Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Wednesday 14 December 2016

DUY THANH=THÁI TUẤN=TÔ THÙY YÊN =TRẦN ĐỨC THẢO =

DU TỬ LÊ * DUY THANH

Duy Thanh, người họa sĩ cuối đời chỉ 
…nguệch ngoạc!
                                Du Tử Lê

 
Ảnh: Duy Thanh trên đường phố San Francisco 1-2011 

Bị thôi thúc bởi ngọn lửa bập-bùng-náo- nức của T., cuối cùng, tôi cũng đã thực hiện được chuyến viếng thăm người họa sĩ nổi tiếng một thời của văn học, nghệ thuật miền nam Việt Nam, 20 năm. Duy Thanh.

Tôi nói “cuối cùng” vì, sinh thời, nhà văn Mai Thảo nhiều lần rủ tôi:
 “Hôm nào mình kéo nhau đi thăm thằng Duy Thanh đi. Nó ở gần đây lắm. San Francisco ấy mà…”
Tôi nhớ, luôn luôn sau câu nói nghiêm chỉnh pha chút bùi ngùi nhớ bạn, ông lại bôi xóa ngay giây phút… (yếu đuối?) bất thường của mình, bằng một lượng thuốc bồi khác:
“ Nhưng nếu gặp nó mà nó bắt chúng ta đi bộ suốt ngày theo nó thì chắc…chết!”




Tranh Duy Thanh

Chừng sợ tôi hiểu khác, ông pha loãng hay làm “chệch hướng” màn khói khét do thuốc nổ tạo ra, bằng cái nheo mắt giễu cợt (rất Mai Thảo) và, nụ cười móm-mén-hóm-hỉnh:
“Thằng đó được lắm.”
Tuy nhiên, cách gì thì, tác giả “Đêm giã từ Hà Nội” cũng rất chính xác khi nói “…gần đây lắm.”
Khoảng cách từ phi trường John Wayne tới San Francisco, dù đi hãng máy bay nào cũng chỉ mất hơn một tiếng.

 Ý niệm “gần đây lắm” của ông, càng chính xác hơn, khi rất thường, chúng tôi có những chuyến bay đi San Jose - - Với nhiều lý do khác nhau. Mà, đôi khi…chẳng có lý do gì, ngoài “sự cố”:

“Tôi buồn quá…Bỏ đây vài ngày đi Lê…”
Bằng xe hơi, đoạn đường từ San Jose đi San Francisco chỉ mất từ bốn tới năm mươi phút. Nhưng những ngày ở San Jose, nắng ráo; những ngày San Jose, mưa dầm; những ngày San Jose, mùa đông, cuối năm lướt thướt, rét, chưa lần nào Mai Thảo nhắc nhở tôi đi thăm người bạn ông hằng muốn gặp!  


Tôi không biết, có phải ông chỉ nghĩ tới chuyện gặp bạn, khi chung quanh ông không có ai? Hay đó là những đêm một mình? Chong đèn. Uống rượu. Lẩn trốn bóng mình bằng cách ngước nhìn bức tranh trên tường, của Duy Thanh. Bức tranh nhỏ, chứa những bệt mầu đỏ bầm. Tươi. Nẫu. Nối kết rồi đứt lìa. Như những mảnh đời chộn rộn, nổi trôi trong giới hạn nghiệt ngã trên nền đen đất / trời vô tận. Bức tranh Duy-Thanh-không-ngày- tháng. Không chữ ký.




Duy Thanh

Tôi cũng không biết, có phải đó là lúc ông cho rằng, “Thôi, để cho nó yên…” như thói quen thoái thác của ông, ở vài trường hợp khác.

 Trong khi tôi từng có với ông chí ít hai lần thăm Ngọc Dũng ở Virginia. Nơi chúng tôi phải trả giá bốn lần bay dài lâu hơn San Francisco.

 Bị thôi thúc bởi ngọn lửa bập-bùng-náo-nức của T., cuối cùng, tôi cũng đã thực hiện được chuyến viếng thăm người họa sĩ nổi tiếng một thời của văn học, nghệ thuật miền nam Việt Nam, 20 năm…”

 Tôi nói, “cuối cùng” vì lần chót, khoảng hai năm trước khi từ trần, (1) một buổi sáng, rất sớm, tác giả “Ta thấy hình ta những miếu đền” gọi tôi ra nhà hàng Viễn Đông.

“Có thằng Duy Thanh và cả thằng Thái Tuấn nữa. Bên Tây mới qua. Ra ngay nhé.”
 Rồi không hiểu vì lẽ gì, ông hỏi:
“Nhớ Thái Tuấn không?”

Tôi nhớ chứ. Nhớ cuối năm 1973, Tân Định mưa tầm tã, vì đã hẹn trước, tôi lặn lội tìm căn nhà trong hẻm của họa sĩ Thái Tuấn. Hỏi xin ông một bức tranh, làm bìa cho cuốn “Đời mãi ở phương đông.” Kỷ niệm đáng kể đầu tiên tôi có với ông. Đồng thời, nó lại là cuốn sách cuối cùng của tôi được in tại quê nhà.

Tôi nhớ, khi chúng tôi ra tới, “ba ông thần,” (cách nói của T.) đã ngồi sẵn.
 
Lần đầu tiên T. gặp hai họa sĩ mà tên tuổi họ gắn liền với tạp chí Sáng Tạo. Nhưng Mai Thảo không giới thiệu. Ông mặc nhiên coi như T. đã biết. Ông chỉ giới thiệu với họ, T. là ai.

 Với nụ cười móm-mém-hóm-hỉnh, suốt buổi ăn sáng, tác giả “Căn nhà vùng nước mặn” thỉnh thoảng lại đùa nghịch, liệt kê “thành tích” hai bạn mình. Ông chỉ Duy Thanh, húi cua, vạm vỡ, bảo T.:

“Cô phải nhớ thằng này là…vô địch đi bộ ở San Francisco đấy. Nó leo đồi, xuống dốc cả trăm bận mỗi ngày…Mỹ già, Mỹ trẻ gì cũng đều ngán nó hết…”

Dù đã quen với cách nói “thậm xưng” của Mai Thảo, mỗi khi ông cao hứng, bày tỏ lòng yêu bạn, nhưng chẳng vì thế mà chúng tôi có thể nín cười. Ngay Thái Tuấn, bản chất vốn khoan thai, từ tốn, cũng không khỏi bật cười thành tiếng.

 Trong khi chúng tôi cười ngặt nghẽo thì, Duy Thanh vẫn “trụ” vững. Như một pho tượng. Một khối đá. Ông có cười. Nhưng đó là nụ cười lơ mơ (nhiều phần lơ ngơ!) Như dợn sóng lăn tăn của một mặt nước gió dùa.

 Cũng khởi tự lòng yêu bạn, khi quay sang Thái Tuấn lòng khòng, giấy mỏng, Mai Thảo dặn dò chúng tôi, có nói chuyện với “ông Tây” này, thì phải nhớ nói cho lớn:

“Nó điếc lặc, điếc lè. Nhưng nói nhiều lắm đấy!”
Vẫn nụ cười lơ mơ (nhiều phần lơ ngơ,) Duy Thanh nhìn bạn. Thân ái. Im lặng.
Ra khỏi cuộc gặp gỡ, T. bảo tôi, T. có cảm tưởng:
“Anh Duy Thanh không vẽ bằng cọ mà, bằng một thanh củi tạ hoặc một cái…xẻng!” 




Tranh Duy Thanh

Ba ngày sau, gặp lại nhau nơi căn phòng trong khu nhà dành cho người già, phía trong nhà hàng Song Long, đường Bolsa, T. rụt rè hỏi xin tác giả “Bản chúc thư trên đỉnh ngọn trời” bức tranh Duy Thanh, trên tường. Bức tranh nhỏ, chứa những bệt mầu đỏ bầm. Tươi. Nẫu. Nối kết rồi đứt lìa. Như những mảnh đời trộn rộn, nổi trôi trong giới hạn nghiệt ngã trên nền đen đất / trời vô tận. Bức tranh Duy-Thanh-không-ngày- tháng. Không chữ ký.

Mai Thảo bảo:
“Lấy đi!”
Rồi buồn bã tiếp:
“Chúng nó đi rồi!”
Một ngày khác, gặp lại tôi, bất ngờ, ông nhắc:
“Hôm nào mình đi thăm Duy Thanh đi! Thằng đó được lắm…!”

 Lần ấy, hẹn hò về chuyến đi tới một nơi “gần đây lắm” của ông, cũng không thành.
 
Tôi không biết có phải vì những đêm thức trắng, tác giả “Ngọn hải đăng mù” không còn bức tranh gồm những bệt mầu đỏ bầm. Tươi. Nẫu…của bạn, để ngước nhìn? Hay ông đã có cho mình một ngước nhìn khác. Thí dụ: Hư vô, để lẩn trốn?

Tôi e, có thể đó là thời gian ông tự thổi tắt ngọn nến hẹn hò với một nơi “gần đây lắm!” Khi bản thân, cay đắng nhận ra, ông đã phải thuận cho T. dìu ông vào quán. Xốc nách ông đứng lên đôi lần, khi thình lình, ông té bổ chửng trên bậc thềm gần cửa phòng, những buổi tối chúng tôi đưa ông trở về nhập nhoạng giữa mê / tỉnh.

Đó cũng là lúc những nụ cười móm-mén-hóm-hỉnh về “thằng đó được lắm!” của ông biến mất lúc nào, không ai biết!

Tôi muốn nói, đấy là những chỉ dấu cho thấy tác giả “Chuyến tầu trên sông Hồng” quy thuận lẽ vô thường! Trước khi “chuyến tầu” bị coi là ngạo mạn, trôi lần vào những vùi dập thác, ghềnh bệnh hoạn, qua những đợt vào / ra bệnh viện. Chóng mặt. 

Trí nhớ bén, sắc của ông về bằng hữu, thi ca, thời gian, nơi chốn…cũng âm thầm chia tay ông. Không ít những người từng có thời gian dài gần cận với ông trong những năm, tháng quê người, tìm thăm ông; khi được hỏi có nhận ra ai? Ông im lặng. Nhìn trân trối, trước khi lắc đầu. Quay mặt chỗ khác.

 Nhưng với những tình thân hữu cơ, đặc biệt, ông không chỉ nhận ra. Nhớ tên. Mà, còn biết nhờ cô cháu gái gọi điện thoại cho mấy người đó, vào những giờ cuối cùng đời ông.

 Tôi tin trong số những hình ảnh, tên tuổi, kỷ niệm mà, ngọn lửa hư vô không thể thiêu sạch trong hồn, phách tác giả “Tháng giêng cỏ non” có Duy Thanh.

Có “Thằng đó được lắm.”

“Thằng đó,” người họa sĩ duy nhất (trong số ba họa sĩ gắn bó với tạp chí Sáng Tạo) khiến ông từng viết xuống: Duy Thanh, “Những ngón tay bắt được của trời.”
 
Bị thôi thúc bởi ngọn lửa bập-bùng-náo- nức của T., cuối cùng, tôi cũng đã thực hiện được chuyến viếng thăm người họa sĩ có “những ngón tay bắt được của trời.” Người họa sĩ đã lâu, thôi vẽ! Ông chỉ còn nguệch ngoạc./.

Chú thích:
(1): Nhà văn Mai Thảo mất ngày 10 tháng 1 năm 1998, tại Orange County, California.

Du Tử Lê
Ngày đăng: 23.01.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]

In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Bạn Xa Xứ - Nguyễn Thị Hậu
Mẹ ngồi vá áo thềm xưa - Huỳnh Thúy Kiều
Ghi Chép Buổi Sáng - Hamvas Béla
Hớt tóc ngày tất niên - Huỳnh Như Phương
Những ngày ở Vĩnh Điện - Trần Trung Đạo
Nắng vàng trong rừng khô - Trương Vũ
Trên Mạng Người Ta Có Cô Đơn…? - Nguyễn Thị Hậu
Nụ Tháng Chạp - Trần Quang Phong
Thư từ Miền Nam, - Đặng Kim Côn
Một Thời Chưa Xa - Nguyễn Thị Hậu

VĂN QUANG * TƯỞNG NIÊM THÁI TUẤN

                                                     


Tang lễ cố hoạ sĩ Thái Tuấn chắc chắn sẽ có rất nhiều “anh em cũ” đến tiễn đưa “lão làng” về nơi an nghỉ cuối cùng. Nguyễn Nghiệp Nhượng nói với tôi như thế trước khi tôi từ Lộc Ninh về Sài Gòn .Tôi hiểu “anh em cũ” có nghĩa là những anh em hoạt động trong lãnh vực văn học nghệ thuật trước năm 1975 ở miền Nam, chứ chẳng riêng gì ở Sài Gòn. Hoạ sĩ Thái Tuấn đã trở thành một trong số vài nghệ sĩ nhiều tuổi nhất còn sống ở thành phố này. Ông trở thành “cây đại thụ”, cũng như những hàng cây cổ thụ mà từ khi những người Bắc di cư vào Nam năm1954, đã nhìn thấy trên những con đường đẹp nhất “đô thành” thời bấy giờ.
Vào những ngày cuối năm, có hai tin vui về hội hoạ.  Một ông ở bên Tây về Việt Nam triển lãm. Còn một ông ở Việt Nam lại đi Mỹ triển lãm. 
Ông thứ nhất chính là lão hoạ sĩ  Thái Tuấn, năm nay 88 tuổi rồi, ông đã di chuyển sang Paris từ sau năm 1975. Giữa năm nay, ông lừng lững trở về Việt Nam, và như tôi đã có dịp tường trình với bạn đọc trong một số trước, ông “quyết tâm” sáng tác để có thể ra mắt những tác phẩm mới nhất vào dịp cuối năm này. Ông đã đạt được ước mong đó. Triển lãm Thái Tuấn được mang tên “Về Nguồn”, từ ngày 9 đến 21 tháng 12 -2006, tại Phòng tranh Tự Do đường Hồ Tùng Mậu Sài Gòn.
Xin đọc tiếp bài của Nhà Văn Văn Quang: Triển Lãm Tranh Thái Tuấn

Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công, sinh ngày 11-9-1918 tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội – trong một gia đình công chức khá giả – đồng tuế và đồng môn với họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Anh có vào học trường Mỹ Nghệ Gia Định, và theo lớp dự bị tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, cùng khóa với Phan Tại, Đặng thế Phong, khoảng 1938-1940, rồi bỏ dở.
Thời chiến tranh chống Pháp, Thái Tuấn về sống ở quê ngoại Thanh Hóa, vẽ tranh cổ động, quảng cáo và quan hệ với nhiều nhà văn kháng chiến như Thanh Châu, Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân. Sau hiệp định Genève 1954, anh di cư thẳng từ Thanh Hóa vào Sài Gòn, sống vào nghề vẽ quảng cáo và trang trí. Mãi đến khoảng 1956-1957 anh mới thật sự vẽ tranh sơn dầu nghệ thuật và dùng bút danh Thái Tuấn. Cùng với các họa sĩ di cư khác : Ngọc Dũng, Duy Thanh, Tạ Tỵ, Thái Tuấn đã góp phần xây dựng nền hội họa hiện đại tại Sài Gòn, được xem như có tham vọng làm thủ đô một nền văn hóa mới. Bốn họa sĩ nói trên đều là nhà văn, nhà thơ ; riêng Thái Tuấn thường viết lý luận về hội họa và mỹ thuật trên các báo Sáng Tạo, Bách Khoa, và Văn, thịnh hành lúc đó ; bài viết của anh ít tính cách kỹ thuật và chuyên môn, nên nhẹ nhàng, cởi mở và phổ quát, giúp nhiều độc giả làm quen với hội họa, là một ngành nghệ thuật mới đối với đại chúng. Những bài viết kết hợp với tác phẩm hội họa đẹp và dễ hiểu, tạo cho Thái Tuấn một uy tín : anh tham gia hội đồng giám khảo ở nhiều giải thưởng và phòng tranh. Những cuộc triển lãm cá nhân 1958, 1970, 1973 được dư luận đánh giá cao – về nghệ thuật và thương mãi.

Thái Tuấn đến với sơn dầu ở tuổi bốn mươi, nên tranh anh ít sắc cạnh, khai phá, mà giàu chất hoài niệm và tính văn học, tạo không gian thoáng rộng, u hoài, thi vị. Đề tài, ưu tiên là phụ nữ trong nhan sắc, dáng dấp, cử chỉ, y phục thuần túy Việt Nam trên nền màu sắc dịu nhẹ, dung dị mà tế nhị.
Nhan sắc ở đây chủ yếu không phải chỉ là nữ sắc mà là một thoáng đẹp giữa trần gian. Thái Tuấn vẽ nét đẹp của phụ nữ hơn là phụ nữ đẹp, người đàn bà hóa thân làm vẻ đẹp trong tranh, diễm ảo mà hư ảo, một thoáng hồng nhan, như một lời thơ. Họa sĩ Đinh Cường, tâm giao và thâm giao với anh từ non nửa thế kỷ, đã có lần nhận xét Thái Tuấn biến bức tranh thành một cấu trúc tiềm ẩn (1). Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu, mà vẫn nhìn ra (ca sĩ) ; anh thường tâm sự : vẽ người mà không vẽ người. Vẽ như không vẽ mới đã...  
Vẽ phụ nữ, Thái Tuấn quan tâm đến mái tóc, đôi khi mái tóc vận hành cấu trúc bức tranh, như bức Cội Nguồn, 1970 ; nhưng mái tóc trong tranh còn là một trời thu tạnh mơ say hương nồng. Anh có bức chân dung thiếu nữ, 1964, đặt tên bằng tiếng Pháp « Tes Yeux » (Mắt Em) , nhắc câu thơ mắt em là một dòng sông ; 1974 bức Bông Hồng Bạch, là hồn của bông hường trong hơi phiêu bạt, như một lẵng hoa vắng cả bông hoa / un bouquet absent de fleurs, theo một ý của Mallarmé.
Đến với hội họa ở tuổi bốn mươi, trải qua nhiều kinh nghiệm văn chương, Thái Tuấn để lại nhiều họa phẩm phảng phất chất văn học – có khi là một bài hát, như Dư Âm, hay Dòng sông cũ (vẫn xuôi niềm thương… ) 
Tiếng Pháp gọi họa sĩ làartiste-peintre ; ở Thái Tuấn, chất artiste nhiều hơn chất peintre, anh là nghệ sĩ hơn là họa nhân, anh là thi sĩ vẽ tranh, gọi anh là họa sĩ - thi nhân, như một Vương Duy thời Đường, có lẽ đúng. Trong mỗi họa sĩ, có một nghệ sĩ và một nghệ nhân : nghệ nhân lấy bức tranh làm đối tượng, nghệ sĩ lấy Cái Đẹp làm cứu cánh. Mà chữ Đẹp viết hoa là cõi Vô Cùng. Từ đó mỗi bức tranh Thái Tuấn dù đã hoàn tất và toàn bích, vẫn còn, vẫn là nỗi chờ mong – thiếu vắng. Đó là cách đọc những khoảng mông mênh trong tranh Thái Tuấn, những trời thu xanh ngắt, quạnh vắng chiều sông, nắng chia nửa bãi, để mộng tàn lây, nhớ nhà châm điếu thuốc… một không gian tư lự, u hoài và mơ ước trong mùa xuân chưa đi, mùa thu chưa đến. Đời Thái Tuấn là một bức tranh duy nhất và dở dang. Vẽ hoài mãi vẫn chưa xong một vạt trăng tơ, một tà nắng lụa. 
Giới phê bình thường nhận xét : tranh hiện đại, tây phương của Thái Tuấn vẫn giàu chất Á Đông và dân tộc. Thật ra anh không mấy chủ tâm vào truyền thống, trường phái hay dân tộc tính, thậm chí trong thời kỳ sáng tác dồi dào nhất, những năm 1960-1970, anh còn hờ hững với dân tộc, định hình trong biên giới và lịch sử. Sau này, 1984, ra nước ngoài, ở tuổi xế chiều, anh mới hoài vọng về cảnh nông thôn và nông dân Bắc Bộ hồi đầu thế kỷ trước. Và đề tài quê hương mới rõ nét như một ám ảnh.
Ngày nay nhiều người đòi hỏi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật, với những luận điệu có khi thô sơ. Để lý luận được khách quan, ta thử đối chiếu với một đề tài tương tợ : nghệ thuật và tôn giáo. Nhà văn công giáo thuần thành Jacques Maritain trong sách Nghệ Thuật và Kinh Viện đã nhắc nhở các nghệ sĩ, đại khái : nếu anh dùng nghệ thuật để phụng vụ đức tin, hay dùng tín ngưỡng để phục vụ nghệ thuật, thì hoặc là anh làm hỏng tranh, hoặc là anh làm rối đạo. Chuyển lý luận ấy sang chuyện dân tộc, cũng vậy thôi. Maritain càng nói rõ : trên lý thuyết nghệ thuật là siêu thời gian và siêu không gian, supra tempus, supra locum.(2) Nhưng trong thực tế, nghệ thuật do đề tài và cội rễ, thuộc một thời đại và một xứ sở. Những tác phẩm toàn cầu nhất, nhân đạo nhất đều mang rõ rệt dấu ấn của tổ quốc.


Về Thái Tuấn, Đinh Cường còn lưu ý: anh là người ngoan đạo nhưng không thấy anh đi nhà thờ. Màu sắc dân tộc e cũng cùng một cội nguồn, là những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra.

Do đó mà Thái Tuấn vẽ cái gì rồi nó cũng ra dân tộc; vì suốt đời anh chỉ vẽ thuần một giấc mơ. Con người làm chủ, kiểm soát, điều khiển được tư tưởng, thậm chí tình cảm, nhưng không ai làm chủ được giấc mơ. Giấc mơ là cái gì không thể chia chác, và cũng không thể tái lập. Nhưng dường như các nghệ sĩ có khả năng sống lại, và làm sống lại trong một bức tranh.
Nếu ai cho tôi một từ, chỉ một từ thôi trong tiếng Việt để mô tả tranh Thái Tuấn, tôi sẽ xin chữ « thơ mộng », thơ của tuổi thơ và mộng làm bươm bướm. Nếu là tiếng hán việt, tôi sẽ dùng chữ « hoài vọng » ; hoài những bến xuân xưa và vọng về Miền Đẹp bồng đảo xa khơi.
Tranh Thái Tuấn là miền, là niềm an tịnh vô biên. Mỗi bức tranh Thái Tuấn là một tâm cảnh dạt dào tâm cảm, một thời khắc im lặng dặt dìu âm hưởng.

Nhưng hôm nay, chiều nay, giờ này , niềm lặng im bổng òa vỡ thành tiếng khóc
Đặng Tiến

Orléans, 20/10/2005, viết lại 26-9-2007
Ghi chú:

(1) Đinh Cường, Thái Tuấn Cội Nguồn, báo Ngày Nay (Mỹ) số 354, ngày 01/11/1996.

(2)Jacques Maritain, Art et Scholastique, báo Les Lettres, tháng 9-10, 1919, in lại 1935, trang 115 va 130, nxb Louis Rougart, Paris
Thư tịch:
Thái Tuấn, Câu Chuyện Hội Họa, nxb Cảo Thơm, 1967, Sài Gòn.

Thái Tuấn, Tuyển Tập Tranh và tiểu luận, nxb Vaala, 1996, California. (Có phụ lục phần phê bình, giới thiệu của nhiều tác giả khác).

Thái Tuấn, Nguồn Mỹ Cảm, tạp chí Văn, số 93, 1967, Sài Gòn.

Thái Tuấn, trả lời phỏng vấn Huỳnh Hữu Ủy, tạp chí Văn, số 199, 1972, Sài Gòn.

Huỳnh Hữu Ủy, Bóng dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân Bính Tý, 1996, California.

Phan thị Đỗ Quyên : Xem tuyển tập tranh và tiểu luận Thái Tuấn, tạp chí Thế Kỷ 21, số 91, tháng 11/1996, California.

                
 
  
  
  
                          
     
                Thiếu Nữ 1993                                                                       Thiếu Nữ 1995
               
                                                                      Orleans 1996
                 
               
                                                               Tự Họa 1994


THƠ TÔ THÙY YÊN

Thơ Tô Thùy Yên

Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, học qua Petrus Ký và Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cấp bậc Thiếu Tá trong quân đội Miền Nam trước 1975. Sau 1975 ông đã bị giam giữ cải tạo hơn mười năm. Hiện ông sống tại Houston (Mỹ).

Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ Tự Do” trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển tập thơ Thùy Yên (1995) và Thắp Tạ (2004) đều được xuất bản ở Mỹ sau khi ông đến định cư ở quốc gia này vào năm 1993.


TRƯỜNG SA HÀNH

Bài thơ Trường Sa hành Tô Thùy Yên viết tháng 3/1974, chắc là sau một chuyến hành quân công vụ của ông ra vùng đảo này. Xin nhớ là, hai tháng trước thời điểm bài thơ ra đời, Trung Quốc đã cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (19/1/1974). Chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi đó đã điều quân đội ra đánh trả. Máu binh lính Việt Nam đã đổ xuống trên vùng biển vùng đảo của Tổ quốc để quyết giữ trọn vẹn giang sơn bờ cõi Việt Nam.
Toujours il y eut cette clameur
toujours il y eut cette fureur…
Saint John Perse (Exil)
*************************************************

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Mùa đông bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ,
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần,
Kinh động đất trời như cháy đảo…
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức, âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

3. 1974

ANH HÙNG TẬN

Dựng súng truờng, cởi nón sắt
Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều
Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt
Mồi chẳng bao nhiêu, ruợu rất nhiều
Đây ngã ba sông, làng sát nuớc
Xuồng ba lá đậu kế chân bàn
Trời mới tạnh mưa còn thấp uớt
Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang
Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn
Nên gặp nhau không giấu nỗi mừng
Ta gạn dăm ba lời tặng bạn
Dẫu từ lâu bỏ việc văn chuơng
Thiệt tình tên bạn ta không nhớ
Nhưng mà trông mặt thấy quen quen
Hề chi, ta uống cho say đã
Nào có ra gì một cái tên...
Tới đây toàn những tay hào sĩ
Sống chết không làm thắt ruột gan
Cũng không ai nhắc gì thân thế
Có vợ con mà như độc thân
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc đời binh nghiệp. Ta cuời bung:
Còn muơi tháng nữa lên trung úy
Có thể ngày mai chửa biết chừng...
Mặt bạn, mặt ta còn trắng cả
Như mặt trời chiều mới tạnh mưa
Tiếng hò mời dzô, dzô tở mở
Mũi thủy triều chừng cũng giạt ra
Phía phía rừng tràm xanh mịt mịt
Sông không bờ, trời cũng không chân
Người thuở truớc tìm vàng khẩn đất
Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
Đất thì không khẩn, vàng không tìm...
Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
Uống mất ngon vì chuyện lọan tâm
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay bắt
Ước cõi âm còn gặp để say.

 Thi sĩ
1.

Cuộc đời như thế đấy.

Vẫn cặp mắt phô trần,
Không mang kính xậm.

Vẫn thứ mực thông dụng,
Không phải cường toan.

Tôi giựt giành đổ máu với tôi
Từng chữ một.

Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.

Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân

Giữa bốn tường không khí.

2.

Như trong đêm thâu, tiếng bẻ đốt tay,
Tiếng côn trùng bằng phẳng,
Tôi gầy yên lặng với âm thanh.

Bài thơ lọt vào người như kẻ trộm,
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư.

Bằng mỗi lời độc nhất,
Tôi kề tai tiết lộ với từng người
Những điều không lặp lại

Bài thơ như lá sâm.

3.

Người ta lánh mặt tôi,
Một thằng lươn lẹo.

Bài thơ bỗng mất nửa linh hồn,
Ngù ngờ ngôn ngữ ngổn ngang.

Những hòn đá vụn,
Dãy núi cực hình phải đập tan hoang.

Tôi mộng du trên trái đất mòn
Nơi tôi vắng mặt.

Để làm gì ý thức?
Tôi nài van tôi hãy xót thương tôi.

4.

Tôi chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng
Giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô.

7-1960


Cánh đồng con ngựa chuyến tầu

Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.

4-1956


Đêm qua bắc Vàm Cống
Đêm qua bắc Vàm Cống,
Mối sầu như nước sông,
Chảy hoài mà chẳng cạn,
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng.

Tôi đi xuống Lục Tỉnh
Để rắc bỏ ven đường
Tài, tâm hồn, kỷ niệm…
Giữ làm gì đau thương.

Đã đôi lần nhầm lẫn,
Còn gõ cửa ái tình,
Van nài chút lưu luyến.
Của không về người xin.

Tôi châm điếu thuốc nữa,
Đốt tàn thêm tháng năm.
Chiếc bắc xa dần bến.
Đời xa dần tuổi xanh.

Nước tách nguồn về biển.
Sầu lại chảy về hồn.
Khi tôi vuốt lấy mặt,
Nghe bàn tay trống trơn.



VŨ KHẮC KHOAN

Vũ Khắc Khoan, con ngưòi và tác phẩm

 Thụy Khuê
Bài đăng ngày 09/08/2008 Cập nhật lần cuối ngày 09/08/2008 10:08 TU

 
Vũ Khắc Khoan là ngòi bút đặc biệt giao hòa triết lý Đông Tây, cổ điển và hiện đại trong tác phẩm văn học một cách tài tình. Sáng tác ít, nhưng mỗi tác phẩm đều đạt tới mức cổ điển. Cổ điển trong cái nghĩa đẹp nhất: không theo thời thượng mà tìm đến những giá trị phi thời gian. Có thể nói ông là trường hợp "văn dĩ tải đạo" độc đáo nhất trong văn học Việt Nam. Cái đạo ở đây là tư tưởng, là những vấn đề đặt ra cho người trí thức tiểu tư sản ở thời kỳ chia đôi đất nước, nói riêng, và con người của mọi thời, nói chung, trực diện với nghệ thuật và cuộc sống
Độc giả trong nước ngày nay có lẽ không mấy người biết Vũ Khắc Khoan là ai. Mặc nhiên ông là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Vì vậy, vấn đề chung của giới nghiên cứu văn học hiện nay, là không thể chỉ đóng khung trong một số tác gia quen thuộc, được nhà nước chính thức công nhận nữa, mà phải mở cửa rộng hơn, ra ngoài vòng chính thống, để đưa người đọc vào toàn cõi văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đó là điều kiện sinh tồn, và là lý do hiện hữu của công việc nghiên cứu phê bình.
Trong chiều hướng ấy, chúng tôi giới thiệu cùng quý vị, những tác phẩm chính của nhà văn Vũ Khắc Khoan, một tên tuổi có lẽ không nổi tiếng như Mai Thảo, Võ Phiến, hay Thanh Tâm Tuyền, nhưng tác phẩm của ông đánh dấu những biến chuyển lớn về bút pháp và tư tưởng trong nửa sau thế kỷ XX của văn học Việt.
 * * *  
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà-nội, là học trò trường Bưởi. Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao đẳng Canh nông. Sau khi tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang nghề dạy học, dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà-nội, và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông, hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953). Giao thừa có thể coi là vở kịch phy lý đầu tiên của Việt Nam.
Ngay từ thời còn là sinh viên y khoa, Vũ Khắc Khoan đã đạo diễn những vở Thế Chiến quốc Nửa đêm truyền hịch của Trần Tử Anh, trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội; ông viết và dựng kịch bản đầu tay Trường ca Mông Cổ, tác phẩm làm nền cho vở Thành Cát Tư Hãn sau này. Năm 1952, vừa dựng, vừa diễn vở Thằng Cuội ngồi gốc cây đa tại Nhà Hát Lớn. 1954 di cư vào Nam, Vũ Khắc Khoan cộng tác với Nhật báo Tự Do, dựng lại nhóm Quan Điểm (với Nghiêm Xuân Hồng và Mặc Đỗ), dạy sử, văn chương và văn học sử tại các trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An ở Sài-gòn. Từ 1962 lên dạy đại học. Chủ trương nguyệt san Vấn Đề cùng với Mai Thảo, dạy và làm giám đốc Kịch nghệ tại trường Quốc Gia Âm Nhạc ở Sài-gòn.
Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, ông dạy Pháp văn tại đại học Minnesota trong hai năm, cộng tác với tờ Đất Mới (của Thanh Nam) và tờ Văn của Mai Thảo. Cuối đời ông sáng tác hai bài thơ văn xuôi: Berceuse en pluie mineure (Ru em theo gam mưa thứ) và Le petit oiseau, la petite branche et le printemps (Con chim nhỏ, cành cây nhỏ và mùa xuân) và viết một số tác phẩm chưa hoàn tất: truyện dài Bướm đêm và kịch Ngọa triều. Vũ Khắc Khoan mất tại Minnesota ngày 12/9/1986 vì bệnh ung thư.
Trái ngược với những tác gia như Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan là người viết ít, viết kỹ, ông không phải là tác giả bình dân. Tác phẩm để lại không nhiều : Về kịch có Giao thừa, Hậu trường, Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (in năm 1949), Thành Cát Tư Hãn (1961), Những người không chịu chết (An Tiêm) và Ngộ nhận (Quan Điểm, 1969). Về truyện, có Thần Tháp Rùa (Nguyễn Đình Vượng, 1957). Về biên khảo có Tìm hiểu sân khấu chèo, Vở chèo Quan Âm Thị Kính (Lửa Thiêng, 1974). Và tùy bút có Mơ Hương Cảng (Kẻ Sĩ, 1971), Đọc kinh (An Tiêm, Paris, 1990) và Đoản văn xa nước (An Tiêm, 1995).
* * *
Vũ Khắc Khoan là ngòi bút đặc biệt giao hòa triết lý Đông Tây, cổ điển và hiện đại trong tác phẩm văn học một cách tài tình. Sáng tác ít, nhưng mỗi tác phẩm đều đạt tới mức cổ điển. Cổ điển trong cái nghĩa đẹp nhất: không theo thời thượng mà tìm đến những giá trị phi thời gian. Có thể nói ông là một trường hợp "văn dĩ tải đạo" độc đáo trong văn học Việt Nam. Cái đạo ở đây là tư tưởng, là những vấn đề đặt ra cho người trí thức tiểu tư sản ở thời kỳ chia đôi đất nước nói riêng, và con người của mọi thời, nói chung, trực diện với nghệ thuật và cuộc sống. Đối với Vũ Khắc Khoan, Thành Cát Tư Hãn chỉ là một cái cớ, một prétexe. Tình yêu cũng chỉ là một cái cớ, một prétexe, để viết... Tất nhiên phải hiểu thêm là nhân vật, đề tài ... cũng chỉ là cái cớ để tác giả biểu lộ tư tưởng và nghệ thuật của mình.
Biểu lộ như thế nào? Vũ Khắc Khoan có những cách thể hiện tác phẩm khác người. Ví dụ ông tạo ra một thể văn gọi là lộng ngôn, giao lưu giữa kịch và tùy bút, để nói lên tính ngoa ngoắt của lời nói, ngoa ngoắt của "văn chương". Trong Thần Tháp Rùa, ông lồng hệ thống tư tưởng của mình trong bốn truyện thần kỳ: Thần Tháp Rùa, Trương Chi, Nhập Thiên Thai (Lưu Nguyễn) và Người đẹp trong tranh (truyện Tú Uyên) để tạo ra một lối viết mới mà trước ông, chưa thấy ai thử nghiệm (Cao Huy Khanh đặt gọi là huyền truyện), và sau ông, không ai tiếp nối được.
* * *
1954, trước bối cảnh chia đôi đất nước, thành phần "trí thức tiểu tư sản" của Vũ Khắc Khoan ở trong cái thế như thế nào? Thế ấy, Vũ Khắc Khoan gọi là "trên đe dưới búa", "tư bản đè xuống, vô sản vùng lên": người trí thức tiểu tư sản "Khoan tôi" ở trong thế kẹt: Họ thuộc giai tầng lưng chừng, không giầu mà chẳng nghèo, không theo hai cực mà bị chúng ép lại. Truyện Thần Tháp Rùa viết về cái thế kẹt ấy của người trí thức tiểu tư sản ở thời điểm sắp chia đôi đất nước: chọn con đường nào cũng khó. Tác giả lồng thời sự trong không khí cổ kính của Thăng Long tự nghìn năm trước: Thư sinh họ Đỗ lên Kẻ chợ trọ học và dạy học, đứng trước những đảo điên của thời cuộc, chàng giữ thái độ lừng khừng khiến có người hỏi: "Hiện nay thiên hạ chia đôi, không trắng thời đen, mà nghe ông nói thì thật không biết là đen hay trắng." Đỗ trả lời: "Tại sao lại cứ bắt buộc phải là đen hay trắng?"
Phong cách nghệ thuật của Vũ Khắc Khoan là đem việc hôm nay lồng vào bối cảnh hôm qua, đem những chuyện thời sự như việc viên thị trưởng Thẩm Hoàng Tín ra lệnh bắt Rùa để triển lãm, việc cầu Thê Húc gẫy đôi... làm "điềm" báo hiệu sự chia đôi đất nước. Những yếu tố thực đó, được thể hiện trong văn qua những hình ảnh hư ảo tuyệt vời của thời cổ tích, ông viết: "Dưới ánh trăng nguyên tiêu, Đỗ đứng lặng nhìn Rùa. Đỗ chợt thấy mắt rùa như mờ lệ. Đỗ hỏi: Cũng biết thùy lệ ư?"
Dùng thể văn biền ngẫu, hàm súc, trau chuốt, chữ đắt giá, tạo vẻ đẹp cổ kính của một thời lồng trong nhiều thời. Đem những băn khoăn của hôm nay lồng trong không khí cổ điển của hôm qua. Qua bốn đoản văn Thần Tháp Rùa, Trương Chi, Thiên Thai Người đẹp trong tranh, Vũ Khắc Khoan đã "dùng" nghệ thuật để nói lên tư tưởng của mình về cuộc hiện sinh phi lý, về ảo tưởng thiên thai không bao giờ có thật, về cái thế sâu xé của người nghệ sĩ giữa hai thế lực: trưởng giả và thuyền chài (tư bản-vô sản), về sự lựa chọn khó khăn của người nghệ sĩ giữa tác phẩm để đời và lạc thú trước mắt trong cuộc sống sinh thực và phồn thực. Thần Tháp Rùa chao đảo giữa thực tế chính trị lịch sử của Việt Nam thời năm tư và của Việt Nam hôm nay, hơn ba mươi năm sau ngày thống nhất đất nước. Tác phẩm bắc cầu giữa huyền thoại và đời sống, giữa xưa và nay, để đưa ra thực tế của văn bản nghệ thuật.
* * *
Thành Cát Tư Hãn là tác phẩm chủ yếu của Vũ Khắc Khoan, phản ảnh sâu sắc địa bàn tư tưởng và tầm vóc của tác giả. Thành Cát Tư Hãn chỉ là một cái cớ để Vũ Khắc Khoan đề cập đến hai vấn đề cơ bản: Thuyết định mệnh Thuyết đợi chờ. Bối cảnh vở kịch diễn ra trong những ngày cuối đời của Thành Cát Tư Hãn, ở mặt trận Tây Hạ. Kịch bản được dàn dựng theo truyền thống bi tráng kịch cổ điển Hy Lạp của Eschyle, Sophocle: Cái chết là tất yếu. Thành Cát Tư Hãn, vị đại hãn Mông Cổ, "sừng sững, lầm lì, khốc liệt và hầu như vô giác" tự xác định mình là Trời, là Thượng Đế, quyết san bằng Đất liền, tiêu diệt tất cả những sinh mạng cản trở bước tiến của quân Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn đã thành công trong sự tàn sát, đã giết hết nhân sinh, nhưng không giết được Thần chết, kẻ thù vô hình của mình. Không thắng được định mệnh. Thành Cát Tư Hãn, vị đại hãn khốc liệt, uổng công tìm thuốc trường sinh, uổng công "dọc ngang chém giết, để rồi ... để rồi một ngày kia cũng mục nát như cây cỏ."
Định mệnh của Thành Cát Tư Hãn cũng là Thần chết, được khắc tạc dưới những nét của Cổ Giã Trường, anh hùng Tây Hạ, kẻ vô hình chỉ có thanh kiếm của hắn là hiện hữu. Trong suốt vở kịch, Thành Cát Tư Hãn chờ đợi Cổ Giã Trường, nhưng hắn không đến, hắn chưa đến. Mỗi lần có tin Cổ Giã Trường sẽ đến, là lại một cái chết của người thân đại hãn được xướng lên như để thắt chặt vòng vây quanh sự sống còn của "Mệnh Trời". Bi kịch của Hãn là bi kịch của nhân sinh: Con người khốc liệt và kiêu hùng nhất là Thành Cát Tư Hãn cũng chỉ đợi chờ cái chết. Sống để chờ chết và không ai biết trước diện mạo định mệnh của mình, là những chủ đề chính trong tác phẩm. Thuyết định mệnh và thuyết đợi chờ giao thoa với nỗi cô đơn tuyệt đối của vị đại hãn trong sa mạc thần quyền, tạo nên hình tượng bi đát nhất của con người trong tác phẩm Thành Cát Tư Hãn.
Vũ Khắc Khoan hòa trộn hai lối nghệ thuật kịch trường mà ông rất thích: "lắm lời nhất" như Shakespeare và "ít lời nhất" như Samuel Beckett. Có người cho rằng sự đợi chờ trong kịch của Vũ là do ảnh hưởng kịch En attendant Godot (Đợi Godot) của Samuel Beckett. Nhưng thực ra, tư tưởng đợi chờ đã có trong Vũ Khắc Khoan từ vở Giao thừa (đợi giao thừa) viết năm 1949 (được trình diễn năm 1951 tại Nhà Hát Lớn, Hà-Nội) trong khi kịch của Samuel Beckett đến 1953 mới được trình diễn ở Paris. Do đó, sự trùng hợp tư tưởng ban đầu có lẽ chỉ là ngẫu nhiên. Sau này Vũ tìm đọc và nghiên cứu Beckett, và ông đã có những nhận định sâu sắc về Samuel Beckett, trong một bài tiểu luận (in trong tập Giấc Mơ Hương Cảng). Vì vậy chúng tôi đặt thuyết đợi chờ như một yếu tố đặc thù trong hệ thống tư tưởng của Vũ Khắc Khoan, độc lập với Beckett, đã có trong họ Vũ, từ trước khi ông tiếp xúc với tác phẩm của Samuel Beckett.
* * *
Tác phẩm Đoản văn xa nước, tập hợp những bài viết cuối cùng của nhà văn tại hải ngoại, là một tập hợp những truyện, ký, hồi ức và tùy bút. Trong đó bài tuỳ bút Đọc kinh, một bài kệ hiện đại, một tác phẩm độc đáo và là tác phẩm cuối cùng của nhà văn, cũng là một suy nghiệm triết học về sống và chết, về có và không của một đời người, bôn ba trong sinh hoạt tư tưởng và nghê thuật. Vũ Khắc Khoan là một trong những nhà văn Việt nam đã hoà đồng hai yếu tố khó nhất trong một tác phẩm văn học: triết học và văn chương, làm cho tác phẩm, tuy chở tư tưởng triết học, nhưng đọc vẫn thú vị, thanh thoát như một áng văn xuôi đầy chất thơ. Chính ở chỗ đó, mà người nghệ sĩ Vũ Khắc Khoan đã hoà đồng được thiên thai và thế tục, được thiên đàng và trần thế, điều không thể làm được trong thực tại cuộc đời, chỉ có thể hiện hữu trong tưởng tượng và nghệ thuật.
Trong những kỳ tới, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu ba tác phẩm chính của Vũ Khắc Khoan: Thần Tháp Rùa, Thành Cát Tư Hãn
 http://www.rfi.fr/actuvi/articles/104/article_643.asp

 
 
Võ Phiến

Vũ Khắc Khoan


Vũ Khắc Khoan, ông có vai trò đặc biệt trong ngành kịch ở Miền Nam. Có thể nói Vũ Khắc Khoan là kịch Miền Nam (...)

Ông đóng kịch, viết kịch, dạy kịch, biên khảo về kịch (...)

Trong lịch sử nghệ thuật sân khấu ở nước ta mấy ai đóng góp nhiều hơn ông, bằng ông?

*

Con người say mê kịch và đóng góp nhiều cho kịch Việt Nam ấy là một nhân vật độc đáo. Kể ra không có một người nào có thể là đơn giản; và một tác giả, một nghệ sĩ lại càng rắc rối hơn. Tuy nhiên, ông Vũ Khắc Khoan thì ông không chỉ phức tạp thôi; ở ông có những khía cạnh mâu thuẫn nhau.

Hãy nói về cái ngoại hình trước tiên. Cao Huy Khanh mô tả: “dáng điệu luôn luôn đầy vẻ trầm tĩnh chững chạc, quá sức là nghiêm chỉnh, khi đi đầu thường cúi xuống gật gật gù gù, tay trái luôn luôn thọc vào túi quần coi đầy vẻ đăm chiêu suy tưởng rất ngoạn mục”, “khuôn mặt ông ta. Ðúng là một chân dung khắc bằng đá, những đường nhăn hằn sâu trên trán, những nét ngoằn ngoèo sắc cạnh như đục sâu vào má, những vết hằn in cứng và đậm nét như thể những vết hoa chạm trổ trên mặt, cặp mắt lồi đến độ có thể nhìn thấy những tia máu vẩn đỏ trong đó (...) đôi mắt khi nào trông cũng đỏ ngầu, dáng điệu thì sật sật sừ sừ chừng như (...) vừa mới uống rượu đế xong, đã vậy mà mái tóc muối tiêu thì lại bờm xờm chất cao cả một đống trên đầu.” “Quả thực ông ta trông giống Thành Cát Tư Hãn ghê (...) Ðúng là người nào thì nhân vật nấy, Vũ Khắc Khoan mà đóng vai Thành Cát Tư Hãn tất phải là rất tuyệt.”

Cao Huy Khanh bảo ông Vũ giống hệt Thành Cát Tư Hãn. Còn ông Vũ thì nói đi nói lại ba bốn lần trong vở kịch rằng Thành Cát Tư Hãn là con người “sừng sững, lầm lì, khốc liệt và hầu như vô giác” (...)

Cũng về ông Vũ Khắc Khoan, chính ông Vũ ấy, Ðặng Tiến đã kể lại một kỷ niệm. Bấy giờ là cuối 1965, ông Vũ rủ ông Ðặng ra Huế dự hội thảo tại viện đại học Huế. Buổi tối, trên diễn đàn một nhà hùng biện thao thao thuyết giảng: Cộng sản là một chủ thuyết, vậy muốn chống cộng, chúng ta cần phải có một chủ thuyết. “Anh Khoan rỉ tai: đi ăn phở, rồi đứng dậy, bệ vệ đi ra. Tôi đi theo.” Gần hăm lăm năm sau, vào dịp tết 1990, trên báo Thông Luận ông Ðặng (ký Tuyết Chi) nhớ người bạn vong niên quá cố, nhắc chuyện cũ, làm sống lại cái nét tinh quái bất ngờ của con người khốc liệt. Cái “rỉ tai” của ông Vũ thật lý thú, không phải người thân cận không có dịp bắt gặp.

Thân cận với ông Vũ vào những ngày cuối cùng là một người bạn vong niên khác: Nguyễn Cao Ðàm. Trong bài điếu văn đọc trước linh cữu Vũ Khắc Khoan, ông Nguyễn cho biết: “Ông là một kho tàng những câu chuyện dí dỏm (...) Ngay trên giường bệnh, những nhận xét khôi hài dí dỏm lan cả ra thầy thuốc, y tá, và bệnh nhân láng giềng. Buổi chiều chủ nhật mồng bảy tháng chín, trên tầng lầu 4 im vắng của bệnh viện Fairview, chỉ có tiếng cười không kiềm chế được phát ra từ phòng bệnh số 419 cũng vì những câu chuyện của ông, về ông.”

Vị Tư Hãn của Mông Cổ - lầm lì, khốc liệt, vô giác - tình cờ nghe được những tiếng cười ấy ắt phải sững sốt. Càng sững sốt khi biết ngày mồng 7 tháng 9 nói trên đây chỉ cách ngày ông Vũ qua đời chưa đầy một tuần lễ.

Những cái mâu thuẫn như thế về ông Vũ không phải do lỗi của kẻ ghi chép (...) Chắc chắn Cao Huy Khanh đúng mà Nguyễn Cao Ðàm cũng đúng. Nhờ thế Vũ Khắc Khoan viết được cả Thành Cát Tư Hãn cả Ngộ nhận. Corneille chỉ có bi kịch, Molière chỉ có hài kịch. Ở Vũ Khắc Khoan, có chỗ cho Thành Cát Tư Hãn ngồi lừ lừ, mà cũng có đủ chỗ cho thằng Cuội tha hồ lếu láo, đùa giễu, nghịch ngợm (...)

Vũ Khắc Khoan (...) có bài kệ Rong Chơi:

“Ta thường ở đó
Ngã ba cuộc đời
Tầm xuân xanh biếc
Mây trắng lên khơi
Ta thường đến đó
Ngã ba cuộc đời
Ðăm đăm theo hút
Chân ai chân ai
Tà huy lay lắt
Lay lắt hoa rơi
........................
Ai trụ ở đó
Ta hay là ngươi
Ai trụ ở đó
Ngã ba cuộc đời
Tầm xuân vẫn biếc
Mây vẫn rong chơi
Ta vẫn rong chơi
Ngã ba cuộc đời.” (...)

Kệ này (...) đặc sắc (...) ở lời, ở cái nhịp điệu (...) Lời ấy, điệu ấy (gợi) một phong cách rong chơi tuyệt hảo (...)

Ông Vũ (...) rong chơi nhẹ thênh. Ông chẳng thiết gì, ngoài một khoản rượu, chẳng hạn.

Vũ Khắc Khoan (...) về già, lâu lâu viết chút ít thơ. Nhớ bài Vọng Cố Nhân. Bấy giờ ông lão nằm ở Minnesota lạnh lẽo thê lương, nhớ cố nhân, cố hương, cố sự, hướng về đâu cũng ngát mùi rượu:

“Khui chai rượu nhỏ
Hồ trường biết rót phương nao?
Chợ Cũ hay là Chợ Lớn
Phố Hàng Khay hay phố Hàng Ðào?
Quán cóc mái xiêu chợ Ðũi?
Sông Hương chiều lộng gió Lào?
Thôn Vĩ hàng cau bụi trúc?
Nguyễn Tri Phương hay góc Ða Kao?
Sương khuya nhuốm bạc mái đầu
Bạn vàng kẻ trước người sau
Giới nghiêm cũng mặc hẻm nào cũng vô
Ờ lại có những chiều nổi gió
Rượu ngà ngà cổ áo nâng cao
Khói huyền dâng lên mờ sao
Ðêm Ba-tư quánh màu ma túy...” (...)

(Rong chơi) là ông Vũ, sắm nắm dấn thân (như nhân vật họ Ðỗ trong Thần tháp Rùa) cũng là ông. Cũng như lầm lì là ông, mà đùa giỡn giễu cợt cũng là ông (...)

(Lại còn) chuyện chủ thuyết hay không chủ thuyết.

Ở Huế, nghe người ta tỏ ý muốn lập thuyết chống cộng, Vũ Khắc Khoan liền kéo Ðặng Tiến bỏ phòng họp đi ăn phở, ra ngoài đường ông vừa đi vừa tiếp tục chế giễu phép chống cộng bằng chủ thuyết. Trong khi ấy Cao Huy Khanh cho rằng lập thuyết “Ðó là điều mà Vũ Khắc Khoan và các bạn đồng chí của ông đã miệt mài theo đuổi...” (...) Ông Vũ có lúc muốn hơn thua với cộng sản bằng chủ thuyết (...) Rồi cũng ông Vũ ấy lại có lúc viết toàn những lộng ngôn, lấy cái ngôn làm trọng hơn cái ý, lấy hình thức làm trọng hơn nội dung (...)

*

Cao Huy Khanh chê ông Vũ viết ít. Quả có ít thật. Trong một thời gian dài hơn, ông viết ít kịch hơn Ðoàn Phú Tứ, Vi Huyền Ðắc. Nhưng riêng chỗ đó không hẳn do ông lười. Có thể vì ông kỹ (...)

(Vũ Khắc Khoan viết kỹ, mà tìm hiểu về những chuyện liên quan đến cái viết của mình cũng không sơ sài, qua quýt chút nào.)

Lớp kịch tác gia trước ông (...) như những Vũ Ðình Long, Vi Huyền Ðắc, có ai am tường nguồn gốc kịch nghệ dân tộc bằng ông? có ai am hiểu hát chèo bằng ông? (...)

Lớp trước ông Vũ, không dễ có kịch tác gia nào biết chèo như ông; còn lớp sau ông, cũng không dễ có kịch tác gia nào biết về những quan niệm kịch Tây phương lúc bấy giờ như ông. Vị giáo sư kịch nghệ ấy không ngừng theo dõi các phong trào kịch nghệ Âu Mỹ (...)

Ông Vũ có truyện, có tùy bút, có tí thơ nữa; nhưng chủ yếu ông là kịch tác gia. Một kịch tác gia không phong phú, nhưng thành công.

(Trích bài viết về Vũ Khắc Khoan trong bộ
Văn học Miền Nam)







 

ĐẶNG PHÙNG QUÂN *TRẦN ĐỨC THẢO

ĐẶNG PHÙNG QUÂN 

 Đọc lại Trần Đức Thảo


I

Năm 1991, Trần Ðức Thảo được phép trở lại Pháp sau bốn mươi năm rời khỏi đây về nước rồi mất tại Paris năm 1993. Từ lâu ông đã trở thành một personna non grata, song đối với thế giới triết học vào thời hiện tượng luận nở rộ, tên tuổi ông được nhắc đến trong nhiều sách ở những thập niên 50, 60 trở đi. Trần Ðức Thảo được đào tạo hoàn toàn trong môi trường giáo dục thuộc địa Pháp (học lycée ở Hà Nội, rồi Louis-le-Grand và Henri-IV trước khi thi đậu vào trường Cao đẳng Sư phạm đường Ulm (ENS d'Ulm)) nên những tác phẩm chính của ông viết bằng Pháp ngữ.


Hai tác phẩm chính của Trần Ðức Thảo đánh dấu hai giai đoạn: giai đoạn 1951 trở về trước, ông thuộc khuynh hướng chủ nghĩa Mác hiện tượng luận, và giai đoạn sau, ông là một người Mácxit Lêninit. Hành trạng trí thức Khi Trần Đức Thảo theo học trường Cao Ðẳng Sư phạm vào năm 1939 thì chủ nghĩa Mác và triết học Hegel đã có những ảnh hưởng lớn tại Pháp, không như Sartre nghĩ:


"Vào năm 1925 khi tôi mới hai mươi tuổi, không có một ghế giảng dạy chủ nghĩa Mác tại Ðại học, và những sinh viên cộng sản phải rất thận trọng, không được nói đến hay ngay cả nhắc đến tên trong những kỳ thi, nếu họ nói đến chủ nghĩa Mác, họ có thể bị đánh rớt. Nỗi kinh hãi về biện chứng ghê gớm đến nỗi Hegel thật xa lạ với chúng tôi" [1]



Thật ra trong thập niên 20, những nhà xã hội như Charles Andler, Lucien Herr, Victor Basch, Edmond Vermeil đã chiếm những ghế quan trọng ở Sorbonne, cũng như ở trường Cao đẳng Sư phạm và Học viện Pháp quốc. Họ đã đem tư tưởng Hegel vào Ðại học Pháp và đặc biệt nghiên cứu mối quan hệ giữa tư tưởng Hegel và chủ nghĩa xã hội (một luận án đề xuất vào năm 1907 ở Sorbonne đã nghiên cứu ảnh hưởng của Hegel đối với Marx). Vào những năm cuối thập kỷ 20 này, những nhà triết học trẻ như G. Politizer, Paul Nizan, Henri Lefebvre, G.Friedman quy tụ thành nhóm tạp chí Philosophies. Thế hệ mới của những nhà triết học Mácxit xuất hiện những tên tuổi như Auguste Cornu, René Maublanc, Roger Garaudy và George Cogniot. Auguste Cornu đào sâu ảnh hưởng của Hegel đối với sự hình thành tư tưởng của Mác thời kỳ trẻ trong luận án đề xuất ở Sorbonne vào năm 1934.




Tập khảo luận "A la lumière du Marxisme" do Henri Wallon chủ trương đã giới thiệu một khuôn mặt Mácxit sáng giá là René Maublanc trình bày mối quan hệ giữa Hegel và Marx. Maublanc đã giảng dạy triết tại Lycée Henri IV, nơi Trần Ðức Thảo theo học trước khi được nhận vào trường Cao Ðẳng Sư phạm. Một triết gia Mácxit trẻ khác là G. Politzer trong những bài giảng ở Ðại học Công nhân (Université Ouvrière) trong những năm 1932 - 1935 đã nhận ra phép biện chứng thuần lý trong triết học Hegel. Những tác phẩm thời trẻ của Mác như Tập bản thảo kinh tế triết học và Hệ tư tưởng Ðức đã được phát hiện và dịch ra tiếng Pháp trong thời gian này. Ðồng thời tập Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán và Bút ký triết học của Lenin cũng được dịch và lưu hành ở Pháp trong những năm 1928 và 1938, Chủ nghĩa Mác được tuyên truyền thông qua những phong trào công nhân, nhưng cũng xâm nhập đại học một cách rộng rãi.



Những trào lưu tư tưởng lớn có những bước thăng trầm trong lịch sử. Tư tưởng của Hegel đã xâm nhập đại học Pháp từ thế kỷ 19, cũng mang những dấu ấn khác nhau. Alexandre Kojève nhận xét: "Mọi lý giải về Hegel chỉ là một đề cương của đấu tranh và lao động". Ðiều này có thể áp dụng cho mọi giai đoạn. Nhưng chính Kojève là một người đã làm sinh động tư tưởng Hegel trong những bài giảng ở trường Cao đẳng Sư phạm vào những năm 1936 - 1939. Kojève đã gây ảnh hưởng cho hơn một thế hệ kế tục đọc Hegel, Mác và tư tưởng hiện sinh Ðức.



Cũng trong khoảng thời gian này, một giảng viên khác ở trường Cao đẳng Sư phạm là J. Hyppolite đưa ra một lý giải khác về Hegel, công phu và tỉ mỉ. Trần Ðức Thảo chắc hẳn đã được dẫn nhập vào con đường nghiên cứu Hegel và Mác qua những ảnh hưởng của Kojève, Hyppolite và Cavaillès. Nhưng một khuôn mặt lừng danh khác có ảnh hưởng sâu sắc trong sự hình thành tư tưởng của Trần Ðức Thảo là M. Merleau-Ponty. Thời gian Trần Ðức Thảo theo học trường Cao đẳng Sư phạm thì Merleau-Ponty làm trợ giáo (caiman) ở đây. Trong số những học viên xuất sắc có Vuillemin và Trần Ðức Thảo. Con đường nghiên cứu triết lý của Trần Ðức Thảo mang những chuyển biến tư tưởng như theo dấu ấn của Merleau-Ponty - từ bước đường nhập môn hiện tượng luận đến những nghiên cứu về nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ, sự tìm kiếm bản chất của cấu trúc ứng xử nơi con người.



Khi Sartre và Merleau-Ponty cùng một số những trí thức tả khuynh khác thành lập tạp chí Thời mới (Les Temps Modernes), với Merleau-Ponty làm giám đốc chính trị, đăng những bài viết chính trị xuất hiện dưới ngòi bút của Claude Lefort và Trần Ðức Thảo, hai môn đệ của Merleau-Ponty. Ðối với thế hệ Trần Ðức Thảo theo học trường Cao đẳng Sư Phạm, khoa Hiện tượng luận của Husserl không còn xa lạ như một thập niên trước nữa. Cũng trong thời gian này, cuộc chiến bùng nổ và Ðức quốc xã đã tràn sang chiếm đóng nước Pháp, Trần Ðức Thảo được kể là một người có công mang những bản thảo di cảo của Husserl qua lằn tuyến kiểm soát của lính Ðức về Louvain, nhờ khuôn mặt Á đông của ông.



Ðây cũng là cơ hội Trần Ðức Thảo được đọc những bản thảo chưa in của Husserl để sửa soạn cho luận án ông đang tiến hành. Hiện tượng luận và chủ nghĩa Mác Tác phẩm Phénoménologie et Matérialisme Dialectique của Trần Ðức Thảo xuất bản năm 1951 [2] là tập hợp hai phần nghiên cứu viết trong những thời điểm khác nhau: Trần Ðức Thảo xác định phần thứ nhất soạn trong khoảng 1942 đến 1950 trình bày "căn bản cốt lõi của hiện tượng luận thuần túy trên phương diện lịch sử và trong chính những viễn tượng của tư tưởng Husserl" và ngay cả phần phê phán của tác giả cũng chỉ nêu ra những mâu thuẫn nội tại ngay trong tác phẩm của Husserl. Phần thứ hai của tác phẩm hoàn tất năm 1951 hoàn toàn đặt trên bình diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trần Ðức Thảo là một trong những người tiền phong đã khai phá vấn đề quan hệ giữa hiện tượng luận và chủ nghĩa Mác. Trước Trần Ðức Thảo là Herbert Marcuse với Tham luận góp phần về một hiện tượng, luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử [3] .

Trong tiểu luận này, Marcuse phác họa một chương trình phê phán hiện tượng luận hiện sinh và chủ nghĩa Mác: Hiện tượng đi sâu vào cấu trúc căn bản của hiện hữu con người, khai phá đặc tính nền tảng và phổ biến còn chủ nghĩa duy vật lịch sử với nhận thức bản thể về cấu trúc của đời sống, nắm vững những biến thái lịch sử cụ thể. Ý đồ của Marcuse là xây dựng một "hiện tượng luận biện chứng" nhằm phân tích những khả năng cụ thể trong giới hạn của hoàn cảnh lịch sử thực, đi tới viễn tượng một thực tiễn cách mạng nhằm biến đổi nó trong chiều hướng nhân bản. Marcuse viết:
"Ðiều này là một sự mở rộng giá trị của hiện tượng luận biện chứng... nó chỉ ra hiện hữu của con người lịch sử, cả về mặt cấu trúc cơ bản lẫn những hình thái và dạng thức cụ thể."



Lý giải chủ nghĩa Mác mở ra hai chiều hướng: những người Macxit như Lukacs, Marcuse, Habermas hay Sartre xây dựng trên sự chuyển biến của lịch sử con người, trong khi những người Mácxit - Lêninit thừa kế Engeln quan niệm vận động biện chứng trong tự nhiên và tác động vào lịch sử con người. Vào năm 1946, Trần Ðức Thảo đưa ra một tiểu luận in trong Revue Internationale nhan đề "Chủ nghĩa Mác và hiện tượng luận" khởi thảo việc nghiên cứu đối chiếu và phê phán. Ðến tác phẩm xuất bản năm 1951, minh thị rõ rệt hơn với nhan đề "Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng", Trần Ðức Thảo xác quyết: Chủ nghĩa Mác cho chúng ta giải pháp duy nhất có thể quan niệm được về những vấn đề mà chính hiện tượng luận đề ra [4] .



Chọn lựa con đường đi vào chủ nghĩa Mác không phải là một chọn lựa chính trị nhất thời, mà là một chọn lựa triết lý. Trần Ðức Thảo được huấn luyện trong trường Cao đẳng Sư Phạm, ở đó Cavaillès và Maurice de Gandillac đã đem hiện tượng luận và chủ nghĩa Mác vào giảng dạy. Một người ảnh hưởng đến Trần Ðức Thảo là Merleau-Ponty cũng đã đề cao chủ nghĩa Mác "không phải là một triết lý về lịch sử mà chính là triết học của lịch sử và phủ nhận nó chẳng khác nào đào huyệt chôn lý trí trong lịch sử" [5] Mặt khác, Trần Ðức Thảo ở vào thế hệ những môn đệ hiện tượng luận phải thông qua con đường lý luận Hegel, qua sự dẫn nhập vào tác phẩm Hiện tượng luận về tinh thần của Kojève và Hyppolite. Trần Ðức Thảo đã viết một tiểu luận nghiên cưú nội dung thực của tác phẩm Hiện tượng luận về tinh thần in trên Les Temps Modernes năm 1948 [6] .


Trần Ðức Thảo cho rằng nội dung của tư tưởng Hegel (bao gồm toàn thể lịch sử thế giới) chủ yếu bắt nguồn từ chủ nghĩa khách quan và sau cùng hàm ngụ một chủ nghĩa duy vật giấu mặt mà Hegel có thể khai triển khái niệm về chuyển biến và phương pháp biện chứng làm tiền đề cho tư tưởng Macxit. Tư tưởng cốt lõi của Hiện tượng luận về tinh thần là khái niệm Aufhebung như một quá trình vận động qua ba tác động: hủy diệt hình thái trực tiếp không thực và không phải chân lý của hiện tượng, để duy trì cái chân chính và thực nhất của nó để vươn lên hình thái trung thực nhất của hiện tượng. Trong Phénoménologie et Matérialisme Dialectique (PMD), Trần Đức Thảo đã vận dụng khái niệm cơ bản này để giải thích tại sao "những phân tích hiện tượng luận cụ thể chỉ có thể vận dụng mọi ý nghĩa và được phát triển đầy đủ trong tầm chân trời duy vật biện chứng". Không có gì mâu thuẫn trong việc quan niệm một "biện chứng hiện tượng luận" khi ông viện dẫn Husserl đã đặt trọng điểm triết lý trong hiện tượng luận sự vật (Ding):

"Sau cùng ở cơ sở của mọi thực tại khác, người ta thấy thực tại tự nhiên và cả hiện tượng luận về tự nhiên vật chất chắc chắn giữ một vị thế ưu tiên" [7]



Những công trình nghiên cứu của Husserl nhằm xây dựng "sự vật" nguyên uỷ theo Trần Đức Thảo "chỉ đem lại những kết quả quyết định trong việc giải trừ những tư kiến cổ điển, nhưng người ta hoài công tìm kiếm ở đó những minh xác về nội dung cụ thể của những trung gian hữu hiệu [8] Phải có một phương pháp khách quan, tức phép biện chứng Macxít mới xác định được quá trình khả dĩ xây dựng những ý nghĩa sinh động trên nền tảng của thực tại vật chất. Phương pháp biện chứng như Trần Đức Thảo mô tả vẫn mang dấu ấn Hegel "khởi đi từ cái khả xúc tự vượt để hủy diệt trong cái khả tri". Những vấn đề cổ điển chỉ được giải quyết toàn diện trong khuôn khổ của chủ nghĩa Mác, trong khi hiện tượng luận (Husserl) chỉ ra những khó khăn kỹ thuật mà ông không ngần ngại phê phán:
"Chủ nghĩa hiện thực trong Losgishe Untersuchungen của Husserl chỉ là một hình thái mâu thuẫn của một phân tích ý hướng không biết đến ý nghĩa thực của nó. Nó hàm ngụ yêu cầu của một sự đảo ngược biện chứng" [9]



Khởi từ một đoạn văn trong Nguồn gốc của hình học (Ursprung der Geometrie), Trần Ðức Thảo nhận định: con đường đi từ khả xúc đến khả tri chỉ có thể vạch ra một cách chính xác bằng sự phân tích những hình thái kỹ thuật và kinh tế của sự sản xuất (ra những điều kiện tồn tại của con người). Chính vì thế phương pháp hiện tượng luận vấp phải những khó khăn không thể vượt qua là sự mô tả những ý chỉ tiền trí từ (significations antéprédicatives) phải trở lại những điều kiện tồn tại của vật chất và thiết yếu định đặt chủ thể trong khuôn khổ của thực tại khách quan. Hiện tượng luận có giá trị ở chỗ mô tả được cái sinh động (le vécu) làm nền tảng cho mọi ý nghĩa chân lý, nhưng quan điểm trừu tượng của nó đã không cho phép nhìn thấy nội dung vật chất của đời sống khả xúc, do đó tất cả cơ sở của sự cấu thành thế giới (Weltkonstitution) mang tính cách thường hằng triệt để. Tóm lại, qua phê phán của Trần Đức Thảo, công trình hiện tượng luận là một vận động biện chứng có tính cách tư duy trong khi thực hành. Nó phải nhường bước cho chủ nghĩa duy vật biện chứng, coi như chân lý của chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm [10] .


