Nga vói tay bá cổ anh Thống chia sẻ và tìm sự an ủi. Hai vợ chồng ôm nhau, im nghe hai trái tim cùng nhịp đập.
Ngô Sỹ Hân


[1] Mò tôm: Hình thức xử tử phổ biến thời bấy giờ của Việt Minh. Nạn nhân bị cho vào bao bố thả xuống sông.
[2] Dế: Tiếng lóng chỉ đuôi thuốc lá trong tù. Những anh em nghèo không có tiếp tế lượm chừng mươi cái đuôi rồi “recycle” lại hút cho đỡ ghiền! Lúc đầu mắc cở vì sỉ diện, nhưng riết rồi xem như thường! Ngặt là dế trong tù không to như dế ở ngoài!!!     
[3] Thuốc giả: Lấy bất cứ lá gì phơi khô quấn hút như “hút thuốc”!
[4] Bật mí: Tiếng lóng nói lái nghĩa là lộ bí mật.

No comments:

Post a Comment