Khi phê phán chủ nghĩa hiện sinh, trào lưu tư tưởng đang thống trị Tây Âu bấy giờ, Trần Ðức Thảo đã dùng hiện tượng luận làm trung gian để so sánh: Chủ nghĩa hiện sinh nêu ra sự khác biệt về yếu tính giữa sự tồn tại con người và thực tại tự nhiên chỉ trở lại bình diện ý thức ngây thơ; những khái niệm siêu việt, hoàn cảnh, chọn lựa, dự phóng của Heidegger được đề ra trước khi có giảm trừ hiện tượng luận, trong khi chủ nghĩa duy vật biện chứng xét những hình thái khác nhau của hữu thể trong vận động từ hình thái này qua hình thái khác. Vật chất được đặt ra trong ý thức chuyển biến (devernir-conscience), cũng như tự nhiên đặt ra trong sự chuyển biến về nhân tính, như vậy nó được xét dến sau khi có sự giảm trừ [11] .



Con đường Mácxit của Trần Đức Thảo có đáp ứng được những viễn tượng hứa hẹn như ông trình bày trong phần phê phán hiện tượng luận không? Hấp thụ nền giáo dục triết lý của trường Cao đẳng Sư phạm ở giai đoạn này, Trần Đức Thảo vẫn chưa vượt ra khỏi quỹ đạo hiện tượng luận. Mặt khác thông qua ánh sáng lý luận của biện chứng Hegel, cơ sở tư tưởng của ông vẫn xây dựng trên khái niệm vận động biện chứng Aufhebung. Trong PMD, Trần Đức Thảo không hề nhắc đến Lenin. Tuy nhiên cũng như nhiều người Mácxít Pháp khác, ông dựa vào Engeln. Cho nên ngay đề phần thứ hai, ông đã dẫn Engeln:
"Vật chất không phải là sản phẩm của tinh thần mà tinh thần là sản phẩm cao cấp của vật chất."



Ở tiết 1, ông đã bàn về một vấn đề rất cổ điển là "Ý thức và vật chất" nhằm xác định lâp trường duy vật của ông:
"Chỉ có biện chứng duy vật mới cho phép chủ thể tự thức và tự khẳng định trong thực tại hữu hiệu về hiện thể của mình, như thể trước hết nó vượt khỏi ý thức của nó, để tuần tự đặt ra với chính nó như ý nghĩa chân lý của nó" [12] .



Tuy nhiên, ảnh hưởng của Merleau-Ponty khá rõ rệt trong những vấn đề đặt ra ở PMD. Cũng bắt đầu từ hiện tượng luận như là một phương pháp, sau khi qua những chặng đường mô tả kinh nghiệm tiền trí từ, Trần Đức Thảo rút ra kết luận là tất cả công trình cấu tạo thế giới (Weltkonstitution) nghiên cứu về thế giới khả xúc mang tất cả ý nghĩa về những cấu trúc của ứng xử, đã vấp phải những khó khăn không thể vượt qua. Chỉ có phương pháp biện chứng mới đưa ra những viễn tượng khả dĩ có thể nhận thức:



"Thực tại như thể biện chứng là một vận động mà trong mọi cách thế của hữu thể, những biến chuyển của trật tự nhân qủa được xác định bởi cấu trúc riêng của từng cách thế này tất yếu do chính sự phát triển nội dung của chúng phải dẫn tới sự cấu thành một cách thể mới, hội nhập cách thể trước và nắm giữ nó như thể hủy diệt, duy trì và vượt qua." [13]



Cho nên nội hướng tính của ý thức cũng như quan hệ lý tưởng với khách thể phải đi dần tới cấu trúc của chủ thể thực sự, nghĩa là khởi từ chính thân xác như trung tâm của vận động. Như vậy không thể dùng phép "giảm trừ" trừu tượng của hiện tượng luận mà phải nhờ phép biện chứng để nắm vững thấu đáo biện chứng của ứng xử xác định hành vi của ý thức. Chương thứ I của phần thứ hai tìm hiểu biện chứng của ứng xử sinh vật như thế biến chuyển của nhận thức đích xác về cái khả xúc. Vấn đề này đã đề ra trong Hiện tượng luận về tinh thần của Hegel, tuy nhiên khi đi tìm hiểu khởi sinh của ý thức, biện chứng của khái niệm của Hegel đã thất bại so với phương pháp hiện tượng luận Husserl nắm vững sự đích xác trực tiếp của khách thể đơn giản đã được đề ra trong trực giác, chứng tỏ ưu thế của phương pháp trực giác này.



Tuy nhiên những lý giải hiện sinh của những môn đệ Husserl đã loại bỏ nội dung vật chất của kinh nghiệm khả xúc, đưa hiện tượng luận tới chủ nghĩa phản lý toàn diện [14] . Với tiêu đề "biện chứng của vận động thực", Trần Đức Thảo khởi đi từ quan điểm duy vật biện chứng theo Engels trong việc tìm hiểu biện chứng của tự nhiên: sự tiến hóa của ứng xử sinh vật từ tri giác sự vật ở loài động vật có vú, đi ngược lên tiếp thu sự vật ở loài cá, ngược lên nữa là sự di động của loài sâu, sự rời chỗ ở loài động vật nguyên sinh (như loài động vật ruột khoang - Coelentérés) tương ứng với sự phát triển cá thể của trẻ sơ sinh. Áp dụng hai khái niệm hiện tượng luận vào vận động sinh vật, Trần Đức Thảo nhận định ý hướng tính của trì động (rétention) như chuyển động dồn ép của hoạt động hút và đẩy trong quá trình hoàn tất phản xạ - những chuyển động dồn ép sống động trong một vận động lý tưởng của phóng động (protention), ở đó chủ thể có ý thức dự tưởng về tương lai nội tại qua một toàn bộ những hướng động vạch ra chân trời trường cảm xúc [15]



Trần Đức Thảo muốn chỉ ra sự sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa duy vật máy móc khi quan niệm tư tưởng chỉ là một sự bài tiết của bộ óc đã ngăn chặn bộ óc cảm thụ và không biết đến cấu trúc của vận động thực:
"Khi nhận thức được cái ý nghĩa của cái sinh động, tính hướng nội của ứng xử dưới dạng những sơ đồ dồn ép cấu tạo mối quan hệ ý hướng với khách thể đã đưa sinh thể lên hàng đời sống chủ thể,và sự giải thích khoa học không phải là một sự giảm trừ trừu tượng mà là khởi sinh tạo ra vận động kỳ thành của sự chuyển biến thành ý thức của thực tại vật chất" [16]



Khởi sinh những cấu trúc của ý thức có thể bắt đầu từ việc khảo sát nguồn gốc sinh vật của con ngưòi, xây dựng trên biện chứng chung của những cấu trúc chủng loại từ loài nguyên sinh đến con người, về mặt phát sinh cá thể: sự phát triển của trẻ sơ sinh một tháng tương ứng với sự phát triển của loài sâu, năm tháng với loài cá, chín tháng với loài động vật có vú, một năm với loài khỉ, mười tám tháng với loài giả nhân cho đến năm hai tuổi phát triển đầy đủ của loài sinh vật cao cấp là con người. Quá trình nội hướng dưới dạng ứng xử phản xạ, phát triển từ cấp độ định hướng và di động được, cho đến khả năng nắm được vật bên ngòài là ý nghĩa của ngoại hướng tính. Sự thể hiện dục vọng là quá độ của tính trực tiếp của xúc động đến sự thường trực của tình cảm ở loài động vật có vú. Ở loài khỉ, tương ứng với trẻ sơ sinh một tuổi, đã có khả năng trung gian xác định thực tại của ứng xử, tuy nhiên vẫn chưa có khả năng nội hướng của ý thức.



Sự phát triển hành vi của trung gian tạo ra việc biết sử dụng phương tiện (instrument) trong đó vận động xảy ra trước bị dồn ép và sống động của một vận động có ý hướng. Ở giai đoạn kế tiếp khi con người biết sử dụng công cụ (outil) thì chức năng phương tiện không thuần túy chỉ thực hiện ở hoàn cảnh hiện tại mà có thể sản sinh, giữ gìn và duy trì; con người như vậy đã nhận thức được ý nghĩa của một phương tiện tự nó có hiệu quả. Sử dụng công cụ đánh dấu sự xuất hiện con người. Vận động của lao động khi đã là lực lượng sản xuất được phản ảnh trong những hành vi của tổ chức và dạy dỗ chứng tỏ quá trình sản xuất trở thành đối tượng của một ý chí có ý thức dưới dạng nguyên ủy của ý chí tha nhân; từ giai đoạn này sự hợp tác lao động đánh dấu dạng thức của ngôn ngữ, tuy nhiên những qui luật xác định hoạt động sản xuất trước hết cấu thành ở bên ngoài ý thức, nghĩa là xuất hiện trong thực tại của ứng xử, như một hiệu quả khách quan của những điều kiện.




Bắt chước một định thức nổi tiếng của Marx, Trần Đức Thảo viết: "Như vậy tự nguyên ủy không phải ý thức xác định ứng xử mà ứng xử sinh ra ý thức" [17] Suy tưởng về thực tiễn của con người xây dựng chân lý của hình học trong một đoạn văn ở Ursprung der Geometrie của Husserl, Trần Đức Thảo đi tới kết luận là chỉ có sự phân tích những hình thái kỹ thuật và kinh tế của sản xuất ra những điều kiện tồn tại của con người mới minh giải được đời sống khả xúc của con người: "Sử dụng công cụ biểu thị sự tồn tại của con người", cho nên trong chương II phần hai, ông đã khảo sát quá trình vận động thực của lịch sử con người theo một viễn tượng biện chứng như sau:

Ở giai đoạn tối cổ, những lực lượng sản xuất cấu thành với vận động của công cụ chưa mang hình thái của cải vật chất, mà chỉ mới ở mức độ chiếm hữu những giá trị sử dụng, tương ứng với nguồn gốc của tôn giáo nguyên thủy xây dựng trên cơ sở vận động của vật hy sinh:
"Mọi tôn giáo được xây dựng trong một vận động tượng trưng ở đó chủ thể tự hủy diệt trong sự tồn tại tự nhiên của nó để nâng lên thành ý thức về "sự tồn tại thực sự" của nó. Trước khi là một dâng hiến cho thần thánh, vật hy sinh là sự chuyển biến của chính vật linh, qua đó cái thực được siêu việt trong khi tự hủy". [18]



Sau giai đoạn kinh tế săn bắn của nhân loại, khởi đầu của sự tích lũy của cải trong sản xuất của giai đoạn kinh tế gia đình, xuất hiện những tinh thần cá thể. Trao đổi hàng hóa không còn giới hạn trong những viễn tượng chật hẹp của giá trị sử dụng nữa mà được tổ chức theo giá trị trao đổi xác định một cách khách quan hình thái của một phổ biến tính thuần lý.


Tuy nhiên nền kinh tế thương mại chỉ có lợi cho một giai tầng đặc biệt tách ra khỏi đám đông lao động để trở thành một giai cấp thống trị. Những cấu trúc thuần lý phát triển trong phương thức sản xuất mới này tha hóa trong hình thái truyền thống của bản chất thiêng liêng, tương ứng với một tôn giáo quan niệm đấng cứu thế hy sinh. Dưới hình thái chiếm hữu phát sinh những khái niệm thực tiễn mới, trong đó sự phát triển sản xuất không phù hợp với những quan hệ trao đổi và lịch sử qua những đối kháng trực tiếp này là vận động của những tranh đấu và thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc. Cũng ở trong quan điểm này, lịch sử không còn là lịch sử của những giai cấp thống trị mà là lịch sử của lao động sản xuất và những quan hệ của con người.

Trần Ðức Thảo dẫn lời Mác:
"Ở một giai đoạn nào đó của sự phát triển, những lực lượng sản xuất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện hữu. Từ những hình thái tiến hóa của những lực lượng sản xuất, những quan hệ này trở thành những chướng ngại của những lực lượng này, ở đó mở ra một kỷ nguyên cách mạng xã hội Và người ta không phán đoán một cá nhân trên ý tưởng tạo ra cho chính hắn, người ta cũng không phán đoán một thời đại trên ý thức tự thân của nó, mà ngược lại phải giải thích ý thức này bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột giữa những lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất hiện hữu".





Giai đoạn quá độ từ nền kinh tế buôn bán sang nền kinh tế tiền tệ, tiền là vận động của những trao đổi trở thành trung gian đưa tính phổ biến của hàng hóa trở thành sự tự trị của ý thức tự thân, như thể khái niệm trong hình dung khái niệm, đấu tranh giai cấp xuất hiện dưới một bộ diện triệt để mới: giai đoạn phong kiến mở đường cho cuộc cách mạng tư sản, sự tồn tại thần thánh mang hình thái tồn tại khả tri, biểu hiện cho sự siêu việt của tư tưởng và khái niệm phổ biến của Cứu chuộc biểu hiện tính phổ biến thực sự đắc thủ trong những quan hệ của con người qua sự bành trướng của kinh tế tiền tệ. Tuy nhiên, ý nghĩa chính thống của tính phổ biến nhân loại chỉ xuất hiện dưới hình thái hủy thể, sự chối bỏ huyền nhiệm những của cải trần gian bằng biểu tượng thuần túy của đời sống hằng cữu.




Sự tiến bộ chung của những lực lượng sản xuất đã đưa giai cấp tư sản phương Tây đi chinh phục thị trường thế giới, minh thị hình thái mới của chiếm hữu tư sản, trong đó quyền năng phổ biến của tiền không chỉ mang ý nghĩa thống nhất hàng hóa mà mang khả năng phát triển thuần lý (capacité du développement rationnel), dưới danh nghĩa tư sản phối hợp những thời khoảng khác nhau của quá trình sản xuất. Trong vận động như vậy, lao động sản xuất trở thành bản chất của giá trị, cấu thành phố biến xây dựng sự thống nhất những mặt khác biệt trong biện chứng trao đổi.
Quá trình lao động này tách rời khỏi thực tại kỳ thành của nó để giản lược vào một tất yếu toán học thuần túy, tước bỏ mọi ý nghĩa nhân tính. Ở đó khoa học hiện đại về tự nhiên phát triển trong chân trời máy móc này.



Cũng như Husserl đã chỉ ra khi xét đến ý nghĩa công chính của tư tưởng khoa học, cơ sở chân lý chỉ có thể tìm thấy trong lao động xã hội của con người, cho nên vận động lý tưởng của những khái niệm trong khoa vật lý toán học chỉ là biểu hiện trừu tượng của vận động thực của công nghiệp, như thể sự hài hòa thể hiện một cách thực tiễn giữa trí năng và sự vật. Như Marx đã chỉ ra trong tập hai Tư bản, lao động này mất khả năng nhân tính trong sự chiếm hữu của tư bản và quyền năng trừu tượng che phủ biện chứng cũng như chân lý khoa học mang bộ mặt nghịch lý của một hủy thể đời sống sinh động. Ở đó giai cấp tư sản mới dùng ma thuật biến quyền năng sáng tạo của lao động con người thành một thứ hàng hóa đơn giản, như thể vật chất thuần túy, bị khai thác trong hạch toán kinh tế và khi sức lực lao động mà công nhân đem bán cho nhà tư bản, cuộc đấu tranh chống lại những quan hệ pháp định từ thống trị sang nô lệ khái quát hóa cơ cấu của hạch toán kinh tế trong quan niệm của một thế giới bị tước đoạt ý nghĩa.



Ðể nắm quyền bính chính trị, giai cấp tư sản đã đưa cơ chế tư bản vào khái niệm của khách thể như vật chất thuần túy, Kant đặt vấn đề những điều kiện khả hữu của một đối tượng như vậy, nghĩa là sự bảo đảm pháp lý của chiếm hữu tư sản. Sự khác biệt giữa biện chứng Hegel và biện chứng duy vật ở chỗ đó: biện chứng Hegel biểu trưng một thỏa hiệp phổ biến giữa những giai tầng bóc lột cũ với giai cấp tư sản, trong khi biện chứng của lịch sử thực phát hiện trong sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và đại công nghiệp một cấu trúc mới của hoạt động sản xuất, hàm ngụ sự hoàn tất tổ chức kinh tế thành một sự hợp nhất toàn diện.



Giai cấp vô sản chứng thực trong những điều kiện như vậy là chính chân lý của hiện hữu, mang một hình thái hoàn toàn mới, hàm ngụ sự triệt hủy thực hữu hiệu, do sự triệt hủy hình thái chiếm cứ tư hữu. Trong sự xây dựng chủ nghĩa xã hội và bước quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, rốt cuộc hoàn thiện sự cấu kết hài hòa phổ biến, là giấc mơ của tư tưởng tư sản trong biện chứng duy tâm với những hình thái bóc lột và giai cấp vô sản đã thực hiện trong lãnh vực thực sự tổ chức lao động xã hội, ở đó mọi cấu trúc giai cấp và nguyên cớ độc quyền bị thủ tiêu.





[1]Sartre, Question de méthode (collection Idées, tr.26).[2]Editions Minh Tân, Paris 1951. [3]Marcuse, Beitrage zu einer Phanomenologie des historischen Materialismus, Philosophische Hefte, Berlin 1928 [4]sđd, tr.5 [5]Merleau-Ponty, Humanisme et Terreur (bản tiếng Anh, tr. 153) [6]La phénoménologie de l'esprit et son contenu réel, Les Temps Modernes số 3, tr. 492 - 539 [7]Husserl, Ideen I, tr.139 dẫn trong PMD tr.8[8]PMD tr. 296 - 7 [9]sđd, tr. 51[10]sđd, tr.228[11]sđd, tr.227[12]sđd, tr. 247[13]sđd, tr. 242 [14]sđd, tr. 238[15]sđd, tr. 256 và 262[16]sđd, tr. 266[17]sđd, tr. 286[18]sđd, tr. 306






II
Cấu trúc luận và chủ nghĩa Mác Quan hệ giữa ý thức và ngôn ngữ đã trở thành vấn đề cơ bản trong hành trạng tư tưởng của Trần Đức Thảo. Ngay từ PMD, khi đi giải thích sự xuất hiện của ý thức qua những giai đoạn sơ khai của con người, ông ghi nhận từ tiếng hú của loài vật qua ngôn ngữ con người đã phối hợp trên cấu trúc của lao động sản xuất. Thật sự Trần Đức Thảo vẫn chịu ảnh hưởng sâu đậm của hiện tượng luận. Sau Husserl, Merleau-Ponty đã đặt trọng tâm vào ngôn ngữ, khởi từ bài giảng "La conscience et l'acquisition du langage" năm 1949, ở đó ông chỉ ra sự khác biệt giữa truyền thống triết học Descartes và triết học hiện đại chung quanh vấn đề ý thức và ngôn ngữ: trong truyền thống Descartes không có sự gặp gỡ giữa ý thức và ngôn ngữ trên cùng một bình diện, nói khác đi triết lý coi ngôn ngữ như một sự vật ở ngoài ý thức. Merleau-Ponty đưa ra một đề cương tìm hiểu bản thể ngôn ngữ, bao gồm việc nghiên cứu sự phát triển tâm lý của trẻ con, sự đóng góp của khoa ngữ học và những kinh nghiệm văn chương.



Khi đi tra hỏi ngôn ngữ, ông đã phát hiện ra ngữ học có thể là một điển hình nguyên lý làm cơ sở cho việc phát triển một luận lý về những khoa học nhân văn, từ đó có thể thiết lập một khoa nhân loại học triết lý, phổ biến. Ðó cũng là khởi đầu cấu trúc luận và người ta đọc lại nguồn gốc ngôn ngữ của Rousseau, Herder và Saussure. Những tiểu luận mới của Trần Đức Thảo xuất hiện trên tạp chí cộng sản Pháp La Pensée vào năm 1966 sau nhiều năm im lặng đặt trọng tâm nghiên cứu về nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ mang chiều hướng này. Trong khoảng thời gian vắng tiếng, ông đã có cơ hội học tiếng Nga để đọc những tư liệu dân tộc học và khảo cổ học của các nhà khoa học Liên Xô. Những công trình nghiên cứu của ông được phép xuất hiện ở ngoài nuớc có thể giải thích được hai lý do: phù hợp với sự phát động cuộc chiến tâm lý tuyên truyền ra thế giới của đảng cộng sản Việt Nam và Trần Đức Thảo đã trở thành một người Mácxit-Lêninit chính thống.



Những tiểu luận này đựơc in lại trong tác phẩm "Nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức" xuất bản năm 1973 [1] . Trần Đức Thảo đã dẫn chứng Lenin và hoàn toàn dựa trên những lý luận kinh điển "ngôn ngữ là ý thức thực", mà "ý thức trước hết là một sản phẩm xã hội" (Mác) phát triển trong sinh hoạt và những quan hệ vật chất mà "vật chất là một thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức của chúng ta". (Lenin) Ði tìm nguồn gốc của ý thức, trước hết ông tránh rơi vào một nghịch lý quan niệm ý thức là vật chất vì như vậy lẫn lộn giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật vì người ta có thể đảo ngược lại quan niệm vật chất là ý thức.



Ý thức ở lúc khởi đầu của nhân loại có thể đánh dấu từ sự xuất hiện của công cụ đầu tiên. Hoạt động của con người chính là một hình thái sơ đẳng của ý thức. Những điều tra nhân loại học Mácxit xác định khởi đầu của ý thức phải xét từ giai đoạn trung gian trước khi con người tối cổ xuất hiện. Ðó là giai đoạn trước khi có con người, loài vượn đã vượt lên khỏi tính cảm thụ để có tập quán lao động thích nghi. Ý thức như vậy được nghiên cứu trong "thực tại trực tiếp" của nó: ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ diễn đạt bằng cử chỉ và ngôn ngữ diễn đạt bằng lời. Nguồn gốc ngôn ngữ được cấu thành trên sự vận động của lao động thích nghi ngay từ cấp độ vượn người. Trần Đức Thảo dẫn lời Engels: "Trước tiên là lao động rồi sau đó và đồng thời ngôn ngữ.



Ðó là hai động lực chủ yếu tác động bộ óc của loài vượn dần dà biến thành bộ óc của con người." Lịch sử đã chứng tỏ là trí khôn loài vật chưa đạt tới mức độ ý thức, vì ở loàì vật thiếu quan hệ ý thức với sự vật như ngôn ngữ có thể diễn đạt. Và dấu hiệu ngôn ngữ sơ đẳng nhất là động tác của dấu chỉ diễn đạt mọi quan hệ với sự vật bên ngoài, ở đó ý hướng tính cơ bản của ý thức là ý thức về sự vật, khác vơí cơ chế tâm linh thuần túy cảm xúc máy móc nơi loài vật. Khi mô tả những hoạt động sơ đẳng, động tác của dấu chỉ là một cách gọi lao động trên đối tượng được chỉ. Ý chí trước hết phải được cấu thành dưới một dạng khách quan trong vận động nguyên ủy của ngôn ngữ khi vận động này đột phát những quan hệ vật chất của đời sống xã hội, điều Mác gọi là ngôn ngữ của đời sống thực:

"Sản xuất những ý tưởng biểu hiện và ý thức trước hết một cách trực tiếp và riêng biệt lẫn vào các hoạt động vật chất và giao dịch vật chất của con người, nó chính là ngôn ngữ của đời sống thực. Những biểu tượng, tư tưởng, giao dịch trí thức của con người xuất hiện ở đây như" khởi sinh trực tiếp của ứng xử vật chất (direkter Ausfluss ihres materiellen Verhaltens) nơi con người" [2]



Ðến đây Trần Đức Thảo muốn chỉ ra hướng nghiên cứu qua lối đặt vấn đề khởi từ một ý nghĩa tuyệt đối tự căn cơ ở trong ngôn ngữ của đời sống có thực có trước mọi ý thức nói chung, và chỉ từ khi có chủ thể hoá mới xác định ra ý thức nguyên ủỵ. Trong mọi bước tỉ mỉ mô tả những động tác dấu chỉ của con người nguyên thủy, ý nghĩa này được giả định ở mọi giai đoạn tiếp theo như những điều kiện tiên quyết của thao tác ngôn ngữ hay tư tưởng.



Hướng nghiên cứu này hoàn toàn theo quan điểm duy vật vì ý nghĩa của dấu chỉ liên hệ một cách trực tiếp và duy nhất tới chính sự vật trong hiện hữu ngoại tại, coi như độc lập với chủ thể, hay nói một cách khác, sự vật trong hiện hữu vật chất. Chính khởi từ hình thái khách quan của dấu chỉ đã đắc thủ mới có hình thái chủ quan xác định mối quan hệ đầu tiên có ý hướng của chủ thể đối với khách thể.


Cho nên Mác xác định ý thức không có gì khác hơn cái hữu thể có ý thức (das bewusste Sein). Có thể nói, ngôn ngữ là chính ý thức trong thực tại trực tiếp của nó, thì ý thức là ngôn ngữ mà chủ thể nói với chính mình, nói chung dưới dạng "ngôn ngữ bên trong". Vận động vật chất hàm ngụ trong ý thức là chính ngôn ngữ, nói khác đi tín hiệu ngữ học là vận động vật chất của hành vi chỉ thị.


Trong Grundrisse, Mác quan niệm ngôn ngữ là hiện thể của cộng đồng, nên mối quan hệ giữa cá thể và ngôn ngữ chỉ xác định khi cá thể là một thành viên tự nhiên của cộng đồng con người. Trong phần nghiên cứu thứ hai của tác phẩm Recherches sur l'origine du langage et de la conscience (ROLC), dưới nhan đề: ngôn ngữ hỗn tạp (Le langage syncrétique), Trần Đức Thảo mở đầu từ một khái niệm của Jakobson: "Ý nghĩa của một tín hiệu là một tín hiệu khác, nhờ đó tín hiệu mới được thông diễn" và phê phán: Nếu tất cả ý nghĩa của những tín hiệu là đi từ tín hiệu này qua tín hiệu khác, chứ không bao giờ liên hệ trực tiếp với sự vật thì như vậy, một cách thực tiễn, chúng ta bị vây kín trong thế giới những tín hiệu và không thể thấy được sự vật muốn nói gì.



Ðó là một sai lầm nghiêm trọng vì ngay trên bình diện phân tích những tín hiệu, không thể chối bỏ sự hiện hữu của một tín hiệu cơ bản, mà ý nghĩa rõ ràng xác minh "một liên hệ trực tiếp giữa từ ngữ và sự vật": đó là tác động của dấu chỉ (le geste de l'indication), ở đó chúng ta chỉ ngón tay trên chính sự vật. Khi Lenin định nghĩa cảm giác là dây liên lạc trực tiếp của ý thức với ngoại giới, ông muốn chỉ ra rằng khái niệm vật chất đối với con người là vấn đề tín nhiệm vào những dấu chỉ (pokasaniiam) của những giác quan, vấn đề và những nguồn gốc của nhận thức nơi con người [3] .


Toàn bộ những nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức khởi đi từ vấn đề vận động của dấu chỉ. Dựa vào quan điểm duy vật, ông xác động tín hiệu của tín chỉ phát triển theo sự vật trong vận động của nó. Lý luận phản ánh bắt nguồn từ Mác, quan niệm "vận động của tư duy chỉ là phản ánh của vận động thực được vận chuyển vào trong bộ óc của con người." Khi đi tìm hình thái nguyên ủy của ý thức thông qua quá trình tiến hóa từ loài vượn lên loài người, rồi từ loài vượn người qua loài người khéo léo (homo habilis), chúng ta thấy hàm mặt đã thanh tú hơn và bộ óc tăng trưởng chứng tỏ sự phát triển đầu tiên của ngôn ngữ và ý thức. Dựa vào khả năng của giác quan, Trần Ðức Thảo nhận xét: Ý thức xuất hiện ở khởi đầu của sự phát triển nơi loài vượn bằng chủ quan hoá tín hiệu của dấu chỉ dưới dạng thái xác thực khả xúc của thực tại khách quan của sự vật được tri giác [4] .



Từ quan điểm của Engels: "Cũng như lịch sử tiến hóa của thai nhi trong bụng mẹ chỉ biểu hiện một sự lặp lại thu gọn lịch sử hàng triệu năm tiến hoá thể chất của tổ tiên động vật của chúng ta, bắt đầu từ loài loài sâu, sự tiến hoá trí khôn của trẻ con cũng là một sự lập lại thâu tập sự tiến hoá trí khôn của những tổ tiên này, ít ra là những tổ tiên gần dạng người" [5] toàn bộ đề cương nghiên cứu trong PMD tìm hiểu khởi sinh những cấu trúc của ý thức từ khảo sát nguồn gốc sinh vật của con người về mặt phát triển cá thể và chủng loại đối chiếu sự phát triển nơi trẻ sơ sinh với sự phát triển cơ xúc từ loài sâu đến loài vượn đến ROLC hướng đi vẫn không thay đổi.


Những tư liệu tâm lý học về trẻ em trong ROLC phần lớn dựa trên công trình của những nhà tâm lý học Liên Xô như Gvosdev, Konnikova và nhất là Piaget (người Thụy Sĩ, rất gần với quan điểm Mác-xít, như Goldman nhận định), còn những tư liệu nhân loại học trong ROLC dự trên những công trình của Iakimov, Spirkine, Kotchetkova nhằm mô tả vận động biện chứng của những dấu chỉ phát triển ở các loài vượn người và trẻ em, khởi thủy của ngôn ngữ và ý thức. Vận động của dấu chỉ về mặt duy vật biện chứng khởi sinh từ lao động tập thể thích nghi được phát triển từ trình độ vượn người. Quá trình tiến hóa từ vượn người lên loài người đánh dấu từ khi đứng và đi thẳng bằng hai chân, giải phóng bàn tay để có thể tập thói quen biết sử dụng phương tiện . Một sự phát triển như vậy giả định tín hiệu của dấu chỉ trong hình thái sơ đẳng nhất sử dụng phương tiện tập thể, đồng thời cũng đắc thủ được trong tổ chức thần kinh, giải phóng bộ óc qua những hoạt động cao cấp: ngôn ngữ và ý thức, vượt khỏi những hạn chế của hoàn cảnh.



Từ phương tiện tự nhiên, đến sửa soạn phương tiện như biết mài cạnh đá cuội, phát triển phương tiện (ở giai đoạn Kafouen và Olduvai), cho dến khi thực sự tạo ra công cụ là quả là một quá trình từ con người được thành hình (tác nhân sản xuất ra phương tiện) cho đến khi con người hoàn tất (tác nhân sản xuất ra công cụ). Khi đi phân tích tín hiệu của dấu chỉ phát triển, nơi loài người sơ khai sống thành đoàn nhóm săn bắt mồi, lấy hình ảnh người săn thấy con mồi ở phía xa và chỉ cho những nguời khác bằng một cử chỉ của bàn tay dang ra về phía trước, nơi trẻ sơ sinh 14 tháng biết ra tín hiệu bằng cử chỉ, Trần Ðức Thảo diễn tả ý chí của động tác dựa trên một ảnh tượng được phát biểu "cái này trong một vận động trong hình thái chỉ cách xa "bằng công thức CME, phát biểu một cách chung là "cái này trong một vận động trong hình thái" bằng công thức CMF, gọi là công thức của dấu chỉ phát triển bao gồm một số những khả năng tiến hóa để có thể hiểu tính đa nghĩa của tiếng dựa trên cử chỉ [6] , phân tích cho đến tận cùng, đó là toàn bộ vận động diễn đạt bằng cử chỉ, sơ bộ hay hoàn tất, tạo thành ý nghĩa của tiếng. Nhận thức được tín hiệu của dấu chỉ phát triển chỉ có được khi chủ thể có thể nói với chính nó : Khi tín hiệu được dội trở lại chính nó nơi trẻ con dưới hình thức chơi đùa, trên thực tế là những điều kiện nguyên thủy trong thực tiễn lao động tập thể.



Lao động vượn người đã trao đổi lẫn nhau cùng dấu chỉ phát triển về một đối tượng của hình thái CMF. Trong thí dụ nêu trên, khi những người săn trong nhóm trao đôåi dâáu chỉ này, nghĩa là trao đổii với nhau và với chính mình khi đồng nhất với tiếng gọi của người tiền phong, tín hiệu mới mang chính ảnh tượng nhờ đó những người săn gọi nhau theo bắt con mồi, vận động của một nhận biết như vậy tạo hình thái của cải sinh động đó như là hành vi mang ý nghĩa vật chất gọi là ý thức [7] .



Những phân tích cụ thể về biểu tượng cho thấy ý thức chân chính của sự vượt qua khi minh giải nội dung thực kỳ thành của nó, tức là cái nội dung xã hội, chứng tỏ sự hiện diện thực cùng khắp của lao động tập thể, sinh ra sự hiện diện cùng khắp lý tưởng của ý thức. Sự phát triển qua lao động tập thể do sự phát triển ra phương tiện tiến đến sự phát triển phân bố công tác trong khuôn khổ thông tin mở rộng là một bước tiến bộ trong cấu trúc ngôn ngữ. Mâu thuẫn khách quan giữa những quan hệ mới trong lao động tập thể do sự phát triển những lực lượng phương tiện và hình thái đắc thủ của ngôn ngữ tạo cho một cấu trúc ngữ học mới phát sinh.



Quan hệ song hành cơ bản của cử chỉ và tiếng tạo ra nhóm từ có tính chức năng là một bước tiến bộ nhất định trong sự tiến bộ của nhận thức. Nhóm từ về mặt chức năng xuất hiện vào cuối giai đoạn hai của loài vượn người đánh dấu hình thái ngữ học mới cho đoàn nhóm tương ứng với nhận thức của tập thể. Ở buổi đầu, ngôn ngữ của loài vượn người cũng như nơi trẻ sơ sinh còn là thứ ngôn ngữ hỗn tạp. Vượt qua giai đoạn ngôn ngữ hỗn tạp, vươn lên khỏi hình thái và sự khai sinh ra từ biểu tượng phân biệt của hình thái.



Từ có một vị thế nhất định, không còn là thứ tiếng hỗn tạp nữa. Do ước lệ xã hội, tương ứng với kinh nghiệm về nhiều mặt đối tượng vượt khỏi những khả năng trực tiếp của sự phát triển của hoàn cảnh hiện tại. Dấu chỉ của đối tượng ở đây tương ứng với lối gọi tên điển hình đánh dấu một bước mới nhất định trong sự tiến bộ của nhận thức. Cấu tạo điển hình này đánh dấu một bước đầu của lao động sản xuất nơi người khéo léo (Homo habilis). Sau giai đoạn ngôn ngữ hỗn tạp, nhóm từ được hình thành, có nghĩa là sự biện biệt hóa chủ từ kéo theo sự xuất hiện những câu được phát biểu đúng nghĩa với những quan hệ giữa chủ từ và động từ. Ðộng từ chỉ xuất hiện sau cùng, tiếp nối túc từ ở trẻ con đã được 23 tháng (nơi quá trình lịch sử con người sau thời đại Prehominien) [8] .



Trong Tiết III của phần hai nghiên cứu về ngôn ngữ hỗn tạp, dưới tiểu đề "tổ biện chứng nhận thức" (l'alvéole de la dialectique de la connaissance), Trần Ðức Thảo muốn chỉ ra rằng từ quá trình tìm hiểu ý nghĩa hỗn tạp của dấu chỉ đã cho thấy những mầm mống của mỗi thành tố biện chứng của nhận thức như một tái sản xuất lý tưởng cải biến chung của sự vật. Những mâu thuẫn của biến chứng sự vật ở trạng thái tiềm ẩn đã tuần tự xuất hiện trong sự phát triển của thực tiễn xã hội, tạo thành những hình thái mới của ngôn ngữ và ý thức, ở đó cấu trúc ngữ nghĩa nguyên ủy làm cho những tác động ngữ học được phong phú lên dựa trên mô hình của sinh hoạt vật chất và những tương giao vật chất giữa những người lao động, và khi diễn đạt tượng trưng bằng lời đã tạo thành một hình ảnh càng lớn và rõ hơn về ngoại giới.



Ở vào kỷ thứ ba và thứ tư, tín hiệu của dấu chỉ phát triển tương ứng với sự phát triển của lao động thích nghi đơn giản, nghĩa là biết sử dụng phương tiện tự nhiên và phương tiện được sửa soạn trở thành ứng xử bình thường nhờ ở bàn tay được giải phóng. Sự nhảy vọt từ phát triển về lượng sang phát triển về chất với sự trao đổi những thông tin trong đoàn nhóm, trong sự hợp tác lao động tập thể khi đã có dấu chỉ biểu tượng về "cái này"' vắng mặt, khi đã vượt qua được mâu thuẫn giữa đối tượng và vận động trong hình thái sơ đẳng nhất, nghĩa là khi đối tượng biến khỏi trường tri giác hiện tại. Bước tiến bộ về chất này trong sự phát triển của ngôn ngữ và ý thức lần đầu tiên đã cho phép chủ thể vượt qua một cách lý tưởng những hạn chế chật hẹp của dữ kiên hiện tại, chính là giải phóng được bộ óc.


Ở giai đoạn Kafouen (thời đầu kỷ Pleistocene thứ cấp) con người biết sửa soạn phương tiện bằng sự điều động trực tiếp chất liệu với sự phát triển lao động nhờ một phương tiện thứ hai (dùng hai hòn cuội, một là đối tượng lao động, một là phương tiện lao động). Sử dụng phương tiện phát triển làm cho đoàn nhóm phân biệt thành những đôi đắc thủ, tạo cho lao động thành hình thái lao động thích nghi phức tạp. Những mâu thuẫn mới lại xuất hiện ở trình độ hoạt động và những tương giao vật chất giữa những người lao động, được phản ánh trong ngôn ngữ bằng một loạt những ngộ nhận, như khi một tiếng được dùng để chỉ vận động của một đối tượng nhất định nơi người này đối với người nghe lại biểu tượng vận động này trên một đối tượng khác. Mâu thuẫn ấy chỉ được giải đáp trong hình thành nhóm từ có chức năng sơ đẵng.


Với một cấu trúc mới của ngôn ngữ và ý thức lao động triển khai dựa trên một ảnh tượng điển hình lý tưởng của hình thái phương tiện mang một cách thế chung cho mỗi người lao động. Tác động ngữ học mới chỉ định hình thái của hành vi lao động, mà nhận thức làm xuất hiện kỹ thuật sản xuất, ở đó sự thực hiện chính xác ảnh tượng điển hình của hình thái phương tiện được đảm bảo trong sự xác định có ý thức về những vận động của sự điều động chất liệu, như Mác nhận định:

"Con vật chỉ là một với hoạt động sống. Nó không tách rời mà chính là hoạt động sống này. Con người làm cho hoạt động sống thành đối tượng của ý chí và ý thức của con người. Con người có một hoạt động sống có ý thức. Ðó không phải là một xác định đơn giản mà con người nhập vào một cách trực tiếp. Hoạt động sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sống thú vật. Con người một cách minh thị ở đó hiện hữu như một chủng loại" [9]



Chính qua đắc thủ và nhận thức được tín hiệu dấu chỉ của hình thái vận động trên đối tượng mà hoạt động sống có ý thức là một lao động sản xuất. Khi lao động đã hoàn toàn thuộc về con người, đó là lúc loài người Homo xuất hiện. Tuy vậy sự sản xuất vào thời kỳ này vẫn còn ấu trĩ vì hạn chế trong phần hữu dụng của phương tiện. Khi con người sản xuất ra công cụ, nghĩa là chế tạo toàn bộ chất liệu theo một hình thái điển hình toàn diện, phác họa từ trong đầu một kế hoạch hoạt động, đó là lúc người lao động có thể chỉ định cho chính mình một loạt những khai triển hình thái điển hình nhất định, ngôn ngữ đã có sự phân biệt động từ. Từ sản xuất ra phương tiện ở vào lúc nhân loại ví như một thai nhi ở giai đoạn cuối hình thành, cho nên Engels gọi là con người đang hình thành (der werdende Mensch), sang đến giai đoạn sản xuất ra công cụ, hàm ngụ sự cấu thành nhóm từ trong ngôn ngữ thực hiện đồng thời với biện chứng nguyên ủy của lực lượng và quan hệ sản xuất trong sự phát triển từ con người khéo léo sang con người lao động (Homo faber), con người đã hoàn toàn là người (der fertige Mensch).



Loài người lúc đó như rời khỏi bụng mẹ thiên nhiên để bước sang một thế giới mới, thế giới văn hóa. Con người đi từ lao động nguyên thủy (Homo faber primigenius) đến con người hiện tại, có lao động trí thức (Homo faber sapiens). Từ công thức cơ bản CMF biểu hiện công thức của dấu chỉ phát triển, Trần Ðức Thảo đã chịu ảnh hưởng của cấu trúc luận không phải như một hệ thống mà như một phương pháp để nghiên cứu quá trình biến chuyển của những tín hiệu biểu tượng tới sự hình thành nhóm từ chức năng của ngôn ngữ, nhưng ông xác định là chưa bàn tới hình thành nhóm từ đúng nghĩa, kế tiếp giai đoạn ngôn ngữ hỗn tạp. Tác phẩm ROLC vẫn chỉ là một công trình khởi thảo chưa hoàn tất.



Phân tâm học và chủ nghĩa Mác Phân tâm học là một trong những nguồn tư tưởng lớn ảnh hưởng đến sinh hoạt trí thức nói chung của thế kỷ. Cùng với cấu trúc luận, phân tâm học trở lại sinh động sau biến động 68 ở châu Âu và là đối tượng phê phán của người Mácxit. Cho nên trong phần thứ ba của tập Nghiên cứu, Trần Ðức Thảo đã dành gần một trăm trang để đối chiếu "chủ nghĩa Mác và phân tâm học" với mục đích khai phá "hạt nhân hợp lý" trong những quan sát khoa học thành tựu của phân tâm học. Ông khẳng định:
"Chỉ có chủ nghĩa duy vật lịch sử khi phát triển lý luận về những hình thái lịch sử xã hội của cá thể, mới lý giải đứng đắn chất liệu phong phú của những dữ kiện khách quan mà phân tâm học tích lũy được" [10]



Khác với những người Mácxit giáo điều, Trần Ðức Thảo cũng như một số ít người Mácxit khác nhìn nhận mối quan hệ và kế thừa những thành quả khoa học của cấu trúc luận và phân tâm học. Mục tiêu nghiên cứu như đề ra trong tiểu đề là "những nguồn gốc của khủng hoảng Oedipe". Mặc cảm Oedipe như André Green đã chỉ ra là một "định tố sơ cấp" mặc dầu gắn liền với những hình thái xã hội của mọi thời đại, nhưng độc lập với tính lịch sử này. Mặc khác Oedipe như Moustafa Safouan xác định:
"Oedipe không phải là huyền thoại... mà là một cấu trúc theo đó dục vọng sắp đặt thế nào để cấu thành một hiệu quả trong quan hệ của tồn tại của con người, không phải với tính xã hội nhưng với ngôn ngữ" [11] .



Tuy không đồng quan điểm với những nhà phân tâm học coi mặc cảm Oedipe là phổ quát định vị dục vọng, nhưng Trần Ðức Thảo cũng khởi đi từ ý hướng tìm hiểu Oedipe trong vận động của ngôn ngữ. Ông cũng không phủ nhận mặc cảm Oedipe như Deleuze và Guattari [12] và nghiên cứu về khủng hoảng Oedipe đóng góp vào cuộc tranh luận diễn ra trong thời điểm cấu trúc luận này. Quan điểm của ông cũng gần với André Green khi chú trọng đến phương thức cơ bản của mặc cảm Oedipe trong mối quan hệ với người sản xuất. Trong khi phân tâm học quan niệm mặc cảm Oedipe là phổ quát. Nghĩa là con người sinh ra mang một mặc cảm huyết tộc diễn ra trong mối quan hệ tam giác xung đột (cha - mẹ - tôi), Trần Ðức Thảo nhận định cấu trúc Oedipe không phải là một dữ kiện trực tiếp mà cấu thành như hậu quả của toàn sự phát triển. Ngay chính Freud cũng nhìn nhận ở con gái, mặc cảm Oedipe chỉ là hình thái thứ yếu.



Như vậy, trước khi có mặc cảm Oedipe, phải xét đến nguồn gốc của giai đoạn tiền Oedipe, mối liên lạc xã hội đầu tiên của con người. Sự phát triển lao động theo Engels thiết yếu đã góp phần vào việc xiết chặt những dây liên lạc giữa những thành viên của xã hội, khi gia tăng những hỗ trợ lẫn nhau, hợp tác chung và khiến cho mọi thành viên ý thức được tiện lợi của sự hợp tác này. Ở khởi điểm nguồn gốc gia dình, lực lượng thống nhất và hoạt động tập thể của đoàn nhóm đã thấy khả năng tự vệ không đầy đủ của cá nhân. Thực tiễn lao động tập thể đã đưa đoàn nhóm nguyên thủy này thủ tiêu "tính cá nhân thú vật" trong tập thể thú vật này để bước sang xã hội người, cũng như trấn áp được tính ghen tuông tìm thấy nơi động vật. Theo Lenin, đây là một bước quyết định của "công xã nguyên thủy" trong quá độ từ tự nhiên lên văn hóa. Như vậy khởi sinh của khủng hoảng Oedipe bắt nguồn từ chỗ nào? Khủng hoảng này hàm ngụ hình thái đối lập của một sự xung đột dữ dội giữa những thế hệ, nghĩa là những người con bị dồn ép trong dục vọng bị cấm đoán hướng về những người mẹ và đương đầu một cách phạm tội đối với những mgười cha. Sự ghen tuông chỉ có thể xảy ra trên một cơ sở xã hội.



Tuy nhiên, trước hết phải xét đến "bi kịch của người đàn bà về mặt sinh vật" tạo ra những điều kiện của một bi kịch xã hội thực. Ðó là giai đoạn từ thời đồ đá cũ thứ cấp, khi con người đã trở nên con người lao động nguyên thủy: người đàn bà đã ở dạng đứng thẳng, chuyển động bước đi bằng hai chân đã phát triển, cấu tạo hông điều chỉnh lại khiến cho số tử vong vì tai nạn mang thai và sinh đẻ tăng lên khiến số đàn bà ít hơn đàn ông. Dựa vào tư liệu của Nemilov [13] , ở thời Mousterien, tuổi tối đa của đàn bà là 30 trong khi đàn ông sống tới 45 và đàn bà lấy chồng vào tuổi 15 đến 30. Như vậy, quan hệ hôn nhân trai gái trong thời đại này tương ứng theo biểu đồ: về phía nữ, thời con gái bắt đầu từ 0 đến 14 và thời làm mẹ từ 14 đến 30, về phía nam, thời làm con từ 15 đến 29 và làm cha từ 29 đến 45. Mối tương giao tam giác Oedipe như phân tâm học chỉ ra chỉ có ý nghĩa về mặt vận động ngôn ngữ, và cái loạn luân Oedipe về mặt thực tiễn không thể nào xảy ra vì hầu như những con trai bao giờ cũng là những đứa trẻ mồ côi mẹ trước khi đến tuổi dậy thì; nói khác đi cái quan hệ tam giác cha/mẹ/tôi không có gì chung với những quan hệ thân tộc thực, nó chỉ diễn đạt sự mâu thuẫn của những quan hệ xã hội bị chế tài bởi ngôn ngữ [14] . Sau hàng triệu năm phát triển ngôn ngữ và ý thức trong vận chuyển của lao động và những quan hệ xã hội, con người hình thành đắc thủ được những tập quán hợp nhất và đoàn kết, giải phóng lao động sản xuất khỏi quy luật động vật để tạo ra những quan hệ xã hội mới.



Cùng với sự tiến hóa tận cùng của con người Homo habilis, với bi kịch sinh đẻ, người đàn bà không còn theo đàn ông đi săn nữa mà trông nom con cái, cùng với nhóm đàn ông ở nhà để bảo vệ chống thú dữ. Thành ra lần đầu tiên có một sự phân công lao động với sự xa cách nhất thời giữa hai đoàn nhóm. Người đàn bà ở nhà làm nội trợ và những nhân tố đầu tiên của những lực lượng sản xuất công cụ đòi hỏi tiêu thủ tính cá nhân thú vật; chúng ta có thể coi toàn bộ vận động này như sự khai mào quy luật cơ bản của toàn xã hội con người: quy luật tương ứng tất yếu giữa những lực lượng sản xuất và những quan hệ sản xuất.



Con người đã biết sử dụng lửa và những dụng cụ nhỏ tạo thành công nghiệp gia đình đòi hỏi phần vụ đặc biệt của người đàn bà, không thích hợp với những phong tục phóng túng của truyền thống trong cộng đồng nguyên thủy. Do đó có một mâu thuẫn sâu sắc giữa tất yếu xã hội đình hoãn mọi quan hệ tình dục với những đàn bà lo công tác lao động nội trợ tập thể với tự do phóng túng về quan hệ tình dục. Những điều kiện sử dụng lửa nơi người thời Acheuléen chưa biết cách tạo ra lửa theo ý muốn đòi hỏi một trong những nhiệm vụ chính của đàn bà là lo canh gác lửa, tạo ra một cấm đoán tình dục, dưới hình thức cấm tuyệt đối đàn ông giao tình với đàn bà, và khi phạm lỗi có thể bị thẩy vào lửa, tạo ra nghi lễ ăn thịt người, và có thể là khởi đầu của mọi nghi lễ hy sinh của tôn giáo.



Cũng chính ở nơi người thời Acheuléen này khởi sinh ảo tưởng của người đàn bà có dương vật (giữ một vai trò đáng kể trong lý luận phân tâm học về mặc cảm Oedipe). Theo Freud, giai đoạn Oedipe nơi trẻ con tương con tương ứng với "sự cấu tạo dương vật" phát triển ở cả hai phái với sự tin tưởng tiền định là mọi người, đàn bà cũng như đàn ông đều có cơ quan sinh dục đàn ông: "Giai đoạn dương vật này đồng thời cũng là giai đoạn của mặc cảm Oedipe" [15] . Tuy nhiên, theo Trần Ðức Thảo, giai đoạn dương vật bắt đầu sớm hơn. Ông đặt bước khởi đầu ảo tưởng của đàn bà có dương vật trong sự phát triển của đứa trẻ ba tuổi tương ứng với người Acheuléen về mặt phát sinh chủng loại. Người đàn bà Acheuléen mang dương vật giả trong khi lo phụng vụ lửa tập thể với nghĩa: "Người đàn bà này, trong khi thi hành nhiệm vụ xã hội phải được kính nể như một người đàn ông" [16] nhằm ngăn cản công việc yêu đương.



Tín hiệu của người đàn bà mang dương vật có lẽ được khái quát suốt từ thời tiền và hậu Acheuléen, tăng cường sự tuân thủ cấm đoán tình dục với người nội trợ, ổn định phân công lao động giữa hai phái, khiến lực lượng lao động tiến bộ. Tuy nhiên sự phát triển sản xuất tạo ra những quan hệ mới, dẫn đến những xung đột mới. Khi sử dụng lửa đã tiến tới cá nhân hóa, công việc nội trợ tập thể trở thành nội trợ lứa đôi, như với biểu đồ hôn nhân đã đề cập nơi trên, thiết yếu dẫn tới sự cấm đoán quan hệ tình dục cho tất cả thế hệ trẻ nam, tạo cho thế hệ cha ưu thế và thế hệ con bị dồn ép:
"Trong ngôn ngữ của đời sống thực dựa trên mẫu bi kịch xã hội này, những tác động ngữ học mới đem lại cho những từ cha, mẹ, con đã hình thành trong thời kỳ trước một nội dung ngữ nghĩa mâu thuẫn" [17] .




Ở thời kỳ đồ đá cũ, quan hệ giữa người mẹ thực hay những người đàn bà đồng lứa với con trai là quan hệ dưỡng dục, còn ở thời kỳ mà tín hiệu dương vật người đàn bà mang trong công việc nội trợ nhằm tiêu diệt mọi hàm ngụ tình dục trong quan hệ. Những người thanh niên ở tuổi dậy thì đã mất những người mẹ thực, bắt buộc có quan hệ này với những người đàn bà cùng trang lứa mà y phải coi là mẹ, vì họ lấy cha và chính y sẽ lấy một trong những người con gái của họ. Cho nên nội dung ngữ nghĩa nguyên thủy của Mẹ coi như "mẹ nuôi dưỡng giúp đỡ và mang dương vật", còn mang ý nghĩa mâu thuẫn là "me, đối tượng của dục vọng", cũng như "người cha dưỡng dục" còn mang ý nghĩa mâu thuẫn là "cha, đối thủ với con trai".



Trong những cộng đồng ở thời đồ đá cũ cao cấp, nhóm người lớn tuổi mặc dù là thiểu số tạo thành một tầng lớp xã hội đặc biệt, nhờ kinh nghiệm tạo những tiến bộ kỹ thuật về công nghệ đánh dấu sự xuất hiện của con người lao động trí thức. Có thể chính tầng lớp này nắm quyền xã hội và nguồn gốc của tục cắt da qui đầu thực hiện trong những lễ nghi dẫn vào tuổi dậy thì bắt đầu từ thời kỳ này, nhằm bắt trẻ dậy thì từ bỏ dục vọng tình dục cho đến tuổi được kết hôn. Ðiều này tương ứng với những mặc cảm thiến hoạn nơi trẻ con năm tuổi. Biểu tượng thiến hoạn nhằm củng cố quyền lực của người lớn tuổi cũng thủ tiêu tín hiệu tạo ra ý nghĩa cơ bản của mặc cảm này nơi ảo tưởng của đàn bà có dương vật. Biểu tượng này thể hiện trong những nghi lễ phá trinh những cô gái, không phải chỉ chọc thủng màng trinh, còn cắt tiểu âm thần và đôi khi cắt cả mồng đóc. Vào thời đại này, tuổi thọ đã tăng và do sự bất quân bình giữa hai phái, những người đàn ông góa lớn tuổi có quyền ưu tiên cưới những cô gái đến tuổi lấy chồng. Ðó là lý do tầng lớp người già dùng sự thiến hoạn tượng trưng để củng cố quyền hạn trong hôn nhân, khiến những thiếu nữ phải lấy chồng vào tuổi lứa tuổi cha họ.



Ðiều này có thể giải thích luận điểm của Freud là: trong khi mặc cảm Oedipe nơi con trai lặn đi dưới mặc cảm thiến hoạn , lại có khả năng diễn ra do mặc cảm thiến hoạn nơi con gái. Freud coi sự khác biệt này là một hệ quả tự nhiên của sự phân biệt cơ quan sinh dục và hoàn cảnh tâm linh; Trần Đức Thảo quan niệm sự khác biệt này chủ yếu có nguồn gốc xã hội. Trong điều kiện người già thống trị, những người "cha" lợi dụng để lập chế độ đa thê, cưới những cô gái trẻ làm vợ thứ, và kết qủa là trong những gia đình đa thê, người chồng và người vợ đầu ở tuổi cha mẹ của những người vợ mới, và người này dễ dàng trở nên ghen với "mẹ" cùng chung chồng, ở vào địa vị người "cha" của mình. Trần Đức Thảo nhìn nhận mặc cảm Oedipe được cấu thành, trong những điều kiện của thời đồ đá cũ cao cấp này, mặc cảm Oedipe nơi phái nữ có thể coi như sự hình thành cuối cùng có tính cơ tâm linh phản ứng một cách tiền định trong thời tiền sử âú trĩ. Sự cắt da qui đầu là tín hiệu cấm đoán loạn luân giữa "con trai" với "mẹ" nhưng mở đường cho sự loạn luân giữa "cha" và "con gái". Sự loạn luân, nói chung chỉ bị cấm đoán khi xã hội có lệ ngoại hôn.




Ở những xã hội ngoại hôn này, cắt da qui đầu mang ý nghĩa một sự cấm đoán toàn diện về loạn luân. Ðó là thời đồ đá trung, bi kịch sinh vật nơi người đàn bà đã kết thúc, chấm dứt tiến hoá sinh vật - xã hội với thiết lập chế độ ngoại hôn như bước đầu của lịch sử xã hội. Khi cấu trúc kết hôn ngoại tộc đã hình thành cấu trúc thực sự của những quan hệ tình dục của con người thì mặc cảm thiến hoạn thì không còn tuyệt đối giữ vai trò cấu trúc hóa của những cơ quan hệ tình dục nơi con người nữa. Những hình thái tâm linh liên hệ đến mặc cảm Oedipe chỉ là những hình thái ngữ nghĩa từ nguyên ủy ở trong thời tiền sử của nhân loại do vận động vật chất của dấu chỉ bằng cử chỉ và bằng lời đựơc tạo theo khuôn khổ của biện chứng sinh vật-xã hội trong thời kỳ khởi sinh của nhân loại. Những vận động cơ bản của khởi sinh nhân loại bao gồm sự phát triển lao động, ngôn ngữ và ý thức và những quan hệ xã hội, do đó khủng hoản Oedipe trong những quan hệ hôn nhân, ngôn ngữ và ý thức chỉ là biến trạng của sự phát triển, tuyệt đối không phải là một "giai đoạn tất yếu" trong sự phát triển của loài người Homo [18] .




Trần Đức Thảo nhận định phân tâm học có tác dụng chữa bệnh vì tâm bệnh biểu hiện nơi mặc cảm Oedipe là một bệnh của ngôn ngữ, do đó có khả năng của một sự điều trị bằng chính ngôn ngữ. Tuy nhiên lý luận phân tâm học chỉ mang những khái niệm chung có tính miêu tả, gồm một số chất liệu phong phú những sự kiện cụ thể, nhưng không có khả năng lãnh hội chung trong những xác định cụ thể và chỉ có chủ nghĩa duy vật lịch sử mới có những khái niệm khoa học thiết yếu để đi sâu vào nội dung nhất định của những hiện tượng tâm linh và đem lại một lý giải rõ ràng. Từ quan điểm này, xung động Oedipe mang mâu thuẫn biện chứng được xác định qua lịch sử giữa hai quy luật: quy luật nguyên thủy của cộng đồng đàn bà bảo đảm sự thống nhất và liên đới tất yếu trong khởi đầu sản xuất ra công cũ và qui luật mới của hôn nhân lứa đôi đề ra trong sự tiến bộ của những lực lượng sản xuất, nhất là sự phát triển công nghệ gia đình ở thời Mousterien [19] .



Mâu thuẫn của hai quy luật này mang hình ảnh của một sự xung đột sâu sắc giữa các thế hệ, biểu hiện bi kịch xã hội diễn ra trong bi kịch tâm 1ý trẻ con và người bị loạn thần kinh. Sự phát triển nhân cách theo Trần Đức Thảo không thông qua mặc cảm Oedipe vì từ ba tuổi, đứa trẻ trải qua hai con đường: mối liên hệ đồng nhất không đối nghịch với cha mẹ xảy ra vào hai tuổi và dục vọng ghen tị chỉ bắt đầu vào ba tuổi, nhưng chỉ có con đường thứ nhâát mới có một tương lai thực và hoàn tất một cách hưũ hiệu chuyển biến của con người.



Con đường dục vọng chỉ là một biến thể, xác định với mặc cảm thiến hoạn, giảm trừ Oedipe vào hiện hữu ngầm của vô thức: vô thức trong nội dung Oedipe chỉ là tồn tại của một ngôn ngữ bị bóp méo ngay tự nguồn. Tóm lại, mặc cảm Oedipe ở bất cứ cấp độ nào cũng không thấy ở nguồn gốc của bản ngã trẻ con; nó đối lập ngay từ đầu với cấu trúc sâu sắc nhất của hiện hữu cá nhân, và như vậy mở đường cho bêänh loạn thần kinh phá hũy bản ngã. Nó là ngôn ngữ tha hóa, bị bủa vây trong bất lực để khuấy động triền miên trong sự bế tắc khủng hoảng của những giấc mộng và ác mộng, ám ảnh và ảo ảnh [20] . Người Mácxít Việt Nam duy nhất Qua hai tác phẩm chính PMD và ROLC của Trần Đức Thảo, lý thuyết nhất quán xuyên suốt là quy luật tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xác định sự chuyển biến của lịch sử con người. Khi đọc Husserl qua Ideen II, Trần Đức Thảo đã chú ý đến thái độ nhân chủ (l'attitude personnaliste) trong tư tưởng của Husserl xác định thế giới của tinh thần (le monde de l'esprit) được biểu trưng như một thái độ thực tiễn, trong đó cái hiện thực chỉ có ý nghĩa trong những mối liên hệ chủ thể cụ thể, trong đời sống kỳ thành [21] .



Trên con đường từ hiện tượng luận qua chủ nghĩa Mác,Trần Đức Thảo khẳng định cơ sở thực của"thế giới tinh thần" được thể hiện nơi vận động của giai cấp vô sản nhằm thủ tiêu mọi cấu trúc giai cấp, ở đó lịch sử không còn là lịch sử của những giai cấp lãnh đạo nữa, mà là lịch sử của lao động sản xuất và những quan hệ của con người [22] . Từ khái niệm ý thức là"vận động của vật chất" của Engels, ông đã lập lại quan điểm của Marx là không có ý thức tự tại, mà chỉ có ý thức dựa trên lý giải về "những mâu thuẫn của đời sống vật chất" - sự xung đột giữa những lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất hiện hữu [23] .



Ở tác phẩm sau ROLC, Trần Đức Thảo lại xác định, từ sự thống nhất đẹp đẽ ở buổi đầu cộng đồng con người nguyên thủy đã tự hủy diệt để nhường chỗ cho cuộc vận động nghịch lý trường kỳ, ở đó sự phát triển của bản chất xã hội của con người xây dựng trên sự tiến bộ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện trong hình thái nghịch đảo của hủy thể như thể sự tha hóa của chính con người chỉ kết thúc bằng cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tân tiến, như hủy thể của hủy thể mới cho phép phát triển toàn diện mọi kế thừa tích cực của sự phát triển lịch sử [24] .



Trong một viễn tượng lịch sử như vậy, ông cần phải nại tới khái niệm cơ bản của triết học Hegel, mà chủ nghĩa Mác kế thừa là khái niệm về toàn thể. Cho nên trong những dòng kết thúc "Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng" Trần Đức Thảo phát biểu "chủ nghĩa Mác là vận động kỳ thành của xã hội." Không có chuyển biến tư tưởng nơi Trần Đức Thảo từ PMD qua ROLC, như những kết luận đã dẫn nói trên trong những nghiên cứu của ông. Trần Đức Thảo vẫn vận dụng khái niệm then chốt Aufhebung trong biện chứng của Hegel để giải đáp những vấn đề căn bản đặt ra trong những tác phẩm của ông. Về điểm này, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc những bài học của Kojève từ trường Cao Ðẳng Sư Phạm. Mặt khác, một nhà tâm lý cũng dựa trên khái niệm Aufhebung để giải quyết những vấn đề trí thức là J. Piaget [25] ; điều này giải thích lý do Trần Đức Thảo rất tin cậy vào những phát hiện và tư liệu tâm lý của Piaget qua hai tác phẩm.




Trong mười mấy năm, khoảng cách nghiên cứu giữa hai cuốn sách, ông vẫn suy nghĩ về những vấn đề đặt ra trong tư tưởng Hegel, tập trung trong tác phẩm "Hiện tượng luận về tinh thần". Sự khác biệt giữa hai cuốn sách là, trong hoàn cảnh xã hội ông sống, Trần Đức Thảo phải trở thành một người Mácxít-Lêninít. Cho nên, trong ROLC ông dẫn nhiều đến Lenin như một điểm dựa về mặt quan điểm. Nhưng đọc Hegel, ông vẫn đặt trong khung cảnh trí thức, bắt nguồn từ Kojève, Hyppolite và Merleau-Ponty.



Những suy tư của ông cũng biến ứng theo những trào lưu tư tưởng thế giới từ hiện tượng luận, phân tâm học qua cấu trúc luận. Tuy không có khuynh hướng chiết trung, nhưng những vấn đề đương đầu với thực tại tư tưởng mang những sắc thái của chủ nghĩa Mác hiện tượng luận, chủ nghĩa Mác theo Hegel, chủ nghĩa Mác cấu trúc luận như những người Mácxít khác: Habermas, Enzo Paci [26] . Khi phê phán những dòng triết lý tác động sâu xa vào cuộc sống xã hội, Trần Đức Thảo cũng cực đoan như những người Lêninit dồn mọi đối thủ vào một cương tuyến của chủ nghĩa phi lý toàn diện [27] .




Phê phán những vấn đề quan điểm của Trần Đức Thảo phải đặt trong viễn tượng chung là phê phán từ căn để chủ nghĩa Mác, đó là điều tôi sẽ trình bày ở nơi khác trên một bình diện rộng lớn hơn [28] . Khi phê phán hiện tượng luận của Husserl, ông vẫn dựa vào phương pháp phân tích hiện tượng luận để đi tìm cái nguyên ủy của thực tại để chỉ ra rằng học thuyết của Husserl về sự vật thiếu hẳn sự cấu thành sự vật không thể giảm trừ vào ý tưởng hóa trong ý thức. Ði tìm đến nguồn gốc của ý thức, ông muốn dựa trên một khởi điểm duy vật là thực tại và tin tưởng vào phương pháp biện chứng, xa lạ với hiện tượng luận của Husserl, để tìm hiểu sâu xa về vận động thực. Ông đã không nhìn ra trong nỗ lực trí thức của Husserl đã muốn vượt lên trên mâu thuẫn của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.



Mặt khác trong tác phẩm ROLC, ông vẫn không vượt ra khỏi tầm nhìn của phương pháp hiện tượng luận trong việc sử dụng lý luận giảm trừ trong những mô tả về tác động của dấu chỉ. Ði tìm nguồn gốc của ngôn ngữ, khởi điểm cấu trúc luận đã bắt đầu sâu xa từ những người tiền khu như Herder. Trong "Luận về nguồn gốc của ngôn ngữ" [29] , Herder đã đưa ra một luận điểm cơ bản: con người là vật tạo ra của ngôn ngữ. Trần Đức Thảo đã tiếp thu những bài học của cấu trúc luận, ngay cả trên những chứng bệnh giả khoa học như xu hướng công thức hóa, định lượng hoá tìm thấy trong học thuyết của Lévi-Strauss [30] . Lấy một thí dụ trong ROLC: từ công thức CMF đã nói ở trên, mà Trần Đức Thảo gọi là công thức ngữ nghĩa, đôi khi còn gọi là cấu trúc, ông đặt thành một "tổ hợp" dưới hình thái:
MFC - CF1 M (12)
được phát biểu là: "vận động trong hình thái (F) liên hệ đến cái này - cái này trong hình thái (F1) như thể nó xuất hiện trong vận động của nó (giả định)".



Mượn từ kho tư liệu tâm lý của Gvosdev, lấy thí dụ của đứa trẻ 20 tháng đòi sữa: "ico maka" (tạm diễn tả sang tiếng của trẻ con Việt là: măm sữa). Những từ hỗn tạp này như từ ico ở đấy chỉ một sự vận động thèm muốn trong hình thái muốn thêm liên quan đến "cái này", maka chỉ thị "cái này" trong hình thức bú. Như vậy chúng ta có một ý chỉ toàn diện là: "Vận động trong hình thái thêm (A) liên hệ đến cái này - cái này trong hình thái bú (B) như thể nó xuất hiện trong trong vận động của nó (giả định)", đặt thành công thức là MAC - CBM, phù hợp với công thức (12). Người ta thấy ngay là những tác động dấu chỉ khai triển đã hàm ngụ hai từ và cho chúng ý nghĩa, nó sinh ra một liên lạc đồng nhất thời khoảng của "cái này" trên ảnh tượng có ý nghĩa đầu với cùng thời khoảng trên ảnh tượng thứ hai. Bởi vì tác động lấy trên khuôn mẫu từ hoàn cảnh thực, và thực sự chỉ cùng một "cái này". Hiển nhiên có thể đặt liên lạc thiết lập giữa hai ý chỉ, được viết thành công thức:
MAC- ( CBM )



phát biểu như sau: "Vận động trong hình thái liên hệ cái này, có nghĩa là đối tượng - sữa (CBM)". Nếu chuyển cái liên lạc ở đây trên bình diện dùng cử chỉ sang bình diện phát biểu bằng lời, chúng ta sẽ có liên lạc phát biểu đúng cú pháp là: "muốn bú sữa thêm" [31] . Trong suốt phần hai: khai sinh ra ngôn ngữ, Trần Đức Thảo đã sử dụng những tổ hợp cấu trúc khác nhau như vậy nhằm phân tích "cấu trúc khách quan" của tác động, qua những tiếng hỗn tạp cho đến khi hình thành những nhóm từ chức năng, nghĩa là những câu đúng cú pháp (như thí dụ dẫn trên). Khi dùng những "công thức" như trên, ông muốn chứng tỏ cái liên hệ giữa vận động bằng lời và vận động bằng cử chỉ, mà theo ông, toàn bộ vận động cử chỉ tạo thành cơ sở cho ngôn ngữ. Dùng những ký hiệu riêng trong mối quan hệ tác động qua lại giữa những công thức, không dựa vào luận lý hình thức hay toán học, hay vận dụng từ ngôn ngữ hình học, hoặc đại số học - công thức hóa trong lý luận của ông giống như những loại công thức hóa của nhiều nhà cấu trúc luận không có tính thuyết phục, cũng không có cơ sở để tồn tại.



Hấp thụ giáo dục truyền thống triết lý Pháp, Trần Ðức Thảo vẫn hướng về một viễn tượng đạo lý, ở PMD là "tái thiết lập nội dung công chính" những giá trị con người "trên một bình diện cao hơn của nhân loại mới". Ở ROLC là những quan hệ liên chủ thể (rapports intersubjecticfs) biểu hiện nơi khai sinh ra nhân cách con người ở buổi đầu nhân loại, "cái cử chỉ trỏ ngón tay về người đối diện", và "trở lại chính mình" là hình ảnh qua lại giữa "anh" và "tôi", chính cái ngôn ngữ đầu có tính cách riêng của con người khi phản ánh trong ngôn ngữ nội tâm của ý thức đã đưa chủ thể lên hình thái lý tưởng của hiện hữu riêng của người" [32] .



Tuy nhiên, riêng về phần đời của ông, sự xuất hiện trên diễn đàn tư tưởng Pháp cũng là một cơ hội để những bản viết của ông không phải mang số phận làm những di cảo. Nhưng do hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, ông đã trở thành người lạc hậu trong sinh hoạt tư tưởng sau này. Khi ông mất, nhiều tác giả Pháp đã nói đến hoàn cảnh của ông, như trong quyển của F. Dosse (Paul Ricoeur, Les sens d'une vie), J.-F. Revel (Mémoires). Dầu sao, cái chết của Trần Ðức Thảo (1917 -1993) cũng là cái chết một người Mácxit duy nhất của Việt Nam.



[1]Trần Ðức Thảo, Recherches sur l'origine du language et de la conscience, Editions Sociales, 1973. [2]ROLC, tr, 35[3]Khi dẫn đoạn văn của Lênin trong "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", Trần Ðức Thảo nhấn mạnh ở từ "những dấu chỉ", và ghi chú bản dịch tiếng Pháp lần thứ tư của Editions Sociales đã từng dùng từ chứng cớ (témoignage) thay từ những dấu chỉ (les indications), cho nên ông đã chua thêm tiếng Nga pokasaniiam ở nguyên tác. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên chú ý là những bản dịch chính thức của nhà xuất bản ngoại văn Liên Xô đều dùng từ chứng cớ.
Xem bản tiếng Anh: Acceptance or rejection of the concept matter is a question of the confidence man places in the evidence of this sense organs, a question of the source of our knowledge (Materialism and Empirio-criticism, tr. 114), bản tiếng Tây ban nha : El admitir o rechazar el concepto de materia es un problema de confianza del hombre en el testimonio de sus órganos de los sentidos, es la cuestión del origin de nuestro conscimiento (Obras escogidas. Tomo IV, tr 119)[4]ROLC, tr 76[5]Engels, Dialectique de la nature, Editions Sociales 1971, tr 180[6]ROLC, tr. 96 bắt nguồn từ khái niệm "xác thực khả xúc" của Hegel trong Hiện tượng luận về tinh thần, hình thái nguyên uỷ của ý thức, hay mục tiêu định hướng của "cái này".[7]X.ROLC, tr. 123.[8]X.ROLC, tr. 123[9]Marx, Manuscrits de 1884, ES tr. 63[10]ROLC, tr. 257[11]Moustafa Safouan, De la structure en psychanalyse in Qu'est ce que le strucuralisme?, Editions du Seuil 1968, tr. 241[12]Deleuze và Guattari, L'Anti-Oedipe, Editions de Minuit 1972; X. phê phán tác phẩm này trong Ðặng Phùng Quân, Triết học và văn chương, NxB Lửa Thiêng 1974 tr. 181 - 197.[13]ROLC, tr. 263 - 265[14]Sđd, tr. 268 - 269[15]Freud, La vie sexuelle, P.U.F., tr. 118 [16]ROLC, tr. 297. Trần Ðức Thảo dẫn chứng Forrer đã phát hiện trong di tích thời Acheuleen ở Burbach, những nửa mảnh răng tiền hàm loài trâu nước có hình dạng dương vật, và theo ông nếu giả thuyết của ông đúng thì những răng hình dương vật này có thể do những bà nội trợ mang vào thời kỳ này như tín hiệu của sự cấm đoán tình dục yên ổn cho họ trong công tác phục vụ cộng đồng.[17]ROLC, tr. 301[18]Sđd, tr. 331[19]Sđd, tr. 335[20]Sđd, tr. 340[21]PMD, tr. 94 - 95[22]Sđd, tr. 318[23]Sđd, tr. 319[24]ROLC, tr. 295[25]Piaget, Le structuralisme, P.U.F. 1968[26]Habermas, Zur Rekonstruktion des Historischen Materialismus, Suhrkamp Verlag 1976, Enzo Paci, Funzione delle Scienze e Significato dell'Uomo, bản dịch tiếng Anh 1972[27]Xem thêm Triết lý đã đi đến đâu của Trần Ðức Thảo; luận điểm này là thái độ chung của người cộng sản dưới thời Stalin, chẳng hạn Lukacs, Die Zerstorung der Vernunft, Gesamtausgabe Bd 9. Trong Vorwort 1967, lời mở đầu tác phẩm Geschichte und Klassenbewusstsein (1923), Lukács có thái độ cởi mở như khi ông coi giữa Heidegger và ông, vấn đề đi trước và ảnh hưởng không đáng quan tâm mà cái quan trọng là sự tha hóa của con người là vấn đề then chốt của thời đại đối với mọi nhà tư tưởng tư sản cũng như vô sản (Prioritaten, Einflusse etc. sind dabei nicht allzu interessant. Wichtig bleibt bloss, dass die Entfremdung des Menschen als ein Zentralproblem der Zeit, in der wir leben, von burgerlichen wie proletarischen, von politisch-sozial rechts oder links stehenden Denkern gleicherweise erkannt und anerkannt wurde ), Sđd. Hermann Luchterhand Verlag 1968, tr 23. [28]X. Phê phán hệ tư tưởng macxit[29]Herder, Abhandlung uber den Ursprung der Sprache (1772)[30]Lévi - Strauss, Mythologiques : Le Cru et le Cuit[31]ROLC, tr, 150 - 151. Trần Ðức Thảo chú thích ico maka sang tiếng Pháp là Enco lait và câu nói đúng cú pháp là: "encore du lait".[32]PMD, tr. 365 và ROLC, tr. 339

BAN NHẠC FAVIC TẠI PHÁP


FAVIC - ban hợp ca không có một người Việt Nam - nhưng chuyên hát nhạc Việt.
 

Sống ở xứ người, phải học tập ngôn ngữ và văn hóa xứ người là chuyện bình thường.  Nhưng sống ở xứ người mà tập cho người bản xứ học tập ngôn ngữ và văn hóa xứ mình là một chuyện lạ và ngược đời.
 
Nhóm tốp ca nữ của ban nhạc FAVIC.  Photo by Tuong An, RFA
 
Chuyện lạ và ngược đời ấy đã xảy ra tại Pháp.  Với tốp ca FAVIC, người ta đã nhìn thấy những người ngoại quốc mặc y phục VN và ca những bài ca bằng tiếng Việt.  Rất hài hước và rất cảm động.
Xin mời quý thính giả cùng Tường An tìm hiểu về tốp ca đặc biệt này.
 
Hướng đi và mục đích của tốp ca FAVIC
Hẳn quý vị cũng nhận được rõ những câu ca dao quen thuộc của bài dân ca "Qua cầu gió bay" được diễn ngâm bằng giọng ngâm không phải là người Việt Nam. Sẽ rất bình thường, nếu chúng ta nghe những người Việt Nam hát những bản dân ca này, nó sẽ không để lại một cảm xúc lâng lâng trong chúng ta như khi nghe những bài dân ca quen thuộc được hát bởi những người ngoại quốc.  Cái cảm giác ấy, không chỉ là một cảm giác vui vui khi thấy người ngoại quốc biết được tiếng Việt mà đâu đó trong lòng chúng ta còn dâng lên một niềm tự hào khi nghe tiếng của dân tộc ta - một dân tộc nhỏ bé - được nói lên, được hát lên bởi những người không cùng chủng tộc.
Chúng tôi muốn nói đến nhóm FAVIC, một tốp ca gồm toàn người ngoại quốc, nhưng chỉ hát thuần nhạc Việt Nam.  Với người sáng lập là anh Thiều Đoàn, tốp ca ra đời từ 10 năm nay với những bước chậm chạp,
 
Ba cô nữ ca sĩ của ban nhạc Favic chuyên hát nhạc Việt Nam
Ba cô nữ ca sĩ của ban nhạc Favic chuyên hát nhạc Việt Nam
 
nhưng vững vàng, nhóm đã đi vào hầu hết các sinh hoạt Tết, văn nghệ của người Việt tại Pháp.
Anh Thiều Đoàn là thông dịch viên Việt ngữ cho tòa Thượng Thẩm Paris.  Nhận thấy rằng tìm hiểu văn hóa của nước người để hội nhập là một điều cần thiết, nhưng để cho người dân nước sở tại hiểu chúng ta hơn, thông cảm với chúng ta hơn, tại sao không tìm cách cho họ biết thêm về chúng ta qua sự làm quen của họ với văn hóa Việt, ngôn ngữ Việt ?
Bên cạnh đó, để đánh tan mặc cảm của thế hệ trẻ không còn biết tiếng Việt bằng cách tạo cho họ niềm tự hào, rằng, ngôn ngữ của chúng ta cũng được yêu thích bởi những người dân bản xứ.  Ngoài ra, anh Thiều Đoàn quan niệm: cái “tự hào dân tộc” về truyền thống của văn hóa VN, không thể nói lên bởi chính những “người tự cho mình” cái niềm tự hào đó.  Tốt hơn hết, nên để những người “ngoại cuộc” đánh giá cái “đáng tự hào” hay “không đáng tự hào” đó
Anh Thiều Đoàn giải thích thêm về sự ra đời của nhóm FAVIC:
...khi nghe những bài dân ca quen thuộc được hát bởi những người ngoại quốc.  Cái cảm giác ấy, không chỉ là một cảm giác vui vui khi thấy người ngoại quốc biết được tiếng Việt mà đâu đó trong lòng chúng ta còn dâng lên một niềm tự hào khi nghe tiếng của dân tộc ta - một dân tộc nhỏ bé - được nói lên, được hát lên bởi những người không cùng chủng tộc...
"Sau 75, tất cả chúng ta đều phải làm mọi cách để hội nhập với xã hội mới, vì hội nhập như vậy thì con cháu chúng ta ít có cơ hội nói tiếng Việt, ra đường, ở trường, ở sở không ai nói tiếng Việt cả thì các cháu quên dần tiếng Việt và phần nào có mặc cảm tự ti dân tộc.  Vì thế bây giờ phải có cách gì để đánh động lương tâm của các cháu, gợi trí tò mò của các cháu và đó là một trong những lý do để chúng tôi tại ra nhóm này.
Trong lúc đó, nhưng người địa phương tiếp nhận những thuyền nhân thì lại rất thích thú tìm hiểu văn hóa của một dân tộc đã kiên cường đi vượt biển tìm tự do thì họ mới tìm hiểu văn hóa này.  Nhưng thay vì, chính mình nói về văn hóa mình thì cách hay nhất là để những người bạn ngoại quốc nói và hiểu được về văn hóa VN"
Ý tưởng có vẽ trái chiều nhưng mới lạ này nảy sinh và anh Thiều Đoàn bắt đầu tìm những người ngoại quốc yêu thích văn hóa Việt để thành lập tốp ca.  Sau những ngày một mình đi dán giấy ở quận 13 khu Á châu để tìm người, dần dần một nhóm với 10 người được hình thành.  Họ là những người biết đến văn hóa VN và gắn bó với âm nhạc VN qua một chuyến du lịch, qua một cuốn phim, một quyển sách, một chương trình văn nghệ hay cũng có thể qua một chuyện tình hai chủng tộc.
Chị Mais, người đảo Guadeloupe, tuy nói tiếng Việt không rành, nhưng khi hát, người ta nhìn thấy sự say mê, niềm hân hoan, phấn khởi hiện rõ trên gương mặt và đôi tay không ngừng múa may của chị, chị nói :
- Tôi thích học hát tại vì tôi thích phong cảnh VN, tôi thích bài hát "Làng tôi", tôi thích ca sĩ "Như Quỳnh"
 
Thành viên được lựa chọn khá gắt gao
Toàn ban nhạc Favic đang trình diễn tại Paris.
Toàn ban nhạc Favic đang trình diễn tại Paris. Photo by Tuong An, RFA
 
Sự phát triển của nhóm rất chậm, từ 10 người đầu tiên, sau 10 năm, nhóm chỉ lên được 15 người bởi sự chọn lựa khá gắt gao: Chỉ những người hoàn toàn không có chút dòng máu Việt nào mới được tham gia, trong vài trường hợp ít ỏi thì anh Thiều Đoàn mới nhận người có 25% hoặc 50% dòng máu Việt, nhưng phải có những điều kiện kèm theo.
Hiện FAVIC có 15 thành viên gồm 7 nguồn gốc khác nhau: Pháp, Nhật, Nam Tư (Yougoslave), Đức, Thụy điển, Martinique, và Guadeloupe.
... Khó khăn là chúng tôi không thể nào chấp nhận tất cả mọi người, thành ra lúc đầu là 10 người, bây giờ cũng chỉ có 15 người.  Mỗi một thành viên phải có 3 tháng tập sự và sau 3 tháng khi thấy sinh hoạt hợp và hai bên đều đồng ý chấp nhận nhau thì mới được giữ lại.  Và điều kiện để vào nhóm cũng không phải là dễ: phải không là người VN...
Ngoài ra, khó khăn chính vẫn là vấn đề ngôn ngữ :
Đây cũng là một trắc nghiệm về sinh ngữ: làm thế nào để chuyển một ngôn ngữ đa âm sang môt ngôn ngữ độc âm.  Đây là vấn đề mà có những người không thể nào thích ứng được, có những người thì thích ứng được một cách dễ dàng, đó là điều kiện thứ nhất.  Điều kiện thứ hai là chấp nhận kỷ luật tập thể, sống chung trong tập thể với nhau, biết tôn trọng, tương kính lẫn nhau.
Trước tiên chúng tôi ưu tiên hát dân ca, sau đó chúng tôi hát tân nhạc.  Những bản tân nhạc mà chúng tôi chọn phần nhiều về nội dung nói về sức sống của dân tộc.  Về hình thức phần nhiều là nhạc điệu Rumba, Chachacha … để cho dễ hát.  Sau đó, chúng tôi cũng chọn những bản nhạc ngoại quốc những lời Việt, như bản La Paloma, Bésamé Mucho, Come back to Sorento …. bằng lời Việt.
Thành quả của nhóm FAVIC, theo anh Thiều Đoàn, hãy còn nhỏ nhoi, tầm thường cũng chỉ vì thiếu nhân lực và vật lực.  Anh nói: "Một cánh én không làm nổi mùa Xuân.  Thế nhưng, nhìn lên bầu trời, không một bóng mây, trông thấy được một cánh én, kể cũng vui vui" và trong cái vui vui ấy, anh kể lại một câu chuyện mà đối với anh đó là phần thưởng quý giá cho hơn 10 năm gầy dựng tốp ca:
Một kỷ niệm mà chúng tôi đáng nhớ nhất là trong khi chúng tôi hát trên chùa Khánh Anh thì tôi đi xuống dưới đồng bào để tôi xem phản ứng như thế nào thì 1 bà mẹ đã quay lại nói với các con mình: "Đó ! người ta ngoại quốc mà người ta còn biết hát nhạc VN còn chúng mầy ở nhà bảo nói tiếng Việt mà không chịu nói tiếng Việt".  Thì đó là một điều cảm động và đúng với mục đích mà chúng tôi nhắm vào.  Và đối với các cộng đồng, các hội đoàn ngoại quốc thì đó cũng là một cái gì mới lạ.  Chưa có bao giờ có một ca đoàn gồm 7 quốc tịch khác nhau, không có một người VN mà chỉ chuyên hát nhạc VN
Sự đa dạng của tốp ca được nhìn thấy qua những mái tóc vàng xen lẫn tóc nâu, mắt xanh biên biếc hay mắt thẳm màu nâu, da đen Phi châu lẫn da trắng Tây Phương.  Những gương mặt rất trẻ bên cạnh những mái đầu đã bạc.  Họ tự hào trong những bộ đồ bà ba, áo dài VN, áo tứ thân thắt lưng xanh đỏ.  Tình yêu VN của họ được thể hiện qua những bài dân ca mà họ say sưa hát với niềm đam mê trong mắt, trên môi; dù với cách phát âm hãy còn lạc điệu một cách hồn nhiên.
FAVIC, ngôn ngữ VN, ngôn ngữ của một dân tộc nhỏ bé đã vượt trùng dương và trở thành nơi hội tụ của nhiều chủng tộc.
 
Bài hát "Đất lành" của nhóm FAVIC sẽ kết thúc bài phóng sự về một tốp ca không có một người VN nhưng chuyên hát nhạc VN. (bấm vào link phía dưới)

Tường An, thông tín viên RFA, Paris


TƯỞNG NIỆM VƯƠNG ĐỨC LỆ

TƯỞNG NIỆM THI SĨ VƯƠNG ĐỨC LỆ 
(1937 - 2008)
PHAN ANH DŨNG 
biên soạn
E-mail

                                                                      Tiểu Sử
                                                                                 
- Tên thật: Lê Ðức Vượng
- Sinh ngày 15 tháng 11, 1937 tại Bạch Mai, Huyện Hoàn Long, Tỉnh Hà Đông.
- Qua đời ngày 20 tháng 1, 2008 tại Annandale, Virginia.
- Học Trung Học Chu Văn An Hà Nội và sau 1954, tại Sài Gòn. Đã theo học Luật Khoa và Văn Khoa.
- Năm 1962, ông bắt đầu đi dạy, sau đó làm Ký-Giả cho Việt Nam Thông Tấn Xã, rồi làm Giám Đốc Đài Phát Thanh Long An (1964-1969).
- Trong Tết Mậu Thân, ông bị hỏng một mắt, trở về làm BiênTập Viên cho Đài Phát Thanh Sài Gòn.
- Năm 1989, ông tham gia nhóm Diễn Đàn Tự Do (Đoàn Viết Hoạt), bị bắt và bị giam cho tới cuối năm 1995.
- Định cư tại Hoa-Kỳ, Tiểu Bang Virginia từ năm 2000, hoạt động với nhà xuất bản Tủ Sách Tiếng Quê Hương (Uyên Thao), Tổng Thư Ký Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới - Hoa Thịnh Đốn, và viết bài bình luận cho Đài Phát Thanh Sài Gòn Houston (Texas).
                                                           
TÁC PHẨM ÐÃ XUẤT BẢN:
- Hoa Mười Phương, tuyển tập thơ với 14 tác giả, Sài Gòn 1959
- Ðường Lên Thiên Thai, Thơ, Sài Gòn 1962
- 40 Bài Thơ của Mai Trung Tĩnh và Vương Ðức Lệ, Sài Gòn 1960 [Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc (1960-1961)]
- Tình Thơ Vương Ðức Lệ, Sài Gòn 1970
- Thiên Nga Trên Ngọn Ðỉnh Trời, Sài Gòn 1974
- Thơ Vương Ðức Lệ, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia 2000
- Thơ Tình Vương Ðức Lệ, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia 2003
- Thơ Giữa Đời Thường, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia

        

                              Một Số Hình Ảnh

                                 


         
   
  
         


             
           


Nửa Đêm Trong Bệnh Viện Fairfax
Mong con, cha mẹ đợi?
Nhớ em, ba chị chờ?
Và chú em út cũng còn trông anh sao?
Mong manh chỉ một đường sinh tử
Hai ngả âm dương một lối vào
Gom tất cả tương lai và quá khứ
Mở càn khôn hiện tại đón chiêm bao!
Cũng chỉ là một giấc mê dài
Bàn tay nào đây
Ai lay tôi tỉnh dậy?
*
Anh  chị còn đang đợi
Hai em cũng đang chờ?
Vợ con và các cháu
Bằng hữu tình thân, sơ
Xa xôi cũng một đường sinh tử
Xích lại gần thêm sợi tử sinh
Có những tiếng sụt sùi
Có những lời nức nở
Có những giọt lệ cứ thế
trôi lăn qua từng hơi thở
Cũng chỉ là một giấc mê dài
Bàn tay nào đây
Ai lay tôi tỉnh dậy?
Tôi trừng trừng mở mắt
Bước lại phía nào đây?
Phía bên này âm cảnh giới?
Phía bên kia dương cảnh giới?
Cũng chỉ là một giấc mê dài
 Bàn tay nào đây
 Ai lay tôi tỉnh dậy?
Vương Đức Lệ (Virginia, 12/5/07 - Trong Cỏ Thơm số 39)
Bên Dòng Nại  Hà
Bên  kia  dòng  Nại  Hà
Là  hồn  ma  bóng  quế
Bên  này  bờ  dâu  bể
Là  từng  lớp  phế  hưng
Ta  thấy  mọc  trên  lưng
Trùng  trùng  gai  thống  khổ,
Ta  nhìn  ta  đáy  mộ
Chỉ  thấy  trời  mênh  mông
Nghìn  năm  nghe  sóng  vỗ
Ôm  trái  sầu  kim  cổ
Suốt  đời  cùng  long  đong 
Có  tiếng ve  kêu  giấc  hạ  buồn
Bàn  chân  lưu  lạc  mộng  tha  hương
Có  ta  về  với  sầu  châu  thổ
Vô  tận  Em  chờ  tóc  điểm  sương.
Em  tự  nghìn  xưa  lạc  bước  về.
Xuân  tình  lay  tỉnh  một  hôn  mê
Vần  thơ  khép  lại  thiên  tình  sử

Trời  đất  tương  tư  bóng  nguyệt đề
Vương  Đức  Lệ
(Trong Cỏ Thơm số 41 - Đông 2007)

                        
                            
                                  


        Nhà Thơ Vương Đức Lệ đã vĩnh viễn ra đi - Linh Vang
 
Nhà thơ Vương Đức Lệ vừa mới mất trưa nay. Tôi được anh Uyên Thao gửi e-mail báo tin buồn, lúc 4 giờ pm.
Anh Vương Đức Lệ nổi tiếng về thơ (đoạt Giải Văn Chương Việt Nam năm 1960), nhưng tôi lại thích đọc tạp bút Chuyện Nhỏ Chuyện To của anh hơn, đăng hàng tháng trên nguyệt san Kỷ Nguyên Mới. Không bỏ sót bài nào. Giở báo ra là đi tìm mục ấy trước nhất. Nghe nói không phải riêng tôi mà nhiều độc giả khác cũng thích đọc Chuyện Nhỏ Chuyện To của anh. Vì văn phong hiền lành, dí dỏm. Lần đầu tiên gặp anh vào năm 2005 khi Ng và tôi qua chơi vùng Washington DC, tôi thấy anh hiền lành như văn thơ của anh vậy, tôi lại càng cảm mến anh hơn, dù là với tôi, xem chừng anh ít nói. Tôi gặp anh ít nhất là ba lần. Tôi nhận xét anh thật đúng là một người lịch lãm. Tôi vẫn thường nói như vậy với nhà thơ Việt Bằng khi hai chúng tôi nhắc tới anh, khi biết hai nhà thơ đã từng học chung ở Chu Văn An, cùng thời. Tôi cũng nói thêm, chắc thời trẻ, anh VĐL đẹp trai lắm, với dáng cao cao, cái nhìn đôn hậu.
Khoảng 15, 16 tháng trước, bác sĩ cho biết anh VĐL mắc bệnh ung thư phổi. Tôi được chị nhà văn Lê Thị Nhị là em gái của anh báo tin sớm nhất, vì chị biết là chị sẽ bận rộn trong thời gian sắp tới nên có nhờ tôi xin bài vở cho KNM.
Trong thời gian chữa bệnh, vào ra bệnh viện nhiều lần, đau ốm như vậy mà anh vẫn có bài viết đều đặn cho KNM (để tôi đọc). Bệnh càng ngày càng nặng, anh vẫn bình thản viết về tình trạng sức khỏe, quá trình chữa trị bệnh của anh.

Vãn cuộc hay còn dở cuộc chơi?
Này, thân xác ấy hỏa thiêu thôi
Mấy cây nhang thắp, người lai vãng
Phơi nỗi buồn ra, giấu nỗi vui.
(Vương Ðức Lệ: Thở Dài)
Tôi phục là anh đã viết cho tới ngày cuối cuộc đời, như nhà thơ May Sarton, vẫn viết journal cho tới ngày bà ra đi.
Trên giường bệnh ngẫu hứng
Tử Thần bắt hụt ta lần nữa
Bạn mới mừng chung khóa nỗi vui
Bạn cũ buồn riêng ly rượu phạt
Ôm vai, bá cổ ngẩn ngơ cười!
Đã mấy lần rồi tai giả điếc
Tử Thần lay gọi mãi, không nghe!
Bởi còn lưu luyến duyên phàm tục,
Mải đợi người xưa lạc bước về.
Mai này chạm mặt giờ lâm tử
Nhớ, cũng xin đừng nhận cố nhân!
Đôi ngả âm dương nghìn cách trở
Bấy giờ lộng giả mới thành chân!
(Vương Đức Lệ 2007)
Khi đọc bài viết Đi Trước, Đi Sau của nhà văn Hoàng Hải Thủy trong Kỷ Nguyên Mới số 86, tháng 12, năm 2007, tôi đã linh cảm nhưng không nói ra với ai, là ngày ra đi của anh Vương Đức Lệ chắc hẳn đã gần kề.
Anh ra đi, tôi biết chắc, là trong sự thương tiếc của nhiều người, như anh đã biết và viết “…Vương Quân tôi vẫn luôn luôn cảm nhận được mình là người may mắn và hạnh phúc vẫn quanh đây. Thân nhân, bằng hữu vẫn thăm viếng, gọi điện thường xuyên. Những ngày cuối tháng 15 cũng như những ngày đầu tiên điều trị trong bệnh viện. Những ánh mắt và những cử chỉ thật nồng nàn, ân cần. Có lẽ đây chính là điều khiến Vương Quân tôi không đến nỗi chán sống chăng? Ít ra Vương Quân tôi cũng cảm nhận được hương vị ngọt ngào của cuộc sống…”
Linh Vang

                      Mời đọc Những Bài Thơ của Vương Đức Lệ tại website của Nhà Thơ Việt Bằng
              

      
                     Mời quý vị nghe ca khúc NHỚ MẸ TA XƯA ( bấm vào tên bản nhạc để nghe)
                                 Nhạc: Văn Sơn Trường, Thơ: Vương Đức Lệ, Tiếng hát: Quỳnh Lan

           
                   Mời quý vị nghe ca khúc DÒNG SÔNG THƠ ẤU ( bấm vào tên bản nhạc để nghe)
                                   Nhạc: Vũ Đức Nghiêm, Thơ: Vương Đức Lệ, Tiếng hát: Vũ Trung Hiền
 

Thi Sĩ Vương Đức Lệ Đã Đi Rồi - Nguyễn Thụy Long
"Tôi và Vương đức Lệ biết nhau từ rất lâu. Nay nghe anh qua đời từ vùng đất xa xôi, tôi cũng bàng hoàng. Anh là bạn đồng nghiệp với tôi, anh làm thơ, tôi viết văn làm  báo từ thuở trước, trước 30-4-1975.
Sau 1975 chúng tôi đều treo bút, không sống bằng nghề cầm bút nữa, đi học tập cải tạo rồi về làm bao nhiêu thứ nghề khác để sống, và muốn sống bằng nghề cầm bút cũng chẳng ai cho, tuy rằng chế độ mới cai trị miền Nam vẫn nói là con đường văn nghệ luôn luôn rộng mở cho tất cả những văn nghệ sĩ, không phân biệt."
                            Mời đọc tiếp bài viết của Nhà Văn Nguyễn Thụy Long (pdf)
Đọc thơ của Vương Ðức Lệ - Vĩnh Hảo

" Thơ ông đượm mùi tù đày và nỗi chết. Có vẻ như ông đang nhìn ngắm, quan sát con người và cuộc đời bằng khoé mắt của một người hấp hối. Nhưng không hẳn như vậy đâu. Dù ông cứ nói về sự biến hoại, vô thường, hư huyễn, giả trá, chết chóc, quan tài, mồ mả... mà lòng ông vẫn cứ thản nhiên như thường. Ông vừa nói vừa cười đó mà. Ông chỉ nhìn sự vật ở mặt trong của chúng. Ông thấy màu tóc bạc trong màu tóc xanh. Thấy sự tàn tạ trong nét tươi hồng. Cái thấy như vậy có vẻ như bi quan mà thực ra, lại là cái thấy rất bi tráng. Cái giọng thơ vừa buồn vừa ngạo nghễ, bất cần đời, khi dể cuộc đời mà cũng yêu cuộc đời tha thiết như thế, hầu như là nét đặc trưng của thơ Vương Ðức Lệ. "   
                                                   Mời đọc tiếp bài viết (pdf)
Khóc Vương Đức Lệ
Ôi người bạn trẻ năm nào
Những câu lục bát viết sao não nùng
Sang đây dù có lạnh lùng
Vẫn không điệp điệp trùng trùng gió thu
Những năm đầy đọa ngục tù
Câu thơ lục bát cho dù xanh xao
Người về đầu vẫn ngửng cao
Gặp nhau tưởng giấc chiêm bao lại cười
Nghĩ thôi ngắn ngủi cuộc đời
Tôi còn đây để khóc người nữa ư!
Gặp nhau ngỡ lúc di cư
Ngỡ còn gần gũi đâu từ quê hương.
Hà Thượng Nhân
Lãng   Đãng    Hồn   Thơ
- Vô cùng thương tiếc anh Lê Đức Vượng
Những gì còn lại trong em
Giận mình bên vách, trốn tìm, đuổi  nhau
Rồi xa cách một địa cầu,
Nhớ ngày đoàn tụ, nhớ câu tâm tình
Đường dài nắng ngọc lung linh
Qua giòng nước bạc ta nhìn thấy anh
Bước lui bước tới loanh quanh
Great Falls đổ giữa mầu xanh cây cành
Potomac đẹp như tranh
Mùa thu lá nhỏ, mộng lành dệt đan
Giờ em thương tiếc vô vàn
Giờ anh bỏ cuộc, địa đàng quạnh hiu
Cảnh chiều mây xám trôi theo
Cảnh đời tro bụi bay vèo thế thôi
Con chim cú gọi tên người
Tại anh băng giá hay trời vào đông
Bỏ đi tìm cõi vô cùng
Hồn thơ còn lại ấm lòng người sau
Lê Thị Ý
CHUYỆN NHỎ, CHUYỆN TO - Lê Thị Nhị
" 13 giờ 50, ngày Chủ Nhật, 20 tháng 1 năm 2008, anh tôi, nhà thơ Vương Đức Lệ hay Vương Quân của mục Chuyện Nhỏ, Chuyện To... của Kỷ Nguyên Mới đã nhắm mắt ngủ một giấc ngàn thu thật êm đềm, sau khi nhìn vợ và con gái lần cuối cùng.
Chiều hôm Thứ Sáu, khi tôi hỏi anh: “Báo kỳ này sắp xong rồi, anh có Chuyện Nhỏ, Chuyện To... không đấy?”
Tay anh run run lấy cái ống thở dưỡng khí ra khỏi mũi, đáp rất nhanh:
- Có chứ! Tôi sẽ đọc cho Cẩm viết (Cẩm là vợ của anh)
Nhưng cho đến giờ này, anh đã đi xa, đi xa quá rồi, mà anh vẫn không để lại cho tôi “Chuyện Nhỏ, Chuyện To...” Tôi đành phải viết thay anh từ nay vậy."
                                    Xin mời đọc tiếp bài viết của Nhà Văn Lê Thị Nhị (pdf)
Tiễn Biệt
Thương tiếc thi sĩ Vương Đức Lệ
Anh đi chiều lạnh mùa đông
Tôi nghe đau xót trong lòng tiếc thương
Giọt châu trên mắt còn vương
Khóc tình tri kỷ trong vườn văn thơ
Thi nhân ôm cả trời mơ
Về miền tiên cảnh qua bờ tử sinh
Biệt người thân với gia đình
Chia tay bằng hữu đoạn tình thơ văn
Đêm rằm lành lạnh vầng trăng
Không trung một ánh sao băng lu mờ!
Hoàng Trùng Dương
(Đêm rằm tháng chạp năm Đinh Hợi)
                Những giòng viết nhanh cho Cậu
Nhìn những dòng chữ phân ưu và cáo phó của cậu trên các website, tôi vẫn không tin được là cậu đã thật sự ra đi.
Dù rằng mấy ngày nay tôi đã khóc vật vã, khóc lặng lẽ, khóc đứng, khóc ngồi, khóc nằm, khóc cả trong lúc thức và trong giấc ngủ. Nói chung tâm hồn tôi nặng trĩu nỗi buồn. Tôi vẫn biết ngày này phải đến.  Tôi đã khóc nhiều từ khi biết cậu bệnh nặng thế nhưng sao nước mắt vẫn tuôn rơi thành giòng không thôi.
Tôi nhớ đến những kỷ niệm vui với cậu, để mỉm cười với ảnh cậu. Tôi chẳng rành lắm về kỹ thuật bóng đá, thế mà suốt mùa World Cup năm 2006, tôi đã cùng cậu bàn luận sôi nổi về mỗi trân đấu.  Đặc biệt trong năm ấy là cú húc đầu của Zidane vào ngực Materazzi. Cậu cũng có vẻ thích thú nói chuyện với cô cháu gái lắm vì nàng cứ xem được tin gì trên internet bàn luận về cú húc đầu thì lại phone kể lại cho cậu nghe.  Rồi thì đủ chuyện về nhân sinh quan được đem ra nói.  Nàng thích lắm mỗi khi được cậu khen Vân tồ nói không tồ tí nào!
Mỗi khi tôi phone cho cậu, biết là cậu trả lời nhưng tôi vẫn hỏi: “Cậu đó hả?” để được nghe cậu nói : “ Ư.. ư..” ngân dài.  Chỉ tiếng Ư đó thôi, tôi nhận biết ngày hôm ấy cậu đang vui hay buồn, khỏe hay không khỏe.  Tiếng Ư của cậu thật độc đáo như reo vui mừng rỡ, khiến cho người gọi hỉ hả lắm.  Nhiều lúc cậu gọi yêu tôi là “ Ĩ Ân”.  Tiếng gọi thân mật từ thuở bé cậu vẫn gọi tôi để trêu tôi. (Ĩ là cậu đọc trại đi từ Cái Đĩ Thằng Cu của người miền Bắc gọi con gái và con trai khi còn bé và Ân  là Vân đọc cho xuôi tai với tiếng Ĩ).  Cái tên gọi ấy trở thành cái gì thân thương theo suốt quãng đời thơ ấu của tôi với hình ảnh cậu.
Câu chuyện của tôi và cậu mỗi lúc một ngắn đi và thưa lại, dù tôi rất muốn gọi cho cậu mỗi ngày. Tôi không còn đề tài nào có thể làm vui cậu khi sức khỏe cậu mỗi ngày kém đi.  Tôi cảm thấy mình ăn nói vô duyên nhạt nhẽo. Câu hỏi thăm cậu khỏe không luôn được cậu trả lời khỏe nhưng chữ khỏe không còn khẳng định chắc chắn nữa.  Tôi biết cậu nói để tôi khỏi lo. Dần dần tôi không còn dám hỏi cậu khỏe không nữa mà thay vào đó là hôm nay cậu thế nào, cậu thấy sao?  Câu trả lời của cậu sẽ là vẫn vậy hoặc mệt. Lúc đó tôi đã khóc bên đầu dây, tránh không bật thành tiếng để cậu nghe thấy. Tôi thương cảm và đau lòng trước sự thất vọng của cậu khi thấy sau mỗi đợt chữa trị không có kết quả khả quan hơn. Tôi đã tìm nhiều chuyện nói để mang lại sự hy vọng và can đảm cho cậu nhưng tôi nghĩ mình không thành công lắm vì chính bản chất tôi không là người lạc quan.
Hôm nay cậu ra đi đã 3 ngày rồi, mỗi tối tôi vẫn mong sẽ thấy đựợc cậu trong giấc ngủ, và tôi tin chắc là tôi sẽ gặp lại cậu. Tôi phải thầm cám ơn ông Hoàng Hải Thủy đã viết bài "Đi Trước, Đi Sau" đăng trên Kỷ Nguyên Mới. 
Tôi cảm thấy nguôi ngoai hơn khi nghĩ rồi chắc chắn mình cũng sẽ ra đi và gặp lại cậu ở thế giới cậu đang ở. Chỉ là một sự tạm biệt thôi phải không cậu? Cậu đón cháu cậu nhé!  Hiện giờ thì cháu nhớ cậu lắm cậu ơi!  Cậu đã khỏe rồi không còn đau đớn lo sợ và thất vọng nữa. Cậu yên nghỉ trên ấy cậu nhé. Cháu và mọi người sẽ mang mãi trong lòng hình ảnh cậu yêu cho đến cuối đời. 
Vô vàn thương nhớ cậu.
Hàn Bích Vân (Tối 23-1 2008) 
                          Thầy Chương - Song Thao
"Anh Nguyễn Thiệu Hùng bút hiệu Mai Trung Tĩnh và anh Lê Đức Vượng bút hiệu Vương Đức Lệ. Hai anh đã in chung tập thơ "40 bài thơ Mai Trung Tĩnh và Vương Đức Lệ" và tập thơ này đã đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1961.
Cả hai anh đều đã bị Cộng Sản đầy ải trong ngục tù tại Saigon cùng với một số nhà văn nhà thơ khác trong nhóm Diễn Đàn Tự Do của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt. Anh Mai Trung Tĩnh được thả năm 1994 mang bệnh tim, mù một mắt và sưng gan do hậu quả của những năm lao tù. Ngày 7 tháng 6 năm 1995, anh cùng vợ và hai con đã tới Hoa Kỳ và mất tại Virginia vào lúc 2 giờ sáng ngày 20 tháng 2 năm 2002 vì di chứng của những bệnh cũ. Anh Vương Đức Lệ cũng được sang được Hoa Kỳ rất muộn, nhiều năm sau khi thoát khỏi lao tù. Tôi nghĩ tới thầy với những ngày lao tù bệnh tật dưới chế độ Cộng Sản, nghĩ tới cái chết tức tưởi của thầy chỉ ít ngày sau khi được thả vì quá đau yếu. Cả thầy lẫn trò đều chung nỗi truân chuyên của những người làm văn nghệ gặp cơn gió chướng."
                                                          Mời đọc tiếp bài viết (pdf)
Những ngày trong tù với Vương Đức Lệ - Đoàn Thanh Liêm (26/01/2008)
" Vương Đức Lệ với tôi chỉ gặp nhau ở trong tù, nhưng mà lại có duyên rất gần gũi thân thiết với nhau. Bọn tôi ở chung với nhau 2 đợt: lần đầu vào năm 1991-92 tại trại giam số 4 Phan Đăng Lưu (tức là Khám Lớn Gia Định cũ) đối diện với Chợ Bà Chiểu. Và lần thứ nhì thì lại ở chung với nhau vào năm 1993-94 tại Trại Z 30D ở Khu Rừng Lá Hàm Tân, Phan Thiết.
Tại số 4 Phan Đăng Lưu, trong thời kỳ chờ ra Tòa án xét xử, thì chúng tôi ở chung phòng với nhau, có 3-4 nguời, suốt cả ngày 24/24 giờ, lâu lâu mới được dẫn ra trước cửa “tắm nắng” chừng 15-20 phút. Thành ra ngày đêm bọn tôi tha hồ tâm sự đủ thứ chuyện đời với nhau. Lệ quả là một nhà thơ, chàng có thể “xuất khẩu thành thơ” bất kể giờ giấc nào. Người nghệ sĩ nhìn đời khác hẳn với người thường. Chàng luôn có thái độ thanh thoát, chẳng hề bận tâm đến hoàn cảnh o ép hạn chế trong nhà tù. Nhiều khi lại kể chuyện khôi hài thật là dí dỏm, khiến các bạn cùng phòng tha hồ cười ngặt nghẽo."   
                                           Mời đọc tiếp bài viêt ( pdf)
            Diễn Đàn Tự Do và Người Tù Vương Đức Lệ
                 - Trang Báo ở Sài Gòn đăng về vụ Diễn Đàn Tự Do (nguồn: website của GS Đoàn Viết Hoạt)
      - Vương Đức Lệ nói về trại giam trong buổi Hội Ngộ Cựu Nhân Viên Truyền Thông Việt Nam Cộng Hòa năm 2004
                          
      Tưởng Niệm Thi Sĩ Vương Ðức Lệ - Tạ Quang Khôi
" Hồi còn ở Saigon, tôi không có hân hạnh được quen biết Vương Ðức Lệ, dù Anh là một nhà thơ nổi tiếng, đã được giải thưởng văn chương toàn quốc năm 1960-61, cùng Mai Trung Tĩnh với tác phẩm “40 Bài Thơ”. Nhưng tôi lại có một kỷ niệm rất sớm với hai nhà thơ này."
                                                        Mời đọc tiếp bài viết (pdf)
Bóng Thời Gian - Giờ Chót Với Vương Đức Lệ - Lê Văn Phúc
" ... Khi về hưu, lên vùng “Đất tình nhân Virginia” tá túc, tôi lại quen biết với một số văn nhân thi sĩ, nghệ sĩ như thi sĩ/nhà văn Hà Bỉnh Trung, nhà văn Hoàng Hải Thủy, nhà văn Uyên Thao, nhà văn Lê Thị Nhị, nhà văn Tạ Quang Khôi, nhà văn/nhà báo Đào Trường Phúc, nhà văn/nhà thơ Ngô Vương Toại, nhà thơ Lê Thị Ý, nhà thơ Hoàng Song Liêm, nhà văn/nhà thơ/nhạc sĩ Nguyễn Đức Nam, nhạc sĩ Nguyễn Túc-Linh Phương, đôi tài tử song ca Nga Mi -Trần Lãng Minh, hoạ sĩ thư họa Vũ Hối, nhà văn/nhà thơ/hoạ sĩ Trương Anh Thụy, giáo sư /dịch giả Nguyễn Ngọc Bích, giáo sư Phạm văn Tuấn, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, bác sĩ/nhạc sĩ Văn Sơn Trường, bác sĩ/ thi sĩ Phó Ngọc Văn, bác sĩ/nhân quyền Nguyễn Quốc Quân...
Thế thì còn nhà thơ Vương Đức Lệ, tôi quen trong trường hợp nào?
Câu chuyện nó như thế này: ... "
Mời đọc tiếp bài viêt của Nhà Văn Lê Văn Phúc ( pdf)
Xứ Lạ
Ta vẫn làm dân xứ lạ
Ngẩn ngơ đất khách quê người
Ôi trái tim sầu hóa đá
Bao giờ? Biết thuở nào nguôi?
Ta vẫn làm dân xứ lạ
Giữa trời, giữa đất bao la
Dạt cánh bèo trôi biển cả
Mịt mù thương nhớ bờ xa.
Ta vẫn làm dân xứ lạ
Cuối đời làm cánh rong xanh
Biển sâu bạc đầu sóng vỗ
Thân xô ghềnh đá tan tành
Ta vẫn làm dân xứ lạ
Suốt đời làm kẻ tha hương
Gối chiếc đêm nằm trăn trở
Khôn nguôi nỗi nhớ dị thường
Ta vẫn làm dân xứ lạ
Ngậm ngùi thân lại thương thân
Ta thấy ta ngồi hóa đá
Ngó quanh nào thấy mộ phần
(thơ Vương Đức Lệ)
Tôi thường hay đọc thơ khổ bốn câu, mỗi câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ…
Hôm nay chợt đọc những khổ thơ mỗi câu 6 chữ và trong tôi liền có cảm giác rất lạ.
Nó không dứt khoát như câu 5 chữ ngắn gọn. Nó không dịu dàng, uyển chuyển như câu 7 hay 8 chữ.
Với câu 6 chữ, âm hưởng câu thơ nghe như day dứt… Và đó là một hiệu ứng (effect) mà nhà thơ đã tạo ra rất đạt.
(Tôi loay hoay vẫn chưa nghĩ ra được từ nào diễn tả cho chính xác! Tạm gọi như thế là “day dứt”.)
“TA VẪN LÀM DÂN XỨ LẠ” cứ lặp đi lặp lại ở đầu mỗi khổ thơ khiến ta nghe ra một chuỗi thinh âm sầu não miên man đồng vọng …
Lê Anh Dũng
             
"Nhà Thơ Vương Đức Lệ là người mà Miên Du thường hay nói chuyện văn thơ, là người khuyến khích Miên Du viết văn  ... Miên Du đã ghi xuống nhạc phẩm " Vết Nứt Rêu Phong" để tặng riêng cho Nhà Thơ Vương Đức Lệ."  Xin bấm vào tên bản nhạc để nghe tiếng hát của ca sĩ Hương Giang. 



LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN



 

Trần Văn Tuyên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Luật sư Trần Văn Tuyên (1 tháng 9, 1913 - 28 tháng 10, 1976) là một trong các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng, cựu dân biểu Hạ viện, sau làm Phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là một trong các trưởng thuộc thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam . Ông đã bị chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam bắt ngay sau khi Sài Gòn thất thủ và đã chết trong trại tù.

Tiểu sử

Tác phẩm

  • Hiu quạnh 1943
  • Đế quốc đỏ 1957
  • Tỉnh Mộng 1957
  • Hồi Ký Hội-Nghị Genève 1954, 1964
  • Chánh Đảng 1967
  • Người Khách Lạ 1968

Tham khảo

  1. ^ a b c Trần Văn Ngô và ctv. Who's Who in Vietnam. Sài Gòn: Vietnam Press, 1974. tr 889
  2. ^ Nhà cách mạng Trần Văn Tuyên
  3. ^ Luật sư Trần Văn Tuyên, Cựu Dân biểu Hạ viện VNCH, cựu Phó Thủ tướng và là một trong số những lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng đã bị bắt sau khi Sài Gòn thất thủ
  4. ^ Nguyễn An Tiêm. "Sổ luân lưu". Khởi Hành Năm XV, số 169. Tháng 11, 2010. tr 7

 

Nhà tù chót của LS.Trần Văn Tuyên (1913- 1976)
VIÊN LINH sao lục
 
Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản, nhà văn hóa, người lo việc nước Trần Văn Tuyên (sinh ngày 1 tháng 9, 1913), gục ngã trên mặt bàn trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần.

Cố luật sư, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chụp trước Quốc Hội VNCH. (Hình do Tạp chí Khởi Hành cung cấp.)
Theo tin tức do Việt Cộng đưa ra, đó là ngày 28 tháng 10, 1976. Như thế cho tới hôm nay, nhà lãnh tụ tên tuổi nhất của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của miền Nam đã khuất bóng vừa đúng 34 năm; và ở đời được 63 năm. Cuộc đời ông vào tù ra khám nhiều lần, song cứ theo một bài thơ ông để lại, hình như ông không “lấy đó làm điều:”
Thân già tuổi tác trời cho sống
Ta vẫn yêu đời thỏa chí trai
Cùm xích nung sôi hồn cách mạng
Giao thừa chóng đến đợi sao mai.
(Trần Văn Tuyên, Giao Thừa Trong Ngục, Khởi Hành 10, 1998)
Thế hệ '40, '50 (những người trưởng thành vào những năm 1940, những năm 1950) lưu tâm tới tình hình đất nước của một Việt Nam tranh đấu, hầu như không ai là không nghe nói đến Trần Văn Tuyên. Nhưng sau đó, và nhất là sau khi đất nước thu vào một mối (“một mối u sầu một mối tang thương” như thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực), ít người còn biết rõ con người ấy là ai. Cho nên bài viết này chỉ là một ghi chép thu gọn, nhằm giúp trí nhớ bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ, về chân-thân người yêu nước Trần Văn Tuyên qua mô tả của nhiều nhân vật chứng nhân của một thời kỳ quốc cộng phân tranh.
1. “Trong số những người thân thuộc này, tôi nghĩ tới chiến sĩ Trần Văn Tuyên, mà trong 40 năm qua tôi vẫn xem là một huynh trưởng, một người bạn vong niên, một nhà văn hóa, một nhà văn học, một nhà ái quốc, một nhà cách mạng chân chính đã nêu cao truyền thống dân tộc và giữ vững tinh thần bất khuất của giống nòi Lạc Việt.
Ngày 6 tháng 12, 1947: Hội đàm Bollaert-Bảo Ðại tại Vịnh Hạ Long.
Sau cuộc hội đàm Vịnh Hạ Long, cựu hoàng Bảo Ðại cử hai vị cộng sự viên thân tín từ HongKong về nước tiếp xúc với các nhân sĩ quốc nội, nhằm thành lập chính phủ quốc gia đầu tiên. Hai cộng sự viên than tín đó là ông Lưu Ðức Trung và ông Trần Văn Tuyên. Năm 1951 Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký nghị định cử ông Trần Văn Tuyên và chúng tôi (Thái Văn Kiểm) đi Pháp tham dự lễ kỷ niệm 2000 năm thành lập Paris (Paris tên cũ là Lutetie-Lutece được thành lập năm 51 trước C.N.).
Trong các hoạt động hiệp hội, đoàn thể, LS Tuyên là sáng lập viên phong trào Hướng Ðạo Việt Nam, phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Công Quyền, cố vấn Tổng Công Ðoàn Tự Do. Ông có dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội.”
(Thái Văn Kiểm, Liệt sĩ Trần Văn Tuyên)
2. “Sau hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh người huynh trưởng Trần Văn Tuyên bên đống lửa trại Chùa Láng (gần Hà Nội) năm xưa. Anh cũng mặc đồng phục Hướng Ðạo như chúng tôi. Cũng quần soọc tím, áo sơ mi nâu bạc màu, cũng thắt khăn quàng nơi cổ như mọi HÐ khác. Lúc ấy hướng đạo sinh của các đoàn đã ngồi thành vòng tròn khá lớn quanh đống lửa trại. Anh Tuyên vừa bước qua vòng tròn, mọi tiếng rì rào nổi lên khắp dẫy, như một dòng điện truyền lan: ‘Anh Tuyên! Anh Tuyên đấy!’ Anh là hình ảnh một trong những thần tượng Hướng Ðạo của chúng tôi.”
(Mặc Thu, Nhớ về Trần Văn Tuyên)
3. “Tầm thước, nhanh nhẹn, tóc húi cao, mắt sáng tinh anh sau cặp kính cận dầy cộm, luôn tươi cười cởi mở, anh Trần Văn Tuyên là mẫu người trí thức thông minh, rõ rệt là một hiền nhân. Rất uyên bác, đọc nhiều sách khảo cứu, có cả một thư viện trong nhà, anh thông thạo Pháp, Anh và Hán tự Anh viết báo, làm luật sư, lưu vong sang Tầu, ở tù nhiều lần, làm bộ trưởng Thông Tin, làm phó thủ tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, dân biểu, trưởng khối đối lập, thủ lãnh luật sư đoàn.”
(Nguyễn Tường Bá, vài kỷ niệm về anh Trần Văn Tuyên. Vẫn theo LS Nguyễn Tường Bá, báo New York Times gọi Trần Văn Tuyên trong tù là “một Solzhenitsyn của nhà tù Gulag Việt Nam)
4. Khởi Hành phỏng vấn ông Trần Tử Miễn, con trai út của LS Tuyên. Lời ông Miễn:
“Ông theo gương chí sĩ Nguyễn Thái Học, gia nhập Quốc Dân Ðảng năm 16 tuổi. Ông cảm phục Abraham Lincoln, Thomas Jefferson (người nói báo chí là Ðệ Tứ Quyền), và Tôn Dật Tiên, cha đẻ của thuyết Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng: Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Ba tiêu đề này, Việt Cộng trộm mấy chữ sau: Ðộc lập Tự do Hạnh phúc để lừa phỉnh. Cũng chính vì ba chữ này mà một số anh em Việt quốc đi theo hàng ngũ Việt Cộng (trước cuộc di cư 1954). Về tình bằng hữu, cha tôi thân thiết với cố Dân Biểu Trần Văn Văn (thân phụ anh Trần Văn Bá) cả hai cha con đều bị Việt Cộng sát hại trước và sau 1975.
Cha tôi không bao giờ chấp nhận chính phủ ba thành phần. Trước 30 tháng 4 độ hai tháng, Tòa Ðại Sứ Mỹ có liên lạc nói họ dành 50 chỗ cho gia đình cha tôi và thân hũu trên máy bay để di tản. Nhưng ông không có ý định ra đi. Vì các lý do: Mình sinh ra ở đây, thà chết ở đây. Tất cả anh em VNQDÐ đều quyết định ở lại, vậy mình càng không bỏ rơi anh em.”
(Thụy Khanh phỏng vấn, Saint Germain les Corbeit, 21 tháng 9, 1998)
5. Lời Trần Văn Tuyên: “Xét quá trình hoạt động, tôi không thấy có tội gì với nhân dân Việt Nam. Nếu tôi có tội thì đó là cái nhìn của đảng Cộng Sản Việt Nam.” (Trần Văn Tuyên, Bản khai lý lịch tại trại tù Long Thành, 16 tháng 5, 1975)
“Một ánh sáng chói lòa. Tôi giật mình ngẩng đầu nhìn, tưởng lựu đạn hay plát-tích nổ. Bên cạnh tôi, một đám khói trắng bùng lên. Tôi nhìn khách, không thấy khách. Cũng không phải là lựu đạn hay plát-tích. Cũng không phải là pháo bông ăn mừng cách mạng thành công. Ngẩn ngơ, tôi thủng thẳng bước đi. Mình cảm thấy lòng mình cũng bơ vơ, cơ khổ: không còn nơi dung thân, không có nơi gieo ý, không có nơi xây dựng!
Như khách, tôi cũng nhận thấy con người mới chỉ thấy hoang tàn, tang tóc của cách mạng mà chưa thấy phần xây dựng của cách mạng. Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng ngồi đợi khách. Nhưng cách mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”
(Trần Văn Tuyên, Người Khách Lạ, tập truyện ngắn, 30 tháng 10, 1965)
Chú thích: Các trích dẫn trên đây chỉ là phần ngắn gọn cho hợp khuôn khổ Trang Thời Sự Nhân Văn, từ những bài dài in trong Khởi Hành chủ đề Trần Văn Tuyên, số 24, xuất bản tháng 10, 1998.
 

Người Tù Khổ Sai Trần Văn Tuyên

Quốc Gia VNCH có hai ông Thủ Tướng Chính Phủ bị bọn Cộng Sản Việt Nam giam chết trong tù: Ông Thủ Tướng Phan Huy Quát và ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
Thủ Tướng Phan Huy Quát đi Tù và Chết trong Nhà Tù Chí Hoà, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên trước khi đi Tù và Chết trong Trại Tù Khổ Sai ở miến Bắc, còn có lần Ði dự Hoà Ðàm với Pháp ở Ðà-lạt và cùng với một số ký giả làm cuộc “Ký Giả đi Ăn Mày” ở Sài Gòn.
Ðây là bài về ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
TỪ ÐIỂN TÁC GIẢ VIỆT NAM. Nguyễn Quang Thắng. Nhà Xuất Bản Văn Hóa, ấn hành ở Việt Nam Tháng Chín 1999.
TRẦN VĂN TUYÊN
Quí Sửu 1913 – Bính Thìn 1976.
Luật sư, một trong những người sáng lập Hội Hướng Ðạo Việt Nam, sinh ngày 1-9-1913 tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông.
Học ở Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Luật Ðại Học Luật Khoa Hà Nội, dạy học tại Trường Trung Học Thăng Long, tham gia hoạt động chống Pháp từ những năm 1930-1931. Năm 1934, ông cùng Ðặng thái Mai, Võ nguyên Giáp… thành lập Liên Minh Dân Chủ và Phong Trào Ðông Dương Ðại Hội. Năm 1942 ông bị Pháp bắt giam một thời gian vì “tội thành lập Ðảng Thanh Niên Hưng Quốc”. Sau khi được xử trắng án và tự do, ông thi đỗ ngạch Tri Huyện Tư Pháp, được bổ làm Tri Huyện huyện Thanh Miện, Hải Dương, đến năm 1944 thì từ chức.
Sau Tổng Khởi Nghiã Tháng 8 năm 1945, ông tham chính, giữ chức Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Năm 1946 ông tham gia Hội Nghị Trù Bị Ðà Lạt, phụ trách Ban Lễ Nghi của phái đoàn Việt Nam, cùng với các ông Nguyễn Tường Tam, Võ nguyên Giáp, Hoàng xuân Hãn.
Ðầu năm 1946 ông lưu vong sang Trung Hoa, năm 1950 ông về Sài Gòn, có thời làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, năm 1950-1951 ông giữ chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Trần văn Hữu. Năm 1954 ông là Cố Vấn Ðặc Biệt trong Phái Ðoàøn Việt Nam (chính quyền Bảo Ðại) dự Hội Nghị Genève nhằm chấm dứt Chiến tranh Ðông Dương. Năm 1959-1960, ông cùng 17 nhân sĩ ( Báo chí nước ngoài gọi là Nhóm 18 Caravelle) ra tuyên cáo đòi chính quyền Ngô Ðình Diệm thay đổi chính sách. Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11 Tháng 11 năm 1960, ông bị Mật Vụ Ngô Ðình Nhu bắt giam, đến sau ngày 1 Tháng 11 năm 1963 mới được giải thoát. Năm 1965 ông giữ chức Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, năm 1967 ông là Dân Biểu Quốc Hội, Trưởng Khối Dân Tộc-Xã Hội tại Hạ Nghị Viện Sài Gòn, Cố Vấn Phong Trào Ðấu Tranh Cải Thiện chế độ Lao Tù, Thủ Lãnh Luật Sư Ðoàn Sài Gòn.
Ngày 26 Tháng 10, 1976 ông mất tại Hòa Bình.
Các tác phẩm của ông: Hiu quạnh (1944), Tình mộng (1953), Hội Nghị Genève ( 1954), Việt Nam dưới thời thuộc Pháp (1958), Chính đảng (1968), Người khách lạ ( 1969), Con đường Cách Mạng Việt Nam (1969)
Ngưng trích.
Ðây là bài “Ít dòng Nhật Ký về Hội Nghị Trù Bị Ðà Lạt 1946ông Trần Văn Tuyên viết ở Sài Gòn.
Trần Văn Tuyên. Trích:
Ngày đi. 16-4-1946. Khởi hành ở phi trường Gia Lâm, 7 giờ 30 sáng. Pháp cho mượn 2 chiếc máy bay Junker cũ kỹ. Hai anh Trưởng và Phó Phái Ðoàn (Nguyễn Tường Tam, Võ nguyên Giáp) cùng đáp một chiếc cất cánh sau. Bọn tôi đi chuyến đầu gồm Tạ quang Bửu, Dương bạch Mai, Kiều công Cung, tất cả 12 người.
Gần tới Paksé, gặp bão, nhưng trời nắng đều. Tới Paksé lúc 11 giờ 20. Không ra thăm thành phố. Máy bay chở hai anh Tam, Giáp đến sau 20 phút.
12 giờ 30 máy bay chúng tôi bay đi Ðà Lạt trước. Tới trường bay Liên Khàng lúc 3 giờ chiều. Có các ông Pignon, Davec, Brisson và Lê văn Kim, ông Kim lúc đó là tùy viên báo chí của Ðô Ðốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp, ra đón. Thêm nột nhà nhiếp ảnh Tiệp Khắc, một phóng viên Bỉ, cô Anna Lê Trung Cang, chủ nhiệm nhật báo Ðiện Tín ở Sài Gòn.
Ðói, khát, không có gì để ăn uống. Ông Davec kiếm được 10 quả “thanh lí” và một ấm nước nhỏ.
Chờ chuyến bay thứ hai đến để cùng về Ðà Lạt nhưng mãi không thấy đến. Nhiều người lo ngại đã xẩy ra chuyện bất trắc. Không liên lạc được với Paksé, cũng không liên lạc được với Sài Gòn. Lo ngại càng tăng. Ðã có người lo sợ một “thủ đoạn” ác độc của người Pháp. Trời về chiều, chờ không được, sợ tối nguy hiểm, đành phải về Ðà Lạt trước.
30 cây số đường rừng, giữa đồi núi và rừng thông trùng điệp. Xe hỏng máy cách Ðà Lạt 5 cây số. Trăng mọc trên ngàn thông, bao phủ bởi sương trắng. Cảnh vật thật tuyệt diệu.
6 giờ tối mới về đến Ðà Lạt. Thành phố vắng tanh, tối đen và yên lặng. Mọi người về Hotel Du Parc, riêng hai anh Trịnh văn Bính, Dương bạch Mai sang Hotel Lang Biang.
Cơm dọn sẵn cho 30 người ăn. Nhưng mọi người chỉ ăn qua loa. Mệt! Hoang mang… Băn khoăn về số phận của toán thứ hai, những người chính của phái đoàn. Ăn cơm xong, anh em họp lại trong buồng tôi. Ða số tỏ ý lo ngại. Một số cho rằng Pháp chơi xấu, có thể hi sinh một chiếc máy bay và hai phi công, đâm máy bay vào núi. Thế là hết chuyện đàm phán. Vì họ đã thủ tiêu được những người lãnh đạo mà họ lo sợ nhất: Nguyễn Tường Tam, Ngoại Trưởng Chính Phủ Liên Hiệp, Lãnh Tụ Cách Mạng chống Pháp cực đoan (VNQDÐ) và Võ nguyên Giáp, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Giải Phóng, Chủ Tịch Quân Ủy Hội Kháng Chiến chống Pháp.
Có anh lo sợ cho số phận những người trong phái đoàn đã đến Ðà Lạt. E ngại người Pháp bắt luôn tất cả đem đi cầm tù. Anh Kiều Công Cung đề nghị với tôi đưa cho mỗi người 100$, xuống chợ mua mỗi người một  chiếc xe máy, ngay đêm hôm ấy, băng về Phan Rang.
Một giờ sáng mới được tin chiếc máy bay thứ hai bị hỏng máy quạt, phải ở lại Paksé, chờ hôm sau Sài Gòn đem máy quạt lên thay mới bay tới được.
Hỏng máy thật hay là đòn tâm lý!
Ngưng trích.

Ông Trần Văn Tuyên, ảnh chụp năm 1974, khi ông là Dân biểu Quốc Hội VNCH, ông dự Cuộc Biểu Tình có tên là “Ký Giả đi Ăn Mày” tại Sài Gòn.
Quí vị vừa đọc một đoạn trích trong hồi ký của ông Trần Văn Tuyên kể lại chuyện ông và ông Nguyễn Tường Tam, trong phái đoàn Chính Phủ Liên Hiệp – (Việt Minh,) Tháng 4 năm 1946, từ Hà Nội bay đến Ðà Lạt để dự hoà đàm với Pháp. Lúc này ông Nguyễn Tường Tam là Ngoại Trưởng Chính phủ Liên Hiệp do Hồ chí Minh làm Chủ Tịch. Ông Nguyễn Tường Tam là Trưởng Ðoàn, Võ Nguyên Giáp  là Phó Truởng Ðoàn.
Tháng 4 năm 1946 khi các ông Trần Văn Tuyên, ông Nguyễn Tường Tam đi dự hoà đàm với Pháp ở Ðà Lạt, tôi 14 tuổi, tôi mù tịt về chuyện Việt Pháp hòa đàm. Bẩy mươi năm sau ở Kỳ Hoa Ðất Tríchõ, đọc chuyện ông Trần Văn Tuyên kể, tôi thấy thương các ông Việt Nam quá là thương. Ai đời đi đàm phán tranh quyền độc lập với Pháp xâm lược chiếm nước mà phải đi nhờ máy bay của Pháp, đi nhờ ô-tô của Pháp, ăn ở do Pháp cung cấp. Ông TV Tuyên viết “Pháp cho mượn hai chiếc Junker..” tôi thấy không đúng, Pháp nó không cho phái đoàn VM mượn máy bay, nó chỉ dùng máy bay của nó chở phái đoàn từ Hà Nội đến Ðà Lạt.
Phái đoàn ta chịu đủ mọi thứ bất lợi và kém vế. Họp trong thành phố Ðà Lạt là nơi bọn Pháp nắm quyền, làm chủ, ở thành phố này Pháp có quân đội, có cảnh sát. Pháp nó muốn bắt nhân viên nào trong phái đoàn VN Hà Nội là nó bắt. ÔngTV Tuyên kể:
Bài đã dẫn. Trích: 24-4-46. Anh Phạm ngọc Thạch, một nhân viên của phái đoàn, bị Pháp bắt ngày hôm qua. Ngay trước trụ sở phái đoàn Việt Nam. Lúc 1 giờ trưa. Pháp nói là họ đã báo trước cho chính phủ Hà Nội là họ không chấp nhận Thạch trong phái đoàn Việt Nam.
Anh Nguyễn Văn Sâm và Bác sĩ Nguyễn Văn Tùng bị trục xuất về Sài Gòn. Pháp lấy cớ hai người ấy dùng máy vô tuyến riêng để liên lạc với Hà Nội. Ngưng trích.
Không biết ông Nguyễn Văn Sâm đây có phải là ông Nguyễn Văn Sâm bị Việt Minh bắn chết trên xe buýt ở Sài Gòn và đường Nguyễn Văn Sâm ở Sài Gòn có phải là đường mang tên ông này không. Tôi chắc là phải. Trong đoạn hồi ký trên còn có nhân vật « Lê Văn Kim , tùy viên báo chí của Ðô đốc D’Argenlieu. » Tôi chắc ông « Tùy viên báo chí » này những năm 1960-1970 là « Thiếu Tướng Lê Văn Kim.»
Chuyện làm tôi vừa thương các ông vưà tức cười – tức cười là vưà cười vừa tức: cười mà tức anh ách – là chuyện nửa đêm, các ông chính khách Việt Nam ta bàn nhau mỗi ông thủ túi 100 đồng – đồng bạc Ðông Dương, tức tiền của Pháp – ra tiệm bán xe đạp ở chợ Ðà Lạt, mỗi ông mua một cái xe đạp rồi nhẩy phốc lên yên, các ông phây phây cho xe thả dốc từ thành phố Ðà Lạt sương mù bon bon ve ve veo veo rẹt rẹt xuống tỉnh Phan Rang! Mèn ơi..! Các ông tưởng nửa đêm đi xe đạp xuống đèo là dzễ ợt, là ngon ăn lắm sao? Các ông lạc quan quá đi mất. Mười ông xe đạp tuột dốc xuống Ðèo Ngoạn Mục, tức Ðèo Bellevue, bảo đảm 8 ông, cùng với xe, bay tuốt xuống vực, 2 ông nằm chèo queo bên vệ đường.  Bảo đảm năm chăm phần chăm! Ban đêm đi xe đạp xuống đèo các ông bay xuống vực nhanh hơn ban ngày nhiều!
Rất may là Tháng Tư năm 1946, ở Ðà Lạt, ông TV Tuyên không nghe theo lời đề nghị làm cuộc “Thiết mã bán dạ hạ san”, nôm na là “Nửa đêm ngựa sắt xuống núi.” Nếu buổi tối lịch sử 55 năm xưa ấy ông Trưởng Ban Nghi Lễ Trần Văn Tuyên mở cặp da lấy tiền, phát cho mỗi ông trong phái đoàn 100 đồng bạc Ðông Pháp Ngân Hàng – Banque de L’Indochine Francaise – và các ông này, cho là 10 ông còn gân tự cho mình có thể đi xe đạp cả trăm cây số, nửa đêm kéo đến đập cửa tiệm bán xe đạp ở chợ Ðà Lạt…, lịch sử sẽ ghi tội ác tày trời của bọn D’Argenlieu, Pignon: tội thủ tiêu các ông chính khách Việt Nam trong phái đoàn hoà đàm và liệng xác những ông này xuống vực!
Theo lời kể của ông TV Tuyên, tôi thấy trong cuộc hoà đàm năm xưa ở Ðà Lạt có các ông Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Hữu Tường:
Trích: Những ngày cuối cùng.
3-5-1946. 3 giờ chiều họp đại hội công đồng, 2 phái đoàn Việt Pháp.
Anh Hồ Hữu Tường ngao ngán ghé tai tôi, nói: “Khổ lắm!” Ngưng trích.
Sau năm 1954 ông Hoàng Xuân Hãn sang sống ở Pháp, ông sống bình an, chết trong bình an, ông Nguyễn Mạnh Tường bị bọn Hồ Chí Minh, Lê Duẩn đầy ải, chết trong tức tưởi ở Hà Nội, ông Hồ Hữu Tường sống ở Sài Gòn, bị bọn Bắc Cộng bắt đi tù năm 1977, ông chết trong Trại Tù Khổ Sai Hàm Tân.
Và đây là vài chuyện xẩy ra trong cuộc gọi là « Hoà đàm Việt Pháp » ở Ðà Lạt Tháng 4, Tháng 5 năm 1946:
Sách đã dẫn. Trích:
Tại bữa cơm, Ðô đốc D’Argenlieu tiếp đãi tử tế. Ăn xong, ông móc túi lấy bản diễn văn ra đọc. Ông nói rất nhiều về chủ trương Liên Bang Ðông Dương của Pháp.
Theo quyết định của anh em, anh Nguyễn Tường Tam trả lời bằng tiếng Việt Nam. Anh Nguyễn Văn Huyên làm thông ngôn.
Vụ nói bằng tiếng Việt này làm cho Pháp hết sức ngạc nhiên. Sau này, trong một buổi họp, Ðô đốc D’Argenlieu đã mỉa mai những người Việt Nam vô ơn, bạc nghĩa, ăn bánh mì mòn cả răng ở Paris, nay lại làm bộ không biết nói tiếng Pháp.
Thực ra, chúng tôi đã quyết định như vậy vì nhiều lí do thực tế:
1 – Tinh thần dân tộc.
2 – Ðể người nói có thì giờ suy nghĩ.
3 – Và nếu cần, để người thông dịch sửa chữa những sơ hở của người nói.
Ngưng trích.
Ðây là chuyện ông Trưởng Ðoàn Nguyễn Tường Tam nằm mộng theo lời kể của ông Trần Văn Tuyên:
Anh Tam kể chuyện nằm mộng thấy một con thiêu thân và một giọt nước đường.
Con thiêu thân muốn hút nước đường nhưng ngập ngừng không dám. Một con nhện sa xuống nuốt con thiêu thân.
Không thấy một con chim sa xuống nuốt con nhện và người cầm súng bắn con chim.
Giấc mộng oái oăm thay.
Ngưng trích.
Cứ như lời kể thì “giấc mộng : nước đường, thiêu thân, nhện” của ông Trưởng Ðoàn Nguyễn Tường Tam năm xưa đó “oái oăm” thật.
Ông Trần Văn Tuyên kể chuyện ông và Võ Nguyên Giáp:
Buổi trưa, anh Võ nguyên Giáp mời ăn cơm.{CTHР: VN Giáp mời một mình ông Trần Văn Tuyên.} Ðã từ lâu chúng tôi không gặp riêng nhau để nói chuyện. Kể chuyện cũ, nhắc đến những người bạn chung còn hay đã mất, nhắc lại những kỷ niệm về chị Minh Thái (Vợ anh Giáp, chết trong tù của Pháp, trong khi anh sống ở Trung Hoa.)
Anh thực thà nhận có phần lỗi vì không thường gặp tôi để biết rõ tình thế, để đến nỗi có những chuyện “hồ nghi”. Anh khuyên tôi hãy trở về hàng ngũ anh em tranh đấu, và biết tôi thích đọc sách, anh hứa sẽ cho mượn mấy quyển sách vừa mới nhận được.
Câu cuối cùng của anh là câu tiếng Pháp “Alors, tu restes mon ami?”
Chúng tôi siết tay nhau lần chót. Từ đó, mỗi kẻ một đường.
Dòng thời gian nhẹ một ánh bay…! Những ngày như lá, tháng như mây…! Ông Trần Văn Tuyên dự Hoà Ðàm Việt Pháp ở Ðà Lạt Tháng Tư năm 1946, ông viết về cuộc hòa đàm ấy khi ông ở Sài Gòn chắc là vào những năm 1960-1965, năm 2000 ở Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đọc những lời ông kể trong quyển Từ Ðiển Tác Giả Việt Nam, sách xuất bản năm 1999 ở Sài Gòn.
Năm 2005 tôi đọc lời kể về những ngày cuối cùng của ông Trần Văn Tuyên trong trại tù khổ sai cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Người viết, người kể chuyện là ông Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn, một người tù chứng kiến những ngày sống cuối cùng của ông Trần Văn Tuyên. Ông Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn đi HO sang Kỳ Hoa Ðất Trích, đã từ trần, ông để lại tập Hồi Ký mà các bạn ông đặt tên là Di Bút của một Người Tù.
Mời quí vị đọc một số trang
DI BÚT CỦA MỘT NGƯỜI TÙ. Hồi ký của Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn
Ðăng trên Tạp Chí CON ONG-Houston, Texas.  Số 164165, Tháng 3, Tháng Tư 2005.
Tù chưa bao lâu mà sức đề kháng của anh em đã sút giảm thấy rõ, kéo theo sự bạc nhược về tinh thần. Mỗi lần nhìn Niên trưởng Dương Ðức Thụy tôi lại thấy đau xót như nhìn sự tàn tạ của chính tôi, của chế độ nay đã bị diệt vong. Niên trưởng thường hay ngậm ngùi nhắc lại cái ngày xưa của mình, rồi buông thõng một câu .. Si les vieux pouvaient..” Anh Trần Văn Tuyên thì tỏ rõ thái độ của người quân tử bị mắc bẫy tiểu nhân. Thái độ nhẫn nhục bên ngoài không che được cái cuồng nộ bên trong. Những buổi trưa vắng người, tôi thường ra góc sân vắng ngồi cho thảnh thơi tâm trí, tôi hay gặp anh Tuyên ở đó. Anh hay ngẩng đầu nhìn lên ngọn cau. Tôi hỏi anh tại sao anh kẹt lại? Anh nói nếu anh muốn đi thì anh đã đi từ lâu, nhưng anh không làm thế được. Nhục lắm. Hỏi anh liệu Miền Nam còn trung lập được bao lâu nữa, cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” liệu còn tồn tại được bao lâu nữa, và số phận của đám Mặt Trận này sẽ ra sao? Anh nói: “Nếu chúng nó thông ra thì chúng nó đừng làm cái trò đấu tố khốn nạn chúng đã làm ở miền Bắc năm 1954, 1956. Cái tàn ác nhất của bọn cộng sản là chính sách đấu tranh giai cấp. Thằng Trường Chinh còn đó, nó lại đang nắm nhiều quyền hành. Thằng đó ác lắm. Số phận bọn Mặt Trận Giải Phóng rồi cũng chẳng khác gì anh em mình bây giờ.”
Anh luôn luôn nghĩ đến tình trạng đáng thương của đồng bào miền Nam nay bị xâu xé, bóc lột, đầy ải không khác cảnh ngộ đồng bào miền Bắc hồi năm 1954, 1956. Anh bảo đó là một đại họa cho đất nước. Anh bảo những người Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không cộng sản rồi sẽ bị thanh trừng. Cộng sản luôn luôn làm như vậy để trừ hậu hoạn.
Anh Tuyên rất dị ứng với những “danh từ mới”. Mấy anh buồng trưởng thì lại xử dụng những danh từ mới ấy rất trơn tru. Anh Nhâm, buồng trưởng của anh Tuyên, cũng không tránh khỏi cái “nghiệp” đó nên tôi thường nghe anh Tuyên than phiền về tình trạng “hội nhập” quá nhanh của các vị ấy với cái gọi là “chế độ mới”. Phạm Thành Ngọc thì rất tếu, anh nhái tiếng Bắc kỳ mới” một cách diễu cợt rất tức cười. Anh Nhâm biết nhưng cứ tảng lờ như không biết, cứ tuôn ra những “từ” như “thành khẩn, khẩn trương, khắc phục, đăng ký, điển hình, tiên tiến, bảo quản, tích cực, tiêu cực, làm tốt, lên lớp..vv…” 
Vũ Văn Quý thì chỉ có hai đề tài: Những chuyện linh tinh, vui vui, buồn buồn trong Quốc Hội của ta và chửi cộng sản. Bất cứ cái gì của cộng sản anh cũng nhìn ngay ra mặt xấu và tìm ra ngay được những lời tàn tệ nhất để diễn tả. Những lần lên hội trường xem TiVi, anh thường kéo tôi ngồi vào một góc với anh để trong suốt buổi xem, rỉ rả rót vào tai tôi những lời phê bình vừa cay nghiệt vừa tức cười về những hình ảnh trên TiVi.
Ngày 23 tháng 11 năm 1976 trời mưa tầm tã. Chúng tôi đang ngồi nghe đọc báo thì cán bộ Thoại đội mưa vào gọi buồng trưởng ra ngoài hành lang. Một lát sau, Phạm Thái vào thông báo sẽ có một buổi sinh hoạt buồng vào ngày mốt, nội dung sẽ cho biết sau.
Sau bữa ăn trưa, tôi đang ngồi một mình thì Phạm Duy Tuệ và Ðặng Văn Tiếp tới, nói rằng sẽ có một buổi sinh hoạt để anh em phát biểu ý kiến, nói lên nhận thức của mình trong quá trình học tập cải tạo.
Mưa đã tạnh nhưng trời đất sũng nước. Chúng tôi gặp nhau ngoài sân bàn về buổi sinh hoạt sắp tới. Anh Ðỗ Sinh Tứ đến đứng với các anh Trần Văn Tuyên, Phạm Duy Tuệ, Trần Cảnh Chung, Ðặng Văn Tiếp và tôi ở góc sân, một lúc thì có Nguyễn Xuân Phong ghé vào. Chúng tôi đứng nói chuyện mãi cho đến lúc kẻng đánh báo giờ điểm danh, vào chuồng.
Khi xếp hàng vào chuồng, anh TV Tuyên bảo tôi: “Chúng nó giở trò cho anh em mình tự chửi bới với xâu xé nhau đấy.”
Vào buồng, lần đầu tiên tôi thấy các anh trong Việt Quốc nói chuyện một cách “nghiêm túc”. Các anh Phan Minh Thám, Phan Vỹ, Trần Thích nói nho nhỏ với nhau. Có lẽ các anh cũng nghĩ như anh TV Tuyên. Buồng trưởng Phạm Thái vẫn bộ mặt bì bì vô cảm, ngồi một mình, quay mặt nhìn ra cửa sổ. Thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Mân nằm cạnh tôi, anh ngồi tưạ lưng vào tường, khoanh tay, nhắm mắt. Anh người nhỏ bé, đi lại nhẹ nhàng, ăn nói nhỏ nhẹ, giọng miền Trung ấm áp. Anh sống như một cái bóng.
Buổi sáng như thường lệ anh Tuyên ra hồ tắm sáng, anh vẫn tắm buổi sáng như vậy từ khi ra đây, mặc dầu bây giờ trời đã chớm đông.
Buổi sinh hoạt được tổ chức trong buồng. Cái bàn gỗ tạp vẫn để sát tường hôm nay được lau chùi kê ra giữa buồng. Một cái ghế được đem vào. Chúng tôi tề tựu đông đủ. Anh Tuyên ngồi sau anh Ðồng Tuy, tôi ngồi sau lưng anh Tuyên, bên cạnh anh Tuyên là anh Triệu Huỳnh Võ và anh Vũ Văn Vỵ.
Cán bộ kéo đến, đứng lố nhố bên ngoài. Khi cán bộ Thoại mới nói mấy câu mở đầu, tôi thấy anh Tuyên một tay ôm đầu, một tay chống xuống sạp. Hai anh ngồi kế chưa kịp ôm anh thì anh ngã ra sau, anh ngã vào ngực tôi. Tôi đỡ gọn anh vào lòng. Chỉ nghe anh nói được ba tiếng: “Không sao đâu!” Rồi anh thiếp đi. Tôi bồng anh, cùng với anh Vỵ, đặt anh nằm vào chỗ nằm của anh Ðồng Tuy ở góc buồng, gần cửa sổ lớn, lấy mền đắp cho anh, anh Vỵ xoa dầu nóng cho anh. Anh nằêm thiêm thiếp, nhắm mắt.
Buổi họp tiếp tục, bây giờ có mấy anh thành phần đảng phái quốc gia tự nhận đảng của mấy anh là đảng phản động. Mấy anh này kể ra “quá trình chống phá cách mạng của Ðảng anh và bản thân anh” rồi nói lên những suy nghĩ bây giờ nhờ được cải tạo. Hầu hết các anh nói những lời chung chung và hưá sẽ cải tạo tốt. Chỉ có hai anh Phạm Thái và Ðoàøn Thái là tích cực nhận tội, tự sỉ vả mình, nên được cán bộ ghi nhận là “có nhiều trăn trở.” Một số anh em khác cũng phải phát biểu, như anh Nguyễn Văn Thành, nghị viên Ðàlạt, các anh Ðoàn Quang Tuyên, Phan Vỹ, Trần Thích. Theo nhận xét của Niên trưởng Vũ Văn Vỵ lời nói của hai anh Phan Vỹ, Trần Thích là khôn ngoan và khéo nhất.
Trong suốt buổi họp, anh Vỵ mấy lần xin phép rời chỗ đến xem anh Tuyên. Anh Tuyên vẫn nằm thiêm thiếp, dấu hiệu duy nhất của sự sống nơi anh là ngực anh phập phồng nhẹ nhẹ.
Buổi sinh hoạt chấm dứt. Chúng tôi xúm lại chỗ anh Tuyên nằm. Anh Vỵ chạy ra nói với cán bộ Thoại. Cán bộ Thoại vào buồng nhìn anh Tuyên nằm rồi đi ra. Nhiều anh em buồng 1 họp xong chạy sang thăm hỏi anh Tuyên, trong số có Trần Cảnh Chung. Chung tỏ ra rất lo âu, anh là bạn của con anh Tuyên, Trần Tử Huyền.
Nửa giờ sau cán bộ Thoại trở lại với một cán bộ y tá. Cán bộ này nghe tim, bắt mạch, chích cho anh Tuyên một mũi thuốc.
Anh Tuyên nằm lại tại chỗ của anh Tuy. Anh cứ nằm bất động, không một lần tỉnh lại hay cựa quậy. Anh Vỵ cứ quanh quẩn bên chỗ anh Tuyên. Tôi cảm động vì mối giao tình của hai anh. Anh Vỵ khóc, những giọt nước mắt cứ lăn trên gò má răn reo của người tù già. Anh Vỵ và tôi hai lần thay quần cho anh Tuyên. Không có dấu hiệu nào cho thấy anh Tuyên biết được những việc xảy ra quanh anh. Anh Vỵ chốc chốc lại ghé tai gần mũi anh Tuyên xem anh còn thở hay không.
Sáng hôm sau, cán bộ Thoại vào phòng với cán bộ y tế. Rồi xe ô tô của trại đến cổng khu, cán bộ Thoại ra lệnh mang anh Tuyên ra xe.
Tôi cuộn anh Tuyên trong cái mền anh đang đắp, bồng anh ra xe. Trần Cảnh Chung nhẩy lên chiếc xe tải chở vật liệu xây cất, dẹp một chỗ để anh Tuyên nằm. Anh Tuyên vẫn thiêm thiếp.
Xe chạy. Anh em bị lùa vào khu. Cửa cổng khoá lại. Hôm ấy không ai làm gì được. Tất cả lóng ngóng chờ tin anh Tuyên. Mãi đến chiều cán bộ Thoại mới vào cho biết anh Tuyên được đưa ra bệnh viện tỉnh.
Chúng tôi đã quen với bộ bà ba trắng, mái đầu bạc, cái chân sưng tấy của anh Tuyên. Bây giờ vắng anh, tôi thấy tôi vừa mất đi một cái gì rất thân thiết. Anh Ðặng Văn Tiếp nói anh Tuyên khó qua khỏi vì như thế là anh Tuyên bị đứt gân máu, xuất huyết não. Tôi ngậm ngùi nói tội thay, ở sông, ở biển không chết, chết trong vũng trâu đằm..
Từng đi bốn bể, chín chu
Trở về xó bếp chuột chù gặm chân.
Vào buồng, Buồng trưởng Phạm Thái long trọng” cho chúng tôi biết anh Tuyên “được ban quản đốc Trại chiếu cố đưa về bệnh viện tỉnh cứu chữa.”
Ðầu chỗ nằm của anh Tuyên có vài quyển sách, một số giấy tờ. Anh Tuyên có quyển “Communism and how to fight it?” Anh Vỵ lấy đem về chỗ anh.
Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, cán bộ Thoại vào, nói tuy được tận tình cứu chữa, nhưng bệnh quá nặng, anh Tuyên đã mất lúc 2 giờ sáng (ngày 29 tháng 11, 1976). Chúng tôi lặng người đi.
Cán bộ Thoại đi rồi, anh em Buồng 1 sang bàn chuyện nay cử ai đại diện anh em đi đưa anh Tuyên đến nơi an nghỉ. Anh Ðặng Văn Tiếp đưa ra ý kiến nên có đại diện dân cử, đảng phái, tôn giáo.
Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau, Trại trưởng Dũng vào buồng 1, ra lệnh tập họp anh em hai buồng lại nghe y nói chuyện. Lố nhố bên ngoài là Trại Phó, An ninh, Trựïc trại, Giáo dục. Trại trưởng Dũng nói anh Tuyên chết vì bệnh, tuổi già. Việc cử đai diện này nọ đi đưa đám là không được. Y hỏi: “Các anh còn đoàn thể, đảng phái gì nữa? Các anh đại diện ai, đại diện cái gì? Ðã vào đây mà các anh còn chưa bỏ tư tưởng phản động! ” Rồi Y gằn giọng: “Các anh vi phạm kỷ luật của Trại..!” Y nói nhiều câu đe doạ trừng phạt rồi đi ra.
Nhưng rồi trại cũng cho vài người trong 2 buồng đi đưa đám anh TV Tuyên. Buồng 2 có hai người đi là Phạm Thái với tư cách Buồng trưởng, anh Vũ Văn Vỵ là bạn thân của người quá cố.
Tôi nhờ anh Vỵ lậy anh Tuyên dùm tôi ba lậy, nhiều anh em khác cũng nhờ anh Vỵ lậy dùm như thế. Ðồ của anh Tuyên được đem ra cho cán bộ kiểm kê, lập biên bản, cất vào kho tang vật. May mà anh Vỵ đã lấy được mấy quyển sách và số giấy tờ của anh Tuyên.
Chiều hôm ấy trời mưa rất lớn. Mãi đến khoảng 9 giờ tối anh em đi đưa đám anh Tuyên mới trở về buồng. Sau khi thay đồ, Buồng truởng Phạm Thái yêu cầu anh em ngồi lên nghe anh tường trình về đám ma. Anh mở đầu bằng những câu ca tụng sự khoan hồng và nhân đạo cuả Ðảng và Nhà nước, thể hiện trong việc tận tình cứu chữa anh Tuyên và việc chôn cất anh rất đàng hoàng, có cả lễ nghi tôn giáo, mộ có bia ghi tên người quá cố…
Phạm Thái nhắc đi, nhắc lại sự khoan hồng, lòng nhân đạo của Ðảng và Nhà Nước, sự tống tiễn chu đáo của Trại, giọng nói của anh đều đều, vô cảm, hoà nhịp với tiếng mưa rơi làm cho cảnh buồng giam đã ảm đạm đêm nay trở thành vô cùng thê thảm. Chúng tôi ủ rũ ngồi nghe, thương người vưà nằm xuống, giận tình đời đen bạc, khinh bỉ bọn thò lò sáu mặt, rồi thương thân mình. Những lời ca tụng lòng nhân nghĩa của “Cách mạng” như dao cưá, muối xát vào tim chúng tôi.
Cái chết của anh Trần Văn Tuyên gây xúc động sâu xa trong lòng chúng tôi. Với nhiều anh em chúng tôi, anh TV Tuyên là người bạn quí, là người anh gương mẫu, là người cha hiền. Thái độ khinh thị và những lời đe doạ của Trại trưởng Dũng làm chúng tôi tủi nhục, uất ức. Nhưng chúng tôi như những con cua gẫy càng, bị nhốt trong giỏ, còn chống cự gì được nữa!
Anh Vỵ bảo tôi rất có thể chúng nó chẳng đưa anh Tuyên đi cứu cấp, chữa trị gì cả, chúng nó chỉ cho xe chở anh đến chỗ nào đó, quăng anh nằm đấy. Anh chết rồi chúng nó đem về cho chôn. Anh Trần Cảnh Chung cũng cho là anh Tuyên chẳng được mang đi cứu cấp gì cả, chúng nó đem đi để nằm đâu đó cho chết. Anh Vỵ kể khi quàn xác anh Tuyên, chúng có chụp ảnh trước và sau khi quàn. Anh chỉ thấy có giấy chứng anh Trần Văn Tuyên đã chết của Trại, không thấy có giấy tờ gì của bệnh viện.
Ngưng trích

Dân biểu Trần Văn Tuyên, người bận com-lê đứng trước hàng dây thép gai, trong cuộc biểu tình “Ký giả đi Ăn Mày,” Sài Gòn năm 1974.
Tôi, Công Tử Hà Ðông, cũng nghĩ như các ông bạn tù của ông Trần Văn Tuyên: Bọn Cai Tù không đưa ông Tuyên đi cứu cấp. Sợ phản ứng của những tù nhân, chúng đã nói dối, chúng đã làm giả. Tôi thán phục sự nhận biết sắc bén của những ông tù VNCH: mới chỉ có một ông tù chết, các ông đã thấy ngay sự dối trá, hèn và tàn ác của bọn Cai Tù Cộng sản. Bọn chúng coi mạng sống của người bị chúng bỏ tù không ra cái gì cả. Ðây là chuyện chúng đối xử với người tù Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận khi ông bị ngất trong phiên toà xử “tội chống Cộng” của Tổ chức Già Lam. Tôi biết rõ chuyện này.
Năm 1982 một tổ chức chống Cộng bị bọn Công An Thành Hồ phá và bắt. Tổ chức tương đối lớn, đông người, có võ trang, tức có súng, dự định mở chiến khu đánh lại bọn cộng sản. Nhiều người của tổ chức bị bắt ở Sài Gòn, Hố Nai, Huế, Nha Trang. Trong số những người bị bắt có nhiều tu sĩ Phật Giáo và những người tín đồ Thiên Chuá Giáo. Những người bị bắt năm 1982 không chịu khai ra những lãnh tụ của họ. Cuộc điều tra kéo dài mãi cho đến năm 1984. Một người trong tổ chức bị bọn điều tra giam trong sà-lim ở Nhà Tù Chí Hoà đến ba năm. Chúng giam người này trong sà-lim với lời nói thẳng: “Khai nhóm lãnh đạo thì cho ra khỏi sà-lim, không khai thì cứ nằm trong đó.” Ba năm qua, chịu đựng khổ cực hết nổi, người bị giam phải cung khai. Trong một ngày bọn Công An Thành Hồ đi bắt ba người: Sư Nữ Thích Trí Hải, Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Sư Ông Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương. Một tháng sau chúng bắt thêm Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận.
Tổ chức chống Cộng ấy xuất phát từ Chùa Già Lam, Phú Nhuận, nên được anh em tù gọi là Nhóm Già Lam. Ðây là tổ chức chống Cộng có võ trang đông người, nhiều người nổi tiếng, bị giam lâu nhất ở Nhà Tù Chí Hoà. Bị bắt từ năm 1982, rồi có người bị bắt thêm năm 1984, bị giam mãi đến năm 1988 bọn Công An Thành Hồ mới đưa Tổ chức Già Lam ra toà xử.
Phiên toà kéo dài hai ngày. Buổi chiều ngày xử thứù hai, Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận, bị ngất, ngã trong phòng xử. Bọn Công An áp giải tù vào khiêng Thượng Toạ ra ngoài. Chiều hôm ấy chúng tuyên án: Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương tử hình, TT. Thích Ðức Nhuận tù 10 năm, nhiều người tù 20 năm, 18 năm, 15 năm. Người tù nhẹ án nhất trong tổ chức là 4 năm: Sư Nữ Thích Trí Hải.
Tối xuống, những người tù Già Lam từ toà án trở về nhà tù Chí Hoà mà không có TT. Ðức Nhuận cùng về. Mọi người đều nghĩ Thượng Tọa được đưa đi bệnh viện cứu cấp, nếu không được đưa đi BệnhViện Chợ Rẫy thì ít nhất ông cũng được đưa về nằm trong cái gọi là trạm xá y tế của nhà tù Chí Hoà. Hai tử tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương bị đưa ngay sang khu Tử Hình.
Tất cả mọi người trong phòng tù đều cho là Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận được đưa đi cứu cấp. Hôm sau khoảng 11 giờ trưa chúng tôi thấy Thượng Tọa được đưa vào phòng. Trông ông xanh xao, vàng ủng, yếu đến dễ sợ. Vào phòng ông kể chuyện, anh em chúng tôi mới biết…
Thượng Tọa không được cứu cấp chi cả. Chiều qua khi ông ngã ngất ở toà án, hai tên công an khiêng ông ra, cho ông vào xe chở tù. Xe này do Liên Xô chi viện, là xe chở nhóm tù Già Lam ra toà. Trong xe có một ngăn kín dùng để nhốt những tù nhân nguy hiểm, hung dữ. Chúng bỏ Thượng Toạ vào ngăn đó, đóng cửa lại và bỏ mặc ông trong đó. Khi những người Tù Già Lam lên xe trở về Chí Hoà, không ai biết có TT. Ðức Nhuận ở trong ngăn tù kín trong xe. Trong ngăn, TT có kêu người bên ngoài cũng không nghe tiếng. Xe về đến Nhà Tù Chí Hoà, bọn áp giải tù quên mất có một người tù bị chúng nhốt trong ngăn cách ly. Chúng bỏ quên TT. Ðức Nhuận trong xe.
Nhờ không bị còng tay, còng chân, không bị xiềng vào cái ghế sắt nên TT. Ðức Nhuận chỉ khổ mà không chết. Sáng hôm sau thấy trên mui xe có một lỗ hổng thông hơi, ông đứng lên ghế, thò tay qua lỗ thông hơi ra ngoài, vẫy vẫy. Ông gầy ốm, bàn tay và cổ tay ông nhỏ síu nên mới thò qua được lỗ thông hơi. Một tên công an đi qua bãi đậu xe, trông thấy có bàn tay người trên nóc xe vẫy vẫy, bèn đi lấy chìa khoá mở cửa xe, đưa ông vào phòng tù. Nếu Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận không thò được bàn tay ra trên nóc xe tù, ông đã chết khô trong xe.
o O o
Những ngày như lá, tháng như mây…
Bấy giờ là Tháng mấy, năm bao nhiêu? Em nhớ không Em? Hôm nay anh nhớ: Vào khoảng 11 giờ trưa một ngày Tháng 10, hay Tháng 11 năm 1988, anh ở trần, quần sà lỏn, ngồi giữa đám anh em người nào cũng quần sà lỏn, ở trần. Phòng tù đông tù, láo nháo những người, lao xao tiếng người, qua hàng chấn song sắt anh nhìn thấy thằng Cai Tù áo vàng đưa Thuợng Tọa Thích Ðức Nhuận về phòng. Ðến lúc ấy tất cả mọi người vẫn tưởng  Thượng Toạ về phòng từ cái gọi là trạm xá y tế của Nhà Tù. Năm phút sau khi ông vào phòng, anh em tù được biết suốt đêm qua ông bị chúng nó bỏ quên trong xe chở tù.
Tháng 10, tháng 11 năm 1988, ở Sài Gòn, thành phố thủ đô thân thương của chúng ta, thành phố đôi ta gặp nhau, yêu nhau và đôi ta thành vợ chồng, anh mới 50 tuổi, em mới 40 xuân xanh. Thực ra thì năm ấy anh 54, 55, em 52, 53 chi đó, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ấy: 55 tuổi anh mới 50, 50 tuổi em mới 40: năm ấy đôi ta còn trẻ lắm. Qua bao nhiêu đau thương, bao nhiêu vỡ tim, bao nhiêu dâu biển, bánh xe tị nạn đưa đôi ta đến Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, anh đọc những trang người tù kể chuyện xưa và trong 543 sát-na anh thấy anh ốm nhách, anh ở trần, anh quần sà lỏn, anh râu ria, anh ngồi giữa đám anh em lao nhao, lao xao trong Phòng Tù Số 20 Khu FG Nhà Tù Chí Hoà, anh nhìn thấy Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận xanh xao đứng ngoài hàng lang chờ thằng cai tù Việt Cộng nó lạch cạch khoá sắt mở cửa phòng tù cho ông vào. Suốt đêm qua bọn cai tù cộng sản ác ôn bỏ quên ông trong xe tù của chúng. Từ lúc 3 giờ chiều hôm qua khi ở phòng xử toà án, ông ngã ngất đến lúc này là 11 giờ trưa ông không được uống một miếng nước. Nếu trong mười mấy giờ vưà qua ông có chết, bọn cai tù sẽ nói chúng có đưa ông đi cấp cứu đàng hoàng, nhưng ông chết..
Như chúng đã nói như thế về  Người Tù Trần Văn Tuyên!
Và 30 năm sau những ngày sống u ám, tuyệt vọng của đôi ta ở Sài Gòn, hôm nay anh ngồi bình an trên đất Mỹ đọc chuyện xưa, nhớ chuyện xưa, anh viết những dòng này. Em yêu ơi.. Bọn cộng sản ác ôn chúng nó bỏ tù, chúng nó giết ông Thủ Tướng Phan Huy Quát của chúng ta ở Nhà Tù Chí Hoà, chúng nó bỏ tù, chúng nó giết ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên của chúng ta ở một trại tù khổ sai miền Bắc. Không phải chúng chỉ bỏ tù, chúng chỉ giết có hai ông ấy, chúng bỏ tù 5,546,834 nhân vật quốc gia của chúng ta, chúng giết 3,765, 832 người trong số đó. Anh không thù, anh không hận chúng nó sao được!
Dzậy mà em thấy đấy, ở Mỹ này có những thằng dám mở mồm bảo, khuyên anh “Quên hận thù bọn cộng sản đi. Ðừng kể chuyện Tù Ðầy nữa!” Những thằng khốn nạn ấy không bằng loài chó!
Anh sẽ còn tính chuyện phải quấy với những thằng khốn kiếp đó dài dài!

NGUYỄN MẠNH CÔN * MỐI TÌNH HOA ĐÀO

Mối Tình Màu Hoa Đào
1.
Truyện chàng thanh niên đi tìm lý tưởng, say mê như tìm một người yêu quàng khăn màu hoa đào. Chàng đi tìm màu hoa đào trên mọi người và trên mọi cảnh. Thất vọng ngoài kháng chiến, chàng về vùng quốc gia, để rời đơn vị của người Pháp. Công việc tìm kiếm vẫn tiếp tục.
Bây giờ, Chàng đã vào Nam, gặp những người bạn trẻ, nhắc lại chuyện “lên đường”.
NGƯỜI BẠN TRẺ: Hôm nay đến hẹn, chúng tôi xin tiễn anh lên đường.
CHÀNG: Lên đường?
N.B.T: Vâng, lên đường! Anh có vẻ ngạc nhiên, anh quên rồi hay sao?
CHÀNG: Không, tôi không quên. Nhưng nói cho thật thì tôi không nhớ. Không phải tôi ngụy biện đâu – ánh mắt của các anh cười đủ nói với tôi nhiều lắm – tôi chỉ muốn tỏ bày sự thật rằng tôi chưa quên hẳn, nghĩa là còn muốn giữ ý đó trong tâm hồn: nhưng quả thật tôi không còn như trước, như hồi mới gặp các anh khi toàn thân tôi như một dây cung căng thẳng, lúc nào cũng sẵn sàng để phóng đi những mũi tên tìm kiếm.
N.B.T: Vậy có thể cho rằng anh không quên, nhưng không nhớ đến luôn. Anh bận kiếm sống, lo lắng cho gia đình. Khi nào nghèo, anh bận tính toán và oán hận; khi nào giầu anh bận tiêu tiền, tiêu tiền thế nào cho hợp với con người kiêu hãnh của anh.
N.B.T: Hoặc giả anh bạn sửa soạn cho anh một thái độ … một thái độ không giả dối nhưng thỏa mãn được sự cần thiết che đậy sự dằn vặt tâm hồn của anh bởi rất nhiều, quá nhiều mặc cảm phạm tội.
CHÀNG: Tôi thì không thấy tôi có tội gì. Ngoài một vài lỗi tầm thường mà con người nào cũng tự tha thứ cho nó bằng sự quên lãng, tôi không nhớ tôi có lần nào vi phạm luật lệ của xã hội hay của lương tri. Tôi tin chắc là không có gì muốn giấu…
N.B.T: Không phải thế. Tôi không muốn nói anh có tội gì muốn giấu. Tôi biết chắc đã từ lâu, anh cố giữ một nếp sống hoàn toàn chân thật. Sự cố gắng của anh đập vào mắt chúng tôi như một tia sáng chói lọi. Chúng tôi kính phục anh về phương diện xã hội. Nhưng chúng tôi muốn biết tại sao anh lại phải cố gắng như thế, sau khi anh chứng tỏ được lời khen, chê, của thế nhân không bao giờ làm bận lòng những người có gan tìm kiếm?
CHÀNG: Có thể tôi vẫn còn e ngại những lời đàm tiếu … hay tôi lười không muốn kháng cự, nên vô tình phải dùng đến chiến thuật “mở cửa thành” để khỏi có gì phải bảo vệ?
N.B.T: Anh giải thích sâu sắc và hợp lý. Nhưng không đúng với anh. Anh quên anh có thằng người kiêu hãnh vô cùng trong nội tâm… Không! Không đúng! Anh không phải là con người đầu hàng. Anh là con người chống đối, chống đối thường trực, vì tìm kiếm thường trực. Thái độ chân thật của anh phải được coi là một chiến thuật, một kỹ thuật đơn phương tạm ngưng cuộc tranh đấu. Để làm gì? – Để được tiếp tục yên ổn cuộc tìm kiếm. Hoặc để bảo vệ cái lương tri có tinh thần trách nhiệm của anh: anh tự coi như có sứ mạng mở đường cho thế hệ đi sau, nhưng anh không tìm thấy con đường nào thật, đúng, cho nên anh chấp nhận một thái độ khó khăn – khó khăn đối với thế nhân – để làm ra vẻ “đã tìm và đã thấy”. Lẽ cố nhiên tất cả những điều tôi vừa nói chỉ thuộc vào loại phản ứng “chìm”, phản ứng riêng trong vô thức của anh.
CHÀNG: Anh nói đúng. Tôi xin nhận trong tôi vẫn còn sống cái chí hướng đi tìm màu hoa đào trên chiếc khăn xưa cũ. Nhưng tôi đã nhiều tuổi rồi, sự tìm kiếm không còn bao nhiêu hy vọng. Tôi sợ bị chê cười là đã qua giai đoạn nghi ngờ mà vẫn còn đi tìm ảo ảnh. Tôi không còn cái can đảm bất chấp lời phê phán của thế nhân, khi lời phê phán ấy có phần nào có lý. Bởi vậy tôi phải làm ra vẻ con người đã “tới”: tôi sướng thỏa với những gì đã có, tôi chân thật và tin tưởng vào đời sống. Tôi biết chắc thái độ này, trong vòng mười năm, hai mươi năm, sẽ biến tôi thành một hiền giả hay triết nhân gì đó. Đó có thể là mục đích phần lớn loài người. Nhưng riêng tôi, tôi nhận với các anh, tôi chưa tìm thấy màu hoa đào ở bất cứ nơi đâu…
N.B.T: Chúng tôi nghĩ rằng chẳng bao giờ anh tìm thấy. Chúng tôi nghi ngờ sự hiện hữu của màu hoa tươi đẹp ấy của anh.
CHÀNG: Các anh nghi ngờ là các anh phạm tội. Nhưng các anh đáng được giảm khinh, vì các anh lớn lên trong miền Nam nắng cháy. Màu hoa đào, dù có thật dưới mặt trời nhiệt đới, cũng không có vẻ đẹp say đắm hồn người như ở ngoài miền Bắc.
N.B.T: Như thế có nghĩa là màu hoa đào chia cắt Bắc Nam? Chúng tôi rất tiếc là anh đã nhầm. Vì hoa đào không thiếu gì trên cao nguyên Trung Việt. Anh cũng nhầm vì hoa đào còn nhiều giống, loại khác nhau, ở Đông Kinh, ở Ba Lê. Màu hoa đào, nếu anh muốn, chúng tôi có thể pha bằng bột sơn trên giấy vẽ, pha đến bao giờ anh nhận rằng thật đúng mới thôi.
N.B.T: Anh đừng cãi. Chúng tôi sẵn sàng giảm khinh lại cho ạnh Anh lớn lên trong tù ngục tinh thần; chúng tôi không trải qua, nhưng cũng đoán thấy các anh – anh cũng như các anh khác – bị bao vây quá chặt Các anh bị bắt buộc phải lựa chọn, một bên là tất cả, một bên là chẳng có gì. Các anh có thể đã có lúc hướng về phần hưởng thụ: các anh sẽ không phải có một quyết định nào to tát vì có nhiều người, tài giỏi hơn, đã lựa chọn nhiều lần. Nhưng các anh đã chống đối. Các anh đã có công lao từ khi chống đối. Sự chống đối ấy khó khăn. Chúng tôi hiểu tại sao anh cần đến một sắc đẹp, một màu hoa, để giữ trọn được thủy chung trong thái độ.
CHÀNG: Anh nói thế, có nghĩa rằng màu hoa đào của tôi chỉ là màu bịa đặt. Rằng người con gái đẹp, người con gái tôi yêu tha thiết, mà tôi trở về tìm ở ngôi nhà bỏ không đường Quan Thánh, người con gái mà tôi đã vượt qua bao nhiêu phòng tuyến để lại gặp một lần … cả người con gái ấy cũng bịa đặt hay sao?
N.B.T: Tôi không biết những sự thật của thời quá khứ. Quá khứ chỉ là nhiều đốt ngắn trên con sông dài thời gian. Thời gian tự nó chỉ bao hàm một ý nghĩa hoàn toàn chủ quan trong một nỗi mường tượng của mỗi người về cuộc đời của chính mình (Anh thử xóa vết tích của mình anh đi, xem thời gian có còn là gì nữa hay không?) Tôi nghĩ thế nên không tin vào những xự kiện như những đơn danh tuyệt đối. Sự kiện chỉ có giá trị khi được dung làm yếu tố cho lý luận. Anh có thể đã yêu, người yêu của anh có thật trăm phần trăm. Nhưng anh, anh đã từ chối hưởng thụ, từ chối xây dựng gia đình và hạnh phúc như thế nhân, thì sự lỡ dở, sự tìm kiếm, và cả người , cả tình yêu của anh, chỉ còn giá trị của biểu tượng. Anh cho phép tôi một lời sống sượng: anh bám lấy một con người, một sắc đẹp hay một mối tình, vì anh rất sợ… Anh sợ không còn gì, anh sợ sự rỗng không, mà không ai dám nhận với ai điều ấy. Chúng tôi rất kính phục anh có tài xây dựng những tòa lâu đài “thái độ” huy hoàng trên bãi cát: cát cuốn theo bãi thủy triều rồi, nhưng lâu đài của các anh còn đó? Các anh đã lừa dối chúng tôi! Các anh đã lừa dối chúng tôi bằng những thái độ quả quyết mà không có một phân, một ly nào cơ sở vững vàng bằng tư tưởng ….
N.B.T: Anh, xin anh đừng giận! Người bạn tôi vô lễ với anh chỉ vì tha thiết quá đấy thôi. Vì sự thật, trong đáy tâm hồn, chúng tôi vẫn bấu víu lấy các anh, bấu víu vào quá khứ để sống. Vì sự thật là chúng tôi oán hận các anh, nhưng không phải tại các anh lừa dối – sự lừa dối đã trở thành vô nghĩa khi chúng tôi đã biết nó từ ngày mới lớn – mà chính các anh nhẫn tâm trên con đường tìm kiếm lột trần hết mọi điều hoặc đã làm nên niềm vui sống, hoặc đã làm nên chất si mê của tuổi trẻ các anh. Các anh không tôn trọng luật bù trừ trong khi chiến đấu, như ông cha, tổ tiên chúng ta biết giữ kín, trong mỗi cá nhân, những kinh nghiệm đớn đau của tuổi trẻ của các người. Các anh thiếu kinh nghiệm trước sự sống mông mênh, sâu thẳm. Các anh đã kiêu ngạo như những người da trắng phương Tây. Các anh tưởng là sẽ theo đuổi được cái bóng của chính các anh. Các anh đã kể lại và bắt chúng ta ngồi nghe, về cuộc săn bắn quái gở đó . Các anh tàn nhẫn quá: các anh phá hoại tuổi trẻ của chúng tôi tấ cả những dữ kiện có thể tạo thành một ảo vọng.
CHÀNG: Đừng nóng nẩy! Tất cả mọi giận hờn đều vô ích. Các anh nghĩ về mình, tự thấy thiệt thòi, nên quy oán cho chúng tôi. Các anh nuối tiếc một trạng thái đã qua của đời sống, nên không nhận thấy chính chúng tôi cũng chỉ là nạn nhân bị lôi cuốn bởi thời thế. Các anh quên rằng chính chúng anh nói chúng tôi bị bao vây, bị bắt buộc phải chọn lựa, trung thành với bổn phận đối với các anh, trong giai đoạn trưởng thành … Chúng tôi đã cố gắng để tiến. Vì không tiến tất bị đào thải bởi sự tiến bộ của chính các anh. Các anh thử nghĩ xem có thể tha thứ cho chúng tôi không, nếu giữa thời đại của Freud, Sagan, Mao Trạch Đông… chúng tôi không mở cửa cho các anh đi vào thế giới mới của tư tưởng?
N.B.T: Xin lỗi! Chúng tôi tự tìm lấy , tự khám phá những bí ẩn của cuộc sống của chính chúng tôi và chỉ của riêng chúng tôi mà thôi. Chúng tôi không chấp nhận sự kể công của những quân cờ thụ động của cuộc giao tranh giữa chúng tôi và thế cuôc. Sự thật nếu có phần cay đắng thì vẫn là sự thật. Các anh bị chúng tôi bỏ rơi xa quá. Sự cách biệt vô cùng giữa những người cố giữ và những người cố phá: chúng tôi phá những gông xiềng tinh thần các anh muốn bắt chúng tôi van vái. Sự cách biệt vô cùng giữa những người cố tin vào những điều mà họ nghi ngờ trước hết, và những người can trường, chỉ thèm biết đến hiện hữu mà thôi. Sự cách biệt vô cùng nên các anh không hiểu. Tôi nói “các anh” ở đây là gồm cả những người chịu thỏa mãn nửa chừng và cả những người như anh còn tiếp tục tìm kiếm. Các anh không thể hiểu chúng tôi đã tiến xa đến mức có thể có người tự xé nát ra để khinh bỉ những mảnh tâm hồn bẩn thỉu của họ. Có những người khác rời bỏ cả một gia đình, có đủ tiền tài danh vọng, để dấn thân vào bùn nhơ, để đầy ải hay đùa cợt bằng cái thể xác năm chục, sáu chục ký lô mà hai đấng sinh thành đã tạo nên trong cơn dâm dục (Anh thử nghĩ: một người bạn tôi đã tả được kéo dài suốt 15 phút, những vẻ mặt do những khoái cảm của cha mẹ hắn tạo thành, ngay trong đêm đào tạo ra hình hài của hắn) Các anh không thể hiểu…
CHÀNG: Có! Chúng tôi hiểu. Tôi hiểu.
N.B.T: Vô lý!
CHÀNG: Theo Freud, đứa con trai có thể thèm muốn cả người đàn bà đẻ ra nó.
N.B.T: Vô lý!
CHÀNG: Tại nhiều bộ lạc miền núi, ở những nơi hiếm đàn bà ở miền Bắc Ấn-độ và miền Tây Trung-hoa, người đàn ông chết sớm để vợ lại cho đứa con trai lớn. Điều quan hệ đối với con người ở những nơi đó là giữ lấy giống nòi đang tàn tụi. Cứu cánh quá nặng làm cho phương tiện trở thành quá nhẹ. Tôi nói tôi hiểu vì tôi đã trải qua những chai đá tương tự.
N.B.T: Anh trải qua! Vậy là tất cả những lỗi lầm của tuổi trẻ hôm nay anh cho là tốt cả hay sao?
CHÀNG: Tôi không có ý nghĩ như thế. Tôi chỉ muốn nói rằng một phần nào tuổi trẻ đã đặt sai phương trình tâm lý. Thế hệ nào cũng có những người tốt, những người xấu; và thế hệ nào; dù vùng vẫy đến đâu, rồi cũng phải đầu hàng cái nếp sống xã hội vốn dĩ là thói quen được chọn lựa từ năm nghìn năm về trước. Sự nổi loạn, tưởng như là của riêng của các anh, thật ra đã có trong chúng tôi. Nhưng thời gian chiến tranh quá dài đã gây nên trạng thái đứt lìa về tâm lý. Rất nhiều người trong chúng tôi quên hẳn những gì họ đã làm thời niên thiếu. Nhiều người khác có nhớ nhưng man trá, và lợi dụng danh nghĩa chính trị, họ che lấp cái quá khứ có khả năng di hại cho sự nghiệp của họ. Kết quả là một số người sẵn sàng kết án tuổi trẻ chỉ gồm những quái thai ghê gớm, để đòi hỏi một sự thức tỉnh – một công cuộc tự hối như người ta nói – để phục vụ dân tộc. Mặc dù tuổi trẻ của họ, nghĩa là của chúng tôi, chưa lần nào bị bất cứ ai đặt vấn đề đoàn kết hay hy sinh, tuy chúng tôi đã ngoãi hai mươi tuổi.
N.B.T: Anh nói thế, tại sao có những người, có rất nhiều người chiến đấu?
CHÀNG: Vì những người đó,như anh nói lúc đầu, bị bắt buộc phải chọn lựa. Một bên là nô lệ, một bên là tự do, tự do với chiến đấu.
N.B.T: Anh! Anh chấp nhận điều đó? Anh chấp nhận rằng năm sáu năm oai hùng của tuổi trẻ của anh chỉ là kết quả của một sự bị bắt buộc phải chọn lựa? Anh, anh hay coi chừng, chúng tôi không muốn quật ngã anh đau quá… Vậy tôi nhắc lại, anh bị bắt buộc phải chọn lựa hay tự ý anh chọn lựa? Tôi nhắc lại lần thứ hai rõ hơn: quá trình kháng chiến của anh sẽ mất đi rất nhiều phần giá trị nếu các anh bị bắt buộc phải tham dự.
CHÀNG: Cám ơn anh. Tôi yêu mến cái thái độ quân tử và khôn ngoan của các anh. Tôi không quên một phần lớn danh dự kháng chiến của chúng tôi được đặt vào tính chất tự nguyện của những người đứng trong hàng ngũ. Tôi không phải không biết chúng tôi sẽ bị lấy lại cái phần vinh dự đó nếu chúng tôi chỉ là những chiến sĩ bị động viên, bị trưng dụng. Tôi không phải không biết sự thành thật của tôi sẽ có một hậu quả tai họa hơn: nó phá vỡ mảnh thần tượng còn lại trong tâm hồn các anh.
N.B.T: Đúng thế. Khi sự bịp bợm láo khoét trở nên tinh vi như một nghệ thuật, chúng tôi không được phép trở nên tin tưởng ở bất cứ sự việc nào, với mục đích nói rằng cao quý. Chúng tôi chỉ có thể tìm trong quá khứ, quá khứ để gần gụi để chúng tôi cảm thấy được sự thật còn nóng hổi, nhưng quá khứ đủ xa để chúng xác nghiệm được tính chất không vụ lợi của những người trong cuộc. Quá khứ đối với chúng tôi, đó chính là cuộc kháng chiến hoàn toàn vì tự do, vì dân tộc của các anh. Bất chấp những mặc cảm nó chia rẽ chúng ta, bất chấp sự ganh đua giữa những đối tượng đã hiển hiện một cách cụ thể cho niềm tin tưởng của chúng tôi vào tính chất có thể gọi là cao thượng của đời sống. Chúng tôi đọc sách và nghe kể lại, lúc nào cũng thấy cuộc kháng chiến đã do chính các anh chấp nhận. Các anh vì thế mà trở thành thần tượng của chúng tôi, hay hơn thế nữa, các anh trở thành một thứ thành lũy thiêng liêng nó ngăn cản không cho chúng tôi tự buông mình xuống vực thẳm. Thế mà… thế mà anh tàn nhẫn quá. Anh đập cho bể nốt nơi bấu ví sau cùng của tuổi trẻ….

RFA * HỒI KÝ MỘT NGÀY GIÔNG TỐ

HỒI KÝ MỘT NGÀY GIÔNG TỐ

RFA: Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (1)">RFA: Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (1)
RFA: Đảng và NN CSVN đã chuẩn bị thế nào? Diễn biến cụ thể một đợt CCRD.(2)
RFA: Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (3)
RFA: Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất”(4)

Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1)

2008-02-07
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.

Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.
Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.
Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”

Lời dặn “nhân ái”

Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng: “Nhục hình là lối dã man” và “ tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng.”
Căn cứ trên thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn “nhân ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai. Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người đã bao trùm toàn lãnh thổ.
Cũng xin nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành phố Hà nội kể lại: “Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn địa chủ thì không phải, đó là những ngừơi chống lại nhân dân, là kẻ địch của nhân dân.”
Không chỉ những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô lập theo chính sách của đảng. Không chỉ gia đình của những người bị kết tội địa chủ phải chịu nhục nhằn, mà những cảnh tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó vẫn còn in dấu cả mấy chục năm sau nơi những chứng nhân.
Ngay trong đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956 mỗi khi nói đến các cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất cũng đều phải dùng hình dung từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của Cải cách ruộng đất.
Nhà văn Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại: “Đối với tôi, lý tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trứơc cổng nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa chủ. Sau lưng nhà tôi, đừơng tàu, cũng là xác một ngừơi tự tử chết bằng cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi tưới rau, tôi đã thấy những ngừơi chết đó, và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp.”
Và nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát biểu: “Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì tôi đã đựơc chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp ngừơi ta, mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ ngừơi ta, mà không có xét xử công minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời đó tôi đã chứng kiến.
Gia đình nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư đựơc, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình phải chịu trận, cho nên rất là khổ.”
Còn nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, đã nhớ lại lời bà cô của ông dặn dò như sau: “Tôi có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc đựơc thả về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà. Bà cô tôi chỉ nói, cháu ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy.”

Vết thương chưa lành

Cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt 50 năm trước đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương chưa lành đối với quá nhiều con người dù có trực tiếp là chứng nhân hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù 50 năm đã qua đi, thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.
Đó là lý do khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.
Loạt bài sẽ bắt đầu với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng. Ông sẽ điểm lại tám đợt phát động quần chúng giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949. Sau đó, là lời kể lại của ông Nguyễn Minh Cần là người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.
Xen kẽ sẽ là lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân, của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất, lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy, của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan, tác giả màu tím hoa sim, vốn là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách ruộng đất.

Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (phần 2)

2008-02-07
Mở đầu loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn của BTV Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949 và chấm dứt vào năm 1956. Ông Trần Gia Phụng hiện đang sinh sống tại Canada.
Ông Trần Gia Phụng đã tốt nghiệp khoa sử địa đại học sư phạm Huế và cử nhân giáo khoa Sử đại học Văn khoa Huế năm 1965. Trong vòng 10 năm trở lại đây, ông đã xuất bản 14 đầu sách nghiên cứu về Sử, trong đó liên quan đến chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam có các cuốn, Án tích Cộng Sản Việt Nam xuất bản năm 2001 và Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003.
Nguyễn An: Trước hết, xin anh cho biết bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất.
Ông Trần Gia Phụng: Muốn nói đến bối cảnh và mục đích của cuộc cải cách ruộng đất thì có lẽ chúng ta phải bắt đầu từ đầu. Tức là bắt đầu từ cuộc chiến tranh 46-54. Cuộc chiến tranh này có thể chia ra làm hai giai đoạn: từ 46-49 và từ 49-54.
Năm 1949 là năm cần phải chú ý, thưa anh, là vì năm này có hai sự kiện quan trọng.
  • Sự kiện thứ nhất là chính phủ Bảo Đại ra đời sau hiệp định Élysée năm 1949.
  • Thứ hai là nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào 1/10/1949.
Khi chính phủ Bảo Đại được thành lập, nhiều người rời bỏ chiến khu để về thành thị sinh sống theo chính phủ Bảo Đại.
Ngoài hậu quả chính trị, thì việc trở về thành thị làm cho Việt Minh mất đi nguồn nhân lực, nhất là thiếu thanh thiếu niên để đưa vào bộ đội. Còn về phía Trung Hoa, khi mà Đảng CS lên cầm quyền ở Trung Hoa thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thì Trung Hoa viện trợ cho Việt Minh vũ khí và vừa cả nhân sự nữa. Cho nên Việt Minh chuyển từ du kích chiến qua vận động chiến mở những trận đánh lớn chống Pháp. Thành ra, năm 1949 mà mốc giới quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.
Ngoài ra, nếu tính từ năm 1946 chiến tranh đã xảy ra cho đến năm 1949 (chiến tranh đã xảy ra 3 năm) thì dân chúng tản cư từ vùng này sang vùng khác, hoặc là bỏ vùng quê ra thành thị sinh sống nên có nhiều đất đai bỏ hoang, không canh tá. Vì vậy mà Việt Minh mở cuộc cải cách ruộng đất để giải quyết hai nhu cầu trên của họ.
Nguyễn An: Thưa, nhu cầu thứ nhất là thiếu người, và nhu cầu thứ hai là…
Ông Trần Gia Phụng: Lương thực cho bộ đội.
Nguyễn An: Thế như vậy cuộc cải cách ruộng đất như anh vừa nói thì có thể coi như bắt đầu từ năm 1949?
Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng!
Nguyễn An: Và nó kéo dài đến năm 1956, như vậy nó qua bao nhiêu giai đoạn?
Ông Trần Gia Phụng: Thưa anh, nó qua tất cả là 5 giai đoạn.
Nguyễn An: Thưa, là những giai đoạn nào?
Ông Trần Gia Phụng: 5 giai đoạn này bắt đầu là nó được đánh dấu bằng sắc lệnh cải cách ruộng đất.
  • Thứ nhất là từ năm 1949, năm này để khuyến khích nông dân ra sức cày bừa thì nhà cầm quyền Việt Minh ra sắc lệnh để thành lập hội đồng giảm tô. Họ ấn định rằng các chủ đất phải giảm tối thiểu và đồng bộ tiền thuê đất (tô tức là tiền thuê đất) cho tá điền (tức là nông dân cày ruộng). Có nơi giảm đến 35% tiền thuê đất.
Sau đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Việt Minh gọi là Việt gian, tức là những người mà Việt Minh kết tội thông Pháp hoặc là những người không cộng tác với Việt Minh.
Nguyễn An: Thưa, giai đoạn này kéo dài bao lâu ạ?
Ông Trần Gia Phụng: Thưa, giai đoạn này cũng chỉ trong năm 1949 thôi!
  • Bởi vì trong năm 1950 đã thay đổi. Sắc lệnh ngày 12 tháng 2 năm 1950 tổng động viên toàn bộ nguồn nhân lực (tức là người), vật lực (gia súc và nông cụ) và tài lực (tức là tiền bạc) cho tổ quốc.
Trong năm 1950 này, xuất hiện cùng một lúc 2 sắc lệnh, cùng một ngày nữa. Sắc lệnh thứ nhất là xoá bỏ tất cả các hợp đồng vay nợ giữa tá điền và điền chủ ký kết trước năm 1945 và xoá bỏ các hợp đồng ký sau năm 1945 nếu con nợ đã trả đủ 100%
Nguyễn An: Như vậy, cả lãi lẫn vốn đã trả rồi mà bằng cái số vốn vay ban đầu thì xoá luôn?
Ông Trần Gia Phụng: Dạ, xoá luôn! Cùng sắc lệnh thứ hai đó là quốc hữu hoá tất cả những đất đai bỏ hoang trong 5 năm liên tục, thì sẽ những đất đai này lấy và chia lại cho nông dân. Nhưng mà ngang đây, tức là năm 1950 thì nó có những sự kiện quan trọng mà cái quan trọng nhất là ông Hồ Chí Minh qua thăm Bắc Kinh tháng 1/1950 rồi qua thăm Mạc Tư Khoa.
Trong cuộc gặp gỡ tại Mạc Tư Khoa giữa ông Hồ và Stalin, thì Stalin thúc bách ông Hồ thực hiện 2 việc: việc thứ nhất là ông Hồ phải tái công khai Đảng CS, và việc thứ hai là ông Hồ phải đẩy mạnh cuộc cải cách ruộng đất theo đường lối CS. Để chuẩn bị cho việc cải cách ruộng đất thì ông Hồ mở phong trào chỉnh huấn theo đường lối của CS Trung Hoa
Nguyễn An: Và sau chuyến đi của ông Hồ thì bắt đầu cho giai đoạn 3 chăng?
Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng! Thì sau đó chuẩn bị bắt đầu cho giai đoạn3.
Trước giai đoạn 3, ông Hồ đã cử phái đoàn sang Trung Họa để học khoá học về chủ nghĩa Mac-LeNin ở Bắc Kinh. Nhưng thật sự ra đó là học về phương thức cải cách ruộng đất theo đường lối của Trung Cộng. Và phái đoàn này trở về thì đượcĐảng CS tổ chức gởi thí điểm tất cả các nơi ở Bắc và Bắc Trung Việt; còn ở trong Nam cũng có nhưng mà ở những miền sâu, còn những miền bán Bình Nguyên là những miền đồng bằng gần với các tỉnh thì ít thấy xuất hiện.
Nguyễn An: Thưa, như vậy thì giai đoạn 3 kéo dài bao lâu và đặc điểm của nó là gì?
Ông Trần Gia Phụng: Nó bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm1953 đăng trên công báo của Việt Minh. Đặc điểm của nó là ngoài luật lệ thêm vào thì luật mới là quyết định tịch thu tất cả tài sản của đế quốc Pháp, của Việt gian, của địa chủ ác ôn.
Và nó có một đặc điểm nữa đó là giai đoạn 3 này bắt đầu thành lập uỷ ban Nông Nghiệp các cấp.
Ủy ban Nông Nghiệp trung ương do thủ tướng đứng đầu, và ở các thành phố đến cấp xã cũng có uỷ ban Nông Nghiêp Và bắt đầu thấy xuất hiện những cuộc đấu tố. Nhưng mà khi đó bắt đầu sửa soạn hội nghị Geneva, cho nên Việt Minh nhẹ tay để tránh làm xôn xao dư luận.
  • Thế còn qua giai đoạn 4 là nó bắt đầu quy định toà án nhân dân để xét xử những thành phần chống lại cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng mà giai đoạn 4 mới tiến hành thì xảy ra hiệp định Geneva. Tuy có toà án nhân dân nhưng chưa xảy ra vụ đấu tố rùng rợn như sau năm 1954.

Giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất (phần 3)

2008-02-07
Ông Trần Gia Phụng: Ngày 14 tháng 6 năm 1955, ông Hồ Chí Minh mới ký sắc luật về cải cách ruộng đất đợt 5, sắc luật ngày 14 tháng 6 năm 1955, tuy dựa trên căn bản của hai sắc lệnh năm 1953, nhưng mà họ còn có những hành động gắt gao hơn là thành lập cái ủy ban cải cách ruộng đất từ trung ương do Trường Chinh cầm đầu, rồi ở mỗi địa phương họ thành lập những đội cải cách ruộng đất, rồi họ thành lập tòa án nhân dân, thì cái giai đoạn này chính là thảm họa của nông dân Bắc Việt.
Tòa án nhân dân là cái công cụ để thanh lọc hàng ngũ nông thôn, truy xét tận gốc rễ lý lịch của tất cả cái thành phần nông thôn, và đồng thời tòa án nhân dân cũng là cái công cụ để tiêu diệt tất cả những thành phần lãnh đạo xã hội cũ.
Nguyễn An: Tất cả những thảm kịch đó xảy ra là trong đợt 5, thưa anh tại sao cuộc cải cách ruộng đất lại dừng lại năm 1956? Có phải là vì họ đã đạt dược mục đích không hay là bởi có quá nhiều lời kêu ca, có quá nhiều trường hợp oan ức cho nên họ phải dừng lại?
Ông Trần Gia Phụng: Đây là một câu hỏi lý thú, lý thú là vì cái chỗ này này:
Đứng trên quyền lợi dân tộc, đứng trên lập trường của đại đa số quần chúng Việt Nam, nghĩa là đứng trên lập trường của một người Việt Nam thì rõ ràng ai cũng thấy là CSVN sai lầm trong cải cách ruộng đất, nhưng đứng trên quyền lợi của đảng CSVN, của thiểu số chóp bu trong đảng, họ không sai lầm.
Đứng về phương diện chuyên môn nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển, không thăng tiến được đời sống nông dân mà còn làm tan nát nền nông nghiệp cổ truyền ở ngoài Bắc và đưa mọi người vào cảnh nghèo đói.
Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của đảng CS thì họ đã thành công trong cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt cái đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ. Lẽ thứ nhất là vấn đề nội bộ Bắc Việt là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được những mục tiêu chính trị của họ. Cái mục tiêu chính trị của họ là gì?
  • Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ cái cái giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó là lớp lãnh đạo mới là những đảng viên CS,
  • cái mục tiêu chính trị nữa là họ chận đứng sự trà trộn của những điệp viên địch thủ trong dân chúng, họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn, họ thay thế bằng cái chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác xít.
Ngoài ra, cái liều lượng khủng bố của CS đối với nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 đủ để khuất phục nông dân, đủ để làm cho nông dân khiếp sợ, làm cho họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, sống luôn luôn trong sự sợ hãi tột cùng và ghép họ vào trong khuôn phép CS, ổn định một cách kiên cố hạ tầng cơ sở xã hội nông thôn miền Bắc. Nhưng nếu làm quá đi, đẩy họ đến cùng thì nông dân họ sẽ nổi dậy như vụ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An tức là quê hương của ông Hồ Chí Minh năm 1956 và ông Hồ Chí Minh phải điều động cả một sư đoàn tới đó mới dẹp yên.
CSVN đã đạt được cái mục đích là tiêu diệt cũng như là xóa sạch những cái thành phần “phản động” ở nông thôn, đưa nông dân vào hợp tác xã do nhà nước quản lý, lấy lại cái đất đai mà lâu nay đã cấp cho nông dân hoàn toàn làm chủ cái phương tiện sản xuất nông nghiệp, quản lý cái kho lúa gạo trên toàn miền Bắc, áp đặt và củng cố vững vàng cái chính sách chỉ huy nông nghiệp, thì ông Hồ Chí Minh và đảng của ông ta, đảng CS lúc đó có cái tên là đảng Lao Động ngưng cuộc cải cách ruộng đất để quay qua ổn định tình hình ở thành phố. Tôi nói như vậy đó là đứng trên phương diện nội bộ Bắc Việt.
Nguyễn An: : Anh vừa dùng chữ nội bộ Bắc Việt, như vậy thì yếu tố thứ hai chắc phải là từ bên ngoài vào?
Ông Trần Gia Phụng: Dạ vâng, thứ hai là trên bình diện quốc tế, cái này mình phải chú ý, bởi vì phải đặt cái tình hình Việt Nam trong toàn bộ cái tình hình CS và toàn bộ tình hình thế giới. Trên cái tình hình quốc tế thì lúc đó ở tại Nga, nhà độc tài Stalin chết năm 1953, thì trong cuộc tranh giành quyền lực đấu đá với nhau, ông Khrushốp trồi lên và nắm được chính quyền, nắm được đảng CS và trong đại hội lần thứ 20 của đảng CS Liên Sô năm 1956 tại Moscow thì Khrushốp đã đọc một bài diễn văn nảy lửa kể hết tội lỗi độc tài, tàn ác, tôn sùng cá nhân của Stalin, cái bài diễn văn này làm cho cả thế giới kinh ngạc và ông Khrushốp hứa hẹn sẽ mềm dẻo hơn, sẽ sống chung hòa bình với các nước không đồng chế độ chính trị và ông hứa hẹn sẽ dân chủ hóa Liên Sô.
Sau khi vững vàng rồi, Khrushốp mới gởi đại diện đi các nước cộng sản, và riêng CSVN thì ông Mikoyan đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956, ông giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Sô và vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại đường lối mới của Liên Sô, cho nên nhân cái cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 7 năm 1956, ông Hồ vì những cái lý do trong nước và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cái cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai và ông đổ trách nhiệm cho những người thừa hành mà người gần ông nhất là ông Trường Chinh,
nên ông cách chức ông Trường Chinh, cất chức nhưng sau rồi ông Trường Chinh cũng ra lại và rồi cất chức những nhân vật khác như là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng và các nhân vật này sau cũng được trọng dụng trở lại hết, rồi bồi thường thiệt hại và xét lại một cách tượng trưng cho vài trường hợp quá đáng mà thôi

RFA: Đảng và NN CSVN đã chuẩn bị thế nào? Diễn biến cụ thể một đợt CCRD.(2)

RFA: Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (1)
RFA: Đảng và NN CSVN đã chuẩn bị thế nào? Diễn biến cụ thể một đợt CCRD.(2)
RFA: Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (3)
RFA: Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất”(4)

(Bài 4): Đảng và nhà nước CSVN đã chuẩn bị thế nào cho cuộc cải cách ruộng đất?

Kỳ này xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Minh Cần về sự chuẩn bị của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời.
Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là một cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành Hà nội trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính Hà nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành Hà nội. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva.
Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị mọi mặt của đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam cho cuộc cải cách ruộng đất, khi đó đựơc gọi là một cuộc cách mạng long trời lở đất.
Nguyễn An: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân – kẻ địch của nhân dân.
Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.
Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân – kẻ địch của nhân dân.
Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.
Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất.
Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.
Nguyễn An: Xin ông nói rõ thêm về đội cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà.
Ông Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao che cho địa chủ quen biết v.v… Đấy là một nguyên tắc.
Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ.
Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên gọi khác là bà Cát Thanh Long).
Nguyễn An: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm một số chi tiết về vụ án này.
Ông Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng.
Còn trong thời kỳ “Tuần lễ vàng”, là sau khi đã có chính phủ Việt Nam DCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình.
Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông Hồ Chí Minh lúc bấy giờ cũng biết sự kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử hình như vậy.
Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước một tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ.
Nguyễn An: Xin được hỏi thêm ông về vụ xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn phải đưa lên trên để xin ý kiến.
Ông Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn.
Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo “tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất”. Đến ngày 4/12 thì quốc hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất.
Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm 1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc bộ và các vùng trước đây bị Pháp chiếm đóng. Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cho cụôc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây.
Trong chương trình phát thanh tới, ông Nguyễn Minh Cần sẽ kể lại với quý thính giả một cách cụ thể diễn tiến một đợt cải cách ruộng đất, bắt đầu từ lúc đội cải cách xuống xã. Mong quý thính giả đón nghe.

Diễn biến cụ thể một đợt Cải cách ruộng đất (Bài 5)

Nguyễn An: Thưa ông Nguyễn Minh Cần, kỳ trước ông có nói là trong cuộc cải cách ruộng đất thì cả một đạo quân được chuẩn bị thật là kỹ lưỡng để ra trận. Mà mũi xung kích xuống từng xã là đội cải cách ruộng đất. Vậy thì đội cải cách ruộng đất đó hoạt động như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật – coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.
Khi đội cải cách xuống xã rồi thì việc đầu tiên là người ta hạn chế việc đi ra đi vào. Người ta sợ việc phân tán tài sản của địa chủ. Người ta đình chỉ công việc của các ủy ban lãnh đạo, người trưởng công an cho đến người chỉ huy du kích v.v… Lúc bấy giờ toàn bộ công việc do đội nắm.
“Đội sẽ xây dựng nhóm người gọi là “bần cố nông” cốt cán theo cách thức mà nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại như sau:
“Có anh đội, anh đội về đấy là ở trong nhà nông dân là 3 cùng: ăn cùng, ở cùng, lao động cùng. Thăm nghèo hỏi khổ, tức là hỏi xem hồi xưa sống như thế nào, địa chủ nó bốc lột ra sao. Xong rồi “bắt rễ”, tức là anh này tin tưởng được thì bắt anh này làm rễ.
Từ anh bắt rễ thì hỏi ngày xưa khổ như anh thì có ai, cũng làm tá điền như anh thì có những ai, anh biết ai khổ nhất. Tìm một anh A, chị B nào nữa thì gọi là “xâu chuỗi”. Những từ lúc bấy giờ mà tôi còn nhớ là nó như vậy.”
Ông Nguyễn Minh Cần: Tất cả những lời tố khổ của những người cốt cán đó thì đều được ghi chép lên hồ sơ, nhìn vào để phân biệt được địa chủ, phân biệt được phản động, phân biệt được nhân dân.
Rồi cũng qua lời tố khổ đó, để hiểu được và phân định thành phần ai là công nông, ai là bần cố nông. Khi đã xác định được lên hồ sơ ai là địa chủ rồi thì việc đầu tiên là phải bao vây gia đình đó, không cho đi ra khỏi nhà. Tiếp tục ngay lập tức là truy tài sản.
Tôi xin giới thiệu chương trình của một đợt cải cách ruộng đất ở một xã để bạn nghe đài hiểu được là vì bây giờ đã lâu, nhiều người không biết quá trình làm như thế nào. Tức là khi đội xuống xã, việc đó rất là bí mật – coi như đợt đột kích ở trên đưa xuống.
Vì vấn đề này là vấn đề mà theo mục đích cải cách là để sau này còn có của để chia cho bần cố nông. Của nỗi thì rõ rồi, nhưng của chìm là vàng bạc, tiền thì rất khó cho nên phải truy tài sản. Nhưng nói thực ra anh em họ vẫn gọi là “truy của” hay “tra của”. Truy ngày, truy đêm liên tục. Tôi còn nhớ khi tôi đi cải cách ruộng đất ở Thái Bình thì có nghe một câu than như thế này, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ:
Truy đêm rồi lại truy ngày Tra lui tra tới của mày để đâu Sân vườn, chuồng lợn, bờ ao Đào tung, xới hết chẳng sao: có vàng Trời ơi, oan thật là oan Thân con quá khổ biết làm sao đây
Còn việc lập hồ sơ các loại địa chủ, cường hào v.v… thì chủ yếu dựa vào lời tố của bần cố nông. Nhưng có một điều có thể nói là người ta đánh vào lòng tham lam, vào lòng hận thù. Có khi bà con lúc đầu họ không muốn tố, nhưng nếu mà không tố thì tức là dường như mình có liên quan đến địa chủ, mình chưa có thái độ dứt khoát.
Và người ta nói rằng ai tố nhiều thì sau này bả thực, tức là chia tiền, chia ruộng đất, chia tài sản v.v… thì sẽ được nhiều. Cho nên, nói thật đánh vào lòng tham, đánh vào lòng hận thù, cho nên cũng nhiều người tố rất bừa bãi. Ở nông thôn lúc bấy giờ gọi là “tố điêu” hoặc “tố đại hội”, “tố bừa”.
Nhưng khốn nỗi, tất cả những lời tố đó đều coi như những bằng chứng để kết tội người địa chủ, hoặc người đối tượng mà mình coi là phản động hay đảng phái v.v… Cho nên sau khi lên hồ sơ rồi, tức là đưa lên đoàn cải cách ruộng đất, tức là đoàn duyệt xong và chuẩn bị cho việc đấy và xử án.
Nguyễn An: Vậy là coi như hồ sơ xử án đã xong rồi, thế bây giờ chính phiên xử của tòa án nhân dân thì diễn ra như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Tổ chức tòa án là tổ chức cuộc đấu. Trước đó bao nhiêu ngày phải chuẩn bị, người ta làm như là một diễn tập cho một vỡ kịch, tức là mỗi người nông dân lên tố như thế nào, rồi ý cho họ chỉ mặt như thế nào, tức là xỉa vào mặt của địa chủ, bắt quì xuống như thế nào… v.v… tất cả những cái đó được đạo diễn trước một cách rất cẩn thận.
Nguyễn An: Có vẽ họ tập dợt trước tất cả mọi thứ, cả ai nói gì, phản ứng ra sao, hô khẩu hiệu như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng rồi, khi nào địa chủ nói cái gì mà có thể gây ra điều tự bênh vực hoặc gì đấy, thì để lấn áp thì lúc bấy giờ phải hô khẩu hiệu như thế nào v.v… Có cả một kế hoạch, diễn tập như diễn một vỡ tuồng.
Như vậy đấu, có khi đấu 2-3 ngày tùy theo “tình trạng nghiêm trọng” của địa chủ hay số người v.v… Sau khi kết án thì hành quyết ngay ở trước mặt. Đấy là đợt sau này nó mới vậy.
Nguyễn An: Dường như là vào lúc bấy giờ các đoàn cố vấn của Trung Quốc nói rằng phải làm sao để có tỷ lệ 5% trên tổng số dân là địa chủ. Điều đó có không và họ đã thực hiện như thế nào?
Ông Nguyễn Minh Cần: Cái đó chính là một cái khó khăn nhất của các đội, như vậy là cái này không chỉ là cố vấn đưa ra mà phải nói rằng ngay cả ông Trường Chinh cũng nói như vậy trong hội nghị giải thích cho cán bộ về cải cách ruộng đất. Sự thật ra tỷ lệ này, một sự chủ quan rất trầm trọng về tỷ lệ như vậy. Cho nên có tình trạng là ép các đội phải nông lên, gọi là “kích thành phần”.
Chính cái đó đã gây ra một thảm họa cho dân chúng trong cải cách ruộng đất. Có nhiều khi vì bí quá, cho nên các đội, và đoàn cũng nói: “thà sai hơn sót”, đấy là chữ mà người ta thường nói, hoặc là “oan một tí, nhưng không để lọt lưới”. Đấy là những câu nói cửa mồm của các đoàn và các đội. Nhưng sự thật ra “oan một tí” lại trở thành oan một trăm tí, một nghìn tí…

RFA: Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (3)

RFA: Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (1)
RFA: Đảng và NN CSVN đã chuẩn bị thế nào? Diễn biến cụ thể một đợt CCRD.(2)
RFA: Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (3)
RFA: Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất”(4)

Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (Bài 9)

Từ tháng bẩy năm 1956, đã có nhiều hội nghị của bộ chính trị, ban bí thư và ban chấp hành bàn về những sai lầm trong cải cách ruộng đất và sửa sai. Cao điểm là hội nghị trung ương 10 vào tháng chín. Đó là hội nghị họp dài ngày nhất cho đến lúc bấy giờ, họp làm hai lần cho đến tháng 11 mới xong.
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
Trong cuốn hồi ký “Giọt nứơc trong biển cả”, ông Hoàng Văn Hoan nguyên phó chủ tịch quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà kể lại rằng trong hội nghị, các đại biểu đã nêu lên những sai lầm khá đầy đủ và rõ rệt trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất. Ông viết như sau:
“Người phụ trách Uỷ ban cải cách ruộng đất là Trường Chinh, tuy không chối cãi đựơc, nhưng cứ lý luận rằng cải cách đã đưa lại ruộng đất cho nông dân là một thắng lợi lớn, còn những sai lầm thì né tránh, không thừa nhận một cách thẳng thắn. Hoàng Quốc Việt cũng không nhận sai lầm.
Chỉ có Lê Văn Lương, trưởng ban tổ chức trung ương đảng là thành thực nhận sai lầm trong việc chỉnh đốn tổ chức…
Hội nghị trung ương đáng lẽ phải có một nghị quyết tổng kết kinh nghiệm về cải cách ruộng đất, nhưng Trường Chinh, vừa là tổng bí thư, lại vừa là trưởng ban cải cách ruộng đất, vì tư tưởng chưa thông, nên dự thảo nghị quyết mấy lần đều không đựơc hội nghị trung ương chấp thuận.”
Bốn năm sau, khi đảng họp đại hội lần thứ ba vào năm 1960, nghị quyết ấy cũng chưa có, và lúc bấy giờ cũng chẳng ai nhắc lại nữa. Đó là lần đầu tiên, một hội nghị trung ương quan trọng như thế mà lại không có nghị quyết tổng kết. Ông Hoàng Văn Hoan còn nói thêm rằng, ngay trong quá trình sửa sai, Trừơng Chinh vẫn không dứt khoát.
Điều đó có thể giải thích rằng, mặc dù bị tạm thời hạ tầng công tác như một biện pháp kỷ luật, nhưng Trường Chính chắc vẫn cho rằng ông không phải là ngừơi chịu trách nhiệm cao nhất.
Cuối tháng 10 năm 1956, có mít tinh lớn tại nhà hát nhân dân Hà nội, Uỷ viên bộ chính trị đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt ông Hồ Chí Minh và trung ương đảng chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách rụông đất. Cả hai nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất và phải chịu trách nhiệm nặng nhất là Ông Hồ và ông Trường Chinh đều không ra mặt.

Sau khi công nhận sai lầm, đảng bắt đầu sửa sai.

Cuộc cải cách ruộng đất đầy oan khuất, đầy máu và nứơc mắt đã chấm dứt. Đã có tổng số tám đợt phát động quần chúng và năm đợt cải cách ruộng đất đựơc thực hiện tại 3563 xã.
Một câu hỏi phải đặt ra là tại sao đảng Cộng sản lại ngưng cuộc cải cách ruộng đất vào lúc đó? Nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng trả lời:
“Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ.
Lẽ thứ nhất trong nội bộ Bắc Việ,t là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Mục tiêu chính trị của họ là gì? Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hà bộc lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.
Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên địch thủ trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.
Thứ hai là trên bình diện quốc tế thì ông Michael Young đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956. Ông ấy giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Xô. Vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại với đường lối mới của Liên Xô. Cho nên nhân cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 5 năm 1956, ông Hồ vì những lý do ở trong và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai.”
Đảng đã sửa sai thế nào? Mời quý thính giả nghe lời kể của ông Nguyễn Minh Cần, lúc đó là phó chủ tịch thành phố Hà nội, và trực tiếp tham gia công tác sửa sai tại ngoại thành Hà nội:
“Hồ Chí Minh và đảng CS phải chấm dứt đợt cải cách ruộng đất năm 1956 vì hai lẽ.
Lẽ thứ nhất là vấn đề nội bộ Bắc Việt là cuộc cải cách ruộng đất đã đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Mục tiêu chính trị của họ là gì? Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.
Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên mà địch thủ trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.
Thứ hai là trên bình diện quốc tế thì ông Mikoyan đến Hà Nội vào tháng 4 năm 1956. Ông ấy giải thích chính sách mới của đại hội đảng 20 của Liên Xô. Vì vậy mà CSVN không thể đi ngược lại với đường lối mới của Liên Xô. Cho nên nhân cuộc tổng kết cải cách ruộng đất đợt 5 vào tháng 7 năm 1956, ông Hồ vì những lý do ở trong và ngoài nước thì ông Hồ cho ngưng cuộc cải cách ruộng đất và bắt đầu chương trình sửa sai.”
Một người khác là nhà thơ Nguyễn Chí Thiện kể lại về sửa sai như sau:

“Sửa sai ở đây là không phải sửa sai cho địa chủ mà sửa sai cho những người vốn là đảng viên hoặc là những người vốn rất có công với kháng chiến nhưng bị vu cho là Đại Việt, Quốc Dân Đảng, vu cho là gián điệp… đủ thứ.

Những người đã giết rồi thì thôi, không nói làm gì rồi. Thế nhưng những người còn sót lại thì tha. Thế còn thực tế, những người bị quy là địa chủ mà đã vào tù rồi, chết rồi thì tôi không nói, đấu tố bắn ngay tôi không nói, nhưng vào tù rồi thì công bằng mà nói thì cả huyện của tôi là huyện Bình Dục, sau này tôi về chơi thì không có ông nào được tha cả.
Ngay làng tôi thôi có hai cha con ông Chánh Hồ, cũng bị quy là địa chủ, mà ông ta có giàu có gì đâu, bị quy là địa chủ. Ông ta trước kia là người chuyên môn đón bộ đội về làng, bộ đội là đến nhà ông ấy mà.
Thế là nhà ông Phó Liêm nữa. Những ông đó, một ông thì tự tử chết, hai người đi tù. Một ông nữa là ông Chánh Điểm cũng đi tù. Tất cả mấy người đi tù đó đều chết trong tù hết. Cả những làng xung quanh tôi không thấy ai về.
Mãi đến tận năm 1961, lần đầu tiên tôi đi tù thì tôi gặp không biết bao nhiêu là địa chủ vẫn còn nằm nguyên trong tù thôi.
Đến tù lần thứ hai năm 1966, tôi sống trong tù đến năm 1977 mới ra, thì vẫn còn những bác địa chủ vẫn bị sống trong tù – tuy là chết nhiều lắm rồi.” Sau cùng, xin đựơc kết thúc bài về sửa sai này bằng bài thơ mà ông Nguyễn Minh Cần nghe đựơc khi công tác sửa sai tại một làng thụôc huyện Đông Anh ở ngoại thành Hà nội:
Bác Hồ nói chuyện sửa sai Sai thì cứ sửa, sửa rồi cứ sai Đảng ta có lắm anh tài Sai hoài sai mãi, sửa hoài cứ sai

RFA: Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất”(4)

RFA: Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (1)
RFA: Đảng và NN CSVN đã chuẩn bị thế nào? Diễn biến cụ thể một đợt CCRD.(2)
RFA: Diễn tiến của việc công khai nhận sai lầm và tiến hành sửa sai (3)
RFA: Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất”(4)

Thành quả của cuộc cách mạng “long trời lở đất” (bài 10)

Cuộc cải cách rụông đất tại miền Bắc đã chấm dứt và cuộc sửa sai bắt đầu từ mùa thu năm 1956. Nói về thành quả của cuộc cách mạng đựơc coi là “long trời lở đất” này, nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng nhận định:
“Đứng về phương diện chuyên môn nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển, không thăng tiến được đời sống nông dân mà còn làm tan nát nền nông nghiệp cổ truyền ở ngoài Bắc và đưa mọi người vào cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm của đảng CS thì họ đã thành công trong cải cách ruộng đất, đã đạt được những mục tiêu chính trị của họ.
Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956.
Mục tiêu chính trị của họ, thứ nhất là xóa bỏ giới hào mục lãnh đạo hạ tầng cơ sở ở nông thôn và thay vào đó lớp lãnh đạo mới, là những đảng viên cộng sản.
Mục tiêu chính trị của họ nữa là chận đứng sự trà trộn của những điệp viên trong dân chúng. Họ xóa bỏ toàn bộ nền văn hóa cổ truyền nổi tiếng là bảo thủ từ bao nhiêu đời ở nông thôn và họ thay thế bằng chủ trương của CSVN theo chủ nghĩa Mác Xít.
Ngoài ra, liều lượng khủng bố của cộng sản đối với nông dân trong cuộc cải cách ruộng đất đợt 5 đủ để khuất phục nông dân, đủ để làm cho nông dân khiếp sợ, làm cho họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, sống luôn luôn trong sự sợ hãi tột cùng, và ghép họ vào trong khuôn phép cộng sản, ổn định một cách kiên cố hạ tầng cơ sở của xã hội nông thôn miền Bắc”.
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong cuộc phỏng vấn mới đây dành cho đài Á châu tự do đã đưa ra hình ảnh so sánh vùng quê ở miền Bắc trứơc và sau khi tiến hành cải cách ruộng đất như sau:
“Bây giờ thì cần phải nói như thế này, cái này là kinh nghiệm cá nhân. Vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thì tôi tham gia một đoàn tuyên truyền xung phong. Chúng tôi đi đâu mà còn có cái ăn thì đó là những người giàu có, sau này thì bảo đó là những địa chủ.
Nhưng lúc đó thì chúng tôi chẳng hiểu họ là địa chủ hay họ là cái gì. Họ là những người hằng tâm, hằng sản nuôi bộ đội, cho cán bộ và cho chúng tôi nữa (đoàn tuyên truyền xung phong), đến là có cái ăn. Tất cả những người đó khi chúng tôi hỏi thăm thì đều bị đấu tố, bị vứt ra ngoài lề của xã hội mà họ gọi là mới.
Về sau này tìm hiểu thì tôi thấy có một cái tệ, tức là đấy không phải là một cuộc cải cách ruộng đất. Bởi vì nếu là một cuộc cải cách ruộng đất thì trước cải cách ruộng đất phải có điều tra tình hình ruộng đất.
Tôi nhớ, vào giai đoạn đó tôi không đọc được một bản điều tra nào về tình hình ruộng đất ở Việt Nam cả. Sự phân bổ ruộng đất, bao nhiêu phần trăm là địa chủ, bao nhiêu phần trăm là trung nông, phú nông, bần nông, chẳng hạn như thế. Họ không cần cải cách ruộng đất, tức là không muốn phân bố lại ruộng đất sao cho nó hợp lý. Mà căn bản, đó là một cuộc đấu tranh chính trị.
Ruộng đất đối với cải cách ruộng đất là một cái cớ để cào xới lại, đưa lại rất nhiều những quyền lợi, mà cũng không phải rõ ràng lắm, cho nông dân. Nông dân vùng lên đấu tranh làm cách mạng, người cày phải có ruộng.
Thế nhưng thật sự ra thì khi tiến hành tất cả những cái đó thì ruộng đất có một thời gian là có cắm cờ, rồi phân thửa ruộng này là của ông A, ông B rồi đóng cọc. Các bạn có xem những cái phim, chắc là bây giờ còn lại trong tư liệu, còn cả đấy. Nhưng cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn thôi thì nó là tổ vần công, tổ đổi công xong thì họ lại cũng không có gì nữa.”

Lời kể của người trong cuộc

Ông Nguyễn Minh Cần, một người từng là phó chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố Hà nội và trực tiếp tham gia chiến dịch sửa sai cũng phân tích về những hậu quả của cụôc cải cách ruộng đất. Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần sau đây:
Nguyễn An: Thưa ông, bây giờ trở lại cuộc cải cách ruộng đất cách đây 50 năm. Theo ông thì cuộc cải cách ruộng đất đó để lại những hậu quả gì, những di hại gì?
Ông Nguyễn Minh Cần: Cái cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng về rất nhiều mặt.
Nguyễn An: Xin Ông vui lòng phân tách từng điểm một?
Ông Nguyễn Minh Cần:
Điểm thứ nhất: Đây là một cuộc tàn sát dân lành một cách vô tội vạ. Nếu nói theo từ ngữ hiện nay thì phải nói đây là một cuộc diệt chủng vì kỳ thị giai cấp. Bổng dưng lập ra lệnh cải cách ruộng đất, đưa những đoàn người về và tha hồ qui người ta lên là địa chủ.
Trên 172.000 người là nạn nhân. Tôi cón phải nói đến số người mà người ta oan ức quá, bực bội quá, người ta tự tử. Số đó cũng không phải là ít. Theo tôi, hậu quả đó rất lớn, nó gây ra một tâm trạng sợ sệt, khủng khiếp của người dân.
Hậu quả thứ hai là phá hoại truyền thống hòa hiếu của nông thôn, là vì từ trước ải nói dù rằng có thể có bóc lột, có thể có gì đấy với nhau, nhưng người nông dân sống với nhau là lá lành đùm lá rách, rất hòa hiếu với nhau.
Cuộc cải cách ruộng đất về xúi người này bới móc tội lỗi của người kia, và có thể những tội hoàn toàn không có cũng bới ra. Và dựa vào những thù cũ rồi gây ra thù hận giữa các tầng lớp với nhau. Chính cái đó nó phá hoại truyền thống đoàn kết lâu đời của người Việt Nam mình ở nông thôn.
Nguyễn An: Thưa ông, có phải ông muốn nói rằng cuộc cải cách ruộng đất đặt trên cơ sở là gây sự căm thù để phát động quần chúng, và sau đó sự căm thù đó lớn rộng và nó tiếp tục còn lại sau khi cuộc cải cách ruộng đất đã chấm dứt không?
Ông Nguyễn Minh Cần: Đúng như vậy.
Nguyễn An: Thưa , điểm thứ ba là gì?
Ông Nguyễn Minh Cần: Hậu quả thứ ba là phá hoại đạo lý luân thường của dân tộc . Từ xưa đến nay cha đối với con, mẹ đối với con, vợ chồng đối với nhau, họ hàng cha chú đối với nhau đều có một luân thường đạo lý. Nhưng cải cách ruộng đất về xúi dục con tố cha, vợ tố chồng, nàng dâu tố mẹ chồng, bố chồng v.v… đấu đá lẫn nhau như vậy.
Nguyễn An: Và gọi mày tao mi tớ hết?
Ông Nguyễn Minh Cần: Vâng. Như vậy, luân thường đạo lý tan hoang.
Nguyễn An: Thưa ông, theo ông thì những cái mà phá hoại nền tảng luân lý đạo đức, rồi sự hòa hiếu ở trong nông thôn đó cách đây 50 năm thì được khai thác tối đa để hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất… tinh thần như thế sau bao nhiêu lâu mới phục hồi được? Hay bây giờ nó vẫn còn là những vết thương rỉ máu?
Ông Nguyễn Minh Cần: Theo tôi, vì cho đến nay chưa có một sự sám hối rõ ràng. Chưa có một tuyên bố rằng chính sách hận thù giai cấp là một chính sách không đúng. Phải nói thật rằng bây giờ thì 50 năm đã qua thì người ta yên như vậy, nhưng lòng hận cũ không phải là đã hết.
Còn một điểm tôi cũng muốn nói nữa là hậu quả thứ tư: Nó phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Vì khi làm cải cách ruộng đất thì các ông đều có cái ý hướng là tiêu diệt các tôn giáo, chèn ép các tôn giáo, tước đoạt tài sản của các tôn giáo để làm cho các tôn giáo không tồn tại được một cách độc lập.


Kỳ 1 – Giới thiệu

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 1 – Giới thiệu

1. GIỚI THIỆU

Một ngày giông tố và Những kẻ khổ nhục là hai phần của một tập hồi ký thời chiến, được viết bởi tác giả Tâm Phong, một chứng nhân và cũng là một nạn nhân của chế độ, thời kỳ Cải cách ruộng đất, xã hội Cộng sản trong cuộc chiến tranh hai miền Bắc Nam, tù cải tạo và cuối cùng là những năm trước đổi mới.
Ở vị trí một độc giả, khi tập hồi ký này được chuyển đến tay tôi, tôi vừa đọc, vừa kiểm nghiệm và ghi nhận những sự kiện thuộc về lịch sử, trong đó có những sự kiện tôi chưa biết và đã biết; có những sự kiện tôi đã biết nhưng sự thật còn ẩn giấu ở đâu đó, hoặc mức độ chi tiết của sự kiện chưa, hay hiếm khi, được phản ánh rõ nét như vậy.
Đất nước trải qua chiến tranh, nhưng khó hồi phục. Như một cơ thể ốm yếu vừa thoát khỏi một căn nguyên gây bệnh, nó chưa vực dậy ngay được, mà tiếp tục rơi vào một trạng thái tiều tuỵ khác, bởi ý chí của chủ nhân của nó đã không dẫn cơ thể phục hồi theo một cách thức đúng đắn. Sai lầm nảy sinh rồi tiếp nối, xuất phát từ những chính sách Đảng và Nhà nước áp đặt lên cả một dân tộc. Cải cách ruộng đất là một thời kỳ kinh hoàng với những màn đấu tố mất nhân tính đến rợn người, là giai cấp nông dân vùng lên lật đổ địa chủ để trở thành những Ông, Bà cán bộ – giai cấp tiên phong, là mọi thứ giá trị văn hoá truyền thống bị đảo lộn, là ngu si ngự trị trí khôn… Những năm tháng trong xã hội Cộng sản với chính sách ngăn sông cấm chợ, khiến hàng loạt người Nam (lẫn Bắc) tính kế rời Tổ quốc ra đi. Trại cải tạo là nơi tù đày về thể xác và ý thức, những cơ thể ốm yếu vì thiếu cái ăn dường như chỉ còn sống theo bản năng của một sinh vật để có thể sinh tồn, những suy nghĩ bị kìm nén để câm lặng thay vì cất tiếng lên.
Tác giả đã trải qua những ngày tháng cơ cực và tủi nhục ấy, là nhân chứng cho chính số phận của mình, và của cả nhiều người xung quanh. Số phận của tác giả, phản ánh những nét chung và đặc thù của dân tộc thời đó.
Nếu bạn đã từng đọc Mãi mãi tuổi 20 hay Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, để biết về những tâm tư và cảm nhận của những con người quả cảm thời chiến, để giàu thêm xúc cảm và biết yêu thương hơn, thì tôi khuyên bạn hãy đọc tập hồi ký này, ở một góc nhìn khác, để biết thấm thía nỗi đau của một con người, của những con người, và xa hơn là cả một dân tộc.

2. TÓM TẮT HỒI KÝ – KỲ I

Cách đây sáu năm, tại một địa ngục trần gian trong rừng núi tỉnh Vĩnh phú, bạn tôi vội vã ra đi, vĩnh biệt kiếp người. Trong giây phút hấp hối, Khoa thều thào ‘…hãy nhớ và ghi lại cái chết thê thảm này cùng những năm tháng bất hạnh…’
Đó là những dòng đầu tiên trong tập hồi ký được ghi lại từ những suy tưởng về quá khứ của một người tù chính trị. Cuộc sống của tác giả và những người cùng cảnh trong những năm tháng ấy là những chuỗi ngày tháng cực, khổ, nhục và bi…
***
Cuốn hồi ký trong tay Nam, như một sự tình cờ của số phận. Tình cờ bởi trong một đêm miên man suy nghĩ về cuộc sống nhiều mất mát sau 20 năm…
Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, Nam được chú Dương đón lên Hà nội chăm sóc anh nhớ quê, nhớ mái trường xưa và đặc biệt là những kỷ niệm với Bích Hằng.. Năm 1954, trong khi anh và Bích Hằng đang mong đợi ngày hạnh phúc lứa đôi thì hiệp định Geneva được kí kết, chú Dương quyết định đi nam vì được tin chính quyền cách mạng sẽ cấm buôn bán. Nam ở lại Hà Nội. Ngày 10-10, anh hòa vào dòng người cùng cờ hoa rực rỡ tung bay để chào đón Đảng, bác Hồ, chính phủ và đoàn quân cách mạng rầm rập tiến quân vào tiếp quản thủ đô. Sau ngày ấy, niềm hân hoan của anh bị gặm nhấm dần và nỗi buồn liên tiếp đến. Chính quyền cách mạng tịch thu nhà, giao cho một gia đình cách mạng nông dân. Sau một thời gian ngắn, sống chung đụng khổ sở, anh bị bắt nửa tháng, bị thu hết sách với tội danh xúc phạm cán bộ, lưu trữ sách của thực dân phong kiến. Mẹ Bích Hằng mất, năm 1955, gia đình của Bích Hằng, một gia đình mấy đời dạy học,bị quy thành địa chủ, và bị xử trí, Bích Hằng mất tích. Hai mươi năm qua, cuộc sống của anh luôn như thế ấy, cứ trôi đi chậm chạp như một dòng nước đục…
Sau một hồi miên man, Nam chợt tỉnh dậy, vùng ra ngoài và nhặt được tập hồi ký tố cáo tội ác của chế độ. Sợ liên luỵ, anh toan vất nó đi , nhưng cuốn hồi ký đã làm anh sửng sốt vì nhắc đến tên anh và Bích Hằng…
***
Nam dõi theo từng chi tiết trong tập hồi ký. Từ đó, anh biết được tin về Bích Hằng, quan sát những số phận con người dưới chế độ Cộng sản, những tội ác của Cộng Sản trong thời kỳ cải cách ruộng đất, những đầy đọa về tinh thần và vật chất của những nạn nhân trong lồng sắt lớn (là xã hội Cộng sản) và lồng sắt hẹp (là nhà tù Cộng sản). Anh tìm gặp và trả lại tập hồi ký cho tác giả. Nam và Tâm, tác giả hồi ký, kết nghĩa huynh đệ.
Nhớ lại những chi tiết trong hồi ký, những đoạn về Bích Hằng không khỏi khiến anh quay cuồng và ám ảnh vì những gì xảy ra với cô như một cơn ác mộng. Rồi lại đến một sự tình cờ khác.. Trên đường anh về nhà sau khi chia tay Tâm, qua ga, Nam bất ngờ gặp một người phụ nữ nắm chặt ghi đông xe của anh và gọi tên anh. Người phụ nữ ấy, trong một vóc dáng tiều tuỵ, sau khi ra từ trại cải tạo nhiều năm, không ai khác chính là Bích Hằng. Cô ngất đi… Nam mê mẩn như cái xác không hồn, vẫn đứng trơ trọi giữa đường phố trong cơn giông tố.Đồng hồ ga điểm mười hai tiếng, như đánh dấu “một ngày giông tố” nơi cõi lòng Nam.

Kỳ 2 – Bản tóm lược.

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 2 – Bản tóm lược.

Tác giả sinh ra trong một gia đình phong kiến ăn ở hiền lành. Sau cách mạng, gia đình đã hết sức mình để làm nghĩa vụ với chính quyền. Chẳng những thế, gia đình có ba thân nhân bị thực dân Pháp giết hại trong cuộc chiến. Hồi cải cách ruộng đất, thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ. Tác giả trở thành một đứa trẻ không cha, không mẹ, không nhà cửa, ăn đói mặc rét, cố gắng vừa học vừa làm kiếm sống, mong ước có được một nghề để sinh sống sau này. Cả ước mơ tầm thường phải có cho mọi con người, tác giả cũng bị dập vùi tàn nhẫn: học bị đuổi, xin việc làm không được vì lý lịch gia đình…(1)

PHẦN 1 – MỘT NGÀY GIÔNG TỐ

HỒI MỘT – Quê hương, phản ánh một góc nông thôn Việt Nam trong thời kỳ từ năm 1945 – 1960.
Đó là những năm kháng chiến chống Pháp, cuộc sống của người dân trong cảnh một cổ mấy tròng, “địch”, quân Pháp và “ta”, chính quyền “cách mạng”. Sự xâm nhập của văn hóa và tư duy “cách mạng”. Thoáng thấy cái gọi là “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” hay “làm sạch cỏ tận gốc” và cuộc sống của một gia đình phong kiến và con cái tầng lớp phong kiến trong xã hội Cộng sản.
Để sau đó, thời kì cải cách ruộng đất, ngọn lửa căm thù của đấu tranh giai cấp đã thiêu đốt mọi tình cảm giữa con người với con người, làng xóm, thầy trò và cả tình thân ruột thịt: cha con, anh em, vợ chồng. Sau khi thân phụ tác giả bị bắn, nhà cửa, tài sản bị tịch thu toàn bộ, với uớc mong được học hành, tác giả vẫn cố gắng đến trường. Đó là những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục. Gian nan vì cuộc sống nghèo khổ, ăn đói, mặc rách trong vòng uy hiếp và chèn ép của chính quyền và bọn vô lại. Tủi nhục vì sự xa cách lạnh lùng của người thân thích, làng xóm, bạn bè. Mặc dù tác giả thông minh, học giỏi nhưng bị vùi dập, xin học nghề không xong bởi “Ngoài nghề làm ruộng, anh không có quyền làm bất cứ nghề gì”. Nhờ người chú nhân tình giấu lý lịch người cha, tác giả được vào trường trung cấp sư phạm, nhưng rồi bị đuổi, bởi “Quy.ết định đuổi em không phải của trường mà do uỷ ban nhân dân tỉnh”. Không sống nổi trên mảnh đất quê hương, tác giả phải lên Hà Nội.
HỒI HAI – Hà Nội, từ miền nông thôn Cộng sản, tác giả bước vào vùng “đất thánh”. Nơi đây, bên cạnh những người thân, tác giả lại chứng kiến sự thay đổi nhân tình của chú, bá và cả chị ruột mình. Từ 1960 – 1965, năm năm nối tiếp là quãng thời gian mưu sinh vất vả, cực nhọc của những con người bị o ép, bị bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ dưới cơ chế quản lý Cộng sản – một bức tranh xã hội xám xịt. Vì vậy, năm 1965, tác giả và hai người bạn cùng nhãn qan, Khoa và Dậu, đã chuẩn bị vượt tuyến vào Nam. Trong lúc đó, do không “khéo” sống, Khoa, con một gia đình tư sản – một gia đình sau cách mạng phân thành hai mảnh, một bên ý thức được bản chất Cộng sản, một bên mê muội vì ý thức hệ Cộng sản – bị bắt tập trung cải tạo. Những trang nhật ký của anh vô tình đã khiến tác giả và Dậu bị bắt theo.
HỒI BA – Nhà tù, là những trang viết phản ánh về cuộc sống trong nhà tù của một chế độ tự xưng là ưu việt.
Sau thời gian giam cứu tại Hoả Lò , tác giả bị kết án bốn năm tù giam và ba năm mất quyền công dân. Nhưng trên thực tế, sau thời gian bốn năm, tác giả bị chuyển sang diện tập trung cải tạo. Mười một năm tù, từ năm 1965 – 1976, tác giả đã bị chuyển qua nhiều phân trại của trại cải tạo An Thịnh trại cải tạo Vĩnh Quang
Tác giả đã ghi lại những trang đời của chính mình và những thân phận tù trong thời gian đó. Những tù nhân Cộng sản bao gồm tù hình sự và tù phản cách mạng (2). Nhà tù Cộng Sản được mô tả với hai hình tượng về sự Tàn Bạo và Bịp Bợm.
Tàn Bạo bởi:
  • Những người tù bị cho ăn đói, mặc rách đến độ trở nên man rợ.
  • Họ bị ép và lừa lao động như trâu ngựa, cấu xé lẫn nhau để lập công, gây nên nỗi đồng cảnh tương tàn. “Mỗi thằng tù vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, phải chịu bốn vòng kìm kẹp: vòng ngoài là cai ngục, vòng thứ hai là trật tự, văn hoá trại, vòng thứ ba là toán trưởng, vòng cuối cùng là cảnh hành hạ lẫn nhau.”
  • Nhiều người vì đói và lao động kiệt sức, chết dần mòn. Nhiều người bị giam trong xà lim m
    à chết. Nhiều người vì ốm bệnh, vẫn bị ép đi làm, bị đánh đập, không được cấp thuốc mà lìa bỏ cuộc đời.
  • Những con người không chỉ “thân thể ở trong lao”, mà cả tinh thần cũng bị cầm tù. Đói khổ chưa đủ, những người tù phải bình công chấm điểm, cắn xé, tố cáo lẫn nhau mới thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai cấp trong nhà tù.
  • Tù hình sự và tù phản cách mạng bị giam chung, tù hình sự bị tuyên truyền, bị xúi giục đánh đập, hành hung tù phản cách mạng,…
Bịp Bợm bởi:
  • Nơi tiếp đón gia đình các trại viên, “phòng tuyên truyền của địa ngục trần gian”: nơi đã diễn ra bao cảnh chia ly vĩnh viễn của những cặp vợ chồng còn trẻ, con cái không tin cha, vợ chẳng hiểu chồng, anh chị oán trách em… Nơi hàng trăm người bỏ mạng vì ốm đau không có thuốc, không được cứu chữa, vì đói hoặc vì những cực hình khác được giải thích là: “với chính sách nhân đạo của đảng và chính phủ, chúng tôi đã hết lòng cứu chữa và chăm sóc nhưng do bệnh tật hiểm nghèo không qua khỏi…”
Năm 1975, Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam. Vì vậy đến năm 1976, các tù phản cách mạng trong trại, trong đó có tác giả được thả ra. Tác giả được cho về ở với người chị gái, nơi mười sáu năm trước, tác giả đã không sống nổi hai ngày.
Từ lồng sắt hẹp ra nơi lồng sắt rộng. Từ cuộc sống nơi nhà tù Cộng sản man rợ và đói khát, tác giả lại nối tiếp những tháng năm cô đơn, vô vọng và tủi nhục trong một xã hội Cộng sản cũng cơ cực, nghèo túng, mất tự do, và nhất là nhiễm bệnh máu xám huỷ diệt tình người. Riêng với tội danh một người tù phản cách mạng, “một tội ghê tởm hơn cả bệnh giang mai, ghẻ lở trong nhãn quan của mọi người?”, càng thêm bội phần cơ nhục. Cuộc sống khổ nhục đó được phản ánh rõ nét trong Phần 2.

PHẦN 2 – NHỮNG KẺ KHỔ NHỤC

Đây là những trang nói về cuộc sống cơ nhục mưu sinh, tìm kiếm hạnh phúc của tác giả nơi lồng sắt khổng lồ. Cũng là một vài phản ánh tiếp theo về xã hội Cộng sản.
Tác giả làm mộc để mưu sinh. Trong hoàn cảnh sống chung đầy tủi nhục với gia đình chị và chịu sự giám sát của chính quyền, tác giả vẫn cố gắng viết hồi ký, để làm tròn trách nhiệm với Khoa, người bạn đã mất trong tù, cũng như cho chính tác giả, “để thực hiện trách nhiệm lương tâm phơi trần những tội ác trời không dung, đất không tha của Cộng Sản trước tòa án lịch sử ngàn đời”.
Giữa cuộc sống cô đơn, tủi nhục, như mọi con người bình thường, tác giả cũng ước mong hạnh phúc gia đình. Cuộc đời tác giả, “xưa kia, khi còn trai trẻ cũng chỉ dám yêu thầm nhớ trộm, tuy nhiên tình yêu và gia đình vẫn là khái niệm mơ hồ, xa cách, lạnh lùng”, giờ đây trước ý thức hệ Cộng Sản, “phải bưng bít, khép kín quá vãng để tìm một người bạn đời thì đau lòng quá” cho một người đã luôn sống chân thật với khối óc và con tim mình. “Để có được một cuộc sống tầm thường, khốn khổ, cũng phải nói phét, bịp bợm, khai tử chữ lương tâm sao?”
Những chi tiết về hành trình tìm người bạn đời phản ánh rõ thêm nhân sinh quan của con người Cộng sản. Cộng sản muốn thay cả vai trò của tạo hóa, ông tơ bà nguyệt… Tính giai cấp xen lẫn cả vào những chuyện yêu đương cá nhân.
Câu chuyện có một kết thúc được xem như có hậu: tác giả mua được nhà riêng, tìm được người bạn đời hợp ý, một Đảng viên quay lưng lại với “đấu tranh giai cấp”, trở về bản chất trung hậu của người nông dân và mong ước hạnh phúc gia đình tầm thường của mọi con người.

Tóm tắt cho Phần 1 được trình bày theo các mục của phần đó như sau:
HỒI MỘT – Quê hương
I Thời kì kháng chiến chống Pháp
II Thời kì cải cách ruộng đất
III. Những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục
HỒI HAI – Hà Nội
I Những người thân
II Năm năm nối tiếp
HỒI BA – Nhà tù
I Hoả lò
II Trại cải tạo An Thịnh
III Trại cải tạo Vĩnh quang
HỒI BỐN – Ngày về
Chú thích:
(1): Theo lời kể của tác giả, phần Hồi ba – Nhà tù
(2): Về tù hình sự và tù phản cách mạng:
- Tù hình sự (hay tù số chẵn), bao gồm: lưu manh, giết người, trộm cắp, gái làm tiền, hiếp dâm, tham ô…, những nạn nhân đồng thời là sản phẩm của sự nghèo túng, ăn đói mặc rét của nền kinh tế Cộng sản và của ý thức hệ Cộng sản.
- Tù phản cách mạng (hay tù số lẻ), bao gồm:
  • Diện tập trung cải tạo, là các đối tượng của chế độ cũ như những người hợp tác với địch, các trí thức lưu dung,…
  • Những người thể hiện tư tưởng không yêu chế độ, đơn giản như viết thư sầu đời, buồn vì hiện trạng xã hội, phát ngôn ca ngợi đế quốc, phản tuyên truyền, nghe đài “địch”, hát hay nghe nhạc Sài Gòn…
  • Tu sĩ, giáo dân.
  • Đảng phái.

Kỳ 3 – Những năm kháng chiến chống Pháp

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 3

Cách đây sáu năm, tại một địa ngục trần gian trong rừng núi tỉnh Vĩnh phú, bạn tôi vội vã ra đi, vĩnh biệt kiếp người. Trong giây phút hấp hối, Khoa thều thào “…hãy nhớ và ghi lại cái chết thê thảm này cùng những năm tháng bất hạnh…”
Tôi vừa thoát khỏi cái địa ngục trần gian đó nhưng trong cảnh cá chậu chim lồng. Ngoài việc kiếm sống vất vả, tôi phải làm nghĩa vụ với người bạn quá cố. Nhân thể, tôi ôn lại cuộc đời mình, gia đình mình và những mảnh đời đã có thời tôi gần gũi họ.

HỒI MỘT – Quê hương

I Thời kì kháng chiến chống Pháp

Tôi lên bảy tuổi vẫn chưa đi học. Quê tôi, từ ngày đảo chính vẫn chưa có trường. Ai muốn con em biết chữ phải đưa chúng đến nhà các thầy giáo làng, hoặc những gia đình giàu có gửi trẻ đi học ở thị xã, các thành phố Hà nội, Hải phòng, Nam định…
Hàng ngày tôi lêu lổng ra đường, sân đình cùng bọn trẻ chơi khăng, đáo, cù, bi…hoặc bịt mắt bắt dê, xỉa cá mè…Chiều tối sân đình vui như hội. Thiếu nhi tập hát những bài hát cách mạng. Các cô, các chú thanh niên hát son đố mì và nhảy với nhau từng đôi một. Điệu nhảy lạ lùng này được sinh ra ngay sau ngày đảo chính, chỉ tồn tại mấy năm thì chết yểu. Đó là sự kiện văn hoá mới mẻ quyến rũ tuổi trẻ, ai không biết hoặc không dám nhảy bị coi là phong kiến, lạc hậu. Tuổi trẻ đua nhau thành một phong trào rộng lớn nhưng cũng nảy sinh nhiều hiện tượng chẳng lành làm các cụ già phẫn nộ: chửa hoang nhiều nên mới có câu:
Người ta hy sinh vì nước vì non
Con tôi lại chết vì son đố mì
Hồi đó, quê tôi chiến tranh chưa đến nhưng không khí chuẩn bị chiên tranh vô cùng náo nhiệt, ngoài những cụ già và trẻ nhỏ thu gọn quần áo, đồ dùng chuẩn bị đi sơ tán, còn lại thanh niên, phụ nữ và tuổi trung niên nô nức tham gia lực lượng tự vệ, du kích. Họ tập luyện ngày đêm. Chiến tranh đến gần, ngày nào tôi cũng được nghe nhiều chuyện “giật gân”: Anh họ tôi ra tỉnh chơi không về nữa ; Đang đêm, bác họ tôi bị bắt ; ông chú họ mẹ tôi cùng cậu con trai mười tuổi bị lôi cổ đi lúc đang ngủ trên giường… Chuyện như thế diễn ra liên tục ở nhiều nơi. Nghe đâu, chính quyền cách mạng cho những người này tắm mát ở vụng Đồng xâm – vùng nước sâu, chảy xiết ở sông Trà lý. Những nạn nhân biến thành mồi cho cá ấy bị nghi ngờ sẽ theo địch hoặc một vài câu nói không hợp với thính giác của chính quyền. Trong thời đó những người câm và điếc mới đoán chắc được sống bình an với cách mạng mà thôi.
Một buổi tối, tôi ra sân đình không có trò vui như thường lệ. Vài chục du kích trong xã xếp hàng đôi, mỗi người cầm một thanh mã tấu, vẻ mặt của họ đầy sát khí. Đêm ấy họ đi chiến đấu, đánh vào nhà thờ CM – “bọn phản động đội lốt thiên chúa giáo”. Sáng hôm sau, đội du kích ấy lại tập họp ở sân đình. Dưới ánh nắng chói chang, quần áo, đầu tóc, chân tay và thanh mã tấu của từng người những vết máu còn bám vào loang lổ. Họ đang nghe người chỉ huy tuyên dương thành tích chiến đấu của họ.
…Đội chúng ta nhận nhiệm vụ tấn công vào ổ đề kháng mạnh nhất của địch. Chỉ sau mười lăm phút lực lượng ta đã đè bẹp kẻ thù. Với lòng căm thù sâu sắc, với ý chí chiến đấu ngoan cường và với lập trường giai cấp vững vàng, chúng ta đã xông lên tiêu diệt quân thù ngay trong hang ổ của chúng. Tôi thay mặt uỷ ban kháng chiến hành chính xã và ban chỉ huy xã đội biểu dương chiến công vẻ vang của các đồng chí. Đặc biệt là chiến công của đồng chí Vương Viễn. Mời đồng chí Viễn lên tường thuật lại thành tích của mình.
Vương Viễn dáng người to đậm, cặp mắt lim dim, hum húp, nháy liên hồi. Bố Viễn mất sớm, mẹ Viễn không nuôi nổi đàn con dại nên Viễn phải đi ở từ nhỏ. Đến tuổi trưởng thành, được công nhận quyền công dân và được chia ruộng, Viễn về nhà và tham gia vào du kích. Viễn đứng lên nói:
– Như các đồng chí đã biết, gia đình tôi nghèo khổ quá, tôi phải đi ở cho bọn nhà giàu, vừa thoát khỏi cảnh đó mấy tháng nay. Nếu không có cách mạng, nếu không có đảng, tôi không được quyền giết một con gà. Nay nhờ ơn cách mạng, nhờ ơn đảng, bác, tôi mới được giết người, giết bọn phản động. Sau khi đè bẹp lực lượng của địch, tôi xông vào từng nhà chém giết không tha một tên nào. Vũ khí này – Viễn giơ thanh mã tấu đã quằn lên quá đầu, múa một vòng trên không – khi đã tiêu diệt mười ba tên địch, tôi xông vào một nhà khác. Thằng chồng hoảng sợ định lẩn trốn, tôi chém một nhát, đầu y lìa khỏi cổ. Con vợ có thai sắp đẻ quỳ xuống van xin tha chết, tôi phát ngang thanh mã tấu, mụ ngã xuống giẫy giụa. Cái thai đứt thành hai đoạn tung ra ngoài bụng mụ. Còn hai đứa con của chúng: thằng con trai khoảng lên năm, đứa con gái khoảng lên ba, tôi cũng cho mỗi đứa một nhát vào đầu. Tôi đến nhà cuối cùng, mấy tên giặc trẻ đã bị đền tội ngoài sân. Trong nhà, hai vợ chồng giặc già đang ngồi trên giường lấm lét đọc kinh. Nhìn thanh mã tấu đã quằn, tiện chiếc chày giã cua dựa góc nhà tôi giáng cho mỗi đứa một cú vào đầu. Thế là xong việc. Rất tiếc khí thế chiến đấu đang bốc lên hừng hực thì hết kẻ thù.
– Tiêu diệt những tên giặc nhỏ – Người chỉ huy hỏi – đồng chí có ý nghĩ gì không?
– Tôi không nghĩ gì cả – Viễn trả lời – tôi chỉ nhớ lời dặn của cấp trên, bọn phản động như đám cỏ dại mọc lẫn trong một vườn hoa, muốn làm sạch cỏ phải đào tận gốc.
– Các đồng chí ạ! – Người chỉ huy tiếp – hai đứa con nhỏ của vợ chồng tên phản động cũng như đứa con chưa ra đời của chúng giống như mầm cỏ dại mới mọc. Nếu chúng ta không nhổ tận gốc thì làm sao sạch được cỏ! Còn lưỡng lự, còn thương xót kẻ thù là lập trường cách mạng chưa vững vàng, chí căm thù chưa sâu sắc, chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ đảng giao…
Lúc đó, chị tôi – chị Hoa gọi tôi về. Từ hôm ấy bố tôi không cho tôi đi chơi nữa. Người nói:
– Nhỏ tuổi, cái hay không được học, lại nghe những chuyện chém giết người rồi tính tình con sẽ ra sao? Từ nay con ở nhà chơi, bố cấm con ra đường.
* *
*
Địch sắp đến làng, giai đoạn đầu lực lượng vũ trang gài mìn, đào hố đặt bàn chông rồi xuống hầm bí mật. Nhân dân đi sơ tán, bồng bế con nhỏ, gồng gánh lương thực, quần áo và một số đồ dùng cần thiết ra các trại ở giữa cánh đồng tránh bom đạn nếu chiến sự nổ ra.
Bị o ép mạnh, làng tôi phải lập tề – tề ấm ớ do sự chỉ đạo của chính quyền cách mạng. Địch thường xuyên đến làng xục xạo vào nhà dân để tìm kiếm việt minh, du kích. Một hôm thằng quan một thấy mặt chị Hoa – một cô gái có nhan sắc, hắn mê. Từ đó, mỗi lần hành quân vào làng, hắn lại đến nhà tôi.
Hai đêm liền, cứ đến canh ba, con chó vàng lại sủa điên cuồng. Nó hướng về bức tường có cổng ra đường, lồng lộn sủa từng hồi làm cả nhà tỉnh giấc và lo lắng. Nó báo động một tai hoạ có thể xảy ra. Một buổi sáng, trời còn chạng vạng, Vương Viễn và hai du kích đến nhà, mỗi đứa cầm một thanh mã tấu. Viễn nói:
– Đã có lệnh cấm chó, sao nhà mày còn để. Chúng tôi theo lệnh cấp trên chém chết nó ngay.
Con Vàng hình như nhận được đối thủ của nó trong hai đêm trước, nó xông vào Viễn sủa dữ dội. Nó không biết chúng giết nó bây giờ. Thương con Vàng tôi định kêu lên:
– Vàng ơi, mày chạy đi kẻo chết, nhưng chậm rồi. Nói xong Viễn chém đứt một chân trước, con Vàng kêu oăng oẳng, nó nhìn tôi như muốn cầu cứu. Viễn bồi thêm một nhát vào đầu, Vàng giẫy giụa và tắt thở. Nó chết vì tội hai lần báo động cứu chủ. Thương con Vàng quá, tôi ôm lấy nó khóc nức nở. Cả nhà, ai cũng rơi lệ vì thương tiếc nó. Mười năm qua nó sống trung thành với chủ và khôn hiếm thấy. Ban ngày, khi có người ở nhà vàng không bao giờ sủa khách. Vàng không cho ai lấy cái gì nếu chưa qua chủ. Một hôm nghe tiếng pháo nổ gần, cả nhà chạy xuống hầm. Ngay sau đó bà thím họ sang nhà mượn dần, nia. Bà đến cửa hầm hỏi:
– Bác cho em mượn cái dần, cái nia. Có lẽ không nghe thấy tiếng người nhà trả lời nên khi thím mang về, vàng đuổi theo cắn dần, nia lôi lại.
Khi Vương Viễn còn đi ở, qua ngõ thấy vàng nằm, hắn đá vào mõm vàng rồi bỏ chạy. Vài ngày sau đó, thấy Viễn đi qua, vàng từ trên tường nhảy chồm vào Viễn. Có lẽ nó định cắn vào cổ Viễn nhưng hụt, Vàng ngã lộn một vòng và tức khắc chồm lên cắn vào đùi Viễn.
Có hôm tôi ra sông tắm, vàng cũng đi theo. Khi về tôi gặp em trai Viễn – thằng Nội lớn hơn tôi, hắn có khuôn mật hung hãn giống hệt anh. Cậy có anh là con cưng của chính quyền, Nội ngáng đường tôi và doạ:
– Thằng Tâm, mày phải chắp tay lạy tao, tao mới cho về. Tôi chưa kịp đối phó thì Vàng từ xa chạy lại tấn công Nội. May ở sát điếm, Nội kịp trèo lên cái quá giang. Bực quá, tôi ra lệnh cho vàng nằm coi không cho Nội xuống và tôi về nhà. Đến bữa, thấy không có vàng, tôi mới sực nhớ ra, vội vã chạy đi gọi nó. Vàng vẫn kiên trì nằm gác“tù nhân”. Nội không về được vẫn đang ngồi trên chiếc quá giang và khóc. Vì việc này mà bố tôi bị chính quyền địa phương gọi lên trụ sở hạch sách một hồi. Họ buộc cho người xúi giục con gây rối an ninh. Khi gia đình đi sơ tán, vàng cũng đi theo trông nom tài sản.
Buổi chiều hôm ấy, khi bóng đã ngả dài, ngoài đường có tiếng súng và tiếng la ầm ĩ. Ngay sau đó, chú rể tôi – chú Nghiệm chạy vào nhà. Đoán biết chú bị truy bắt, bố tôi vội đưa chú vào buồng, nằm trong cót thóc, lấy cái nong đậy lại và đóng cửa. Vừa xong thì mấy tên lính ập đến đòi khám xét:
– Có một tên Việt minh vừa chạy vào xóm này, gia đình cho chúng tôi tìm kiếm.
– Có ai chạy vào đây đâu? Bố tôi bình tĩnh trả lời.
May có tên quan một mê chị Hoa cũng đến, hắn nói:
– Bố già ơi, con đang đuổi bắt một tên Vi –xi, bố có thấy nó chạy vào đây không?
– Tôi không thấy.
– Thôi được, gia đình ta có mỹ nhân nên con nể không khám đâu. Nói xong, hắn ra lệnh cho lính ra khỏi nhà.
Khi hoàng hôn buông xuống, biết địch đã đi khỏi làng, bố tôi mới đưa chú Nghiệm ra ngoài. Mặt chú còn tái chưa hết cơn hoảng hốt. Chú nói:
– Bác không nhanh tay giúp em thì…
Tối hôm đó, chú Nghiệm ăn cơm và nghỉ tại nhà tôi. Chuông đồng hồ quả lắc thong thả điểm mười hai tiếng, bố tôi tỉnh giấc, nghe bên ngoài có tiếng động nhẹ. Nhìn qua khe cửa thấy người nhấp nhô trên tường, người đánh thức chú
Nghiệm dậy và nói nhỏ:
– Ở ngoài có người trèo tường, có lẽ họ định giết tôi, nhờ chú giúp.
Chú Nghiệm ra sân nói:
– Các anh định làm gì đấy?
– Ông là ai? – Vương Viễn hỏi.
– Tôi là Nghiệm, Vũ lăng.
– Chúng tôi bắt tên quan hệ với địch phải đền tội theo lệnh của cấp trên. – Tèo gấu trả lời.
– Phải có chứng cứ rõ ràng, tôi cũng là cấp trên của các anh. Các anh chưa được hành động nghe chưa?
Nghe chú Nghiệm nói, bốn tên biệt động bỏ đi.
– Nếu không có tôi hôm nay thì… – chú nói với bố tôi – từ ngày mai, bác, cháu Quang và cháu Hoa khi địch đến phải đi nơi khác hoặc ra đồng làm. Nếu để họ nghi ngờ sẽ không tránh khỏi chết oan. Chú nói thêm:
– Đêm nay, trong số đó có Tèo gấu. Khi uống rượu say, nó có thể ăn cả thịt người. Thậm chí, nếu ra lệnh nó dám đâm đầu vào đống lửa.
Vài ngày sau, ngày mùng mười tháng tư âm lịch – phiên chợ Nụ. Chợ họp từ mờ sáng, người mua, kẻ bán đi lại tấp nập rợp đường. là phiên chợ lớn của cả vùng, có đủ mọi mặt hàng trong sinh hoạt miền quê, khách thập phương đến bán hàng và mua sắm. Phiên chợ hôm ấy lại có một đại đội lính Tây, lính Việt từ bốt Rục dương hành quân đến. Đột ngột chiến sự nổ ra ác liệt. Bộ đội chủ lực huyện và du kích đánh độn thổ từ các bụi tre, bờ dứa hai bên đường xông lên chém giết kẻ thù. Nhưng lực lượng của đối phương mạnh và đông hơn, sau ít phút đã phản công lại. Bộ đội và du kích tìm đường tháo chạy. Cả hai bên và người đi chợ chết nằm la liệt.
Đến chiều, mẹ tôi, một anh và một em trai tôi không chịu đi sơ tán. Khổ nỗi, bố tôi, anh Quang, chị Hoa phải đi khỏi nhà từ mờ sáng thì còn ai bắt được mẹ phải nghe lời. Bốn chị em tôi vừa ra khỏi làng thì lính các đồn ập đến. Cuộc tàn sát đốt phá điên cuồng để trả đũa việc chứa chấp Việt minh và tề ấm ớ.
Khi mặt trời sắp lặn, anh rể tôi – chồng chị cả đến nơi sơ tán báo tin khủng khiếp: Mẹ, anh Thao, em Dũng bị lôi ra bắn ở ngã ba đường, nhà đang cháy. Trong cảnh vô cùng đau thương ấy lại lo địch quay lại nên người lớn trong gia đình cùng người an
h họ vội mai táng cho những thân nhân xấu số. Riêng mẹ tôi có quan tài bằng cánh cửa nhà đang cháy ghép lại, còn anh và em tôi phải bó chiếu. Một đống người chết thê thảm không liệm, không có hương hoa, không kèn trống, không có họ hàng đưa đám. Khốn khổ những kiếp người là nạn nhân của chiến tranh!
Người Việt nam không bao giờ quên tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp. Lịch sử Việt nam khắc sâu cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu, đẫm máu của họ năm 1946 – 1954. Quân đội viễn chinh Pháp cùng lính đánh thuê trút bừa bãi bom đạn xuống đầu người dân vô tội. Càn quét đến đâu, gặp sự kháng cự của Việt minh, họ thực hiện tam quang: giết sạch, đốt sạch, phá sạch. Một cuộc chiến tranh xâm lược như vậy thất bại là điều tất yếu. Thời kì đó, đại đa số người Việt căm thù thực dân Pháp nhưng họ lại mơ hồ về cộng sản. Với lòng yêu nước, họ đã ủng hộ chính quyền của ông Hồ để chống lại Pháp. Lịch sử Pháp chịu một vết nhơ không thể rửa sạch: một cuộc chiến tàn bạo và thất bại.
Chẳng những thế, sau khi cuốn gói khỏi Đông Dương, người Pháp còn bỏ rơi hàng chục vạn người đã cộng tác trong cuộc chiến. Họ bị chính quyền CS tù đầy nghiệt ngã và con cháu của họ cũng bị hắt hủi, phân biệt đối xử có thể trọn đời không lối thoát. Sau này, trong lúc đã bình thường hoá quan hệ với CS, chính phủ Pháp vẫn làm ngơ, hoàn toàn vô trách nhiệm với những số phận trên. Điều đó còn chứng tỏ sự vô đạo lý của chính phủ Pháp.
* *
*
Bố tôi cao một mét tám mươi, dáng người thanh nhã, khuôn mặt trái xoan, cặp mắt sáng nhân hậu. Thủa nhỏ người có tên là Trắng, da của người tương xứng với tên gọi đó. Anh chị em tôi ít mang di truyền của bố, nói chung đều gầy yếu, thấp bé. Thủa nhỏ, bố tôi thông minh, học giỏi. Tuy nhiên, thủa ấy ở miền quê bố tôi chỉ lấy được bằng certifica rồi bỏ học. Chữ nho tôi không biết người học đến đâu nhưng đọc được sách truyện Trung hoa như: lễ giáo Khổng mạnh, Đông chu liệt quốc, Hán Sở tranh hùng, tam quốc, thuỷ hử…Người vui tính hay kể chuyện. Người được nhiều người kính nể và dân làng yêu mến. Năm 1942, các chức sắc trong làng đưa bố tôi lên làm phó lý, lý trưởng, phó tổng và cuối cùng là chánh tổng vào năm 1944 do ông Vũ quy Mão, tri phủ Kiến Xương tín nhiệm.
Bố tôi đối xử và làm việc với dân làng lấy lễ giáo làm thước đo. Đương nhiên là lễ giáo phong kiến, lễ giáo Khổng mạnh, chữ đức của người đàn ông: tam cương, ngũ thường. Trong mấy năm làm kỳ hào phong kiến, bố tôi không làm điều gì thất đức. Tháng ba năm ất dậu, nạn đói hoành hành ở quê tôi, nhiều người bỏ mạng sinh ra nạn trộm cướp nhiều. Bố tôi nói: “Thời nào cũng vậy, phải giữ kỷ cương, phép nước, có an ninh xã hội, nhưng mất mùa, đói kém mà người giàu không chịu bố thí, người ta cướp để ăn thì pháp luật cũng đành phải làm ngơ…” Trong thời gian đó, bố tôi đã bỏ qua nhiều vụ cướp.
Ngày đảo chính, chính quyền cách mạng vào khám xét nhà tôi – một khu nhà rỗng tuếch, chẳng có tài sản gì quý; ngoài mảnh vườn, không một thước tư điền. Cuộc sống của gia đình tôi sau cách mạng bằng hai nghề chính: – Nông nghiệp, cấy hơn một mẫu ruộng công, không đủ ăn phải lĩnh canh thêm; – Trồng rau nuôi tằm kéo sợi và dệt. Bố tôi yêu lao động, ngay thời gian còn làm quan phong kiến ngoài ngày giờ lên huyện, người vẫn ra đồng làm việc như mọi người nông dân. Bố tôi khéo tay làm việc gì cũng được: kéo tơ dệt vải, cắt may quần áo cho cả nhà, khâu bằng tay chứ không có máy. Người dạy các con phải siêng lao động, học hành và thường nói: “Cần kiệm là đức tính quý, ngăn chặn đươc nhiều thói hư, tật xấu”.
Về phương pháp dạy bảo các con, lúc nhỏ tôi cho rằng bố tôi hà khắc quá. Người luôn nói câu “Tiên học lễ, hậu học văn”, muốn thành người trước hết phải có đức. Uốn nắn cho con từng lời. Anh chị em trong nhà khi nói chuyện với nhau, ai văng ra từ “mặc hoặc kệ” là bị người trừng phạt. Tuy nhiên, người răn dạy con bằng lời hơn, lẽ thiệt là chính, ít khi dùng roi vọt. Nhờ cách răn dạy ấy mà sau này, tôi không bị ảnh hưởng bởi những trận cuồng phong về đạo đức.
Với ước mong một cuộc sống bình yên để phụng dưỡng cha già và nuôi dạy đàn con nhỏ, người làm trọn nghĩa vụ công dân với chính quyền cách mạng: tuần lễ vàng, công phiếu kháng chiến, hũ gạo kháng chiến…và đóng góp thuế nông đầy đủ, thậm chí phải đi vay nợ để làm nghĩa vụ. Chẳng những vậy, thường có bộ đội đóng quân tại nhà, bố tôi hết lòng giúp đỡ họ nhiều mặt, có khi nuôi hàng tiểu đội mấy tháng. Nhất là ngày tết, cả nhà phải bớt ăn để nhường cho bộ đội.
Sau khi bị nghi ngờ, chết hụt, khi địch đến làng, bố tôi phải ra đồng làm hoặc đi nơi khác. Người có ý nghĩ “cây ngay không sợ chết đứng”, nhưng lại băn khoăn với câu sấm trạng:
Trời làm một hội lăng nhăng
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông
Bao giờ thiên hạ hội đồng

Ngày mùng mười tháng tư âm lịch, tai hoạ khủng khiếp đã đến với gia đình tôi. Nếu ngày ấy bố tôi không phải đi khỏi nhà từ buổi sáng, chắc chắn người sẽ bắt cả nhà tôi phải đi sơ tán sau khi chiến sự nổ ra thì tai hoạ khủng khiếp không thể có.
Nhìn ba thân nhân nằm trên vũng máu, bố tôi khóc thảm thiết và tự trách mình:“vì sợ người ta giết oan, tôi đã không cứu được vợ con tôi”
Một tuần trôi qua, nhà lúc nào cũng có người khóc thương những thân nhân vừa bị nạn. Nhà cháy đổ nát, tro bụi hoang tàn, không ai còn lòng dạ nào thu dọn. Tối hôm ấy, bố tôi dựa vào chiếc cột hiên nhà ngói không bị đốt, đang than khóc nhìn cảnh vật tiêu điều thì hai cán bộ địa phương đến, họ ra lệnh:
– Ngày mai, ông phải mang theo lương thực, quần áo và đồ dùng đi nơi khác học tập ba tháng.
– Cảnh nhà tôi đau thương đổ nát thế này, tôi đi sao được – Bố tôi nói – Xin các ông cho hoãn lại.
– Lẽ ra ông phải đền tội, nhưng giặc đã…nên chỉ phải học tập thôi,
– Tôi có tội gì mà phải đền?
– Tội quan hệ với giặc – Tên cán bộ quát.
– Tôi biết các ông nghi ngờ, ba lần định giết tôi. Nay địch đã đốt nhà, bắn vợ con tôi chưa đủ là bằng chứng về sự vô tội của tôi sao?
– Lệnh của cấp trên, chúng tôi buộc ông phải chấp hành – Một tên cán bộ quát ra lệnh.
– Trời ơi, người đồng hương sống với nhau còn tình nghĩa gì nữa – Bố tôi than thở.
– Nhân nghĩa chỉ tồn tại trong chế độ cũ, cách mạng không cần thứ đạo đức cổ hủ ấy. Chúng tôi hỏi ông có chấp hành không?
Cả nhà tôi đều khóc như di vỡ tổ. Chị Hoa nghẹn ngào nói với bố:
– Bố ơi, bố phải theo lệnh của chính quyền bố ạ. Họ bắt người dân làm gì mà chẳng được. Nếu không thì… Bố thương ông, bố thương chúng con mà nghe theo họ.
Đang trong cảnh đau thương tang tóc lại chất thêm nỗi buồn da diết của cảnh chia ly. Sáng sớm hôm sau, bố tôi khăn gói lên đường để tiếng khóc của anh chị em tôi nối tiếp nhau suốt mùa hè năm ấy.
* *
*
Trời đã sang thu mát mẻ, buổi tối ngồi trên chiếc giường kê ngoài hiên, bố tôi thổn thức đan xen tiếng sáo diều du dương trầm bổng khắp trời xanh. Quê tôi khi vắng tiếng bom đạn nổ lại xuất hiện tiếng sáo diều. Thời bình, nhất là những đêm thu trong sáng, tiếng sáo diều ngân nga, vi vút như một bản trường ca suốt năm canh.
Như chợt nhớ ra, bố tôi gọi:
– Tâm đến đây bố bảo.
– Dạ! Bố gọi con có việc gì?
– Bố đã nói với chú Thất, sáng mai con đi học, con lên tám rồi còn gì?
Lúc ấy, bỗng cất lên tiếng học bài như cuốc kêu của thằng Lê nhà bên cạnh. Bố tôi nói tiếp:
– Thằng Lê bằng tuổi con, nó đã học chú Thất được hai năm rồi. Bây giờ nó đang học cửu chương đấy.
– Cửu chương đến chín thôi hả bố?
– Cửu là chín,đến chín là hết.
– Thế thì con đọc được những số cao hơn cơ, con đọc cho bố nghe:
13 lần 1 là 13
13 lần 2 là 26

13 lần 13 là 169
– Con đọc thử số khác – Bố tôi ngạc nhiên hỏi:
17 lần 1 là 17

17 lần 17 là 289
– Con học ai và học từ bao giờ mà lạ lùng thế?
– Con có học ai đâu, mồm con đọc, óc cộng thêm vào thành một mạch liên tục.
Anh hai tôi – anh Quang từ trong nhà chạy ra nói:
– Tâm có năng khiếu đặc biệt đấy bố ạ.
– Tâm tính nhẩm nhanh, em thử làm bài toán trăm con trâu, trăm bó cỏ nhé?
Anh Quang đọc đầu bài xong, bố tôi gạt đi:
– Anh học thành chung năm thứ hai rồi còn chưa giải được huống chi thằng chưa biết chữ. Người ra lệnh:
– Tâm lên giường nằm ngủ để ngày mai còn đi học. Tôi vâng lời, nằm im thin thít giả vờ ngủ, song bài toán cứ lẩn quẩn trong óc tôi. Sau hơn một giờ tôi bật kêu lên:
– Bố ơi, con tính ra rồi.
Bố tôi nằm bên cạnh, người quay lại hỏi:
– Con mà tính được ra à? Kết quả thế nào con nói thử bố nghe?
– Con tìm được ra ba kết quả – Tôi lần lượt nói với bố tôi. Người ngồi phắt dậy, nói:
– Con đặc biệt quá! Quang ơi, em nó làm ra rồi đấy, con thua em chưa?
Anh Quang lại từ trong nhà chạy ra reo lên:
– Kì diệu quá! Nếu có trường học tử tế và được học hành đầu cuối như ở Paris chẳng hạn, Tâm có khả năng trở thành một nhà toán học.
Quê tôi hồi đó dân trí còn thấp lắm, việc nhỏ đó đã có tiếng đồn lan khắp vùng. Sau này tôi mới biết giải bài toán đó bằng phương trình vô định sẽ tìm được nghiệm trong vòng vài ba phút.
Sáng hôm sau, tôi bắt đầu cắp vở đến trường. Gọi là trường cho hay là thế, thực ra trường là nhà chú Thất, bàn ghế không có phải tháo cánh cửa kê thay bàn học. Học trò khoảng hơn một chục người, chia ra thành nhiều lớp. Người học trước hai, ba năm ở lớp cao nhất. Cứ thế thấp dần đến tôi là lớp cuối cùng chưa biết chữ. Chú Thất – chú họ tôi có lẽ mới chỉ học hết tiểu học, chữ nho biết nhiều hơn. Chú dạy học theo lối du kích, không có chương trình quy định cho một lớp nào, cả thời gian cũng không giới hạn. Ai học tiếp thu chậm thì dạy chậm, ai ngu tối thì ôn đi ôn lại dẫm chân tại chỗ một thời gian, ai học nhanh thì dạy nhanh. Chỉ sau một tuần tôi đã đánh vần và đọc được. Học bằng óc với tôi sao dễ thế? Dường như chỉ cần học mấy ngày đã biết chữ. Chị cả tôi – chị Dền không được đi học mà đọc truyện hay lắm, chỉ không viết được thôi. Nhưng học thì phải tập viết, một công việc nặng nhọc quá sức với tôi. Thày viết bằng bút chì để tôi tô lại bằng bút mực. Tay tôi run run, nét chữ lằng ngoằng như đỉa lội, mùa thu mà mồ hôi vã ra như tắm, mực ở đâu bôi khắp chân tay, mặt mũi, quần áo. Đến nỗi mỗi buổi đi học về, cả nhà ai trông thấy cũng phải khúc khích cười và kêu lên:
– Thằng hề đi học đã về.
Có lần bố tôi hỏi:
– Con viết thế nào mà bẩn thỉu như người lăn xuống ao bùn vậy?
Tôi xấu hổ và tủi thân nói:
– Không biết thế nào mà mực cứ bôi khắp người con?
– Ai nhận thức nhanh thì bàn tay thường lại vụng – người an ủi – con cứ kiên trì rồi sẽ làm được.
Mất gần hai tháng tôi mới vượt qua được công việc nặng nhọc ấy, nhưng bàn tay vụng về của tôi là kẻ thù nguy hiểm cản trở việc học hành của tôi mãi sau này. Song tư duy của tôi ví như con ngựa phi nước đại thì bàn tay chậm chạp đuổi theo như con rùa bò trên bãi cát.
Sáu tháng sau, tôi đã viết được chính tả thành thạo, làm những bài tập văn đơn giản miêu tả người và đồ vật. Còn về toán, mặc dù đã làm được bốn phép tính số học và tính đố nhiều phép tính với thời gian nhanh như máy tính nhưng tôi vẫn tiếc rằng thày dạy tôi còn chậm quá. Tuy nhiên tôi đã vượt mọi người học trước tôi hai, ba năm, chỉ đáng buồn là chữ viết còn xấu quá.
Một hôm, sau buổi học, thày bảo tôi:
– Khả năng thày dạy con đến đây thôi. Con tìm thày khác mà học cao hơn. Thày mỉm cười nói nửa đùa, nửa thật: – Con nhớ là đi học chứ không phải đi ăn cướp chữ thày.
Thế là tôi không được đi học nữa, quay lại những ngày tháng“cấm cung”dạo trước. Sau đó, anh Quang làm gia sư, anh dạy tôi học toán: đo lường diện tích, thể tích các hình, chuyển động, tạp số và phân số. Sau hai tháng tôi không chịu bó tay trước một bài toán số học khó nào của cấp một.
* *
*
Khu vườn trước cửa nhà tôi, những cây ăn quả lá toả xanh rờn: Na, hồng, chanh, cam, mít… ra hoa, kết quả đầy cành. Bố tôi ngồi trên chiếc trường kỷ khảm trai, buồn bã nhìn cảnh vật. Người đang trầm lặng suy tưởng, bỗng cất tiếng ngâm:
Còn trời, còn đất, còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?
Thứ âm thanh được phát ra từ một trái tim bị dồn nén nỗi đau thương, sự lo âu trăn trở của một một cuộc sống nhọc nhằn, giai điệu não nùng của một tâm hồn mệt mỏi không lối thoát.
Ngay sau đó thày Mẫn đến, bố tôi vội vã ra đón thày vào nhà. Thày nói:
– Năm nay xã mở trường cấp một, ông có cháu nào đi học không?
– Tôi còn hai cháu phải đến trường. Thày dạy lớp nào?
– Tôi dạy chương trình lớp bốn, học kỳ hai.
– Tôi muốn cháu Tâm theo học thày có được không?
– Tôi được nghe nói cháu Tâm giỏi toán lắm. Năm nay cháu bao nhiêu tuổi, học mấy năm rồi?
– Chẳng dám nói dối thày, cháu lên chín, đã học chú họ nó và anh nó được tám tháng. Thày cười nhạt có vẻ mỉa mai:
– Có thể cháu thông minh hơn người nhưng mới học tám tháng thì theo sao được?
– Bây giờ thày cứ kiểm tra, nếu cháu theo học được, tôi mới dám nhờ thày. Bố tôi gọi:
– Tâm đến đây thày hỏi.
– Cháu viết và đọc nhanh chưa? Thày Mẫn hỏi.
– Thưa thày, hiện nay cháu đọc nhanh nhưng viết còn chậm và chữ xấu.
– Văn, toán cháu học đến đâu rồi?
– Cháu đã biết làm văn tả cảnh, tả người và đồ vật. Còn về toán, cháu mới thành thạo về phân số.
Thày nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Cháu giấy bút làm thử một bài toán nhé. Hai người có 84 đồng. Số tiền người thứ nhất bằng 3 / 4 số tiền người thứ hai. Hỏi số tiền của từng người?
Tức khắc tôi trả lời:
– Thưa thày, người thứ nhất có 36 đồng, người thứ hai có 48 đồng.
– Sao cháu làm nhanh thế? Thày trố mắt nhìn tôi thán phục.
– Thưa thày, bài toán ấy đơn giản quá.
– Khi chưa đi học, cháu đã đọc trơn tru thập cửu chương – Bố tôi nói xen vào.
– Nếu đúng thế – Thày Mẫn hỏi – cháu đọc phép nhân 19 cho thày nghe.
Tôi dõng dạc đọc:
19 lần 1 là 19
19 lần 19 là 361
Bố tôi nói thêm:
– Cũng khi chưa đi học, cháu còn tính nhẩm được bài toán trăm con trâu, trăm bó cỏ.
Thày Mẫn reo lên:
– Tiếng đồn quả không ngoa, cháu thông minh xuất chúng. Tôi đồng ý nhận cháu học.
Bố tôi cảm ơn thày và nói thêm:
– May quá, tôi có ý định đến nhờ thày đã lâu. Còn cháu Đản xin học lớp vỡ lòng thôi.
Thày Mẫn dáng người cao, gầy, cặp mắt thông minh, lanh lợi. Thày đã khai hoá cho bao người ở vùng này hết tối tăm, ngu dốt, nhưng cả đời thày chịu phận nghèo hèn. Bố tôi ngưỡng mộ thày – một thày giáo có lương tâm, nhân hậu,
dạy giỏi. Còn thày mến trọng bố tôi về cách sống nền nếp và lòng nhân ái. Hai người quan hệ với nhau từ khi còn trẻ.
* *
*
Trường học xã tôi khai giảng giữa mùa hè, một hiện tượng bất thường trong thời chiến. Trường phân tán nhiều nơi: đình, từ, miếu hoặc những nhà rộng vắng chủ. Bàn ghế không có, mỗi học sinh tự sắm một cái bàn học gấp lại được như ghế thợ cắt tóc rong. Khi đi học, khi về phải mang theo. Lớp học tôi ở miếu thôn trong, có hơn bốn chục học sinh. Người nhiều tuổi nhất đã lấy vợ, đa số là mười ba, mười bốn tuổi, không có ai bằng tuổi tôi. Buổi khai giảng, mặc dù có tiếng đồn tôi giỏi toán nhưng thấy tôi ít tuổi lại gầy gò, ẻo lả nên các bạn học không tin, ai cũng coi thường khinh miệt tôi ra mặt, họ bảo:
– Nào nhóc con, nào con nít đi chơi chỗ khác để cho các anh học.
Tủi quá, tôi bưng mặt khóc hoài. Hôm sau mới bắt đầu học, tiết đầu là toán, thày giáo nói: – Lần đầu, xã có trường công nên các em ở độ tuổi khác nhau, trình độ cũng chênh lệch nhau nhiều. Hôm nay các em làm bài kiểm tra toán. Nếu em nào yếu quá không theo được phải xuống lớp ba.
Bài toán phân số dễ quá, tôi chỉ mất thời gian chép đề và bài giải, không cần động óc một chút nào. Thế mà hết giờ, nhiều bạn vẫn chưa xong, hoặc làm sai, hoặc đành ngậm bút. Qua buổi học ấy, thái độ của các bạn đối với tôi thay đổi, từ chỗ khinh miệt đã nhường chỗ cho những lời khen, khâm phục.
Suốt bốn tháng học, tôi chiếm ưu thế tuyệt đối về môn toán, không có đối thủ nào đồng cân đồng lạng. Tuy nhiên vì cái ưu thế đó, cộng thêm tính“ ngựa non háu đá” của tuổi thơ, tôi làm thày Mẫn nhiều phen khó chịu: cậy mình biết rồi, tôi không chú ý nghe thày giảng. Đến tiết học tính nhẩm, thày nói xong đầu bài là lập tức tôi trả lời ngay đáp số. Thày trừng mắt, bảo tôi:
– Thày biết khả năng của em rồi, từ nay đến tiết tính nhẩm, em ngồi im lặng để các em khác học.
Một hôm, thày giải một bài toán mẫu trên bảng, có phép tính 497 x 17 +51. Thày làm theo phương pháp thông thường nên vẫn chưa ra kết quả. Không kiềm chế được, tôi bật kêu lên:
– Thưa thày bằng 8500.
Thày quay nhìn tôi mắng:
– Em cứ giữ tính ấy à? Làm thế nào?
– Thưa thày 51=17 x 3. Do đó (497+3) x17 =
Có lẽ thày hiểu ngay cách tính ấy nhưng tôi đã xúc phạm đến thày. Thày ra lệnh:
– Từ nay thày có hỏi em mới được trả lời.
Thực ra phép tính nhẩm hai số, mỗi số có hai chữ số thường tôi tìm ra kết quả tức thời, nếu chậm cũng chỉ mất một vài giây.
Năm 1951 phải tính thuế nông nghiệp mà những người cán bộ ở quê tôi cho là phức tạp nên nhờ một số học sinh tính giúp.
Họ bảo tôi tính thuế gia đình ông bác họ tôi – một đại địa chủ, đồng thời cho một ông thạo dùng bàn tính làm cùng với tôi. Họ không ngờ rằng, thời gian tôi tính chỉ bằng một phần ba thời gian ông kia. Do tính tò mò, có người theo dõi tôi tính thế nào mà nhanh thế, tôi đã biến hoá từ phép nhân, chia thành cộng hoặc trừ. Người đó hỏi:
– 123 x 72 làm thế nào nhanh nhất?
Tôi trả lời: – Cháu lấy 9000 –144 = 8856
Các môn địa lý, lịch sử, công dân, tôi có trí nhớ nên thường xuyên đạt điểm cao. Còn về văn, do tuổi còn non dại, tôi chỉ đạt điểm trung bình.
Mùa xuân năm 1952 có kỳ thi chuyển cấp, bài thi toán, tôi tự cho là hoàn hảo. Còn bài thi văn lại trùng với bài văn viết thư mà thày Mẫn đã cho làm khi đang học. Tưởng như đã cầm chắc trong tay kết quả, nào ngờ đâu khi niêm yết danh sách trúng tuyển lại không có tên tôi. Người ta nói, học tài thi phận, tôi tự hỏi: cái phận của tôi hay do xã hội? Bố tôi từ vui mừng thành thất vọng, người đến thày Mẫn hỏi, thày buồn bã trả lời:
– Thấy cháu họ giỏi quá nên người ta sinh lòng đố kị. Khổ nỗi vì quá khứ của ông làm cháu Tâm thi trượt. Tôi nghe nói, bài thi của cháu bị huỷ ngay không được chấm.
Với ước mong con được học hành, bố tôi chạy chọt quay cuồng tuyệt vọng. Năm lần, bảy lượt dẫn tôi đến ông hiệu trưởng Đỗ Đoàn trường cấp hai của huy�
�n xin học dự thính. Có lẽ chẳng hiểu gì phần quá khứ của bố tôi, cuối cùng ông Đỗ Đoàn đã nhận lời. Tôi học được hai ngày êm thấm. Đến ngày thứ ba, thày Hồng dạy sinh vật đưa cho tôi một bức thư ngắn có nội dung: “ Kính thưa cụ, cháu đã trót nhận em Tâm học dự thính nhưng nay địa phương họ không đồng ý. Mong cụ thông cảm. Nhà trường chịu sự chỉ đạo của chính quyền. Đỗ Đoàn”
Người lại bảo tôi xin học lưu ban lớp bốn. Năm học này, thày Mẫn đã chuyển trường xã khác. Thày giáo mới – Thày Cường còn trẻ. Đến lớp, tôi lẽ phép chào thày và xin học. Thật lạ lùng, oán hờn có từ kiếp nào mà thày quắc mắt mắng tôi:
– Mày cút đi, lớp học này chỉ dành cho con em thành phần lao động.
Tôi thoáng nghĩ, hắn đã dạy tôi được chữ nào đâu mà phải gọi là thày, tôi nổi khùng:
– Không cho học thì thôi, việc gì anh phải tuôn ra những lời lỗ mãng.
Tôi về nhà tiếp tục những ngày tháng “cấm cung”. Em tôi – em Đản cũng thông minh nhưng học theo chương trình của nha giáo dục nên mỗi năm cũng chỉ qua một lớp. Tôi có làm gia sư cho Đản cũng bằng thừa. Đản có nước da trắng, khuôn mặt và hình dáng mềm yếu như con gái nên thuở nhỏ có tên là cu đĩ. Đản hiền lành lắm. Người ta nói, lành như bụt, Đản hiền đích thực là như vậy. Trước sự bất bình phản ứng cao nhất của Đản là tiếng khóc. Có lẽ tạo hoá sinh ra Đản để cam chịu mọi điều bất hạnh.
* *
*
Bố tôi lúc nào cũng mang nặng nỗi u buồn. Giữa năm 1952, người lên Hà nội thăm chị mẹ tôi. Nhân tiện, người ghé thăm ông Vũ quý Mão, khi đó làm đổng lý văn phòng phủ thủ hiến Bắc việt. Sau một hồi lâu tâm sự, ông Mão nói:
– Tôi biết anh căm thù người Pháp đã cướp đi mạng sống của vợ con anh nhưng sự điên loạn của thú tính và tội ác trong cuộc chiến nào mà chẳng diễn ra. Nếu chế độ CS là tốt đẹp, anh ủng hộ để chống lại Pháp là điều đúng đắn, nhưng anh không chạy sớm, CS sẽ gây tai hoạ cho anh.
Trên đường về qua thị xã Thái bình, người đến thăm ông anh họ – bác giáo Tôn. Bác Tôn cũng khuyên bố tôi tương tự như ông Mão. Bác nói thêm:
– Đúng hay sai là do lịch sử phán quyết sau này, trước mắt chú hãy tìm đường thoát khỏi cái miệng hùm, nọc rắn.
Về đến nhà, sau khi bàn bạc với các con, người có ý định từ giã quê hương. Bố tôi xin phép ông tôi về việc đó. Ông không ngăn cản nhưng lại nói:
– Số bố chết chỉ có một gậy chống, hiện nay anh con đau yếu, không biết khi bố về cõi sẽ ra sao?
Nghe ông tôi nói, người đành ngậm ngùi không đi đâu nữa. Người thường nói: “dù khổ, dù phải chết cũng không thể phạm tội bất hiếu”. Định mệnh thật nghiệt ngã: năm 1956, người chống gậy chịu tang ông tôi là bác tôi.
Thời gian thấm thoát hai năm nữa trôi qua, thêm nhiều phen nguy hiểm và vất vả trong chiến tranh, hoà bình được lập lại. Tin đó làm mọi người vui mừng khôn xiết. riêng bố tôi buồn vui xen lẫn. Người nói:
– Chiến tranh đã kết thúc, mọi sự nghi ngờ của chính quyền cách mạng với gia đình ta chắc cũng không còn, từ nay bố yên tâm phụng dưỡng ông và nuôi dạy các con.
Người buồn vì chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba thân nhân. Và tương lai vẫn là một màn sương mờ ảo vì sự thành kiến của chế độ.
Đầu năm 1955, thày Mẫn đến nói với bố tôi:
– Năm nay có lẽ họ cho cháu Tâm học, ông bảo cháu ôn lại để thi chuyển cấp.
Mùa xuân năm ấy tôi lại đến trường sau ba năm gián đoạn. Trường cấp hai huyện chưa xây dựng vẫn học phân tán nhiều địa phương. Tôi đi học gần, ngay ở đình thôn ngoài, bàn học vẫn tự sắm và mang đi mang về như trước. Gia đình tôi lại có thêm một niềm vui, sau mười năm lấy vợ, anh Quang đã có con trai. Những tháng sống thanh bình trong mái ấm tình thương, bố tôi càng thương tiếc những thân nhân đã khuất. Nhiều đêm tôi tỉnh giấc thường nghe tiếng thở dài não ruột của người. Thứ âm thanh được xì ra từ một tâm hồn bị dồn nén đau thương, đổ nát trong quá khứ và nỗi lo âu, nghi hoặc ở tương lai.

Kỳ 4 – Thời kì cải cách ruộng đất.

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 4

HỒI MỘT – Quê hương

II Thời kì cải cách ruộng đất.

Chuỗi ngày vui ngắn ngủi đã trôi qua, tôi nghỉ học kỳ thì đội cải cách ruộng đất về làng. Ngọn lửa căm thù của đội đã đốt và lan nhanh đến thế! Xưa nay đại bộ phận dân làng niềm nở, trìu mến bố tôi, đội cải cách về sau một tuần thì hoàn toàn ngược lại: khi gặp bố tôi ngoài đường, một số người với cặp mắt trợn trừng như bốc lửa còn lại thì lẩn tránh hoặc ngoảnh mặt đi chỗ khác, không nhìn. Cả với anh chị em tôi cũng thế, họ sợ hoặc thù ghét như ma quỷ hiện hình.
Nỗi hoảng sợ không riêng với gia đình tôi mà với mọi nhà. Người đi đường lặng lẽ bước, không dám cười nói râm ran như trước. Phiên chợ Nụ ngay trong thời chiến cũng vẫn đông vui mà thời gian ấy lèo tèo, xơ xác. Tối đến, ai nấy đều đi ngủ lúc hoàng hôn vừa buông xuống. Mấy con chó dữ trong xóm cũng bớt mồm sủa bậy, tiếng sáo diều cũng ngừng ngân nga, vi vút. Bầu không gian im lìm, ngột ngạt báo hiệu một trận cuồng phong sắp đến, một trận bão lửa căm thù. Căm thù là một viên ngọc quý, là phần thưởng đối với người yêu và tham gia vào cuộc cách mạng long trời lở đất này. Không có căm thù sẽ không thực hiện được cái gọi là đấu tranh giai cấp – thứ lý thuyết mang thú tính của thời đại.
Đến một chiều hè chói chang ánh nắng, một đoàn thiếu nhi hàng trăm đứa với sự chỉ đạo của hai, ba cán bộ cốt cán đến trước cổng nhà tôi. Chúng hò reo ầm ĩ, trống ếch khua loạn xạ và hô nhiều khẩu hiệu.
– Hoan nghênh chính sách cải cách ruộng đất của đảng và chính phủ!
– Đả đảo tên Nguyễn Căn địa chủ, cường hào gian ác đầu sỏ!
– Kiên quyết đánh đổ tên Căn… !
Sáng hôm sau, hai bức tường xây bên đường đi của nhà tôi, tổ thông tin tuyên truyền kẻ nhiều khẩu hiệu về cải cách, đa số là khẩu hiệu kiên quyết đánh đổ và đả đảo bố tôi. Lúc này ông tôi mới hối hận nói với bố tôi:
– Bố có lỗi với con, không muốn con đi nên nay mới đến nông nỗi như thế này!
Đây là bước đầu cải cách, tai hoạ đến đâu chưa ai lường được nhưng cả nhà tôi đều lo buồn, hoảng hốt đến cực độ.
Nhà tôi có cái bếp tre nứa mới làm sau khi nhà bị địch đốt năm 1950. Sau bếp là bức tường xây cũ, cạnh ngõ đi. Từ lâu, tôi đã thấy một hình vẽ khẩu súng ngắn bằng gạch non, có lẽ do trẻ con nghịch ngợm. Tổ thông tin do sự chỉ đạo của đội trưởng cải cách Lê Thăng kẻ một khẩu hiệu bên cạnh hình vẽ ấy. Buổi tối hôm ấy, Vương Viễn đến, tay hắn xách súng dài có cắm lưỡi lê. Hắn đứng giữa sân quát:
– Tên Tâm và tên Đản ra ngoài cho đội hỏi.
Trời nóng, hai anh em tôi chỉ mặc quần đùi, nghe Viễn quát, Đản sợ quá ngã lăn ra. Bố tôi từ trong nhà chạy ra xin hắn:
– Anh cho các em ăn cơm đã.
– Láo xược – Viễn quát – mày gọi ai bằng anh, tao là anh mày à? Mày phải xưng con và gọi ông, bà nông dân nghe chưa? – Hắn ra lệnh.
– Tên Tâm và tên Đản phải đi ngay!
Thấy Đản vẫn nằm, hắn cầm tay Đản giật mạnh rồi bỏ xuống. Má Đản quệt vào gạch, máu chảy ra chan chứa, Đản khóc thất thanh. Cả nhà chạy ra sân nâng Đản dậy và van xin hắn. Viễn quát tháo một hồi rồi bắt tôi đi. Hắn đi sau, báng súng cắp nách, tay phải cầm thân súng, ngón tay phải đặt vào cò, chĩa lưỡi lê sát vào lưng tôi, giống như đưa người ra bãi bắn.
– Đi đâu? – Tôi hỏi Viễn.
– Xuống miếu – Hắn trả lời.
Đến nơi, hắn bẻ hai cánh tay tôi ra sau lưng và lấy thừng trói vào cột miếu.
– Tối nay tao giam mày ở đây để ngày mai đội sẽ hỏi mày về tội chống phá cải cách của tên Căn.
Nghe hắn nói, tôi lạnh người đi vì sợ. Trói tôi xong, hắn khép cửa lại ra hành lang nằm trên chiếc chõng tre. Một lúc sau, tôi mới thấy Viễn trói tôi đau quá. Muỗi nhiều như o�ng xâu lại đốt, tôi cởi trần, tay lại bị trói làm sao mà xua muỗi được? Muỗi hoan hỉ bay loạn xạ, tiếng hò reo liên tiếp như tiếng sáo diều. Đúng là bữa đại tiệc cho bọn muỗi ở đây, tôi cựa quậy tuyệt vọng trước sự tấn công của bầy muỗi.
Đêm đã khuya đội trưởng Lê Thăng mới đến, có lần tôi gặp hắn ngoài đường. Hắn cao khoảng một mét sáu mươi, lưng hơi gù, da mặt rỗ sù sì như da cóc, người béo thô, đôi vai u, cặp mắt lác hình như toàn lòng trắng.
Thăng hỏi Viễn:
– Bắt chúng nó chưa?
– Mới bắt một tên Tâm đang trói trong miếu, còn tên Đản bị ngã nên chưa.
– Một tên Tâm thôi cũng được
– Kỳ này bắn địa chủ – Viễn nói – em xin anh một tay súng nhé?
– Được lắm, đồng chí được ưu tiên số một.
– Em đề nghị anh thế này. Bắn địa chủ nên kéo dài ít nhất mười lăm phút. Sau khi trói kẻ thù trên giá, phải có sáu xạ thủ đeo biển số thứ tự, mỗi xạ thủ có một băng đạn năm viên. Cách mục tiêu khoảng năm chục thước, khi nổ súng, người chỉ huy lệnh cho từng xạ thủ tiến đến gần bắn từng mục tiêu nhỏ. Thí dụ, xạ thủ một bắn vào chân phải kẻ thù, xạ thủ hai bắn vào chân trái, xạ thủ thứ ba bắn vào tay phải, thứ tư bắn vào tay trái, thứ năm bắn vào bụng và ngực, thứ sáu bắn vào đầu. Xạ thủ nào cũng phải bắn hết đạn, làm cho kẻ thù chết dần mới khoái.
– Sáng kiến của đồng chí hay đấy nhưng phải thỉnh thị cấp trên.
– Cách hành hình ấy càng chứng tỏ lòng căm thù bốc cao, có gì mà cấp trên không nhất trí?
– Tớ chỉ ngại cấp trên bảo là lãng phí đạn thôi. – Thăng nói tiếp:
– Đảng ta còn nhân đạo đấy, bên Trung quốc, chẳng mất một viên đạn nào. Trói địa chủ vào giá, bên cạnh là con dao sắc và đĩa muối ớt. Mỗi khổ chủ lên tố xong, xẻo một miếng thịt rồi xát muối ớt vào. Cứ thế đến khi nó chết thì thôi.
– Anh ơi! – Viễn nói – Anh bảo em có ngu không mhé? Cách đây bảy năm, em đánh vào nhà thờ CM. Lúc đó gần kết thúc trận chiến đấu, không còn sức kháng cự của kẻ thù, em cứ vội vã chém thật lực mỗi tên một nhát, như thế chúng còn biết gì đau đớn nữa. Giá như bây giờ, em sẽ đâm nhẹ từng chỗ trên cơ thể chúng, rồi tháo khớp chân tay để xem chúng khóc lóc, đau đớn, chết dần từng bộ phận, liệu trên đời này còn thú vui nào hơn thế nữa? Em cứ tự oán trác
h mình, cơ hội ngàn năm có một mà cách mạng dành cho đã không tận hưởng.
– Trong thời gian chiến tranh – Lê Thăng nói – Tớ không có chiến công to như cậu nhưng thực hiện được một ước mơ đáng giá nghìn vàng.
– Anh kể cho em nghe với – Viễn nói.
– Cách đây mới có năm năm, quê tớ có một đứa con gái rất xinh. Gia đình nó có cửa hàng ở thị trấn, lại giàu có nên nó chỉ ăn diện chẳng phải làm gì nặng nhọc. Năm nó mười bảy tuổi, bọn thanh niên nhiều nơi biết tiếng kéo đến xem mặt và tán tỉnh, tấp nập kẻ ra, người vào, nó chẳng ưng ai. Quả thật tớ cũng mê nó quá, đôi khi nẩy ra mơ ước, nếu được ngủ với nó một đêm rồi chết cũng đáng đời. Bởi vì nhà mình nghèo, học ít lại xấu trai thì với sao được nó. Nhiều lần gặp ở đường, tớ cũng bông đùa một vài câu, nó chỉ lặng thinh, không thèm nhìn tớ. Năm 1950, làng tớ lập tề, bốt giặc đóng ngay bên cạnh. Thấy nó xinh, bọn lính đến nhà nó thường xuyên. Lúc đó, tớ đã vào biệt động. Thời cơ đã đến, tớ báo cáo lên cấp trên, bố con nó có dấu hiệu khả nghi. Tớ còn cam đoan nó sắp sửa lấy thằng sếp bốt. Cách vài ngày sau, tớ và hai người nữa được lệnh nửa đêm lẻn vào nhà, bắt bố con nó đi, buộc đá quẳng xuống sông Hồng.
Sau khi thi hành bản án thằng bố, nhìn đứa con gái, cơn thèm khát của tớ bốc lên không thể nào chịu được. Tớ nẩy ra ý nghĩ, hoa đẹp trong tay, sao không hưởng lạc trước khi vất nó? May quá, hai đứa cùng làm nhiệm vụ lại là đàn em dễ bảo. Tớ nói ý định đó, chúng nhất trí ngay. Tớ lột hết quần áo nó, dưới ánh trăng sáng, xác thịt nó khêu gợi làm sao! Bọn tớ thay nhau hưởng lạc gần đến sáng, mỗi đứa được hai lần mới cho người đẹp trần truồng xuống sông tắm mát.
Viễn reo lên:
– Tuyệt quá, tuyệt quá, sự kiện ấy quả là độc đáo. – Viễn hỏi thêm:
– Xưa kia, em được cấp trên chỉ thị, bọn phản động như đám cỏ dại mọc lẫn trong vườn hoa, muốn làm sạch cỏ phải nhổ tận gốc. Vậy ngày nay, chủ trương của đảng đối với bọn con cái địa chủ thế nào?
– Đảng coi chúng là kẻ thù nhưng xử lý có khác, tuy không mang ra đấu tố, hành hình nhưng vùi dập cuộc đời chúng xuống bùn đen.
– Cả như em, đứa nào là địa chủ cường hào cứ bắt tất cả con cháu trong ba đời băm ra là xong việc.
– Tớ cũng nghĩ như cậu, nhưng cả đời bị vùi dập, đoạ đầy còn cực hơn là được chết ngay.
Nghe hai tên khát máu nói chuyện, tôi rùng mình hoảng sợ. Có lẽ còn rùng rợn hơn những hình phạt thời trung cổ: đưa lên giàn thiêu, bỏ vào vạc dầu, quẳng cho hổ báo ăn thịt hoặc cho ngựa xé, voi giày…Mệt quá vì thần kinh căng thẳng, tôi thiếp đi lúc nào không biết, gần sáng tôi mới tỉnh dậy. Hai cánh tay đau tê dại, cả người ngứa ngáy.
Nhìn qua khe cửa, tôi thấy chị Hoa mang cơm đến, đang xin thằng Viễn:
– Ông cho phép em nó được ăn cơm.
– Phải chờ lệnh của đội, nếu ngoan cố thì đừng hòng, mày hãy cút về đi.
Chị Hoa khóc và về.
Trời sáng rõ, Viễn mở cửa ra, sau ít phút thì Lê Thăng đến, hắn nói:
– Mày có biết bị bắt đến đây vì tội gì không?
– Thưa chú, cháu không biết.
– Láo xược, tao là chú mày à? Là ông đội nghe chưa? – Hắn tiếp:
– Mày muốn sống phải khai thật tên Căn đã xui mày vẽ súng bắn vào khẩu hiệu như thế nào?
– Thưa ông đội, hình vẽ súng đã có lâu rồi, cách đây hai ngày mới kẻ khẩu hiệu.
– Mày ngoan cố phải không? Nếu không khai thật, đội sẽ trói mày cho đến chết.
Nói xong, hắn bỏ đi và Vương Viễn cũng về. Người thay gác là đứa em gái họ cùng chi với tôi. Tưởng nó còn tử tế, tôi khát nước quá nên xin: – Cô Mùi ơi, làm ơn cho tôi xin bát nước. Mùi chồm lên, lấy tay xỉa xói vào mặt tôi, nó lu loa: – Tao là cô mày à? Cả tên Căn nữa cũng phải gọi tao là bà nghe chưa? Tức đến phát điên nhưng tôi im lặng, muốn nhổ vào mặt nó.
Một lúc sau Mùi múc gáo nước lã ghé vào mồm tôi. Tôi cố hết sức kéo cả thừng trói đứng lên đá gáo nước trên tay nó bắn đi, gáo vỡ, nước tung toé. Mùi gào lên:
– Thằng láo xược, chống lại ông bà nông dân à?
Tôi lại ngồi xuống, ngoảnh mặt đi, mặc cho Mùi la ó.
Mãi đến trưa, Vương Viễn mới đến, Mùi kể lại và tiếp tục lồng lên gào thét.
Thằng Viễn xông lại thẳng cánh vả vào mồm tôi, máu mồm, máu mũi trào ra chảy như cắt tiết gà xuống nền miếu. Không hiểu vì sao, lúc đó tôi không cảm thấy đau, cũng không thấy sợ. Tôi nhắm mắt lại và gục đầu xuống. Mùi khoái chí reo lên, cười hô hố:
– Đáng đời chưa thằng con địa chủ?
Viễn vừa bỏ đi thì bố tôi đến, người nói:
– Thưa bà cháu họ, cho phép tôi được nói chuyện với con tôi một lát.
Mùi trợn mắt nhìn bố tôi và quát:
– Láo xược, mày xưng tôi với ai? Trước kia mày là bác họ tao nhưng đến nay ông bà nông dân đã vùng lên đánh đổ mày. Mày phải xưng với tao là con.
– Thôi được, bà cho phép con được nói chuyện với Tâm một ít phút thôi.
– Nói gì thì nhanh lên, chớ có thông đồng chống phá, đội và các ông bà nông dân không tha tội cho bố con mày đâu.
Tôi ức quá, lúc này nếu không bị trói tôi sẽ giáng cho nó một trận đòn. Chắc hẳn nó chưa quên, mới cách đây hai tháng, gia đình tôi đang ăn cơm, nó đến vay gạo. Bố tôi bảo nó cùng ăn và cho gạo mang về. Người còn bảo:
– Nếu thiếu, cháu cứ sang đây, bác có bác sẽ cho, việc gì phải vay với mượn.
Nay Mùi trở mặt như trở bàn tay, không bằng giống chó. Bố tôi lại gần, người lấy vạt áo lau vết máu trên mặt tôi. Hai dòng lệ rơi lã chã từ khóe mắt, người nói:
–Đội bảo gì con phải nghe theo, không thì khổ. Người ta định giết bố, muốn buộc tội gì mà chẳng được. Bố nhắc lại, con phải nghe lời bố. Nói xong, người bỏ về.
Tôi thầm nhủ, không thể nhận những điều vu khống được, nếu chúng dùng cực hình cao hơn, tôi cố nghiến răng mà chịu.
Bóng chiều ngả dài, Lê Thăng và Vương Viễn đến, chúng nói chuyện với nhau:
–Trưa mai, tớ đi công tác vài ngày.
–Việc ấy đội định giải quyết thế nào? – Viễn nhìn tôi rồi hỏi.
–Đồng chí vào cởi trói cho nó ra đây.
Viễn cởi trói xong, tôi vẫn không biết gì vì hai cánh tay tôi tê dại, không còn cảm giác. Hắn quát:
– Ra cho đội hỏi tội, mày định ăn vạ à?
Tôi giật mình đứng dậy, ra ngoài gặp Lê Thăng.
– Mày có nhận tội không? Lê Thăng hỏi.
– Thưa ông đội, cháu không làm, cháu không thể n
hận.
– Thôi được, đội làm biên bản theo lời khai của mày.
Hắn lấy giấy bút ra viết. nửa giờ sau, hắn bảo tôi nghe hắn đọc:“Tôi là Lê Thăng, đội trưởng cải cách làm biên bản hành động chống phá của tên Nguyễn Căn – địa chủ cường hào gian ác, đầu sỏ. Y đã sai con là Nguyễn Tâm vẽ súng bắn vào khẩu hiệu: hoan nghênh chính sách cải cách ruộng đất của đảng và chính phủ. Theo lời khai của tên Tâm, mười ba tuổi: Khẩu hiệu súng đã được vẽ từ lâu, sau đó mới kẻ khẩu hiệu…”Đến chỗ “khẩu súng đã vẽ từ lâu…”, tôi thấy Thăng đọc ngắc ngứ làm tôi nghi ngờ. Đọc xong, hắn bảo tôi ký vào biên bản nhưng bàn tay hắn xoà ra che kín đoạn văn cuối.
– Thưa ông đội, cho cháu đọc lại rồi cháu ký.
Nghe tôi nói, hình như biết đã bị lộ, hắn quát:
– Mày có ký không?
– Không được đọc, cháu không ký.
Lê Thăng nhìn tôi, hắn nhếch mép cười nham hiểm:
– Mày không ký, đội có thể trói mày đến chết nhưng chẳng cần mày ký nữa.
Hắn cầm bút viết nguệch ngoặc: bị can ký tên: Tâm. Sau đó, hắn đưa tôi tờ biên bản và nói:
– Đây đọc đi.
Tôi đọc lại chỗ nghi ngờ, sự thật hắn đã viết:“Con đã vẽ khẩu súng bắn vào khẩu hiệu: hoan nghênh… con làm việc này là do bố con sai.”. Đọc xong, tôi toan xé tờ biên bản, sực nhớ tới lời bố tôi dặn, tôi đành ngậm ngùi trả lại hắn. Lê Thăng đặt tờ biên bản vào cặp tài liệu, hắn lác mắt nhìn tôi nói:
– Chữ ký của mày mà đội không làm thay được thì câu nói nhất đội nhì trời còn có ý nghĩa gì? Bây giờ đội tạm tha mày.
Mỏi mệt, căm giận, tôi thất thểu bước về. Đến cổng nhà, tôi kiệt sức, hai tay chới với trên thành tường rồi khuỵu ngã. Đản trong sân nhìn thấy tôi, nó kêu lên:
– Bố ơi, anh Tâm về.
Người vội chạy ra ôm tôi bế vào nhà và đặt lên giường. Cả người tôi dộp lên vết muỗi cắn như bệnh sởi. Vết thừng trói ở cánh tay tím bầm lại.
Người lặng lẽ dùng dầu xoa bóp cho tôi. Từng giọt lệ ấm tình thương của người rơi xuống cơ thể tôi làm tôi rùng mình hoảng sợ. Tôi đã đọc được người. Phải chăng trái tim người đang bão tố và sẽ bão tố suốt những ngày còn lại của cuộc đời? Người đang hối hận đã bỏ lỡ cơ hội ra đi vì chữ hiếu để cái mỹ từ thiêng liêng ấy cũng dở dang vì bọn khát máu không cho phép người làm trọn vẹn. Người đang đau xót, thương đàn con dại – những đứa con côi cút của người sẽ sống ra sao trong sự vùi dập, đoạ đầy của xã hội?
Đêm ấy, trận bão mạnh ập đến bất ngờ, không kịp phòng chống, cái bếp nhà tôi bị đổ lấp mất ngõ đi. Đến sáng, Vương Viễn đứng ở ngoài cổng quát:
– Tên Căn đâu rồi? Mượn gió bão, mày kéo đổ bếp phá hoại đấy phải không?
– Đời thuở nào lại kéo đổ nhà mình? – Bố tôi từ trong nhà nói vọng ra.
– Mày muốn phi tang sai con chống phá cải cách ở bức tường kia.
– Các ông muốn buộc cho tôi bao nhiêu tội mà chẳng được.
– Láo xược, mày xưng tôi với ông bà nông dân à? Thấy Lê Thăng đến Viễn phân bua:
– Anh đội xem, tên Căn kéo đổ tường để phi tang chống phá.
– Đồng chí cứ yên tâm. Tội của ai là tiếng nói của đội, tiếng nói của bà con nông dân, cần gì tang chứng. Nó chống phá chỉ tăng thêm cực hình trước khi tắt thở mà thôi.
Lê Thăng nói xong cùng đi với Viễn.
Xế chiều ngày 16 – 5 âm lịch, bố tôi đang xây lại bức tường đổ bằng ao bùn thì Lê Thăng, Vương Viễn và hàng chục du kích, cốt cán đến nhà. Lê Thăng không cho bố tôi rửa chân tay, hắn đọc lệnh bắt giam, đọc xong, Vương Viễn cầm cái thừng đay mới, hắn xô lại bẻ hai cánh tay bố tôi ra sau lưng và dùng hết sức trói chặt người đến nỗi người không ngồi được, ngã vật ngửa ra. Lê Thăng bảo Viễn:
– Còn giải nó đi, đồng chí nới ra một chút.
Sau đó, Viễn cùng một tên nữa đưa bố tôi đi. Trời nóng và nắng như đổ lửa, chị Hoa đang ngồi khóc vội lấy cái nón đội lên đầu bố. Viễn giằng nón vất đi, nhưng quai nón mắc vào cổ người, hắn giật mạnh làm quai nón đứt và bố tôi lảo đảo ngã xuống sân. Bị trói chặt, người không dậy được. Viễn đá liên tiếp vào sườn bố tôi và quát:
– Mày muốn chết ngay thì cứ ăn vạ.
– Đồng chí Viễn – Lê Thăng bảo – ai cho nó chết ngay, chết đơn giản thế! Trước khi kết liễu kẻ thù, phải cho nó chịu nhiều cực hình chứ!
Chị Hoa khóc, van xin hắn và nâng người dậy để chúng giải đi. Tôi không biết dùng từ nào để diễn tả sự hung bạo của thằng Viễn trong lúc đó. Đau lòng và căm giận, tôi đành bất lực đứng nhìn hành động tàn bạo của bầy lang sói. Tôi không khóc, cứ đứng trơ trơ như khúc gỗ. Nói đúng ra vì uất ức quá tôi không thể nào khóc được. Tâm hồn tôi mê mẩn như mình đang trong địa ngục chứng kiến hành động của lũ quỷ Diêm vương.
Lê Thăng ra lệnh cho bọn còn lại lục soát nhặt nhạnh đồ dùng, quần áo và thóc gạo dồn cả vào buồng khoá lại, niêm phong. Tài sản nhà tôi có gì quý đâu, vừa mới thu hoạch được gần một tấn thóc và đôi hoa tai của chị dâu tôi đang đeo, chúng bắt tháo ra.
Chiều hôm ấy, cả nhà không một ai nghĩ đến bữa ăn mà gạo cũng chẳng còn. Đến đêm thằng Vinh con anh Quang cứ khóc hoài. Nó chưa biết ăn, chị dâu tôi nhịn nên không có sữa. Bố tôi đã vậy, một nguy cơ nữa đang đến với gia đình, chúng thu hết thóc gạo, vay mượn ai trong lúc này, chờ chết đói chăng? Chị Hoa bàn với anh Quang:
– Đàng nào cũng chết, lối thoát duy nhất là liều thôi anh ạ. Em định đào ngạch vào lấy thóc. Anh Quang nhát gan quá, mặt tái lại, giọng run run:
– Nếu bắt được, chúng đánh chết ngay. Vả lại lấy thóc thì làm thế nào thành gạo. Nghe thấy tiếng cối xay, chúng ập vào là hết đường chối cãi.
– Anh nhát lắm, cho dù chết ngay còn đỡ cực hơn chết đói, cứ lấy thóc gạo giấu đi sẽ liệu sau.
Nói rồi chị Hoa hành động ngay. Chị bảo tôi ra ngõ gác, thấy bọn cốt cán đến thì giả vờ học công thức toán để báo động. Lần đầu chị không dám lấy nhiều, một thúng đầy thôi rồi chữa lại hàng gạch ngạch nguyên như cũ.
Tôi có người thím họ chẳng những giàu lòng nhân ái mà còn dũng cảm. Chờ thời cơ bọn cốt cán sơ hở thím đội thóc do chị Hoa lấy trộm về nhà làm thành gạo, còn mang gạo về nhà tôi, thím bàn:
– Hiện nay vườn khoai lang nhà thím lá tốt lắm, cháu cứ vào hái, nếu bọn cốt cán hỏi, cháu nói là lấy trộm. Lấy rá đựng rau khoai, bên dưới rá để gạo mang v
ề dần. Nhưng chẳng may chúng khám thấy thì nói năng thế nào, thím chưa nghĩ ra?
– Thím cứ yên tâm, nếu chúng khám thấy gạo, cháu sẽ nhận là lấy trộm của thím để ngoài sân. Chúng có tra khảo, đánh đập cháu cố chịu đựng.
Thật may mắn, chị Hoa lấy trộm thóc nhiều lần và nhờ thím họ làm thành gạo để tôi mang về theo cách trên đều suôn sẻ. Nhờ vậy, gia đình tôi mới sống được gần hai tháng. Tất nhiên không được ăn no và ăn độn thêm rau khoai.
Chỉ có một lần, tôi đang gác để chị Hoa lấy thóc thì Vương viễn xồng xộc vào nhà. Tôi vội đọc công thức toán nhưng sợ chị Hoa chưa kịp ra, lập tức tôi hỏi hắn:
– Anh Viễn đi đâu đấy?
Hắn quay lại tát tôi hoa cả mắt và quát:
– Láo xược, ai bảo mày dám gọi tao là anh?
– Xin lỗi ông Viễn – tôi vội kêu lên.
– Nếu còn láo xược nữa, ông sẽ vả gẫy răng mày.
Viễn quát tiếp và trợn mắt nhìn tôi. Tôi đã kềm chân hắn được vài phút để chị Hoa có đủ thời gian chui ra khỏi buồng và chữa lại hàng gạch ngạch thì Viễn mới vào đến nơi.
* *
*
Bắt bố tôi đi sau một tháng thì chúng đưa về đầu tố ở chợ Nụ. Ai cũng tưởng chúng bắn người ngay hôm ấy nhưng định mệnh đã kéo dài cuộc sống của bố tôi thêm một tuần trăng nữa. Nhờ vậy mà tôi tìm thấy chỗ người bị giam, một gian nhà khoảng sáu mét vuông, tường đất thấp lè tè, lợp rạ. Bố tôi đang nằm trên mảnh vải đi mưa trải xuống nền đất, chân phải bị cùm bằng gỗ. Tên du kích gác còn trẻ không đến nỗi bất nhân. Thấy tôi đến, hắn gọi :
– Căn, con mày đến.
Tôi nhìn vào buồng giam nâng bố tôi dậy và ôm lấy người. Nhìn người tiều tuỵ, héo hon như một nắm xương tàn, tôi khóc nức nở. Thấy tôi còn nhỏ, tên du kích coi thường, hắn lảng ra ngoài tạo cơ hội cho hai bố con được nói chuyện tự do.
– Bố ơi, người ta buộc cho bố nhiều tội không?
– Nhiều con ạ! Trong đó có hai tội mà con biết. Thứ nhất, cách đây khoảng ba tháng, việc con Mùi sang vay gạo, nó vu cho bố không cho nó vay còn hiếp nó. Thứ hai, xui con chống phá cải cách. Nói chung, mọi việc bố làm ơn nay thành ra oán, cứu sống người nay thành tội giết người.
Nhìn lên mặt bố, tôi thấy một vết thương dài khoảng ba phân trên trán và một vết thương khác tương tự ở yết hầu, áo người loang lổ đầy vết máu. Tôi sửng sốt hỏi:
– Bố ơi, tại sao có hai vết thương này?
– Vết thương trên trán là do thằng Tèo gấu, sau khi vu oan, nó nắm tóc bố dập xuống đâm vào cọc vành móng ngựa.
– Tèo gấu nó tố bố những gì?
– Con hỏi nó làm gì? Nó giống như loài thú dữ được cộng thêm trí khôn của loài người và được kích thích thêm thú tính của thời đại nên mới trở thành một sinh vật độc ác, nguy hiểm nhất.
Ngừng vài giây, bố tôi nói tiếp:
– Còn vết thương thứ hai do bố tự gây ra.
– Tại sao bố lại làm như vậy?
– Các ông Chánh Tòng, Chánh Quy, bác Lý Tôn đều bị bắn cả rồi. Biết chắc bọn khát máu cũng không tha nên bố lấy thanh nứa nhọn đâm vào cổ nhưng tay bị trói đau như tê liệt, đâm chẳng thấu thành ra chưa chết được. Sau đó lại có hy vọng trước khi chết may ra được gặp các con.
Nghe người nói, tôi gục đầu xuống khóc. Bố tôi đã biết rõ số phận của mình.
– Thôi con ạ, khóc làm gì nữa? Bố chỉ ân hận chưa báo hiều ông trọn vẹn, chết bỏ lại hai con dại, rồi đây các con sẽ ra sao? Không biết họ giết bố lúc nào nên bố muốn gặp anh Quang, chị Hoa để dặn lại đôi điều. Cả em Đản và cháu Vinh bố cũng hy vọng được gặp mặt lần cuối.
Chợt nhớ ra, bố tôi hỏi:
– À, hiện nay ở nhà thế nào?
Tôi thoáng nghĩ, trong thảm trạng này không thể nói thật cho người biết hết nên trả lời:
– Vẫn bình thường bố ạ.
– Thế thì bố yên tâm. Hôm nay là cơ hội bố nói chuyện với con, lẽ ra phải nói từ lâu nhưng con còn non dại quá. Thôi thì bố đã biết nhưng không lường được nó lại khủng khiếp điên loạn đến nỗi này. Bố tưởng rằng trong quá khứ, bố chỉ làm điều nhân đức, sau cách mạng sẽ được sống bình an phụng dưỡng ông và nuôi dạy các con, bố đã làm đầy đủ mọi nghĩa vụ công dân với chế độ mới. Hơn nữa trong chiến tranh, gia đình ta có ba người bỏ mạng. Điều đau thương ấy bố cũng cho rằng là cái giá để đổi lấy sự bình an cho bố và gia đình sau ngày hoà bình lập lại. Cách đây ba năm, nghe ông Vũ quý Mão và bác giáo Tôn, bố có ý định ra đi nhưng ông con còn sống, sợ tội bất hiếu nên cơ hội cũng bỏ qua để đến nay bố phạm thêm một tội lỗi nữa: chết đi bỏ lại đàn con dại trong miệng hùm, nọc rắn. Và cũng đến nay mới rõ, cái chết thảm thương của mẹ con, anh Thao và em Dũng đã kéo dài cuộc sống của bố thêm năm năm nữa.
Một hội có sáu mươi năm, nay mới được mười năm theo như lời sấm trạng mọi sự đều đảo lộn. Các con phải sống gần hết cuộc đời trong chế độ này nếu tuổi thọ được dài. Một chế độ chỉ khuyến khích làm điều ác trọng dụng những kẻ vừa ngu vừa ác, những kẻ tán tận lương tâm đua nhau làm điều ác: Vu khống được nhiều, bịa đặt được nhiều, ngậm máu phun người thì trở thành những kẻ có công với dân, với nước. Ngược lại, nhnữg người có đức, có tài bị tàn sát hoặc bị đầy đoạ, dập vùi.
Bố không cho rằng lễ giáo phong kiến là hoàn hảo, trải qua hàng nghìn năm lịch sử phải có nhiều điều lạc hậu. Và cũng không nghĩ chế độ phong kiến là tốt đẹp, nó vẫn tồn tại những điều bất công, vô lý. Các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp, bản tuyên ngôn nhân quyền nổi tiếng của Thomas Jefferson hay các cuộc cách mạng của Tôn trung Sơn, Nguyễn thái Học… đã chứng minh điều đó. Nhưng lễ giáo phong kiến không dạy con người bất nhân, bất hiếu, bất nghĩa, vu oan giá hoạ, gắp lửa bỏ tay người. Sư uống rượu, ăn thịt chó hay hủ hoá là thói xấu của ông sư hổ mang đó chứ không có trong kinh nhà Phật. Ông quan huyện ăn hối lộ, hà hiếp dân lành là tính bất nhân của con người đó chứ không phải lễ giáo Khổng mạnh dạy. Sau ngày đảo chính, lễ giáo Khổng mạnh là kẻ thù của họ. Họ tìm mọi cách để thủ tiêu và tuyên truyền cái gọi là đạo đức cách mạng, thứ đạo đức loạn luân“ông con – thằng bố, bà vợ – thằng chồng”kèm theo những điều vu khống, có lẽ còn ghê tởm hơn thời đại Tần thuỷ hoàng và Néron thuở trước.
Ngừng một lát, người nói tiếp:
– Đây mới là thời kỳ đầu của chế độ này, con phải cố g
ắng mà suy ngẫm, con sẽ thấy tội ác chất cao như núi của thời đại. Cái khó là dù cơ cực đến mấy con cũng không thể bỏ rơi nhân phẩm trên những chặng đường đời đầy tủi nhục. Tuy nhiên phải hết sức nhẫn nhục, đừng tạo ra một cớ nhỏ nào để loài thú dữ hại mình…
Tên du kích về vị trí gác, nó đuổi tôi. Bố tôi dặn với theo:
– Con nhớ nhé!
– Vâng! Con sẽ nhớ mãi.
Anh Quang không dám đến gặp bố vì sợ bọn cốt cán hành. So với các em, anh may mắn nhất, đã trưởng thành, đã có vợ con. Đám cưới anh năm 1944 linh đình lắm, cỗ bàn suốt ba ngày, có cả tri phủ đến dự. Gần ba mươi tuổi, anh chưa đền đáp được một chút công ơn bố mẹ. Nay là cơ hội cuối cùng vì sự hèn nhát anh đã trốn tránh lòng ước mong của bố. Riêng chị Hoa trong giai đoạn đó, chị là đứa con hiếu thảo tuyệt vời. Không sợ nguy hiểm, chị lẩn tránh đi các nơi xa vay mượn tiền sắm cho bố những bữa ăn ngon và thường xuyên đến thăm người. Có lần chị Hoa bế cháu Vinh đi cùng, đưa ông bế cháu. Thấy lạ mặt, cháu cào vết thương trên trán ông, máu xối xả chảy ra. Cháu mới mười tháng tuổi biết gì đâu! Mặc cho máu chảy đầy mặt, ông vẫn âu yếm cháu và bảo:
– Ngày sau cháu đừng quên ngày giỗ ông đấy nhé!
* *
*
Sáng ngày 17 –7 âm lịch, bầu trời mây đen bao phủ ảm đạm, cả nhà không ai nói với ai một lời nào nhưng đều linh cảm thấy một sự kiện kinh hoàng sắp đến. Chị Hoa mang cơm cho bố về, nước mắt còn đọng trên gò má, chị nói:
– Con Mùi khốn nạn quá, nó không cho chị vào gặp bố và giằng gói cơm trên tay chị, đứng xa ném vào chỗ bố. Bố nước mắt dòng dòng nhìn chị. Hình như hôm nay bố biết sẽ chết… nên dặn: – Từ ngày mai, các con không phải đem cơm cho bố nữa.
Con Mùi lấy báng súng gạt đuổi chị về…Chị Hoa đang nói thì Lê Thăng, Vương Viễn và mấy tên du kích đến. Chúng ra lệnh cho anh chị em tôi sang một nhà hàng xóm và giam chân ở đó.
Đến chiều, nghe tiếng hò reo xen lẫn tiếng trống ếch từ chợ Nụ vọng về, anh chị em tôi ngồi mỗi người một chỗ trên sân lặng lẽ khóc thầm. Một tên du kích con lão thổi kèn đám ma bảo chị Hoa về nhà lấy chiếc quần dài của bố tôi đưa cho hắn, có lẽ chúng dùng để bịt mắt người. Rồi Lê Thăng đến, hắn nói:
– Chúng mày nghe đội tuyên bố. Tên Căn có tội nợ máu, hôm nay y phải đền tội. Tên Quang ký vào giấy trả tiền mua quan tài cho bố mày.
Anh Quang run rẩy vội cầm bút ký ngay. Anh chị em tôi gào khóc. Chị Hoa như điên vừa khóc vừa vật vã thảm thiết. Khi ấy, ở ngoài pháp trường vang lên từng loạt đạn đều đều, chậm chạp bốn năm phát một. Tôi thoáng nghĩ, chúng hành hình bố tôi theo cách của Vương Viễn chăng?
Tôi mê mẩn, bỗng thấy sầm tối lại, lảo đảo rồi ngã xuống sân. Hình như chúng bắn bố tôi ngay trước mặt:
– Thằng thứ nhất chạy lên bắn, chân phải bố tôi co lên giãy giụa.
– Thằng thứ hai… chân trái người cũng vậy.
– Thằng thứ ba, thằng thứ tư… hai cánh tay người vẫn không động đậy, có lẽ chúng trói chặt quá nên không phản ứng được.
– Thằng thứ năm… Máu ở bụng và ngực bố tôi phun ra như vòi nước tưới rau.
– Thằng thứ sáu… Đầu người gục xuống. Bỗng tôi hét lên:
– Quân khát máu, bọn giết người man rợ.
Rất may lúc đó, chỉ có người nhà hàng xóm tốt bụng, không có một tên mặt người dạ thú nào.
Nhà cửa tài sản chúng đã tịch thu hết, anh chị em tôi biết đi đâu? Chúng tôi liều đến nhà bác ruột. Bác gái ác quá, đứng ngay cổng không cho các cháu vào sân, bác nói:
– Đi, đi ngay nhà tao không chứa được. Sau này, trước khi ốm chết bác bị thong manh đến hàng năm, ăn ở bất nhân có lẽ bị trời trừng phạt.
Cũng trong khi đó, bà thím họ gọi chúng tôi :
– Các cháu ơi, vào nhà thím!
Lời nói ân tình ấm áp làm sao! Tôi khóc oà lên vì cảm động. Tôi không ngờ trong cái xã hội tàn bạo và ghê tởm này lại có người nhân hậu thế? Phải chăng thím họ tôi là hiện thân của đấng cứu nhân, độ thế? Nếu không có thím gia đình tôi đã chết đói rồi. Cả chú họ tôi cũng có đức tính giống vợ về lòng nhân ái và lòng dũng cảm. Một cặp vợ chồng hoà thuận, nhân hậu hiếm có trên cõi đời này. Chú thím nhường nhà ở, bát cơm sẻ nửa cho các cháu trong cơn hoạn nạn.
Thời gian sau, chú thím cho mượn đất vườn, chặt tre ở bụi cho các cháu làm nhà ở. Biết chuyện, Lê Thăng đến hỏi:
– Ông giúp đỡ con cái địa chủ à?
– Vâng! – Chú họ tôi trả lời – Tôi thấy chúng nó côi cút, khổ nên thương.
– Ông có biết tình thương ấy là phạm tội với đảng
– Nhưng chúng nó là cháu, cùng một dòng máu không thể làm ngơ được.
– Ông với chúng nó còn xa lắm, nếu có lập trường cách mạng thì con cũng phải vạch tội ác của bố nữa là. Từ nay đội cấm ông giúp chúng nếu không chấm dứt chớ trách đội đấy nhé!

Kỳ 5 – Những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 5

HỒI MỘT – Quê hương

III. Những năm tháng đến trường gian nan và tủi nhục.

Anh chị em tôi chia thành hai gia đình nhỏ: Đản ăn với gia đình anh Quang, còn tôi ăn với chị Hoa. Tôi không muốn thế nhưng còn nhỏ nên chỉ biết ngoan ngoãn phục tùng. Một gia đình trong lúc đau thương cơ cực mà chia đôi như vậy chỉ làm tăng thêm nỗi thảm sầu. Bởi lẽ vợ chồng anh Quang với chị Hoa vốn dĩ đã không hoà thuận, anh Quang tính tình lông bông vô trách nhiệm, còn chị Hoa ích kỷ, hẹp hòi, cố chấp. Gần đây anh Quang lại biểu hiện một người hèn nhát. Cái mâu thuẫn ấy không thể nào hàn gắn. Cả nhà tôi vay vốn làm hàng xáo để kiếm ăn qua ngày. Tôi và Đản bắt đầu lao động: xay thóc, giã gạo, ra đồng mò cua, bắt ốc. Bữa ăn hàng ngày là cháo ốc hoặc khoai lang luộc, riêng mấy ngày tết được ăn cơm.
Mãi đến đầu năm 1956, trường mới khai giảng học kỳ hai. Có lẽ vì cải cách nên trường đóng cửa lâu. Quả thật tôi không còn nghĩ đến việc học hành. Bố mẹ không còn, ở với chị, lao động kiếm ăn lần hồi từng bữa thì còn học hành gì nữa?
Nhưng chị Hoa bàn với anh Quang:
– Em phải cho Tâm tiếp tục đến trường, còn Đản anh cố gắng được không?
– Cô thông cảm, tôi còn cháu Vinh nên không thể. Vả lại có học cũng chẳng ích gì,
– Anh chị ạ, hãy cho Đản đến trường, còn em không học nữa – Tôi đề nghị.
Chị Hoa có vẻ bực mình nói:
– Bố mẹ không còn, chị nuôi em, cho em đi học. Còn Đản, anh Quang chịu trách nhiệm. Khổ nỗi, Đản hiền lành quá, trong thời buổi này có đi học đứa khác nó trêu trọc, nó đánh cho phải chịu.
Thế là cuộc cải cách bước vào giai đoạn quyết liệt hơn thì tôi lại đến trường. Trường cấp hai của huyện năm ấy xã Thượng hiền, phân tán nhiều nơi. Đường tôi đi học dài khoảng sáu cây số, là một con đê giữa cánh đồng lúa và con sông nhỏ.
Tôi còn nhớ như in trong óc ngày khai giảng học kỳ hai. Sau chín tháng gặp lại, các bạn tay bắt mặt mừng, họ nói chuyện với nhau nhiều về cải cách, những cuộc đấu tố, hành hình đầu tiên trong từng xã. Riêng tôi, các bạn không dám đến gần, họ nhìn tôi với cặp mắt lạnh lùng, xa cách như người ở phương nào đến. Tủi thân quá, tôi thầm nhủ: các bạn ơi, tôi cũng là người bằng xương, bằng thịt cùng máu đỏ da vàng, cùng con Hồng, cháu Lạc như các bạn, vì lẽ gì các bạn phải tránh xa tôi? Phải chăng ngọn lửa căm thù của đội đã thiêu đi tất cả nhân tình, trong đó có cả tình bạn học cũng thành tro bụi rồi sao?
Vào lớp học, thày Thông dạy văn – thày chủ nhiệm điểm đến tên tôi, thày giương mắt nhìn, nói vẻ đay nghiến:
– Em cũng đi học nữa à? Tôi cứ tưởng…Việc học của em phải chờ ý kiến của ban giám hiệu. Bây giờ em hãy về, ngày mai đến nghe quyết định.
Tôi lặng lẽ bước ra khỏi lớp, không biết cũng không muốn chào ai. Ném theo tôi hàng chục ánh mắt man dại trong bầu không gian im lìm ngột ngạt đến ghê người. Tôi lủi thủi về nhà, tâm trí lại chìm đắm trong đau thương, tủi nhục.
Sáng hôm sau, tôi lại đến trường, thày chủ nhiệm bảo:
– Ban giám hiệu đồng ý cho em học nhưng quyết định cuối cùng là đội cải cách ở xã em. Tôi tiếc rằng, cơ hội duy nhất để cách mạng giải thoát cho em, em đã bỏ qua. Đó là vạch mặt tội ác của tên Căn trước giai cấp nông dân.
Nghe thày nói, tôi rùng mình như lên cơn sốt rét, gai ốc nổi lên khắp cơ thể. Tôi đã có tội với bố tôi khi phải nghe những lời vô đạo lý này. Mắt tôi mờ đi như nhìn vào bóng tối. Trước mắt tôi không phải thày giáo nữa mà là kẻ mặt người dạ thú. Ghê tởm chưa? Lời thày thể hiện thứ đạo đức hoàn toàn ngược lại với nền văn hiến của dân tộc và có lẽ chưa từng có trong lịch sử loài người. Phải chăng, đó là thứ đạo đức đảo lộn tất cả mà thày là một kỹ sư tâm hồn, dựa vào bản thiết kế của chế độ để chế tạo ra những sản phẩm loạn luân? Lúc đó, hình như tiếng nói của bố tôi văng vẳng bên tai:“… Phải hết sức nhẫn nhục, đừng tạo ra bất cứ cớ nhỏ nào để loài thú dữ hại mình”, tôi đành ngậm ngùi nuốt giận. Định về ngay nhưng tôi thoáng nghĩ, không còn cơ hội nào cho phép tôi đến trường lần nào nữa. Vả lại, tôi không muốn là người thất học. Do vậy, tôi tự an ủi mình hãy nén chịu tất cả để qua giai đoạn khủng khiếp này.
Cách mấy ngày sau, tôi đi học vừa ra đến ngõ gặp thằng Vương Viễn, hắn hỏi tôi:
– Mày đi đâu?
– Đi học – Tôi trả lời trống không.
– Ai cho phép, mày đi theo tao? – Nói xong, hắn lại đưa tôi xuống miếu, cho vào buồng khoá lại. Hắn ra lệnh:
– Mày ở đây chờ lệnh đội.
– Nếu phải chờ lệnh đội thì cho về chứ tội gì mà phải giam? – Tôi phản ứng.
– Bà con nông dân muốn giết mày cũng được nữa là – Nói xong hắn bỏ đi. Đến trưa, hắn đến mở cửa cho tôi về và nói:
– Tên Căn và gia đình mày bị xử lý rồi, nay đội tha cho mày đi học.
Sáng hôm sau, tôi đến lớp, thày chủ nhiệm hằn học bảo:
– Nếu thấy khó khăn không tiếp tục học được nữa thì nên thôi, em cố đấm ăn xôi chẳng được lợi lộc gì.
Những năm tháng đến trường của tôi sau này đầy dãy những gian nan. Buổi sáng đi học sớm, quá trưa mới về đến nhà, ăn một bữa kham khổ: khoai luộc hoặc cháo rồi phải đi làm ngay. Buổi tối dầu đèn chẳng có, học theo sách giáo khoa, tôi chẳng có tiền mua, phải mượn bạn bè. Cũng may, quan hệ giữa tôi và bạn học dần được cải thiện. Tôi mượn sách giáo khoa của bạn học, chủ yếu là các môn lịch sử, địa lý và sinh vật. Vì không muốn làm phiền bạn nhiều lần, tôi học thuộc cả chương trình. Môn lịch sử khi gấp sách lại tôi đọc trôi chảy từ trang đầu đến trang cuối, không sai một chữ nào. Các môn vật lý, hoá học tôi chỉ nghe thày giảng rồi làm bài tập không cần học lại ở nhà. Đặc biệt môn toán, tôi thấy quá dễ dàng, tôi có thể tự đi qua chương trình các lớp trên trong một thời gian ngắn nhưng học nhanh, học trước để làm gì khi cuộc đời hiện tại và tương lai vẫn chìm trong bóng tối? Giống như chàng kỵ sĩ trên yên con tuấn mã đang thong thả bước theo đoàn người đi bộ, anh ta mang theo trong tâm trí nỗi bơ vơ lạc lõng. Chàng kỵ sĩ muốn phi nước đại để rút ngắn cuộc hành trình nhưng không có nơi hẹn ư
ớc và chờ đón.
Ngược lại, môn tập làm văn đối với tôi là một nhục hình. Đang thời kỳ cải cách, trường nhiều ngày đóng cửa để học sinh tham gia những phiên toà đấu tố, xét xử “địa chủ cường hào gian ác”. Chắc chắn mỗi học sinh sẽ khắc sâu trong ký ức những hình ảnh về tội ác và những hành động phi đạo lý của cái gọi là “toà án nhân dân đặc biệt” và bọn cốt cán. Thày dạy văn có nhiều cảm hứng với những cuộc đấu tố trên, đầu đề những bài luận văn của thày đều hướng vào cải cách.
Trong những tiết dạy văn, thày hay đọc:
Nông dân đã nói là làm,
Đã đi là đến, đã bàn là thông,
Đã quyết là quyết một lòng,
Đã phất là động, đã vùng là lên.
Một bài luận văn có đầu đề:“Em hãy tường thuật lại buổi toà án nhân dân đặc biệt xử bọn địa chủ cường hào gian ác”, trong hai giờ làm bài, tôi gục đầu xuống bàn, không viết được một chữ nào. Đầu óc tôi quay cuồng và tưởng tượng buổi bọn khát máu hành hình bố tôi chắc cũng giống như những cuộc đấu tố bắn giết những người vô tội khác mà tôi đã thấy. Chẳng những thế, tôi còn được chứng kiến những cảnh tượng loạn luân:
– Tên Khuê! Mày có biết ông không? – Thưa ông! Con biết, con là bố của ông…
– Tên Sang! Mày có biết bà không? – Thưa bà!… Con đã đẻ ra bà…

– Tên Yên! Mày có biết bà không? – Thưa bà!… Con là chồng của bà…
Kết quả bài luận văn đó tôi được điểm không, kèm theo những lời phỉ báng nặng nề, lẽ ra không thể có ở cương vị một thày giáo:
– Em phải biết rằng trường học hiện nay là của con em giai cấp nông dân và người lao động. Em được ở đây là một đặc ân của đảng, là sự dung thứ của cách mạng. Em muốn trả lời cho đặc ân và sự dung thứ ấy là bài luận văn tường thuật sự trừng phạt đối với kẻ thù của giai cấp để giấy trắng phải không? Bánh xe của thời đại đã nghiến nát những vật cản đường và tiếp tục đè bẹp những kẻ không chịu tuân theo.
Bài luận văn này, Phan Lung được điểm cao nhất lóp và được đọc cho cả lớp nghe để học tập. Có đoạn Phan Lung viết:“…Trong đám khổ chủ, một phụ nữ ngoài hai mươi tuổi, eo người cân đối, da trắng, khuôn mặt nguyệt, mũi dọc dừa. Và đặc biệt là cặp mắt long lanh như bốc lửa căm thù.
Người đẹp đứng phắt dậy, bước những bước thật kiêu hùng, cách kẻ thù khoảng một mét, người đẹp dừng lại, cánh tay phải vung mạnh về phía trước, bàn tay khép kín ngón duỗi thẳng như thanh mã tấu hướng đâm vào mặt kẻ thù. Cô dõng dạc quát:
– Tên Sang! Mày có biết bà không?
Kẻ phạm tội run lên cầm cập, mồm ú ớ mãi mới nói thành lời:
– Thưa bà! Bà tên là Hạnh, con đã đẻ ra bà.
– Hôm nay, trước toà án nhân dân đặc biệt và quần chúng nông dân lao động, bà vạch trần tội ác của mày. Mày hiếp bà bao nhiêu lần mày còn nhớ không? Mày đã cưỡng dâm nhiều phụ nữ nông dân, mày sai bà đến bốt Vũ lăng báo giặc bắt, giết hại cán bộ cách mạng, mày bóc lột, áp bức người nghèo…
Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên như sấm:
– Đả đảo bọn địa chủ cường hào gian ác!
Đả đảo, đả đảo, đả đảo!
– Kiên quyết đánh đổ tên Sang…!
Kiên quyết…!
Khi từng loạt đạn nổ kết liễu đời kẻ thù giai cấp, tiếng hò reo của Hạnh hoà nhập với làn sóng âm thanh reo vui của biển người. Với lòng tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của đảng và bác Hồ kính mến, với ý thức giác ngộ giai cấp, Hạnh đã đặt quyền lợi và tình thương yêu của giai cấp cần lao lên trên hết. Cô co chân đạp đổ cái gọi là tình phụ tử của lễ giáo phong kiến cổ hủ để tự giải phóng mình ra khỏi ảnh hưởng của tầng lớp áp bức bóc lột…”
Phan Lung đã viết đúng sự thật về cảnh tượng con tố bố bằng những lời bịa đặt do sức ép của đội, nhưng bạn ấy có hiểu rằng, đây là một bằng chứng của sự loạn luân không?
Trên đường đi học, tôi cũng trải qua nhiều nỗi gian nan. Những ngày mưa phùn, gió bấc, cái rét thấu xương với quần áo vải che thân. Ăn lại đói, cháo hoặc khoai thay cơm. Trong cảnh ngộ đó mới thấm thía thế nào là hai chữ “cơ hàn”, chúng gắn bó với nhau như cặp tình nhân chung thuỷ, cùng hiệp sức tàn phá thể xác những người khốn khổ! Chẳng những thế, đường đi đến trường toàn là đất thịt, gặp cơn mưa phùn đường lầy lội trơn như đổ mỡ, có đoạn loãng ra như cháo: tôi và nhiều bạn học thay nhau ngã. Có lần tôi bị nhào xuống sông, rét tím người lại phải lê bước quay về nhà, nghỉ học.
Cuối năm học, có một kỳ thi sát hạch, cũng may bài thi văn không liên quan gì đến cải cách nên tôi được điểm trung bình các môn cao nhất khối. Phát phần thưởng và giấy khen cho tôi là thày hiệu trưởng Đỗ Đoàn, người đã nhận và đuổi tôi học dự thính cách đó bốn năm. Có lẽ còn nhớ nên thày nói:
– Em học giỏi nhưng đời chẳng gặp may!
Giữa năm 1956, quê tôi chia lại ruộng, anh chị em tôi cũng được mấy sào. Nghỉ hè, tôi cùng chị Hoa ra đồng làm ruộng. Ngoài ra, tôi đi cất vó tôm vừa ăn, vừa bán dành dụm ít tiền để mua sách vở cho năm học mới và cải thiện bữa ăn cho đỡ khổ.
Niên học 1956 –1957, trường chuyển đến xã Phương công, nơi có thị trấn Cổ rồng, một quãng đường dài mười bảy cây số. Tôi muốn tiếp tục học phải trọ nhà dân, việc đó tính sao đây?
Mang tiếng tôi ở với chị, ăn và học nhưng thực tế chỉ là chỗ dựa, tôi vừa làm để kiếm ăn và vừa học. Nay trường xa không thể lao động được nữa nếu còn đi học, tôi xin ý kiến chị Hoa:
– Thưa chị, trường chuyển xuống Cổ rồng, các bạn em đều phải trọ học. Xa lắm em không thể đi về được, chị có cho em học nữa không?
– Em cứ theo các bạn mà tiếp tục. Sắp đến mùa rồi, chị dành thóc làm thành gạo để chủ nhật em về lấy đi ăn.
Được chị Hoa đồng ý, tôi sung sướng quá, chạy tung tăng đến các bạn học để khoe. Cuộc sống của gia đình tôi lúc đó đã khá hơn xưa, ngày ăn hai bữa cơm chứ không ăn khoai và cháo nữa.
Những ngày tháng đi học trọ, thức ăn hằng ngày rất đạm bạc phần nhiều là nước mắm, rau cũng chẳng mấy khi có.
Đến cuối năm, một tin vừa vui, vừa buồn đến với tôi: Được một người bạn gái giúp đỡ, chị Hoa có giấy thông hành mang họ tên người ấy, chị lên Hà nội tìm người chồng chưa cưới. Đó là niềm vui chung của cả gia đình. Đành rằng chị ra đi tìm hạnh phúc nhưng để lại cho tôi nỗi cô đơ
n, buồn tủi. Từ nay, chỗ dựa và cứu cánh của tôi không còn nữa. Nếu nghĩ rằng, chị phải hy sinh hạnh phúc riêng vì đứa em côi cút là điều ích kỷ. Tuy nhiên trong xã hội, do hậu quả của thời kỳ cải cách, nhiều người chị vì tình thương em đã lãng quên hạnh phúc của đời mình. Nỗi buồn này, tôi trách ai? Nếu trách tôi cũng có phần nào đúng, tôi thiếu nghị lực và lòng dũng cảm nhưng có ai cảm thấy vui mừng hoặc bình thường trong các buổi chia ly? Chia ly là nỗi buồn muôn thủa của con người. Tuy nhiên, lẽ sống vĩnh hằng ấy vẫn có những nghiệm số ngoại lai trong hệ phương trình nhiều ẩn số. Đứa con trai cô tôi sang Liên xô học bảy năm, ngày tiễn đưa nó lên đường là ngày vui nhất có một không hai. Có lẽ vì một ngày mai tươi đẹp, hứa hẹn hạnh phúc tràn đầy đã dập tắt mọi nỗi buồn xa cách và thua thiệt về tình cảm.
Vả lại, với tuổi đời mười bốn bị phân biệt đối xử như kẻ thù trong một xã hội quá ư nghèo khổ đã mấy ai sống nổi một cuộc đời độc lập?
Mùa xuân 1957, đám cưới chị tôi được tổ chức ở quê. Ngày cưới chị –ngày vui nhất đời của một người thân – đối với tôi là một ngày ảm đạm. Vì từ nay với chân yếu tay mềm, tôi phải tự mình lái con thuyền cuộc đời về tới bến trong giông tố hãi hùng của biển cả. Gọi là đám cưới cho thêm phần thi vị, thực ra chỉ có hơn một chục người của hai họ dẫn dâu trong lúc còn mờ mịt bóng đêm không hoa, không pháo nổ.
* *
*
Năm học lớp sáu ở thị trấn Cổ rồng nhanh chóng trôi qua, tôi nghỉ hè và chuẩn bị bước vào năm học mới. Hiện tại, tôi sống với anh Quang, một người vô tích sự, tuy có sức khoẻ để lao động nhưng sống theo kiểu nước chảy, bèo trôi, hầu như không có trách nhiệm với các em. Anh thường nói:“ai có phận thì lo”. Chị dâu tôi, một người đàn bà yếu đuối, ăn tiêu hoang toàng không biết lo liệu.
Phương ngôn có câu“thế gian được vợ hỏng chồng”nhưng vợ chồng anh tôi thì hỏng cả hai, kinh tế lúc nào cũng lâm vào cảnh bần cùng. Đản mang tiếng được anh cưu mang, sự thực em tôi thành người ở không công. Đản làm mọi việc nội trợ như xay thóc giã gạo, thổi nấu…làm thay cả những việc của đàn bà như dần, sàng thóc gạo và cả việc ngoài đồng. Thế mà em tôi vẫn ăn đói, mặc rét. Tuy nhiên phải kể đến một nguyên nhân chủ yếu là anh chị tôi vẫn trong vòng uy hiếp, chèn ép của chính quyền và bọn vô lại.
Tuy phải sống với anh nhưng tôi vẫn tạo ra một cuộc sống riêng. Những ngày hè tôi đi kéo vó tôm vừa ăn, vừa bán mới có tiền may quần áo, mua sách vở để tiếp tục học lớp bảy nhưng học hết chương trình là một điều nan giải. Cũng may, niên học 1957–1958 trường chuyển về thị trấn Thanh nê, xã Tán thuật, quãng đường đi học khoảng bảy cây số. Trường được xây dựng đơn sơ bằng tre nứa lá, có bàn ghế học. Sáng đi học sớm đến quá trưa về nhà, ăn xong tôi phải làm đến tối.
Học được vài tháng, kinh tế gia đình tôi sa sút quá, lo ăn từng bữa. Chị dâu tôi kêu ca, phàn nàn nhiều, không muốn cho tôi đi học. Các bạn biết chuyện nói với thày chủ nhiệm. Thày Chính dạy toán, dáng người cao, gầy nhìn bề ngoài ít có cảm tình nhưng thày có một tấm lòng nhân ái. Thày nói với tôi:
– Thày biết em khó khăn sắp phải bỏ học, thày sẽ giúp em học hết năm. Em làm đơn xin trường cấp học bổng, có chứng nhận của chính quyền địa phương. Thày sẽ thuyết phục hội đồng giáo viên và đề nghị ban giám hiệu.
– Thưa thày – tôi nói – trước hết em cảm ơn thày nhưng chính quyền địa phương sẽ không bao giờ chứng nhận cho em. Có lẽ thày cũng biết, nếu em bỏ học hoặc chết vì đói rét là mong muốn của họ.
– Tâm ạ, em cứ làm đơn không cần chứng nhận của địa phương để thày cố gắng xem sao?
Chiều theo ý thày nhưng tôi cho là việc hão huyền, nếu có chăng chỉ là một tia hy vọng mong manh. Tuần sau, thày báo cho biết, tôi được cấp học bổng hai phần ba. Thày nói, nếu được chứng nhận của địa phương sẽ được toàn phần.
Tôi vui mừng và cảm động quá không cản được dòng nước mắt vì không ngờ tia hy vọng mỏng manh ấy lại trở thành hiện thực. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, một số tiền học bổng tương đương với năm mươi tư đồng sau khi đổi tiền năm 1958, nhờ có số tiền nhỏ ấy mà tôi đã học hết chương trình lớp bảy. Tôi phỏng đoán, buổi xét cấp học bổng cho tôi chắc thày phải đấu tranh gay gắt lắm vì mặc dù là các nhà giáo trong thời buổi này họ cũng không dễ dàng gì nhất trí để làm điều thiện.
Tôi mạnh dạn hỏi thày:
– Thưa thày, em được học bổng có lẽ làm thày chịu nhiều vất vả?
– Đúng thế, nhưng thày cho rằng, dù phải mất mát và hy sinh để giúp đỡ người trong lúc khó khăn, hoạn nạn là một nghĩa vụ phải làm, nhất là đối với một nhà giáo.
– Thưa thày, em nghĩ rằng, nếu mọi người có lòng nhân ái như thày, ngày mai đất nước sẽ là một vườn hoa.
– Em nói đúng. Xã hội muốn tiến lên, ngoài sự công bằng và công lý là nền tảng, phải tồn tại cái cao hơn, quý hơn thế, Đó là tình thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
– Em đoán rằng, nhiều thày phản đối việc cấp học bổng cho em?
– Tuy có nhiều nhưng tiếng nói ủng hộ lòng nhân ái vẫn chiếm đa số. Một việc nhỏ nhưng đáng nói là nó có một không hai ở toàn miền bắc. Em nghĩ xem, còn trường nào dám cấp học bổng cho con một“địa chủ cường hào”?
– Thưa thày, em luôn cảm thấy mình lẻ loi, lạc lõng trong xã hội nhưng trước hành động đáng quý của thày, em cho rằng vẫn còn chỗ đứng của lòng nhân ái tuy vô cùng nhỏ bé.
– Cách đây năm sáu năm thày đọc một tờ báo có bài viết hai vợ chồng bác học Hoa kỳ tên là Rosenberg bị kết án tử hình trên ghế điện về tội bán tài liệu nguyên tử cho Liên xô. Hai đứa con của họ được tổng thống Truman nhận làm con nuôi. Liên tưởng đến em, thày nghĩ rằng, bố em bị xử bắn sai hay đúng thày không cần biết, nhưng em mới lớn lên thông minh, học giỏi, cuộc sống lại khó khăn, vất vả. Với một học sinh như vậy, nếu nói theo phạm vi rộng, việc giúp đỡ em thành tài là nghĩa vụ của toàn xã hội. Có làm như vậy, đất nước này mới thay đổi và phát triển. Điều đáng buồn là nếu tấm gương như trên xuất hiện tương tự ở thời đại ta đang sống sẽ bị quy thành một tội – mất lập trường giai cấp, thương xót con cái của kẻ thù.
* *
*
Sang học kỳ hai, tôi có một người bạn tri tâm
. Lê linh hơn tôi một tuổi, da trắng, dáng người thanh nhã. Năm học lớp bảy Linh cùng lớp với tôi. Sau khi biết đời học sinh gian nan của tôi, Linh mới gần gũi và thân thiện. Hai đứa cùng kém về văn – nhất là văn chương cách mạng. Có bài luận văn đầu đề là em hãy bình giảng câu ca dao:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bài luận văn này, tôi chỉ viết được lời giảng nghĩa, còn lời bình luận, tôi thấy hai câu ca dao ấy so với xã hội đương thời hoàn toàn là một điều nghịch lý nên chẳng viết được chữ nào.
Bài văn của Linh, có đoạn anh viết:“…ôi, hai câu ca dao ấy thiêng liêng và cao quý biết bao! Nhưng nó đã bị xã hội ngày nay hiếp dâm để sinh ra những quái thai: tội ác và hận thù. Nếu nói người trong một nước thì phạm vi ấy còn mênh mông quá, hãy xem người trong một làng,một xã “phải thương nhau cùng”được biểu hiện đến đâu? Phải chăng là những cuộc đấu tố, hành hình, cướp giật người lương thiện. Còn người trong một nhà thì con tố oan cho bố, vợ vu oan cho chồng. Thử hỏi những cảnh tượng đó là biểu hiện tình thương của con người hay thú tính?
Kết quả bài luận văn của tôi và Linh đều nhận được điểm một. Sau buổi học, Linh rủ tôi ra cửa hàng trong thị trấn ăn bánh cuốn và cả buổi chiều hôm ấy, anh nói chuyện với tôi.
– Tao chán ngấy loại văn chương này. Bài nghị luận nào cũng phải nhét vào bài vài câu sáo rỗng: Chủ nghĩa xã hội là mùa xuân của nhân loại. Nếu không thì chủ nghĩa Cộng Sản là thiên đường…
– Tao có cảm tưởng, rồi đây học sinh sẽ cạo đầu đi tu theo dòng đạo vô thần, hằng ngày đứng trước tượng đài ông Marx, ông Lénine để đọc kinh: Chủ nghĩa xã hội là… Chủ nghĩa Cộng sản là…vì lý tưởng cao đẹp…chúng tôi nguyện đem cuộc đời và hơi thở để hiến dâng…Đứa nào cũng phải thuộc đoạn“kinh”của Atrôpsky:“Cái quý nhất của con người là… Người ta chỉ sống có…”
Tao có ý nghĩ, chủ nghĩa xã hội là mùa hè ở Việt nam, bọn mình biến thành một đàn cuốc kêu quanh năm, không phải chỉ kêu ở luỹ tre làng mà khắp mọi nơi.
Linh nói tiếp:
– Môn lịch sử hiện đại, theo sách giáo khoa chúng ta học: Liên xô đóng vai trò quyết định trong cuộc đại chiến lần thứ hai. Chiến tranh Triều tiên, Mỹ là kẻ gây chiến và thất bại nhục nhã… Bố tao bảo bọn mình đã học kịch bản do các nhà sử học CS hư cấu.
Tao không muốn biến thành con cuốc kêu theo kịch bản nên hết lớp bảy, tao nghỉ học, làm thợ may với bố tao.
– Linh ạ, mình cũng phải nghỉ học để kiếm ăn thôi. Tại sao bài viết vừa rồi Linh dám viết bạo thế?
– Tao biết chọn mặt gởi vàng chứ. Thày Hùng phải cho tao điểm một nhưng thày có lương tâm và thấu hiểu ruột gan của chế độ này. Khi trả bài, thày nói nhỏ với tao, em hãy đốt đi đừng để cho người khác đọc.
Linh sôi nổi tiếp lời:
– Mày biết không, năm kia một ông cán bộ cấp cao về xã tao phát động phong trào hợp tác xã nông nghiệp toàn tỉnh. Bởi vì xã Tán thuật có anh hùng quân đội Nguyễn thị Chiên…
– Sách báo viết về Nguyễn thị Chiên có đúng không?
Tôi hỏi xen vào:
– Con Chiên cùng xóm, tao còn lạ gì nó. Tao đọc tập truyện viết về nó, được mấy trang thấy thối quá, toàn là bịa đặt, tao cho ngay vào bếp lửa.
– Nội dung ông cán bộ cấp cao nói thế nào?
– Xã Tán thuật có anh hùng quân đội Nguyễn thị Chiên – một vinh dự cực kỳ lớn, tôi thay mặt đảng và chính phủ phát động phong trào hợp tác hoá nông nghiệp điển hình cho toàn tỉnh Thái bình. Xưa kia, bà con nộp sưu thuế cho thực dân phong kiến là bị chúng bóc lột. Ngày nay bà con đóng thuế cho nhà nước chẳng khác gì túi trong bỏ ra túi ngoài, túi dưới bỏ lên túi trên. Dưới sự lãnh đạo của đảng, rồi đây ta nuôi trâu bò kéo để làm nguồn thực phẩm. Có máy cày, máy bừa thay sức kéo của trâu bò. Bà con nông dân sẽ cơ giới hoá trong sản xuất, điện khí hoá nông thôn…
Cảm động và sung sướng quá, đa số nông dân nghe đều sụt sùi khóc. Mấy ông bà già tuổi ngoài bảy chục khóc nức nở như trẻ bị đòn, thương tiếc thân phận mình tuổi đã nhiều không thể sống đến ngày quê hương có ánh điện thay đèn dầu, có máy móc thay sức con người.
Ngược lại cũng có người chỉ mỉm cười. Riêng bố tao cũng khóc.
– Tại sao thân phụ Linh lại khóc?
– Bố tao khóc vì thương xót dân mình nhẹ dạ, dễ bị lừa bịp quá. Nếu họ không có ý lừa thì cũng là cái ngu, bệnh giáo điều của họ, lời nói chỉ là chuyện hoang đường. Bố tao bảo, rồi đây xã Tán thuật sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa Cộng sản. Lúc đó Tán thuật trở thành thiên đường và Nguyễn thị Chiên trở thành“đức chúa”.
Người nói thêm, đảng đang chế tạo chiếc đồng hồ và thay thượng đế bắt mặt trời tuân theo cái đồng hồ đó.
Linh nói thêm:
– Do khoa học và kỹ thuật phát triển đưa con người đến chỗ làm ăn tập thể và không có điều ngược lại. Bởi hàng triệu khối óc của người nông dân cộng lại cũng không thể thay thế cho khối óc của một nhà bác học. Câu nói đoàn kết lại sức mạnh chỉ nên áp dụng vào việc chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai…
Ngày thi chuyển cấp, tôi và Linh không dự. Tôi đến trường lấy học bạ và giấy chứng nhận tốt nghiệp của bốn năm học (một năm cấp một và ba năm cấp hai). Học bạ cấp hai của tôi, thày chủ nhiệm nhận xét: học giỏi, thông minh, có năng khiếu đặc biệt về môn toán hứa hẹn nhiều triển vọng. Cần cố gắng về văn chương cách mạng.
* *
*
Nhà Linh gần trường, một ngôi nhà gỗ lim. Đồ dùng trong nhà gọn gàng, ngăn nắp. Linh dẫn tôi về nhà, gặp bố Linh đang may quần áo, ông có dáng người tầm thước, khuôn mặt thanh nhã như con, tuổi gần năm chục, mái tóc đã lốm đốm điểm sương.
Tôi lễ phép chào, ông đứng dậy gọi tôi vào ngồi trên chiếc ghế băng. Linh giới thiệu:
– Đây là Tâm, bạn học của con.
– À, thế thì bác đã nghe Linh nói chuyện nhiều về cháu. Ngừng một lát, ông hỏi:
– Nay cháu không không thi chuyển cấp à?
– Vâng, thưa bác, cháu không đi học nữa.
– Cứ theo cách giáo dục này không thành tài đâu cháu ạ.
– Thưa bác, chúng cháu còn ngu dại lắm! Bác cho biết tại sao học cũng không thành tài?
– Bác không dám khẳng định mà chỉ là một nhận xét thôi. Một hôm bác qua trường đảng ở thị xã, thấy ông cán bộ tuyên huấn đang giảng bài. Do tính tò mò, bác đứn
g lại nghe trộm. Ông ta nói trên trời dưới biển, nào là phép biện chứng của Marx, đấu tranh giai cấp, nền chuyên chính vô sản, nào là tính đảng và tính nhân dân, cách mạng giải phóng dân tộc là quá độ của cách mạng vô sản…Nói một hồi như vậy không hiểu sao lại nói nguyên tử có proton, electron, neutron…
Bác có ý nghĩ rằng, Cộng sản tham lam đưa con người vào rừng khoa học rồi bỏ rơi ở đó. Anh ta tưởng rằng, cái gì mình cũng biết, cũng hiểu, cũng hơn người nhưng kỳ thực chẳng có kiến thức một cái sự vật gì đến nơi, đến chốn.
Nghề nghiệp chẳng tinh, chuyên môn thì rỗng tuếch, chỉ nhớ một khối lượng từ khoa học và chính trị suông. Đà này dẫn đến một giai đoạn loạn thày, ông cán bộ tuyên huấn xã đứng trước dân không bỏ lỡ cơ hội răn dạy vài từ chính trị rẻ tiền nhưng lại có mùi mè kinh điển nên ông ta tưởng mình là uyên bác. Bà cán bộ phụ nữ vừa thoát khỏi lớp y tờ, đi học tập một vài tuần chính trị, bà cố nhớ mớ lý thuyết trống rỗng ấy để loè quần chúng. Cứ thế, theo cấp bậc từ trên xuống dưới đều là thày để răn dạy nhau. Còn lại, đám dân cùng đinh là lũ học trò cam chịu bề trên dạy bảo. Người nào thấy sai mà phản đối bị quy vào tội chống đảng, kẻ thù của giai cấp.
Bác không phủ nhận trí tuệ của người Việt nam học ở các nước phương Tây, có rất nhiều người thành đạt như Nguyễn mạnh Tường, Vũ như Canh, Lê văn Thiêm…chẳng hạn, nhưng ở xã hội mình hiện nay học khó mà thành tài. Học lên cao, lấy được bằng đại học, phó tiến sỹ hay tiến sỹ chăng nữa có thể số đông cũng chỉ là đám trí thức ngộ chữ khua môi múa mép để vinh thân phì da, chẳng giúp được bao nhiêu cho sự nghiệp phát triển khoa học, kỹ thuật của đất nước.“…Quýt Giang nam đem trồng Giang bắc hoá chua. Đó là do thổ nghi…”
Phải nói Cộng sản đã biến đất nước thành thổ nghi cằn cỗi, phát sinh nhiều sâu bọ, không mấy hạt giống quý có thể nảy mầm và phát triển, nếu có chăng cũng chỉ thành công trong muôn một.
Người dân đang đói cơm, rách áo phải có chính sách thiết thực để họ có ăn, có mặc, chứ không nên đưa con người lên chín tầng mây để tưởng tượng cái thiên đường của nhân loại. Và xây dựng cái ước mơ huyễn hoặc ấy bằng sự hợp sức của người nông dân vô học, hợp sức của con trâu, con bò cùng có cái cày, cái cuốc.
Ngừng vài giây, ông tiếp:
– Cháu ạ, về kinh tế của nước ta hiện tại rất đáng buồn, nhưng nếu có cơ chế chính trị và kinh tế phù hợp với quy luật tiến hoá chỉ một vài chục năm là ổn định và phát triển. Nguy hiểm nhất của thời đại này là vấn đề đạo đức. Sau khi nắm được chính quyền, họ lần lượt san bằng hoặc thủ tiêu mọi nếp sống văn hoá của dân tộc. Nếu họ thấy lễ giáo Khổng mạnh có điều nào lạc hậu, vi phạm đến quyền sống của con người thì bỏ đi cũng là điều cần thiết, nhưng không được loại bỏ hoàn toàn, phải giữ lại những nét tinh hoa như ngũ thường. Thí dụ, một nhân sinh quan được thể hiện qua thơ của cụ Nguyễn Du:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Những vần thơ ấy sẽ sống mãi với thời gian và trở thành một chân lý tuyệt đối.
Sự thật trên mảnh đất của đạo đức, sau khi san bằng tất cả, họ chỉ xây dựng một toà lâu đài nguy nga, lộng lẫy với mỹ danh“lòng tin tuyệt đối vào đảng”. Còn lại họ trồng toàn cỏ dại. Vườn cỏ dại quanh năm xanh tốt vì được vun xới bằng các chất tàn bạo, lừa bịp, loạn luân, vu oan giá hoạ và được tưới tắm bằng máu và nước mắt của con người. Toà lâu đài và vườn cỏ dại kia là nội dung cái gọi là “đạo đức cách mạng”. Chính nó đã gây ra thảm hoạ hồi cải cách ruộng đất mà hậu quả còn kéo dài nhiều thập kỷ. Sau này, toà lâu đài kia có sụp đổ và vườn cỏ dại kia có lụi tàn, những hạt giống của lòng trung thực, lòng nhân ái… cũng không dễ dàng gì nẩy mầm và phát triển trên mảnh đất tanh hôi ấy. Vì muốn phục hưng nền đạo đức của dân tộc sau khi bị đập phá tan hoang có khi phải kéo dài hàng thế kỷ.
Chia tay gia đình Linh, tôi ra đường ngắm lại mái trường lần cuối với bao kỷ niệm vừa thân thương vừa tàn nhẫn và tủi nhục còn mãi mãi ghi sâu trong ký ức.
* *
*
Trên đường tôi đi học, qua xã Đình phùng, nơi đây có một nữ sinh là Lê thanh Ngân. Cô cùng học một lớp với tôi, những buổi đi học, về cùng trên một quãng đường dài bốn cây số.
Ngân bằng tuổi tôi, da trắng, khuôn mặt trái xoan duyên dáng. Không hiểu vì sao tôi cứ muốn gần Ngân? Mỗi lần được nhìn em, tôi quên mọi nỗi đắng cay, trái tim tôi đập mạnh. Phải chăng tôi đã yêu em – một tình yêu đơn phương, thầm lặng?
Thực ra Ngân chỉ là một thôn nữ có nhan sắc trong một gia đình trung lưu ở vùng quê nghèo khổ. Trong khi đó, thật tội nghiệp, tôi đang phải sống một kiếp người khốn khổ: không bố mẹ, không nhà cửa, ăn đói, mặc rét, lại bị xã hội hắt
hủi hất ra ngoài lề cuộc sống. Đành rằng, trong lịch sử loài người có biết bao cuộc tình trớ trêu như vậy? Ngoài thiên tình sử đầy máu và nước mắt của nàng Lucia và chàng lính hầu Patino trong thời bạo chúa Neron, Romeo và Julliete, còn hàng triệu mối tình oan trái khác:
– Nàng Eponine khốn khổ vì yêu thầm nhớ trộm đã lấy thân chắn đạn cho chàng nam tước Marius để cái cái chết của nàng đổi lấy một cái hôn lạnh lùng trên trán.
– Anh học trò nghèo Chi chịu cái chết thảm thương vì dám yêu cô Nga cành vàng lá ngọc…
Cuối năm học, nhiều lần tôi đi bên em, cả hai đều im lặng. Từng cơn gió xuân ấm áp thổi ào ào, mái tóc thề tung bay trước gió như vẫy chào những làn sóng màu xanh mênh mông của biển lúa hai bên đường. Có khi em nhìn tôi với cặp mắt huyền ngời sáng, môi em phảng phất nụ cười, khi đó lòng tôi khấp khởi reo vui. Có khi nét nguyệt em chau lại, đôi môi em phai bớt vẻ hồng làm trái tim tôi tê buốt.
Năm học qua thì ngày tôi đi bên em không còn nữa. Từ biệt mái trường phổ thông để bước vào cuộc sống đơn chiếc, nhọc nhằn với một tương lai mù mịt đang chờ đón. Thế mà tôi lãng quên tất cả, trong tim tôi rung lên một khúc nhạc tình ca.
Những buổi sáng mùa hè tôi lang thang một chặng đường dài ba cây số đến chợ Nam huân, từ đó nhìn em thấp thoáng trong sân qua hàng cây phượng hoa đỏ rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời. Có lần tôi gặp em trên đoạn đường vào chợ.
Thấy tôi, em tươi cười hỏi:
– Anh Tâm
đi đâu đấy?
– Tôi hay đến chợ này.
– Anh mua sắm thứ gì?
– Tôi mua sắm gì đâu, mà vì một điều khó nói.
Hình như hiểu ý, em tủm tỉm cười và lảng sang chuyện khác:
– Kỳ thi chuyển cấp anh có đỗ không?
– Vì hoàn cảnh khó khăn, tôi phải nghỉ học rồi, thi làm gì nữa?
– Học giỏi mà phải bỏ dở thì tiếc nhỉ?
– Tôi tiếc lắm chứ nhưng biết sao.
– Còn Ngân? – Tôi hỏi.
– Ngân không làm được bài dựng hình nên trượt, có lẽ Ngân đi học trường dân lập ở thị xã.
– Ngân ạ, nếu việc học hành suôn sẻ, ba năm cấp ba và bốn hoặc năm năm đại học, lúc đó cánh cửa của cuộc đời rộng mở, Ngân có quên những bạn học xưa không?
– Chắc chắn Ngân còn nhớ mãi.
– Cặp mắt xanh của tiểu thư sẽ để ai lọt vào?
– Có thể một người ở phương nào đó nhưng mơ ước của Ngân vẫn là người trên mảnh đất quê hương.
– Hình như Ngân có ý nghĩ thất thường về tôi thì phải?
– Sao anh biết?
– Tôi cảm nhận qua nét mặt của tiểu thư trên đường đi học.
– Khi nào nghĩ anh thông minh, học giỏi thì khi đó có một tình cảm trìu mến xen lẫn một mơ ước về đối tượng, nhưng khi nghĩ đến anh là con địa chủ thì sờ sợ.
– Tôi có hại ai đâu mà sợ?
– Ai chẳng biết anh không làm gì xấu, do xã hội đặt anh vào một vị trí để mọi người phải xa lánh, không dám quan hệ, thế thôi.
– Thế ra xã hội muốn cướp đi của tôi quyền được quan hệ với mọi người và quyền được yêu thương?
– Anh nói đúng! Ngân hiểu rằng, anh muốn dành cho Ngân một trái tim trong trắng, nhưng…xưa kia nhiều mối tình dang dở vì không môn đăng hộ đối, do lực cản của gia đình. Ngày nay lực cản ấy là toàn xã hội, ảnh hưởng đến tương lai hạnh phúc của cuộc đời nếu tình yêu không cùng giai cấp.
Ngừng nhiều giây, vẻ mặt em buồn bã, giọng em nhỏ nhẹ, nghẹn ngào:
– Không phải riêng Ngân, cả trường nhiều người khâm phục anh thông minh, đức độ nhưng khâm phục để mà hoài niệm thế thôi. Điều anh mong muốn thì Ngân không dám và không thể…
Đây là lần cuối cùng tôi được gặp em. Quả thật tôi yêu em say đắm nhưng với cảnh khốn khổ của mình, tôi biết nói gì hơn. Kết thúc một mối tình đơn phương cay đắng khắc sâu trong tim tôi một vết thương lòng cùng bao năm nhớ tiếc và hờn tủi.

Lại một năm nữa nặng nề, u ám trôi qua trong cuộc sống nhọc nhằn, lần hồi kiếm ăn từng bữa cùng một chuỗi ngày kế tiếp nhau âm thầm, lặng lẽ trong nước mắt và tủi nhục. Nhiều đêm tôi không ngủ được, ra ngoài sân nhìn khoảng không gian có đêm vắng bóng chị Hằng. Trước mắt tôi hàng nghìn vì sao lấp lánh như hàng nghìn con mắt của vũ trụ nhìn tôi thờ ơ, im lặng. Cách đây hàng triệu năm những con mắt của vũ trụ vẫn nhìn hành tinh này thờ ơ như thế. Thuở xa xưa ấy, những bầy người nguyên thuỷ biết chung sức lại chống chọi với muôn loài vật để tồn tại và phát triển. Con người sống với nhau bình đẳng.
Cảm ơn thượng đế đã ban cho loài người hai chữ trí khôn để trải qua nhiều thiên niên kỷ đã thiết lập thành xã hội – một cộng đồng của con người có bề trên, kẻ dưới. Cao nhất là vua chúa, thấp nhất là những kẻ cùng đinh, những tên nô lệ. Từ đó có áp bức, bóc lột, bất công và tàn bạo. Và cũng từ đó có chiến tranh và các tội ác khác, con người chém giết con người. Theo janjacques Rousseau:“Loài người càng văn minh, càng suy tàn về nòi giống”. Ông ca ngợi chủ nghĩa tự nhiên.
Tôi cảm ơn nền văn minh của nhân loại đã cho tôi biết nói, biết chữ, có quần áo mặc và phép nhiệm màu của thần Prométhée để nấu chín đồ ăn. Tôi oán trách nền văn minh ấy đã dẫn con người đến những thời kỳ sống với nhau như lang sói và tôi trở thành một nạn nhân. Nếu không có kiếp luân hồi nghĩa là không phải kiếp này tôi bị đầy đoạ để trả nợ kiếp xưa, tôi cũng oán trách tạo hoá không cho tôi đầu thai cách đây hàng triệu năm trước để tôi được sống giữa quần thể người nguyên thuỷ, không bị chèn ép, không bị hắt hủi, đoạ đầy cũng như không phải chứng kiến tội ác kinh hoàng của loài người hiện tại.
Thượng đế sinh ra muôn loài, loài này tiêu diệt loài khác để tồn tại. Loài người có trí khôn tiêu diệt được mọi loài và là sinh vật thượng đẳng nhất. Do vậy, con người chém giết nhau, áp bức, bóc lột con người, âu cũng là một quy luật hài hoà theo ý của đấng tối cao?
Thằng Vương Viễn trong thời gian sửa sai đi đâu mất tích, gần đây mới thấy. Một đêm đã khuya, thấy tôi ngồi ngoài sân, hắn vào hỏi:
– Quá nửa đêm mà Tâm chưa đi ngủ à?
Khinh bỉ cái mặt ghê tởm ấy, tôi im lặng, mắt vẫn nhìn lên khoảng không vũ trụ.
Hắn hỏi tiếp:
– Mày nghỉ học phải không? Khá lắm, mày hãy học cày, học cuốc làm ra thóc gạo mà ăn, học chữ làm gì cho vô ích?…
Thằng Viễn có phần nào nói đúng. Bằng con đường học vấn, xã hội không cho phép kiếm miếng cơm, manh áo, nhưng học để biết để am hiểu cuộc sống, để thành người. Mặc dù không được đến trường tôi vẫn học, còn học nữa và học mãi. Dù cùng cực đến mấy, tôi vẫn không chịu khoanh tay đứng ngoài kho di sản văn hoá của loài người. Ông Démocrite nói:“Thà rằng, tôi giải thích được sự vật còn hơn được làm vua xứ Ba Tư.”Dù tính mục đích bị đập vùi tàn nhẫn, tôi vẫn tiếp tục học để phục vụ tính nguyên nhân.
* *
*
Trước làng tôi, cách con sông nhỏ, cánh đồng lúa mênh mông đến tận chân trời. Từ màu xanh mơn mởn đã biến thành tấm thảm màu vàng gợn sóng chào đón vầng dương thức dậy. Trời xanh bao la, cánh cò chớp trắng, bản hợp xướng của bầy chim chiền chiện đan xen tiếng sáo vi vút cùng tiếng kêu đều đều, mệt mỏi của chim quyên trong các luỹ tre.
Một bãi đá bóng sát bên bờ sông, giữa có một ngôi mộ cao tám mươi phân, mỗi cạnh dài bốn thước. Tối hôm ấy, có một cuộc mít tinh trọng thể, ngôi mộ biến thành một lễ đài. Trong ánh sáng chói chang của hai ngọn đèn măng xông, hàng nghìn người đang nghe ông cán bộ tuyên huấn xã đọc bài diễn văn để kỷ niệm ngày quốc tế lao động. Tôi cùng mấy bạn học cũ đứng bên đường cạnh bãi đá bóng đang thì thầm nói chuyện về các ngành trung cấp chuyên nghiệp trong năm ấy. Nghe đến đoạn diễn văn:“…Hôm nay là ngày giai cấp nông dân đứng lên đánh đổ bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột, giành lấy ruộng đất…”. Một bạn học là anh họ tôi bật kêu lên và cười giòn rã:
– Khoái quá chúng mày ơi, nghe đọc diễn văn.
Mấy tên du kích đứng gần chạy lại quát:
– Các anh định quấy rối phải không?
– Đừng vu khống! – Anh họ tôi trả lời.
Trong số du kích ấy có thằng Vương Viễn, hắn nói:
– Lại thằng Tâm xúi giục thôi.
Hắn kéo tôi vào sân đình, lấy dây trói lại. Các bạn học của tôi kéo đến phản đối:
– Nó không nói gì, anh không được trói, định ăn hiếp người ta à?
– Chúng mày cút đi, thằng này chủ mưu phá rối. Phải chờ cấp trên giải quyết – Thằng Viễn trả lời.
Thời gian sửa sai đã qua, Viễn lại giở trò bạo ngược. Có lẽ ai cũng biết hắn là loại súc sinh nên chẳng ai nói gì thêm, cùng chờ cho cuộc mít tinh tan.
Hơn một giờ sau, người kéo đến sân đình đông kín, ông cán bộ tuyên huấn đã làm xong nhiệm vụ trên lễ đài, có người báo, ông xách đèn măng xông đến chỗ tôi, ông ta hỏi:
– Tại sao đang lúc mít tinh, anh lại phá rối?
– Ông nghe báo cáo sai rồi, tôi nói gì, làm gì mà phá rối?
– Có tôi cười và nói, khoái quá chúng mày ơi… – Anh họ tôi nói.
– Anh phá rối à? – Ông tuyên huấn hỏi.
– Tôi cười về sự xuyên tạc lịch sử của các ông.
– Xuyên tạc chỗ nào?
– Là một cán bộ tuyên huấn, ông đọc tài liệu nào viết về ngày quốc tế lao động là ngày nông dân nổi dậy.
– Tôi không lý sự với anh. Nông dân là lao động, lao động là nông dân cũng là công nhân.
– Lý sự của ông cùn lắm. Tôi đề nghị ông phải tha ngay không được trói người vô tội.
Khi đó một cán bộ của uỷ ban đến, ghé vào tai ông tuyên huấn nói nhỏ điều gì, rồi ông ra lệnh:
– Nay tôi tạm tha cho các anh, ngày khác uỷ ban sẽ hỏi.
Xảy ra tai vạ làm tôi nhớ lại cách đây bốn năm, khi đó cũng thằng Vương Viễn trói tôi vào cột miếu một đêm và một ngày, không cho ăn uống, hai cánh tay tôi bầm tím, tê dại
thì lần này có thấm vào đâu? Hơn một giờ bị trói, đứng giữa sân đình hưởng gió mát và hương thơm của lúa nhưng cái khí thế thô bạo, vu oan hồi cải cách vẫn còn nguyên vẹn.
* *
*
Năm nay, tôi mười bảy, đủ tuổi để thi vào trung cấp chuyên nghiệp. Trong hồ sơ thi có lý lịch đóng vai trò quyết định, do vậy tôi có đi thi cũng chẳng kết quả gì. Tuy nhiên tôi lại nghĩ, mình là kẻ hèn kém nhất trong đám cùng đinh của xã hội, hãy cố tìm cách nhoai lên may ra kiếm được đôi chút quyền làm người. Nếu bị rơi xuống cũng hoà, chẳng mất mát gì thêm. Nghĩ vậy, tôi quyết định làm hồ sơ thi vào trung cấp kĩ thuật hai.
Tôi có người chú họ làm chủ tịch xã – chú Qua hiểu rõ nỗi oan nghiệt của bố tôi, vì lập trường cách mạng không cho phép chú công khai làm điều thiện. Tuy thế, chú là người có lương tâm, tôi muốn nhờ chú chứng nhận lý lịch. Không may thời gian đó chú lại đi vắng.
Một buổi chiều tôi đến uỷ ban, gặp phải tên phó chủ tịch người họ Lương, nhìn khuôn mặt hắn cũng đủ rõ trái tim hắn có dòng máu của loài lang sói. bước vào phòng làm việc, tôi định quay ra nhưng đã muộn. Hắn hỏi tôi:
– Anh Tâm cần gì?
– Thưa bác, cháu xin học nghề. Nơi nhận, họ cần biết cháu bao nhiêu tuổi nên đến xin uỷ ban…
– Tôi thay mặt chính quyền xã – Hắn cắt ngang – tuyên bố để anh rõ, anh không được đi đâu cả. Ngoài nghề làm ruộng, anh không có quyền làm bất cứ nghề gì. Nhân tiện hôm nay, tôi cảnh cáo anh về hành động phá rối trong cuộc mít tinh ngày quốc tế lao động.
– Bác nghe báo cáo sai rồi, cháu có làm gì đâu mà phá rối?
– Bề ngoài tưởng là thế, thực chất anh là kẻ xúi giục.
Hắn nói tiếp, giọng hắn gằn từng tiếng réo lên độc địa:
– Chúng tôi có thể lập hồ sơ để truy tố anh, hãy coi chừng – Hắn liếc nhìn tôi như muốn bắn ra những tia chớp lửa thiêu tôi thành tro bụi.
Trở về nhà với tâm trạng căm hờn, tủi nhục, tôi tự hỏi, tại sao tạo hoá sinh ra tôi phải chịu số phận nghiệt ngã đến thế này? Đứng chỗ thấp nhất trong cái đáy của xã hội vẫn không được yên? Ôi, quê cha, đất tổ ngày nay sao trở thành đất dữ, đã nhuộm máu của bao người lương thiện còn muốn giết dần mòn những kẻ khốn cùng? Liệu tìm đường mà cao chạy, xa bay.
* *
*
Tháng 9 – 1959, ở thị xã Thái bình mở trường trung cấp sư phạm, tôi quyết định chơi một canh bạc mới. Đến chú Qua – ông chủ tịch xã, nhờ chú đóng dấu, ký tên vào lý lịch và nộp hồ sơ dự thi. Tháng mười năm ấy, tôi vào trường sư phạm. Tôi học về tự nhiên nên nhanh chóng chiếm được cảm tình và sự yêu mến của các thày cô và các bạn học. Tuy nhiên, do năng khiếu của tôi xuất hiện ở trường cũng nhanh chóng trở thành một nguy cơ đang đe doạ tôi ở địa phương –quê tôi. Sau bữa liên hoan, thày và trò chia tay về quê ăn tết nguyên đán, không ngờ tết năm ấy tôi đón xuân bằng một tâm hồn ủ rũ như cánh hoa tàn. Cả làng xôn xao bàn tán về tôi:
– Không biết thân, biết phận người ta đang ghen ghét đố kỵ, cứ học giỏi cơ mới khổ.
– Thằng Tâm nếu khôn ngoan thì học trung bình thôi, vô thưởng, vô phạt chẳng ai để ý đến lại là một điều may cho nó.
Anh Quang cũng trách tôi học giỏi ở trường sư phạm nên mới có nguy cơ bị đuổi khỏi trường. Thằng Vương Viễn đang làm trong ban chỉ huy xã đội, hắn nói với anh Quang:
– Thằng Tâm muốn ngóc đầu dậy phải không? Về đây để nông dân dạy cho học cày, bừa chứ không phải học chữ để ăn bám xã hội.
Gặp tôi, chú Thất nói:
– Thời gian chú dạy cháu, chú vừa mắng, vừa lo cho cháu. Mừng vì cháu thông minh hơn người, lo vì hoàn cảnh gia đình cháu không phù hợp với chế độ này. Cháu học giỏi chẳng những không có tiền đồ mà còn trở thành điểm sáng để người ta để ý, kích thích tính đố kỵ và sự hận thù. Hồi sửa sai họ không nói gì đến bố cháu, như thế gia đình cháu vẫn là đối tượng của cách mạng. Do vậy, cách sống tối ưu của cháu là sự im lặng, tai giả điếc, mắt giả mù, miệng giả câm, óc giả đần độn để những kẻ bất nhân ghen ăn, tức ở không lưu ý gì đến cháu. Làm như vậy, cháu mới tồn tại được. Câu ngu si hưởng thái bình không bao giờ hữu hiệu như hiện nay.
– Theo ý chú, sau cải cách cháu không nên đi học nữa?
– Lúc đó thì đã hơi muộn, hay hơn cả là cháu không biết chữ hoặc biết chút ít thôi. Nếu cháu được nghe câu sấm trạng:“…ông hoá ra thằng…”, cháu phải hiểu rằng, cháu đã hoá ra thằng của thời đại. Một thằng không cam chịu chỗ đứng cứ tìm cách nhoai lên vị trí cao hơn, tức là đã phạm vào cái trật tự xã hội đương thời quy định, cháu bị trù dập đã đành, còn chịu thêm nhục hình là đáng lắm.
Kẻ có quyền từ xã đến huyện sôi sục chuẩn bị hồ sơ thêm cả những điều bịa đặt, gửi lên trên đề nghị đuổi tôi ra khỏi trường sư phạm.
Mùa hè năm 1960, thày giáo dạy vật lý – thày chủ nhiệm Phạm trung Thu, qua một bài kiểm tra khen tôi thông minh xuất chúng. Thày đang nói thì một nhân viên phòng tổ chức đưa cho thày một giấy báo, thày chuyển giấy cho tôi, nội
dung: Nguyễn Tâm lớp 1B tự nhiên đến phòng tổ chức chiều ngày 21–6–1960 để nhận quyết định. Tôi không nói với ai nhưng hiểu rằng, canh bạc tôi chơi ở trường sư phạm đến đây đã tàn. Đã là canh bạc phải có thua, có được. Riêng tôi, chơi bạc với cuộc đời có thua cũng chẳng mất mát gì thêm, trở lại với vị trí xã hội đã dành cho: một người khốn khổ.
Đến chiều tôi đến phòng tổ chức đưa giấy báo cho ông trưởng phòng. Cầm giấy không cần xem lại, hắn trừng mắt quát tôi ngay:
– Ai bảo mày man khai lý lịch để lọt vào đây?
– Thưa ông, tôi không man khai một điều nào.
– Mày ngoan cố à? Tại sao tên Căn bị xử trí, mày không viết?
– Như thế là còn thiếu chứ không phải man khai.
– Với chính sách nhân đạo của đảng để cho mày được sống là may lắm rồi, nhưng phải nhớ rằng, không có một vị trí nào dành cho mày trong xã hội.
Nói xong hắn đưa cho tôi một tờ giấy đánh máy là quyết định đuổi tôi. Tôi chưa ra khỏi phòng thì thày hiệu trưởng Phạm Lăng đến, thày nói:
– Quyết định đuổi em không phải của trường mà do uỷ ban nhân dân tỉnh. Tôi cho phép em ở lại trường một tuần để làm đơn khiếu nại.
Nghe thày hiệu trưởng, chiều hôm đó tôi đến uỷ ban. Phòng thường trực đông người chờ đợi,tên nhân viên cầm bản quyết định của tôi xem lướt qua rồi hắn nói to:
– Bà con hãy lắng nghe tôi đọc:“… Sau khi phòng công an huyện Kiến xương và công an tỉnh Thái bình hoàn chỉnh hồ sơ để gửi lên bộ giáo dục. Bộ uỷ nhiệm cho uỷ ban nhân dân tỉnh Thái bình. Nay quyết định:
Điều một, đuổi tên Nguyễn Tâm con tên địa chủ cường hào gian ác, đầu sỏ Nguyễn Căn ra khỏi trường sư phạm.
Điều hai, bắt tên Nguyễn Tâm phải bồi thường học bổng trong thời gian học tập. Tên Nguyễn Căn có nhiều nợ máu với nông dân. Trước khi chết, y còn dặn con nên nhớ lấy ngày này…”
Lúc đó, nhiều kẻ lơ láo nhìn tôi. Mấy tên vô lại là khách đến xin giấy tờ, hô đả đảo ầm ĩ như bọn loạn thần kinh.
Không tự chủ được mình, từ phòng thường trực tôi lao ra đường. Đằng sau tôi vang lên một hồi két, két, két… Tôi ngoái lại, đầu chiếc ô tô tải gần sát lưng tôi. Người lái xe trong cabine văng ra hàng tràng chửi tục.
– Thằng khốn nạn, mày muốn chết à?
– Đ..mẹ mày, ông không nhanh chân tay thì mày về với Diêm Vương rồi con ạ!
Chẳng quan tâm đến những lời chửi rủa của gã lái xe, tôi chạy một mạch về làng Lạc đạo. Lúc đó, mặt trời sắp lặn, tôi về đến nhà trọ, các bạn cùng lớp đã đến đông, thày chủ nhiệm cũng có mặt, thày nói:
– Chiều hôm nay, thày triệu tập các em đến đây để thông báo tin buồn của em Tâm. Qua tám tháng học tập và chung sống với các em, thày có nhận xét rằng, em Tâm thông minh xuất chúng, học giỏi, khiêm tốn, và giúp đỡ các bạn trong học tập, ngoan ngoãn lễ độ với các thày. Hôm nay em Tâm phải chia tay với chúng ta là do lý lịch của gia đình. Đây là nỗi buồn chung. Thày mất một người trò giỏi, các em mất một người bạn tốt. Thày mong các em hãy thông cảm và cùng chia sẻ nỗi buồn với em Tâm.
Nghe thày nói, tất cả đều im lặng, nhìn tôi với một ánh mắt và vẻ mặt u buồn, nhiều bạn rưng rưng lệ. Sáng hôm sau, tôi dậy sớm để chào từ biệt một số bạn thân và đến chào thày chủ nhiệm. Thấy tôi đến, thày dắt tay tôi vào trên chiếc giường cá nhân của thày. Tôi nói:
– Thưa thày, bây giờ em về quê, em đến để chào thày.
– Đêm qua – thày nói – nghĩ về em làm thày thao thức mãi, thày muốn giúp em nhưng hoàn toàn bất lực. Đáng buồn là thời buổi này, làm điều ác thì dễ lắm, còn làm điều thiện thì không thể…
Thày nói tiếp:
– Tâm ạ, nỗi buồn của em hôm nay là nỗi buồn chung của dân tộc mai sau. Người ta vừa vùi dập những tài năng đang phát triển, vừa gạt bỏ và đầy đoạ những nhân tài, thử hỏi đến bao giờ đất nước này mới thoát khỏi cảnh bần cùng, lạc hậu?
Chào từ biệt thày Thu, tôi ra đường gặp thày dạy toán – thày Quý. Tôi chào thày và muốn nói với thày đôi lời trong lúc chia tay. Thật lạ lùng, để đáp lại lời chào lễ phép của tôi, thày nhìn tôi với ánh mắt hận thù rồi quay đi hướng khác.
Có lẽ vì lý thuyết đấu tranh giai cấp làm thày thay đổi thất thường?
Trên đường về quê, tôi đi theo quán tính, tâm trí chìm đắm trong những ý nghĩ miên man, quanh quẩn không lối thoát. Đến lúc này, ở quê tôi trở thành mục tiêu hấp dẫn để họ hành hạ. Vốn dĩ tôi vẫn phải cúi đầu xuống bùn ao, ngày nay họ sẽ dìm đầu tôi xuống thấp hơn, tôi sẽ chết dần mòn. Tôi tự hỏi còn ván bài nào khác trong bước đi của cuộc đời? Tôi có ý định lên Hà nội với chị Hoa nhưng biết đâu tình cảm của chị với tôi đã thay đổi, bị cuốn theo những trận cuồng phong về đạo đức? Chẳng những thế, cái miệng hùm, nọc rắn đâu phải chỉ có ở quê tôi mà tồn tại khắp nửa giang sơn đất nước này.
Thôi hãy coi đây là canh bạc mới, cứ từ bỏ quê hương đi nơi khác xem sao?
Đến đầu cầu Kìm tôi gặp chú Qua. Nhìn thấy tôi trước, chú gọi:
– Tâm! Họ đuổi cháu chưa?
– Thưa chú, họ đuổi cháu hôm qua. Bây giờ cháu về quê.
– Vì chữ ký trong bản lý lịch của cháu, dăm bữa nữa chú cũng bị tước quyền chủ tịch.
– Việc đã qua, cháu cũng chẳng có lỗi gì. Không lẽ mưu cầu tiến bộ, mưu cầu hạnh phúc cũng là một tội?
Tôi nói tiếp:
– Chú có thể giúp cháu một việc nữa được không?
– Việc gì? – Chú hỏi.
– Cháu phải từ biệt quê hương thôi chú ạ. Cháu nhờ chú giúp giấy tờ di chuyển?
– Được, chú còn đủ thời gian giúp cháu – chú Qua nói tiếp – Cứ lù đù như người khác, họ chẳng để ý đến. Ngược lại, từ nhỏ tới bây giờ cháu có tiếng thông minh, học giỏi mà lý lịch gia đình lại xấu nên trở thành cái bia hứng chịu những viên đạn của tính đố kỵ và lòng ghen ghét.
– Giấy tờ qua huyện thế nào, chú?
– Họ chẳng để ý đâu, nhưng không khéo để họ biết được lý lịch thì khổ đấy. Họ giữ lại để hành, biến thành một trò vui.
– Làm điều ác mà coi là một trò vui à, chú?
– Việc xã hội, cháu còn ngây thơ lắm. Bố cháu bị chết oan, ai mà chẳng biết. Buổi người ta bắn bố cháu, dân làng nô nức kéo nhau để xem. Nếu bán vé, chắc còn đông gấp nhiều lần xem chiếu bóng hay xem hát. Đó là một trò vui. Tâm lý của con người như ngựa vô cương, trâu vô sừng sẹo. Xưa kia khoa luân lý học như dây cương hướng con người đến cái chân, cái thiện, ngăn chặn những hành vi xấu của tâm lý. Ngày nay, ngoài sợi dây ràng buộc với đảng, con người không bị vướng mắc nào về mặt đạo đức. Thế thì thú tính và tội ác biến thành sở thích, thú vui chứ sao? Chú đơn cử một hiện tượng, cách đây ba năm, việc trốn khỏi quê hương của anh em thằng Núi. Gia đình nó còn nhẹ cân hơn gia đình cháu, anh em nó học hành chẳng ra gì. Thế mà chính quyền địa phương điên cuồng lắm tìm kiếm từ ấy đến nay. Vì họ bỏ xổng một con mồi, mất một trò vui trong việc họ hành hạ, vùi dập.

Kỳ 6 – Những người thân

Hồi ký Một ngày giông tố – Kỳ 6

HỒI HAI – Hà nội

Quãng đường dài mười lăm cây số từ quê tôi đi bộ đến bến ô tô thị xã lúc chín giờ. Chưa đến giờ xe chạy nên tôi đến trước cổng trường Hoàng văn Thụ để gặp anh Nguyễn ngọc Minh, bạn cùng lớp, xin anh một món nợ năm đồng, tôi mượn anh để thêm tiền may chiếc áo sơ mi bằng popeline trắng Trung quốc. Món nợ chẳng đáng là bao, tương đương với giá trị một thước vải kaki Nam định, nhưng hiện thời tôi không có để trả anh. Tiếc rằng giờ ra chơi giữa hai tiết học không thấy anh ra ngoài, tôi trở lại bến ô tô để đi Hà nội. Để mười sáu năm qua, mỗi khi nhớ đến, lương tâm tôi lại lên án: tôi là kẻ lừa đảo. Vì muốn trả anh qua bưu điện, tôi không biết địa chỉ thôn xã của anh mà chỉ nhớ quê anh ở huyện Hưng nhân. Muốn gửi đến trường lại sợ ảnh hưởng xấu đến anh là quan hệ với con cái kẻ thù giai cấp.

I Những người thân

Bóng chiều đã ngả dài, chuyến xe khách từ thị xã Thái bình mới cập bến Kim liên. Tôi đi bộ qua phố Khâm thiên đến ô chợ dừa và hỏi thăm nhà chị Hoa. Lúc đó, tôi sực nhớ ra, cháu Lập – con trai đầu của chị đã lên hai, muốn mua cho cháu gói kẹo nhưng trong túi tôi chỉ còn hai hào. Thật hổ thẹn, lần đầu gặp cháu mà cậu chẳng có một thứ quà nào.
Tôi đến nhà, anh Hoàng và chị Hoa đi làm chưa về. Gian nhà lá của gia đình chị khoảng hơn một chục thước vuông. Đồ dùng trong nhà đơn sơ: hai cái giường rẻ quạt ọp ẹp, vài ba chiếc xoong nồi và bát đũa rẻ tiền làm tôi ngao ngán. Mặc dù trước khi đi, tôi đã biết, anh Hoàng là cán bộ kỹ thuật nhà máy trong quy mô với mức lương mười đồng một tháng, chị Hoa đan len cả ngày và buổi tối cũng chỉ được trung bình hàng tháng vài chục đồng. Tổng số tiền thu nhập ấy làm sao nuôi được năm người sống cho đầy đủ? Mẹ chồng chị Hoa – một người đàn bà hiền lành, phúc hậu. Thấy tôi đến bà ân cần, cởi mở:
– Cậu lên đây cứ yên tâm ở với anh chị và các cháu, có gì ăn nấy, đừng lo ngại gì.
Bà nấu cơm xong thì chị Hoa về. Sau ba năm xa cách chị thay đổi nhiều làm tôi khó nhận ra: già đi nhiều và gầy yếu. Riêng anh Hoàng vẫn như xưa. Có lẽ vì sự có mặt của tôi làm anh khó chịu, anh lạnh lùng chẳng nói gì. Sau này tôi mới biết anh còn là bậc thày của Appagon. Đến bữa ăn, chẳng chào hỏi ai, anh nói:
– Lương ít, một đống người ăn sống làm sao được?
Quả thật trên đường đi, không có tiền ăn quà nên tôi đang đói. Mới ăn được một bát, nghe anh rể nói, tôi hổ thẹn quá, không ăn nữa.
– Sao cậu ăn ít thế? – Bà mẹ chồng chị Hoa hỏi.
– Thưa bà, cháu mệt – Tôi trả lời.
Thái độ của chị Hoa đối với tôi cũng thờ ơ, lạnh nhạt. Hiện tại, chị đã thay đổi nhân tình. Ngoài thời gian cải cách, tình thương của chị đối với các em chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc như bong bóng xà phòng.
Sau này, năm năm ở Hà thành, chị không biết em ở đâu và sống ra sao. Tuy vậy, về mặt kinh tế chị đáng thương chứ không đáng trách. Chị không thể bớt xén miếng ăn của chồng con để chia sẻ cho tôi.
Đêm ấy tôi thức trắng, lởn vởn những ý nghĩ tuyệt vọng:“Bây giờ ta đi đâu? Lại về quê chăng? Không ổn, về quê lúc này là tự sát. Bọn bất nhân sẽ điên cuồng hành hạ ta chết dần mòn. Than ôi! Canh bạc này ta mới chỉ bắt đầu mà đã vội vàng kết thúc rồi sao?…”
Sáng hôm sau, tôi nói với chị Hoa:
– Bây giờ em đến thăm cô và bá rồi đi… Em không thể chịu nhục ở đây, dù chỉ một tuần.
– Cậu định đi đâu?
– Em cũng chưa biết nữa.
– Tuỳ cậu – Lời nói của chị lạnh lùng, vô trách nhiệm như người dưng nước lã.
* *
*
Tôi đi xe điện lên bờ hồ Hoàn kiếm và từ đó đi bộ đến phố hàng Rươi thăm cô tôi. Chồng cô – ông tổng cục trưởng, ngoài việc đến thăm, tôi có ý định nhờ ông xin việc. Do vậy tôi nói với cô để thăm dò trước. Gần mười hai giờ trưa, ông tổng cục trưởng – chú Nghiệm mới về. Bữa cơm trưa, tôi ngồi bên chú. Hơi cơm gạo tám xoan bốc lên thơm phức, một mâm đầy những món ăn hảo hạng: nem thịt gà, lạp xường, thịt nạc áp chảo, thịt bò xào hành tây… hai bát nước mắm loại đặc biệt và một đĩa dưa cải củ. Đầu bữa tôi gắp dưa chấm nước mắm, chẳng hiểu sao chú Nghiệm cầm bát nước mắm ấy đổ vào bát kia và bảo cháu gái lấy chai rót nước mắm khác? Cô vội bảo:
– Chú không quen ăn dưa!
Tôi thoáng nghĩ, xưa kia còn ở thuở hàn vi, một lần chú ăn cơm nhà tôi. Bữa ăn có dưa cải nén và nhiều món khác, chú ăn dưa suốt bữa và khen ngon, tại sao đến nay chú lại không quen? Có lẽ vì cuộc sống vinh hoa đã làm chú phải xa lạ với món ăn dân tộc rẻ tiền này. Tôi liên tưởng đến truyện Hán sở tranh hùng: Lưu Bang vào Hàm dương, truyện Tam quốc: Lưu Bị sang Đông ngô cũng vì cuộc sống vinh hoa mà lãng quên sự nghiệp. Những người CS ngày nay có lẽ cũng đã quên cái sự nghiệp vì dân, làm cách mạng phục vụ nhân dân như ông Hồ đã nói. Họ không cần đếm xỉa đến cuộc sống cơ cực của người dân để đi đến sự nghiệp cách mạng phục vụ chính bản thân mình. Nhất là những người có quyền, có chức, có trong tay cuộc sống xa hoa, tại sao không tận hưởng để bù đắp lại những tháng năm trong lao tù của thực dân Pháp và thời kỳ chui rúc trong hang núi ở các chiến khu? Điều đó âu cũng là lẽ sống vĩnh hằng của nhân loại, nhưng bác nói:“Người cán bộ cách mạng là đầy tớ trung thành của người dân”. Lời lời châu ngọc khiêm nhường êm dịu quá khiến linh hồn của Molière phải hổ thẹn về Tartuffe của mình còn kém tài năng, và vua hài Charlot nếu ở Việt nam phải bạt vía siêu hồn. Tôi không bình luận gì thêm về những lời châu ngọc đó, quả là không tiền khoáng hậu, cười ra máu hoà trong nước mắt.
Tôi đến thăm cô lần đầu ở Hà nội, thế mà con dâu cô ghi vào sổ tạm trú cho ở một ngày. Đêm đó tôi cũng không ngủ được, nghe cô tôi nói chuyện với đức ông chồng:
– Cháu Tâm đến đây muốn nhờ ông xin việc?
– Với người khác thì dễ chứ cháu bà, tôi chịu.
– Tại sao, ông?
– Tôi nói bà cũng chẳng hiểu gì. Nước ta đang bước vào giai đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp quyết liệt lắm. Tôi xin việc cho cháu bà chưa chắc đã được, nếu họ biết lý lịch của anh bà, tôi không những mất quyền, mất chức mà còn bị khai trừ ra khỏi đảng, đuổi về quê. Giả dụ, tôi tự ý giải tán một công ty để hàng trăm người mất việc, điều đó chỉ là một khuyết điểm, nhưng nếu giúp đỡ con cái địa chủ, tư sản là một trọng tội.
– Thời kỳ ông đi vắng, anh tôi giúp đỡ vợ con ông, ông quên à?
– Một người cộng sản còn nghĩ đền ơn với nghĩa, sao nhãng lập trường thì làm cách mạng thế nào? Vả lại, trả ơn, trả nghĩa theo ý nông cạn của bà trong giai đoạn hiện nay là con đường dẫn cả nhà xuống vực.
Sau đó, cô tôi khóc thút thít. Tôi vẫn nằm im nghĩ đến nhân tình thế thái. Chồng cô – chú Nghiệm xuất thân từ một gia đình khá giả, người rất xấu, cao lêu đêu, gầy yếu, da sạm, mặt lưỡi cày. Chú học dốt quá, chưa hết tiểu học thì bỏ dở. Khi lấy cô tôi, được một đứa con trai, chú đi đâu không ai biết, vài năm sau mới được tin chú tham gia vào đảng Cộng sản Đông dương, bị bắt tù ở Côn đảo. Đến năm 1936, nhờ có mặt trận bình dân Pháp ra đời, chú mới được trả tự do. Về nhà chú đẻ thêm một đứa con gái nữa rồi tham gia mặt trận Việt minh vào chiến khu chống thực dân Pháp.
Thương người em gái xa chồng, một mình phụng dưỡng bố mẹ chồng, bố tôi hết lòng giúp đỡ cô và hai cháu. Ông tổng cục trưởng phủi sạch công ơn đó ngày nay cũng là lẽ thường tình nếu không lấy oán trả ân. Vả lại, họ thường tuyên truyền chủ nghĩa xã hội là mùa xuân của nhân loại, mặc dù công cuộc ấy mới bắt đầu nhưng cuộc sống của ông tổng cục trưởng đang nở hoa như một mùa xuân. Với cương vị cán bộ trung cao cấp, được nâng đỡ và ưu tiên tuyệt đối về bằng cấp, ông mới đang học bổ túc văn hoá lớp bốn. Do vậy chức tổng cục trưởng của ông là chứng chỉ những năm tháng gian nan làm cách mạng chứ không phải do trình độ chuyên môn và văn hoá. Ông tự biết rằng nếu không có đảng, đời ông không thể được vinh hoa như thế. Là tổng cục trưởng cục thực phẩm, ngoài những đặc quyền đặc lợi khác, ông có quyền mãn nguyện về vật chất bao gồm những thứ cao lương, mỹ vị. Đây là một bằng chứng về sự đổi đời của thiên hạ, không nhầm với câu sấm trạng.
* *
*
Sáng hôm sau, tôi đến hàng Bạc thăm bá (quê tôi gọi chị mẹ là bá). Năm ấy, bá đã năm mươi bảy tuổi. Mẹ tôi và bá là hai chị em cùng cha cùng mẹ nhưng dáng người, khuôn mặt và tính tình không có nét nào giống nhau. Mẹ tôi đầy đặn, phúc hậu, mặt tươi như hoa. Còn bá thì gầy yếu, nét mặt buồn mếu máo. Bá lưu lạc quê hương từ hồi còn trẻ, lấy làm vợ hai một người buôn bè vùng Thường tín. Sau khi được bốn người con thì ông chồng về cõi, bá một mình nuôi đàn con dại chẳng được học hành gì. Năm 1954, các con đã trưởng thành, trai có vợ, gái đã có chồng. Gia đình bá học được nghề làm và kinh doanh giỏ, làm ăn phát đạt. Anh con trai từ chỗ nghèo hèn nay kinh tế gia đình sung túc, anh thả sức ăn chơi phá phách theo cách của kẻ vũ phu, vô học. Người chị cả theo chồng vào Nam, còn lại hai em gái mới có chút tí của đã tỏ ra khinh người như rác, cái mặt cứ vênh lên.
Nhà bá bên trong ngõ hẹp, một gian nhà thước thợ sâu thẳm, tối om, mái lợp tôn. Về mùa hè, trong nhà nóng như hun. Những đêm mưa rào, hạt mưa rơi xuống mái tôn kêu lốp bốp, rầm rầm như sắp đổ cửa, đổ nhà. Bên trong nhà chất đầy rơm, dẻ vụn và vỏ ấm giỏ.
Tôi đến, bá đang khâu nắp ấm, hai người đàn bà lạ mặt đang nhồi rơm vào vỏ ấm. Một người làm thuê cơm nuôi, mỗi tháng hai mươi đồng, còn người kia là cháu họ. Sau khi tôi tự giới thiệu mình, bá hỏi tôi với thái độ lạnh lùng:
– Mày đến nhà con Hoa và ông Nghiệm chưa?
– Thưa bá cháu đã đến nhà chị cháu hôm kia, hôm qua đến nhà chú cháu.
– Ông Nghiệm xin việc cho mày làm chứ?
– Chú cháu bảo hiện nay không xin được.
Bá cười, mặt bá lại càng mếu máo thảm thương hơn:
– Tưởng xin cho mày làm cán bộ có quyền hành mới khó, chứ một nhân viên làm công ăn lương thì ông Nghiệm dễ như trở bàn tay.
– Thưa bá, cháu cũng chỉ mong có được một việc làm để kiếm sống, dù việc gì cũng được nhưng chú cháu từ chối vì…
– Tao biết rồi – Bá ngắt lời – ông Nghiệm từ chối vì sợ lý lịch của bố mày. Thời nay, những người như mày người ta phải vùi xuống bùn đen, chẳng ai thương, chẳng ai dám giúp đỡ để mắc tội liên quan mất quyền, mất chức như chơi.
Bá nói thêm vẫn với vẻ lạnh lùng:
– Nói thật nhà tao hiện nay có việc, mày muốn làm thì ở lại đây?
– Vâng, được bá giúp, cháu không bao giờ dám quên ơn – Tôi vui mừng trả lời bá.
Ngay sau đó, tôi bắt tay vào làm việc, trong lòng thấy yên tâm, nhẹ nhõm, nhưng sự đời đến với tôi đâu có dễ dàng, êm đẹp? Người con trai của bá – anh Tuân nếu coi tôi như người làm thuê cũng là điều may mắn. Ngược lại, anh đối xử với tôi như một tên nô lệ. Anh quy định giờ làm việc từ bốn giờ sáng đến mười giờ đêm, ăn xong bữa phải làm ngay, còn tiền công thì không nói đến. Anh chẳng làm gì cả, đêm diện hết bộ này đến bộ khác đi chơi gái, ban ngày nằm ngủ. Bà mẹ lại tham công tiếc việc không điều khiển nổi con, quay ra hành cháu. Có hôm tôi sốt suốt đêm, đến bốn giờ sáng bá vẫn dựng dậy làm, bá nói:
– Tâm ơi, mày không làm, con tao nó nói tao.
– Hôm nay, cháu bị sốt, cháu xin được nghỉ.
– Mày phải biết thời thế đã thay đổi rồi“con vua thất thế phải ra quét chùa”. Mày không làm tao không dám chứa mày đâu.
Tôi tự nhủ đành phục tùng số phận. Tôi lóp ngóp bò dậy đi làm, cái mệt mỏi do bệnh cộng thêm nỗi buồn vì những lời nói và hành động“ân tình”của bá. Đúng là sự đời“giậu đổ bìm leo”.
Bữa cơm nhà bá hàng ngày là những món ăn theo quy luật tuần hoàn: cá mè nấu củ cải hoặc xu hào, lòng trâu, lòng bò xào hoặc thịt lợn thủ kho mặn. Bá mua những thực phẩm đó ở chợ hàng Bè vào buổi chiều, phần lớn đã ôi thiu nên rẻ tiền. Đó là cách tiêu tiền của một người phải chịu cuộc sống nghèo khổ kéo dài lê thê nhiều năm trong qua khứ đã biến thành một thói quen, một bản năng. Hiện tại, kinh tế rất khấm khá nhưng có lẽ chưa bao giờ bá nghĩ đến hoặc dám mất tiền mua một món ăn ngon. Trái lại, anh con trai tha hồ phung phí, một đêm đi chơi gái có thể bằng một tháng ăn tiêu của cả gia đình.
Từ cuộc sống nhà bá làm tôi nhớ lại thời
kỳ cải cách, nhiều người bị quy là địa chủ, bị nhục hình và bị cướp hết tài sản. Những người đó cũng tham công tiếc việc, thức khuya dậy sớm, quanh năm chân lấm, tay bùn, quần nâu, áo vải, không dám ăn no, dành dụm ki cóp từng hào để làm giàu. Có người trong số họ không biết đến hương vị một bát phở, một tách cà phê, cả đời quanh quẩn với mảnh ruộng, với luỹ tre làng, không biết thế nào là thị trấn hay thị xã. Có lẽ từ khi hình thành xã hội loài người đến nay mới xuất hiện những con người lương thiện chỉ biết cần và kiệm trở thành nạn nhân đáng thương như vậy.
Một hôm tôi đang làm, một em học sinh hàng xóm sang chơi, nó cầm quyển truyện, xem đầu đề, tôi thích nên hỏi mượn. Nó đồng ý cho mượn nhưng hai ngày phải trả. Tôi nghĩ, cả ngày phải làm suốt đến mười giờ đêm, thời gian đâu mà đọc? Tôi quyết định đọc phần đêm còn lại.
Đêm hôm đó, đến hai giờ anh Tuân đi chơi về, anh hỏi:
– Chú đọc gì đấy?
– Em đọc“Con đường sấm sét”của Abraham, nhà văn Nam phi.
Anh cười mỉa mai và nói:
– Cuộc đời chú cũng là con đường sấm sét, việc gì phải đọc nữa? Cứ ôn lại quá khứ và nghĩ đến tương lai của chú có thể còn ly kỳ hơn nhiều.
– Em biết cuộc đời em là một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn nhưng em đọc xem văn viết có hay không?
– Chú còn nghĩ đến văn chương nữa cơ à? – Anh nói vẻ chua chát, châm biếm – Theo tôi, chú nên nghĩ đến miếng cơm, manh áo. Văn chương chẳng giúp gì được chú. Trong xã hội hiện nay, có mấy người văn hay chữ tốt được sung sướng đâu, chỉ là những kẻ làm thuê với đồng lương rẻ mạt. Ngược lại bọn có quyền, có chức, có cuộc sống xa hoa như ông Nghiệm người nhà chú chẳng hạn, có mấy ai học rộng, tài cao? Người dân thường thì chẳng cần biết chữ nghĩa gì, nếu biết xoay xở thì có cuộc sống đàng hoàng. Như tôi, học hành chẳng ra gì, chưa thoát khỏi đại học chữ to, thế mà cuộc đời tôi hơn nhiều nhà trí thức. Ra đường, giữa tôi và họ, ai được tôn trọng hơn ai? Tiền là trên hết, tiền mới thực sự là đức chúa đáng kính của con người. Nếu những ai không tôn thờ đồng tiền, không nghĩ cách làm tiền, dù rằng bất cứ cách gì, tôi cho là một lũ ngu hết chỗ nói. Đứa con gái bán trôn nuôi miệng còn là một thực tế đáng nể hơn những người rỗi hơi như chú. Vả lại, chú có giỏi như ông Nguyễn mạnh Tường thời này cũng bị vùi sâu xuống dòng sông Tô lịch, muốn làm culi cũng chẳng ai chấp nhận.
Lúc đó bá tỉnh dậy. Bá nổi cơn tam bành:
– Tâm, mày đọc truyện có gặm chữ ra mà ăn không? Mày phải chịu thương, chịu khó mà lam, mà làm, thân lươn bao quản lấm đầu, không thể bắt chước người ta được. Khổ chưa? Không biết thân, biết phận mà còn đọc truyện với trò, chữ với nghĩa. Đứa nào thích chữ nghĩa không ở nhà này được. Tuỳ mày! – Bá gầm lên vì tức giận.
Nghe anh Tuân và bá xỉ vả, tôi tủi nhục lên giường nằm, hôm sau trả truyện. Đêm đó, tôi thức trắng, nghĩ miên man. Trời ơi, sao lại có sự ngẫu nhiên kỳ lạ thế? Đang đọc truyện Con đường sấm sét thì sấm sét dội lên đầu. Nếu cuộc sống cứ thế này, tôi thực sự trở thành một tên nô lệ, không được đọc sách, không biết đường xá, phố phường. Cả bầu trời tôi cũng chỉ được ngắm một mảnh nhỏ con con. Năm 1633, Galiléo bị cầm cố chung thân trong ngục tối vì cái tội bảo quả đất quay tròn, ngày nay, tôi bị cầm cố trong ngôi nhà thước thợ tối om, sâu thẳm vì cái tội gì? Chỉ có làm và làm một ngày mười tám giờ để có bữa ăn mà tồn tại. Cuộc đời thế đấy, biết làm sao?
Tôi thích đọc sách từ khi còn nhỏ. Năm ấy, tôi lên chín tuổi, chị cả tôi đi chợ huyện mua được quyển Chiêu quân cống Hồ, tôi say mê đọc, đến bữa không muốn ăn, đêm không ngủ. Tâm hồn tôi bị cuốn hút theo cảnh chia ly sầu thảm của nàng Chiêu quân. Thương cảm nàng như chính tôi là người đang trong cuộc, không biết tôi đã khóc từ lúc nào? Bố tôi nhìn thấy, người nói:
– Con hay đa sầu, đa cảm, đời con rồi chỉ khổ thôi!
Đây là lần đầu tôi đọc truyện.
* *
*
Một buổi chiều, sau khi giao hàng xong, bá đi đâu vắng. Một lúc bá tất tưởi chạy về và hỏi tôi:
– Mày có cầm túi tiền của tao không?
– Thưa bá, cháu không biết.
– Mày lấy túi tiền của tao rồi, giấu đâu phải trả ngay. Nếu không tao báo công an.
Đột ngột bị vu khống, không tự chủ được mình, tôi nói:
– Cháu không ngờ, bá tàn nhẫn quá!
– Vừa ăn cướp, vừa la làng à? Quân khốn nạn!
Không chịu đựng nổi, tôi đứng phắt dậy, lao ra đường. Rẽ sang phố Đinh liệt, tôi ra ngồi bên bờ hồ Hoàn kiếm, lòng đau đớn, nhục nhã. Tôi tự hỏi:“Ta đi đâu bây giờ? Trở về quê, chúng hành mình cũng chết. Còn ở đây, với việc quản lý ngặt nghèo qua sổ hộ tịch và tem lương thực, ngoài những thân nhân, ai dám cho ta ở nhờ và làm việc? Tôi lơ đãng nhìn những lá vàng trôi bồng bềnh trên mặt nước mà lòng thấy xót xa như dao cắt. Lá vàng rời khỏi cành rồi huỷ hoại, đó là quy luật. Còn tôi mới mười tám tuổi cũng lênh đênh trôi nổi như số phận những chiếc lá vàng trên mặt hồ, rồi rẽ dạt vào đâu?
Khi đó, anh Tuân đi xe đạp qua, thấy tôi anh gọi:
– Tâm! Tại sao chú không làm mà ra đây ngồi?
Tôi kể lại đầu đuôi sự việc, anh Tuân nói:
– Bà hay đãng trí và thiếu bình tĩnh, chú cứ về nhà, anh sẽ liệu.
Tôi theo anh Tuân về, bá lại đi đâu vắng. Anh Tuân mở nắp mấy ấm giỏ xếp bên trên, thì ra bá quẳng túi tiền vào một chiếc, đậy nắp lại rồi quên, thế là vội trút nỗi oan lên đầu cháu. vừa tìm thấy túi tiền thì bá cũng về, đi cùng với công an hộ tịch. Anh Tuân vội chạy ra sân mắng mẹ:
– Bà cứ giữ cái tính ấy còn làm khổ con cháu.
– Nó không lấy thì còn ai nữa?
– Ai cho túi tiền vào đây? – Anh Tuân bưng cả chiếc ấm giỏ đưa cho mẹ.
– Chết rồi, tao bỏ vào rồi quên – Bá mừng quá, bật một nụ cười thêm mếu máo.
– Thưa bà, việc thế là xong chứ ạ? – Công an hỏi.
– Xin lỗi anh, tôi đã nhầm.
Thật lạ lùng, làm phiền một người thì xin lỗi, làm nhục cháu thì cứ dửng dưng. Sự việc diễn ra làm tôi nhớ đến lời của Loan bố:“Khốn cùng mà không nhục đến thân, nhụt mất chí thì không phải là người…”. Tôi tự an ủi mình, cố nhẫn nhục chịu đựng.
Đêm đó, tưởng tôi đã ngủ, hai mẹ con anh Tuân nói chuyện với nhau:
– Bà lẩn thẩn lắm, thuê người khác ph�
�i trả công tử tế, nếu đưa nó ra chính quyền là phiền toái. Hiện nay, bà có biết không, họ cấm thuê người làm để bóc lột sức lao động. Còn thằng Tâm, cứ nói nó là cháu, bà làm thế nào nó cũng chịu. Hôm nay bà đổ vạ cho nó, nếu nó bỏ đi, bà mất người làm.
– Không có nó, tao thuê người khác.
– Ừ, thì thuê người khác như con Hồng chẳng hạn, bà có bắt nó làm việc cả ngày lẫn đêm được không? Hết tháng, bà có dám quỵt tiền công của nó không? Muốn được lợi, bà phải khôn khéo, lại được tiếng cháu thất cơ sống nhờ vào bá…
Thế đấy, tôi không cần nói gì thêm cái“hảo tâm”của gia đình này.
Vài tuần sau, chú Nghiệm đến, chú niềm nở đưa cho tôi giấy báo tựu trường và nói:
– Trường sư phạm lại gọi cháu về học.
Tôi biết, đây là sự nhầm lẫn của phòng giáo vụ. Không bao giờ họ có thiện chí ấy. Cuộc tàn sát người vô tội đến kinh thiên động địa, kèm theo những hành động cướp giật hồi cải cách họ cũng chỉ xoa dịu dư luận bằng nước bọt. Còn biết bao dân thường bỏ mạng hoặc tan cửa, nát nhà vì sự tình nghi liên quan với địch trong chiến tranh, chính họ là thủ phạm gây tội ác nhưng họ đã bước qua những đau thương ấy không cần nhìn lại. Thế thì tại sao tôi có thể tin loài thú dữ lại có trái tim người? Tuy nhiên, tôi muốn giấy báo tựu trường này thành một màn kịch để xem những thân nhân của tôi tỏ thái độ gì?
Được tin đó, bá niềm nở nói:
– Về trường học, cháu sẽ trở thành thày giáo.
– Thưa bá, giáo dục cũng là một nghề để kiếm sống thôi, có cao sang gì?
– Bá và các anh, chị mừng cho cháu. Sau này đừng quên đến thăm bá nhé!
Thái độ của anh Tuân cũng thay đổi khác thường, anh nói:
– Chú về học gặp nhiều may mắn, chúc chú thành đạt.
– Bá muốn thằng em cháu lên đây với bá, cứ ở quê thì khổ lắm – Bá nói.
Tôi thoáng nghĩ, bá chỉ cần người làm không công để kiếm lời, có thương ai đâu? Nhưng Đản ở quê thì khổ thật, làm vất vả ngày đêm mà vẫn đói rét. Tuy giống như ngục tù cả nhưng nơi cầm cố này còn được bữa ăn no. Tôi quyết định viết thư bảo em tôi lên Hà nội.
Bá cho tôi năm đồng để mua vé ô tô về thị xã và ăn uống trên đường. Số tiền này có lẽ là tiền công của tôi trong ba tháng.
Trước khi ra bến Kim liên, sáng sớm tôi đến nhà chị Hoa để chào anh chị. Anh Hoàng và chị Hoa cũng tỏ ra mừng rỡ. Chị ra cửa hàng bách hoá đầu ô mua cho tôi một mảnh vải kaki Nam định. Xem ra lúc này ai cũng tay bắt, mặt mừng. Câu nói khi vui thì vỗ tay vào là như thế.
Đến bến ô tô thị xã, tôi gặp Lê đình Nhai, bạn cùng lớp, Nhai hỏi:
– Mày đi đâu đấy?
– Từ Hà nội về, tao nhận được một giấy báo tựu trường. Có lẽ đây là sự nhầm lẫn.
– Nhầm rồi – Nhai nói – hôm qua khai giảng, ông hiệu phó còn hằn học nói đến mày bị đuổi.
Màn kịch nhanh chóng hạ màn. Tôi chào Nhai lại lên ô tô về Hà nội, mãi đến mười giờ đêm mới tới nhà chị Hoa. Không còn tiền ăn đường, tôi phải một phen đói hoa cả mắt.
Nghe tôi thuật lại, chị Hoa, anh Hoàng im lặng tỏ thái độ hững hờ, lạnh lùng như trước. Sáng hôm sau, tôi trở lại hàng Bạc để lại mảnh vải ka ki ở nhà chị.
Ba ngày sau, vào buổi tối Đản đến. Thấy em tôi xanh xao, gầy yếu, chiếc áo sơ mi phin trắng Nam định cài lệch khuy, tôi vật ra giường nằm khóc như đứa trẻ, thương số phận em tàn nhẫn quá. Đành rằng, ở quê anh Quang đang bị chính quyền địa phương vùi dập, hắt hủi nhưng sao anh thiếu quan tâm đến đứa em côi cút, hiền lành chỉ biết cam chịu và phục tùng mọi nỗi đời tủi nhục?
Đản là đứa cháu – một tên nô lệ làm việc tận tuỵ trung thành cho bá cho đến ngày tận số (bị bom bi Mỹ ở hàng Bạc năm 1967). Bảy năm sống ở Hà thành, ngoài miếng cơm, manh áo, em không bao giờ được thưởng thức một đêm vui, một trò chơi giải trí. Và có lẽ chưa một lần bước đến rạp chiếu phim, nhà hát hay một quán cà phê.
Đản thông minh, mới học dở lớp ba, thế mà mấy năm tự học toán với thời gian hạn hẹp vào ban đêm, em đã giải được những bài khảo sát hàm số và phương trình lượng giác của lớp mười.
Cũng may, sau này Đản không bị cấm kỵ đọc sách như tôi. Tội nghiệp một kiếp người đầu thai lầm thời đại.
* *
*
Cuối năm 1960, có người ngoài bốn chục, họ hàng với gia đình bá, ông đến thăm và nói sắp sửa thành lập tổ hợp tác đóng thùng nước mắm gia công cho xưởng Phú viên. Địa điểm chùa Đức vua, dốc hàng Than. Tôi xin làm ở đó, bá không muốn nhưng bề ngoài miễn cưỡng phải bằng lòng. Góp cổ phần hai mươi đồng, cô tôi cho mười đồng, còn thiếu mười đồng, tôi đến chị Hoa lấy lại mảnh vải ka ki Nam định bán đi là đủ. Nhưng mảnh vải chị đã bán rồi, thật bực mình, chị đã cho em còn đòi lại. Tôi nghĩ, lúc này không mềm dẻo là hỏng việc, tôi nhún mình xin chị:
– Vì thiếu chị phải bán đi nhưng nay em cần số tiền tương đương thế để có việc làm, em xin lại chị.
Chị Hoa đưa tôi mười đồng và nói:
– Tôi tưởng cậu trở về học ở trường sư phạm, nếu không thì… Mấy tháng làm, bá không cho tiền à?
– Sáu tháng làm không công, em xin tiền góp cổ phần bá bảo không có.
Tôi đi làm, ăn ở đó, tối về hàng Bạc ngủ nhờ. Anh Tuân nói với mẹ, vào quán trọ phải mất tiền, nó muốn về đây ngủ, mỗi buổi tối phải làm một tiếng, nếu làm hơn, bà trả công cho nó.
Lần đầu tôi làm việc nặng nhọc, cầm cái bào khum khum lưỡi hến bào lòng nan thùng nước mắm. Lúc đó, các ngón và bàn tay phồng lên, sau đó toét ra bóc đi từng mảng, tôi lấy vải quấn vào tay lại tiếp tục làm. Gần sơn, tôi bị lở, ngứa ngáy khó chịu như bệnh ghẻ. Giờ làm việc không quy định, từ sớm đến tối hẳn mới thu dọn nghỉ. Sau đó, muốn được ngủ nhờ, tôi phải làm thêm ấm giỏ ở nhà bá thêm một hai giờ nữa.
Gần đến tết, đường phố tấp nập người đi mua sắm, tôi vẫn lủi thủi đi làm với tâm trạng chán chường, mệt mỏi. Buổi tối, tôi muốn dạo chơi cho thanh thản nhưng nếu không làm thêm cho bá chắc cái quán trọ kia sẽ đóng cưả lại, không cho tôi vào nữa.
Tết năm ấy, tôi và Đản về quê. Khi ấy, tôi đã có mấy chục đồng tiền công ở tổ hợp tác, mỗi công được một đồng. Đến mười hai tháng giêng, hai anh em tôi mới lên Hà nội.
Cậu tôi – cậu Gạch cũng mới lên thăm chị, cậu nói:
– Cậu lên thăm bá, được tin hai anh em cháu ở đây,
cậu mừng. Dù rằng, nơi đây vẫn trong cái đất nước đau thương và tội ác này nhưng tránh được bọn mặt người dạ thú ở quê hương ít nhiều cũng là một điều may cháu ạ. Nhân tiện, cậu nói chuyện với cháu dài một chút. Ở quê, cậu được nghe nhiều người khen cháu, tiếc rằng, không hợp thời hợp thế cũng đành phải chịu. Cậu nghe bá và anh Tuân nói, bao giờ cũng thấy cháu buồn. Cuộc đời như cháu buồn là phải, nhưng cháu có biết rằng, buồn cũng là một tội của xã hội này không?
Ngừng một lát, cậu tiếp:
– Ở nông thôn hiện nay phải vào hợp tác. Trước mắt làm theo điều khiển. Rồi đây có thể phải ăn chung ở các nhà ăn tập thể, tiến tới ăn theo điều khiển. Thành phố cũng vậy, chế độ tem phiếu hiện nay, nhà nước cho ăn gì phải ăn thế, phải xếp hàng mua không được lựa chọn. Miếng ăn được điều khiển cho từng người về số lượng và chất lượng theo vị trí đứng trong xã hội. Ngoài cấp lãnh đạo được làm mưa làm gió, đảng muốn mọi người biến thành những cái máy, chỉ khác ở chỗ không ăn dầu mỡ cơ khí, mà ăn cơm gạo. Như thế trái tim và khối óc của từng người là thừa đối với trật tự của xã hội. Buồn, thương, nhớ tiếc là biểu hiện của trái tim và khối óc, ai cho phép trái tim và khối óc của những kẻ dưới mức cùng đinh như cháu được can thiệp vào trật tự của xã hội. Đảng bắt mọi người phải sống theo khuôn khổ, cụ thể là đảng bảo vui phải cười, đảng bảo hoan hô phải vỗ tay, đảng bảo phản đối là phải hô đả đảo, đảng bảo căm thù, cặp mắt phải bừng bừng như bốc lửa, đảng bảo làm là phải vận hành như máy, đảng bảo tiến lên phải như mũi tên bay về phía trước. Đảng đã nói, phải tin tuyệt đối. Đảng không muốn đám dân đen có trái tim và khối óc. Do vậy, đảng cấm mọi nỗi sầu thương, nhớ tiếc. Đảng dạy người dân phải có khí thế hào hùng cách mạng, ai không hưởng ứng là kẻ thù của đảng. Phương ngôn có câu“Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, đảng muốn thay đổi lại:“Cha mẹ sinh con, đảng sinh tính”. Nhưng tính đảng chỉ có một từ đó suy ra, để phù hợp với hoàn cảnh, mọi người có chung một tính đó là tính đảng, ý chí của đảng thay mọi con tim, khối óc. Tiếng nói của đảng là lời phát ngôn duy nhất. Muốn được sống bình yên, mỗi người phải biến thành hai cái máy, một máy ghi và phát lại âm thanh của đảng, sao cho người nước ngoài đến đất nước này chỉ thấy cái chung và lịch sử, không tìm thấy một cá nhân nào.
Cậu châm thuốc hút, xả khói mù mịt rồi cậu tiếp:
– Cụ Gia cát lượng đã nói:“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, việc làm của họ trái với lòng người phản lại quy luật phát triển của lịch sử sao mà thành công được! Tuy nhiên dân tộc đã đang phải gánh chịu những hậu quả trời không dung, đất không tha chưa thể lường hết.
Sau nhiều giây im lặng như sực nhớ ra một sự kiện, cậu lại nói:
– Hiện nay, một vấn đề nóng bỏng được dư luận quan tâm đến nhiều, đó là lệnh tập trung cải tạo. Thực chất của lệnh này, cậu cho là một biện pháp giết hoặc đầy đoạ người kiểu mới.
Nói đến đây, mắt cậu sáng lên như phát hiện ra một điều mới mẻ rồi nhoà dần ảm đạm trong nỗi buồn. Cậu nói với tôi, thực ra cậu đang nói với chính mình. Cậu là người trong cuộc, không có phương kế nào cứu cậu ra khỏi vòng tập trung cải tạo. Đến cuối năm, cậu khăn gói lên đường mười hai năm. Cậu không một nét nào giống mẹ tôi và bá, cao to, cặp mắt tinh nhanh. Tuổi trẻ cậu bôn ba từng trải nhiều nơi, cậu thường ngâm nga:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú xuân cũng trải, Đồng nai cũng từng.
Thời kháng Pháp, cậu cộng tác với đối phương đeo lon trung uý. Năm 1951, cậu về làng, thành lập địa phương quân, xây đồn chống Cộng. Cuối năm 1952, cậu tình nguyện dâng đồn cho Vẹm, lúc đó được coi là người lập công chuộc tội. Lập trường thay đổi, bấp bênh của cậu là cái giá phải trả sau này. Hồi cải cách, cậu bị bắt giam và bị đưa ra đấu tố. Cũng may là đợt cuối cùng, đoàn sửa sai về kịp, cậu mới thoát khỏi cảnh làm đồ đệ của Diêm vương.
Cậu hạ thấp giọng biểu hiện sự căm hờn và rên xiết:
– Một con bò còn sức kéo nếu mổ ăn thịt là không kinh tế. Một con người có tội (theo quan điểm của họ là có tội), nếu đem hành quyết chỗ đông người vừa mang tiếng là tàn bạo, vừa không kinh tế. Với khẩu hiệu bắt nhầm còn hơn bỏ sót, hãy đưa kẻ phạm tội vào rừng núi, biến thành thân trâu ngựa làm ra của cải vật chất. Để từng thớ thịt trong cơ bắp nó teo dần, từng tế bào thần kinh cũng huỷ hoại dần, cứ thế một vài chục năm sẽ tự nó dẫn thân về địa ngục. Khi thấy cần phải làm ngay mục đích sẽ cho nó lặng lẽ yên nghỉ nơi vực thẳm. Nếu ai may mắn được tha về cũng thân tàn chờ ngày…
Nếu như hồi cải cách, bọn quỷ đỏ vừa giết người vừa hò la, gào thét thì nay với gọi là “lệnh tập trung cải tạo”, sau khi uống máu người, chúng lau mồm bằng khăn sực nước hoa.
Lệnh tập trung cải tạo bắt những người không có hành vi phạm pháp, mà bắt vì tư tưởng. Do đó, họ có thể bắt bất cứ ai nếu họ thấy nghi ngờ. Hồi cải cách, cái gọi là “toà án nhân dân đặc biệt”, đặc biệt ở chỗ không cần chứng cớ thì lệnh tập trung cải tạo cũng đặc biệt như vậy. Cậu nhắc lại rằng, buồn bã, chán đời cũng là một tội – tội không yêu cuộc đời, không yêu chế độ, nếu không ghi trong bộ “luật rừng”thì rơi vào diện tập trung cải tạo. Bởi vì luật pháp của họ không cần công minh hay công lý mà chỉ là một công cụ của nền chuyên chính vô sản…
Nghe cậu nói đến đây, bá xen vào:
– Nói làm gì nữa, nó bướng lắm. Cứ ở đây, nó phải đi cải tạo, tôi mắc tội liên quan cũng khổ nhục. Tâm ạ, mày đi chỗ khác mà ở.
– Em xin chị – Cậu nói – hãy thương lấy cháu, đừng làm thế.
– Nó ở đây, tôi chẳng được lợi lộc gì, mà còn có hại. Tôi không chứa nó nữa.
Tôi thoáng nghĩ ở chùa Đức vua, những người Hà vĩ ra tạm trú để làm, ta đến nói với anh Cương xin ở nhờ vậy.
– Thôi được, cháu theo ý bá. Chào bá, chào cậu, cháu sẽ đi ngay.

THẠCH LAM * TÌNH XƯA

Tình Xưa
Thạch Lam


Ngày theo học trường tỉnh Thái Bình, tôi ở trọ nhà ông Cả Vinh, một nơi quen biết của thầy mẹ tôi. Ông Cả cũng có người con trạc tuổi chúng tôi đi học, bởi vậy ông cho học trò đến ở, lấy cớ rằng để anh Hòe, con ông, được vui anh vui em. Thực ra, ông bà Cả muốn chứa trọ để kiếm lời. Nhà ông nghèo lại đông con, và số tiền tháng của ba chúng tôi cũng đủ giúp cho bà Vinh một cái vốn nhỏ để buôn bán.

Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái nhà ngói năm gian chạy dài mặt phố và một căn nhà lá rộng, đầy những hàng hóa của bà Cả, rồi đến nhà dưới và bếp. Đằng sau nhà có một miếng đất trồng cây cối, ngăn với bãi cỏ hoang của tỉnh bằng một hàng rào râm bụt thấp. Ngay trước nhà gạch trông ra, có một cái sân vuông và hẹp, có bể nước lớn. Cái sân đó là giang sơn riêng của ông Cả: một cái núi non bộ nhỏ trong cái bể con bằng xi măng và hai dẫy chậu trồng đủ các thứ lan. Cũng như nhiều người rỗi khác, ông Cả có cái ham mê những công việc tỉ mỉ. Sớm chiều lúc nào tôi cũng thấy ông lom khom ở ngoài sân, cúi mình tỉa xén các chậu lan hay sửa sang non bộ. Thật là một dịp trọng vọng nếu chậu lan có chúm một dò hoa. Phải nhìn vẻ vui sướng trên mặt ông lúc bấy giờ mới hiểu. Ông gọi chúng tôi ra xem hoa, với cái tự kiêu của một chủ nhân ông khéo léo; rồi hàng giờ ông đứng lặng ngắm chậu lan, dường như để đợi chờ bông hoa nở.

Sân gạch ngay chỗ cửa sổ buồng học chúng tôi trông ra, và lúc nào ngửng lên trên sách, chúng tôi cũng thấy bóng ông. Sự chăm chút âu yếm và cẩn trọng của ông làm chúng tôi buồn cười. Nếu không có anh Hòe cùng ngồi đấy, chúng tôi đã bàn định tinh nghịch đùa ông một chuyến.

Bữa cơm họp đông đủ cả nhà: chúng tôi, anh Hòe và ông Cả ngồi ăn cơm nhà trên, còn bà Cả với hai cô con gái và đứa em nhỏ ăn riêng dưới bếp. Hai mâm cơm khác nhau: bữa cơm chúng tôi ăn ngày nào cũng có thịt cá, còn bữa cơm ở dưới nhà chỉ toàn rau muống và đậu phụ. Không bao giờ chúng tôi thấy có món ăn khác, và có lúc chúng tôi thầm phàn nàn cho sự kham khổ của bà Cả và hai cô con gái. Vẻ xanh xao của Lan và Huệ không làm chúng tôi ngạc nhiên. Đó là hai thiếu nữ lặng lẽ và kín tiếng, không lúc nào cười nói to.

Bởi vậy tuy hai cô cũng trạc tuổi với chúng tôi, tôi cũng không để ý đến. ở trong buồng học trông ra, thỉnh thoảng tôi thấy bóng Lan đi qua sân xuống nhà dưới hay với tay múc nước trong bể. Nhưng cách đi đứng khép nép và cách phục sức nhã nhặn của cô không gợi ý chúng tôi bao giờ.


° ° °

Chúng tôi ở trọ nhà ông Cả đã được ngót hai năm. Tôi thích ở đấy, giữa những người giản dị, và riêng đối với tôi, ông Cả rất có cảm tình.

Anh Hòe là một cậu học trò rất đần và dốt, chậm trí khôn; cùng vào học mà tôi lên lớp nhất, anh mới học lớp nhì. Bởi vậy ông Cả nhờ tôi rèn cặp cho anh ta, và bảo ban thêm. Tôi gắng làm công việc đó một cách chu đáo, nên ông Cả tỏ ý biết ơn. Những lúc nào anh Hòe chậm hiểu bài hay làm tính hỏng, ông Cả thường gắt bảo:

- Mày không xem cậu Bình đấy mà bắt chước. Cậu ấy học sáng bao nhiêu, mà lại chịu khó nữa.

Tôi lặng yên và tìm cớ lánh ra ngoài để anh Hòe khỏi ngượng.

Từ đấy, tôi được gia đình ông Cả trọng vọng và yêu quý. Số tiền trọ trả sòng phẳng, và những quà cáp mà mẹ tôi không bao giờ quên mang đến biếu ông Cả mỗi khi lên thăm con, khiến bà Cả có ý biệt đãi tôi. Tiếng bà dịu đi và trở nên êm ái mỗi khi nói với tôi; khi nào về muộn, bà dành phần riêng cho tôi những món ăn ngon và một mâm cơm tươm tất. Hai bạn tôi ganh tị, thường nói mát:

- Thôi, sắp làm rể bà Cả đi thì vừa. Cho chúng tao ăn cỗ cưới với nhé!

Tôi mỉm cười không trả lời, vừa nghĩ đến cô gái cả bà chủ trọ: cô thiếu nữ ấy không làm tôi có chút ý gì. Mà thật ra, tôi cũng không biết mặt mũi cô ta thế nào cả: tôi chưa bao giờ nhìn kỹ cô ta.

Về cuối tháng tám năm ấy, sau ngày nhập trường ít lâu, một việc xảy đến làm náo loạn các học trò: một thiếu nữ, cô Bích, vào học lớp nhất lẫn với bọn con trai. ở Thái bấy giờ trường con gái chưa có lớp trên, mà cô này đã học hai năm liền ở lớp nhì rồi. Cha mẹ cô không thể gửi cô lên Hà Nội, bèn xin cho cô vào học trường con giai. Sau khi đắn đo mãi, ông đốc trường bằng lòng để cô học lớp nhất. Ngày đầu cô đến trường, bọn học trò thầm thì bàn tán và chỉ tay về phía cô. Ngay thày giáo chúng tôi cũng có vẻ ngượng nghịu. Nhưng chỉ bọn học trò chúng tôi là xôn xao nhất. Chúng tôi không thể quên được có một người con gái lẫn vào trong lớp. Cô Bích lại đẹp và rất có duyên. Tất cả lớp ra công cố sức để bắt chim cô. Những bức thư tình gửi đi như bươm bướm. Chính tôi, tôi cũng yêu thầm nhớ vụng cô ta. Và vì thế mà tôi bắt đầu để ý đến các cô thiếu nữ.

Rất lâu, việc cô Bích vào học là đầu đề câu chuyện trong bữa ăn của chúng tôi. Chúng tôi thuật lại cho nhau nghe những cử chỉ của cô và của những anh mê cô. Anh Hòe cục mịch quá, không biết nói gì về chuyện ấy, nhưng ông Cả, tuy ngày thường rất đạo mạo, cũng thỉnh thoảng tự cho phép một câu nói đùa hóm hỉnh. Ông vuốt hai bên mép râu và nhìn chúng tôi cười một cách tự đắc. Tiếng ồn ào của chúng tôi đến tai bà Cả ở gian bên, và bà cũng chen vào một câu nói:

- Cô ta ở đấy thì học với hành gì được. Không khéo lại tằng tịu với anh nào thôi.

Ngưng một lát, bà lại hỏi đùa:

- Sao cậu Bình không nhân ngãi phăng với cô ta có được không?

Tôi chưa kịp trả lời, hai anh bạn tôi đã nhao nhao lên đáp:

- Có, có đấy ạ. Cô ấy để ý đến anh Bình lắm ạ, vì anh ấy học giỏi nhất lớp.

Tôi toan cãi, nhưng lại thôi, lòng cũng hơi thích vì lời nói ấy. Một lát yên lặng theo sau câu chuyện. Rồi có tiếng thanh và nhỏ của con gái bên kia. Cô Lan nói chuyện với mẹ; tôi lắng tai chú ý, nhưng tiếng nói khẽ quá, không nghe rõ gì cả.

Một hôm giờ ra chơi, anh Ngạc, người bẻm mép và láu chuyện nhất lớp, bỗng tự dưng vỗ vào vai tôi, bảo:

- Sáng nay nhân tình mày ra phố mua sắm cho mày ăn phải không?

Tôi ngơ ngác chưa hiểu Ngạc nói gì, thì anh đã nhìn tôi nháy một bên mắt rất ý nghĩa, tiếp:

- Lại còn vờ mãi. Cô Lan con ông Cả chứ gì!

Rồi hắn quay lưng bỏ đi, để tôi đứng sững người, yên lặng; tôi chưa kịp cãi lại điều gì.

Về đến nhà, tôi thấy trong buồng học, ngay trên bàn về phía tôi ngồi, một đĩa sắn gọt sẵn để đấy. Câu nói của Ngạc trở lại trí nhớ tôi, làm cho tôi ngạc nhiên. Làm sao hắn ta biết được cô Lan mua sắn, và để phần cho tôi? Vừa lúc ấy, anh Chi đi học về, chạy vào. Thấy đĩa quà, anh kêu lên:

- á sắn! Trông ngon quá.

Không lưỡng lự, anh cầm lấy ăn liền. Cử chỉ ấy khiến tôi khó chịu.

- Anh biết sắn của ai đấy mà cũng ăn?

Chi cầm miếng sắn cắn dở, quay lại phía tôi:

- Không phải sắn của anh à?

- Không. Tôi không biết của ai để đấy.

Nghe thấy tiếng chúng tôi nói, bà Cả ở ngoài sân bước vào:

- Các cậu cứ ăn đi. Sắn của em nó mua phần các cậu đấy.

Khi bà Cả ra rồi, Chi nhìn tôi với một vẻ trêu nghịch, vừa cầm miếng sắn nữa trên đĩa:

- Cô ấy phần riêng anh đấy, chúng tôi ăn có được không?

Bực mình, tôi không trả lời, yên lặng ngồi xuống ghế. Chi không nhìn tôi nữa, và anh cúi mình ăn sắn với một vẻ khoan khoái rất rõ rệt. Tôi nhìn trộm anh ta. Tự nhiên tôi nghi cho Chi và Hoạt đã đặt điều thêu dệt về tôi với các bạn ở trường. Hai anh đều là những người lém và hay bịa chuyện lắm.

° ° °

Từ hôm ấy có những cái săn sóc nho nhỏ tỏ rằng cô Lan chăm chú đến tôi. Đi học về, bao giờ tôi cũng thấy một vài thứ quà dành sẵn, để ngay trên bàn chỗ tôi vẫn ngồi. Có khi một bó hoa tươi cắm trong ống bút. Sách vở ngăn nắp và sạch sẽ khiến cho tôi biết cô Lan có vào buồng học lúc chúng tôi đi vắng. Tuy vậy, tôi cũng không dám chắc hẳn rằng Lan để ý đến tôi; tôi cũng không bao giờ cố ý giáp mặt nàng.

Một buổi chiều, chúng tôi ra vườn đằng sau nhà. Bấy giờ đầu tháng chín, hai cây hồng ở góc vườn trĩu những quả. Anh chị em Lan đang cầm quèo trẩy. Chúng tôi bước lại gần. Anh Chi nói:

- Nào, cô Lan cho chúng tôi mấy quả nào?

Lan lặng yên cầm quèo với một cành cao. Thân thể trẻ tươi và dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây, và tấm áo mảnh căng sát để phô hẳn những đường mềm mại. Khi nàng hái chùm quả xuống, Chi và Hoạt xúm lại cướp ngay trên tay nàng những quả ngon. Tôi vẫn đứng riêng ra, và thèm muốn cái vẻ tự nhiên của hai người bạn. Nhưng sau cùng, Lan đến gần bên, đưa cho tôi một quả ngon nhất mà nàng đã giấu trong lúc các bạn tôi tranh. Tôi giơ tay đón lấy và ngón tay tôi chạm vào ngón tay nàng. Lan nói khẽ:

- Anh cầm lấy.

Đôi mắt nàng nhìn tôi, tôi bỗng rung động cả người; đôi mắt nàng phản chiếu một tình yêu mãnh liệt và tha thiết quá. Tôi hiểu ngay rằng nàng yêu tôi. Tự nhiên, một sự cảm động tràn lấn vào người; tôi cũng nhìn lại nàng. Nét mặt của Lan lúc bấy giờ tôi mới biết rõ. Nàng không đẹp, nhưng khuôn mặt dễ coi, và lúc này nàng có một vẻ xinh xắn đáng yêu, một cái duyên tươi thắm và kín đáo. Trước tôi, nàng cúi mặt xuống; một nỗi e thẹn làm ửng hồng hai gò má. Khi nàng quay đi, tôi nhìn theo khen phục cái dáng điệu uyển chuyển của nàng.

Sau buổi ấy, tôi biết chắc chắn ý tứ của nàng đối với tôi. Lan tìm hết cách làm cho tôi vừa lòng. Những sự chăm nom săn sóc riêng của nàng làm tôi tự kiêu. Đôi khi, nàng cố ý tìm cách gặp tôi. Những lúc tôi đi học về, tôi thấy nàng như tình cờ ra đứng ở ngõ. Khi tôi đi qua, nàng khép nép vào bên tường và nhìn tôi mỉm một nụ cười sung sướng. Tôi cũng mỉm cười trả lại nàng; tôi còn trẻ và tình yêu của một cô con gái khiến tôi tự đắc.

Một đêm giữa tháng, tôi ngồi buồn trong buồng học, không biết làm gì. Cả nhà đã đi ngủ, và anh Chi với anh Hoạt đi xem tuồng vắng. Tôi ngồi gần bên cửa sổ trông ra sân. ở ngoài, trăng rằm vằng vặc, tường vôi sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, và các lá lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong. Thời khắc rất êm dịu và thú vị. Tôi lặng yên hưởng luồng gió mát của ban đêm.

Bỗng nhiên một bóng người len vào các chậu cây, rồi tôi nghe thấy tiếng nước khẽ rớt xuống. Cô Lan tưới hoa. Tôi nhớ mỗi khi chậu lan có dò hoa nở, ông Cả lại bắt nàng tưới ban đêm. Có khi, khuya lắm, chúng tôi hãy còn nghe thấy tiếng cô ở ngoài vườn. Một ý ham muốn bỗng đến chiếm lấy tâm hồn tôi. Mùi thơm nhẹ và sắc của hoa lan thoang thoảng ở ngoài. Lan vẫn cúi mình trên chậu cây, dường như không biết có tôi bên cạnh. Tuy vậy, tôi đoán rõ sự cảm động của nàng. Tôi đến bên cạnh nàng khẽ gọi:

- Lan, em Lan...

Tôi để tay lên tay nàng. Lan rung động cả người, toàn thân nàng mềm lại. Nàng ngả người trên vai tôi... Tôi biết rằng từ đây Lan sẽ là một vật của tôi, và tôi muốn làm gì nàng cũng được.

Sau độ ấy, tính nết nàng hình như đổi hẳn, hay bây giờ nàng mới biểu lộ cái tính nết thực của nàng ra. Nàng không còn là cô gái lặng lẽ và kín đáo trước kia nữa. Lan nói năng luôn miệng và tiếng cười của nàng vang lên trong nhà; mắt nàng sáng lên, và hơi một chút việc cũng làm cho nàng vui sướng. Bà Cả lấy làm lạ về con và nhiều khi bà định ngăn cản cái vui tràn lan ấy:

- Ôi! Con Lan độ này làm sao ấy. Không biết có gì mà vui vẻ thế.

Hai bạn tôi hình như hiểu biết. Họ thường nhìn tôi với một vẻ trêu nghịch và cười với nhau một cách tùng đảng. Tôi làm lơ như không biết gì.

Ái tình đã khiến Lan thành một người khác. Tâm hồn nàng phô bày ra rõ rệt. Nàng thành ra con trẻ và ngây thơ quá. Nàng tưởng làm tôi vừa lòng bằng những cử chỉ săn sóc âu yếm. Những thức quà liên tiếp nhau trên bàn học, khiến chúng tôi ăn no bỏ cả cơm. (Chỉ béo cho hai anh bạn tôi, họ được hưởng tự nhiên và lại còn có chuyện để chế giễu tôi nữa). Lúc nào nàng cũng nghĩ cách để chiều ý tôi. Những cử chỉ vụng về của nàng khiến tôi vừa cảm động lại vừa ngượng với anh em. Nhưng Lan hình như không nhận thấy.

Một buổi chủ nhật, mấy người bạn đến rủ chúng tôi đi chơi. Vừa đi qua chợ ở đầu phố, bỗng thấy Lan tất tả chạy theo, gọi. Tôi dừng lại, cau mày, không bằng lòng. Nàng trông lên, và lúc bấy giờ hình như mới biết tôi không đi một mình. Hai má đỏ bừng vì thẹn. Lan lúng túng:

- Anh... anh cầm lấy cái này mà ăn.

Nàng giở trong bọc áo mấy bẹ ngô nướng vừa mua ở chợ.

Tiếng cười của các bạn tôi vang lên. Bực mình, tôi đâm gắt:

- Ai bảo cô cho tôi? Tôi không dùng cái của ấy.

Lan sững người, đứng lặng nhìn. Tôi biết tôi đã làm phật ý nàng, nhưng ai lại đem cho quà giữa phố như thế. Anh Chi hỏi lỡm:

- Sao, của chị ấy mua cho mà anh lại chê à?

Họ cười với nhau, rồi Hoạt giới thiệu với mấy người bạn:

- Nhân tình đẹp của anh tôi đấy.

Tôi không trả lời, khó chịu. Lúc về, tôi cố ý tránh nàng, và giữ vẻ mặt giận. Nhưng Lan vẫn trẻ con và vô lý như cũ.

Ngày mồng năm tháng năm, không biết nghĩ thế nào, Lan đưa tặng tôi một bộ bùa bằng vóc nhiễu xanh đỏ. Đó là công trình tỉ mỉ mà nàng đã thức suốt đêm để khâu. Trông thấy vật ấy rõ ràng để trên tập sách của tôi, anh Chi và Hoạt rũ ra mà cười. Họ chuyền tay nhau xem quả đào và quả ớt sặc sỡ ấy, và những câu mỉa mai lại gấp đôi lên. Xấu hổ, tôi giằng lấy và vứt ra ngoài cửa sổ. Cái bùa túi rơi ngay vào rãnh nước.

Chiều đến, khi gặp Lan, tôi thấy nàng nhìn tôi có vẻ âm thầm oán trách. Vừa bực mình cho tôi lại vừa bực mình cho nàng, tôi lặng yên giả vờ lãnh đạm rồi tránh mặt ra chỗ khác.

Ông bà Cả đã bắt đầu nghi ngờ một sự gì. Điều ấy khiến tôi lo ngại. Tôi đã nhiều lần bảo nhỏ Lan phải kín đáo. Nhưng mặc những điều khuyên nhủ cẩn thận của tôi, Lan hình như không thể giữ gìn được. Nàng có một tâm hồn giản dị và quê mùa trong tình yêu. Lan làm quà cho tôi những thức rất buồn cười và vô lý, và tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi không bằng lòng:

- Những thứ ấy em biếu anh, anh không thích ư?

Biết không thể làm nàng hiểu được, tôi chỉ trả lời:

- Tôi không thích cô cho tôi cái gì cả.

Sự yêu mến của tôi với nàng có lẽ Hoạt và Chi đã kể cho nhiều người nghe rồi. ở trường các bạn học nhiều lần đã nói bóng gió xa xôi đến. Câu chuyện cái bùa túi ngày mồng năm họ đã biết. Ngạc, một hôm, tự dưng đến thò tay vạch áo tôi ra, bảo:

- Nào, xem cái bùa túi của mày đâu nào...

Tôi giận dữ gạt hắn ra, quay đi. Ngạc chế với:

- Ê, ê, nhớn thế kia mà còn đeo bùa túi kia!

Những lời chế giễu ấy làm tôi bực tức đến cực điểm. Tôi thầm trách Lan đã gây cho tôi những nỗi khó chịu ấy. Tình yêu mộc mạc của nàng bắt đầu đè nén tôi. Những cách yêu mến săn sóc của nàng chỉ làm tôi bận bịu.

Tôi bắt đầu tìm cớ tránh nàng. Lan, trái lại, càng quấn quýt lấy tôi. Lòng ham mê khiến nàng quên hết cả giữ gìn. Hễ gặp tôi chỗ khuất là nàng nhẩy đến ôm lấy, và tôi khó khăn mới gỡ được ra. Chúng tôi như thế đã suýt bị ông bà Cả bắt gặp mấy lần.

... Những vẻ chế giễu của các bạn học và những câu mỉa mai lại thoáng qua trong trí. Tôi không còn cái yên tâm để sẵn sàng hưởng tình yêu nữa. Tôi vội xa nàng. Lan không hiểu, và những câu trách móc, tuy rất kín đáo, với những giọt nước mắt của Lan mỗi khi thấy tôi thờ ơ, chỉ càng khiến tôi khó chịu thêm.

Một buổi chiều, cả nhà đi ăn cỗ vắng, Hoạt và Chi sang Nam Định chơi. Tôi ở ngoài về thấy mâm cơm chờ sẵn ở nhà với hai đôi đũa và hai cái bát. Lan đứng khuất một chỗ khúc khích cười. Rồi, như con chim non, nhảy nhót chạy ra nắm lấy tay tôi mắng:

- Hôm nay cậu về muộn quá! Cơm nước nguội cả rồi!

Câu trách cợt đùa, nàng cố lấy giọng đứng đắn để giống như lời người vợ trách chồng. Tôi buồn cười, nhưng cau mày không đáp.

Lan nhìn tôi như đứa trẻ dò ý người lớn:

- Gớm, làm gì mà lầm lầm cái mặt thế? Thôi, tôi xin cậu đi.

Nàng bưng miệng cười, mở lồng bàn, rình sự bằng lòng của tôi trước những món ăn khéo làm mà nàng biết là tôi vẫn thích.

Nhưng tôi vẫn không nói. Tôi uể oải vào buồng bên, ngồi sau bàn học giở sách ra coi. Biết nàng đang tiến lại gần, tôi cũng không quay lại.

- Anh Bình sang xơi cơm.

Tôi không đáp, nàng lại mời:

- Mời cậu Bình đi xơi cơm... Xin mời cậu Bình đi xơi cơm ạ!

Tiếng cười nàng giòn giã reo lên sau câu nói ấy. Nàng chạy đến bên định kéo tôi dậy, nhưng nét mặt nghiêm nghị của tôi bắt nàng ngừng im.

Vẻ sững sờ của nàng và sự oán trách buồn rầu ứa trên đôi mắt khiến tôi có ý ái ngại cho nàng, song tôi cũng nói:

- Được, cô cứ để mặc tôi, tôi chưa muốn ăn.

- Kìa, nhưng mà...

- Không, chốc nữa tôi ăn cũng được.

Nàng toan nói, nhưng sau cúi đầu im lặng, nhìn tôi một lần nữa rồi quay ra.

Tôi ăn cơm một mình, ăn rất nhanh, và không để ý đến sự giận dỗi của Lan; xong bữa tôi đi chơi tức khắc.

ở ngoài phố, tôi gặp Chi và Hoạt bên Nam về, Chi làm bộ ngạc nhiên:

- Kìa sao không ở nhà tự tình?

Hoạt thêm một câu:

- Ông bà đã giận nhau chứ gì?

Rồi cả hai nấc lên cười. Tôi cau mày để đáp lại.

Đêm hôm đó tôi bực mình và trằn trọc không ngủ được. Nghĩ đến tình yêu của Lan đối với tôi, nghĩ đến bữa cơm chiều, tôi hơi lấy làm hối hận, và bởi thế lại càng thấy bực mình thêm.

Sáng hôm sau tôi nghe thấy bà Cả hỏi:

- Lan, mày mệt đấy à?

Tiếng Lan đáp:

- Thưa đẻ không ạ.

Khi Lan ở dưới nhà đi qua sân, tôi thấy nàng mặt rầu rầu, hai mắt quầng thâm, dáng điệu lặng lẽ và chán ngán. Nàng xách cái thùng tưới đến để bên bể nước và hình như cố tình giữ lại trong lòng những tiếng thở dài.

Tôi thấy lòng nao nao vừa bực vừa buồn, như thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không còn can đảm giữ lại được nữa.

Từ hôm ấy, Lan lại yên lặng như trước. Nàng ít nói và cũng không hay gặp mặt tôi. Nàng tỏ ra một thái độ đúng mực, lãnh đạm và lúc nào cũng buồn rầu. Sự đó để cho tôi được bình yên, nhưng cũng làm cho tôi phật ý. Tôi tưởng nàng chỉ thế trong ít bữa, chắc có buổi nàng không gan được nữa, sẽ phải tìm đến tôi, sẽ phải hỏi han tôi, và sự chờ đợi cái lúc nàng làm lành với tôi lại càng khiến tôi tức bực trong sự kiêu hãnh.

Cùng ở một nhà, chúng tôi như người xa lạ, và lâu dần, nghĩ đến nàng, tôi thấy lòng dửng dưng. Hơn một tháng trời thỉnh thoảng mới trông thấy nhau, Lan với tôi thản nhiên hỏi nhau hay trả lời những câu không giấu một ý tứ gì thân mật hay hờn giận.

Tôi cũng không để mắt đến dung nhan nàng nữa, và đôi khi tưởng tượng đến chuyện cũ, tôi ngạc nhiên như tìm thấy một tính tình dị kỳ.

Rồi mùa thi tới nơi. Chi, Hoạt và tôi chăm chỉ luyện tập. Sự ganh đua sốt sắng cuối năm là điều quan tâm hoàn toàn của người đi học. ở nhà ông Cả trong những bữa cơm, chỉ nói đến chuyện thi cử và bàn bạc đến những đầu bài khó hay dễ sẽ ra trong kỳ thi này.

Lan bị xóa bỏ hẳn trong đời tôi. Không bao giờ sự lãng quên lại mau chóng như trong tâm trí tôi hồi bấy giờ, và không bao giờ cuộc tình duyên của tuổi thanh niên lại đơn bạc đến như thế. Giữa cô con gái ông chủ nhà cùng với người ở trọ học, hình như không có một tình nghĩa nào cả và cái đêm trăng ân ái trước đây dăm ba tháng chỉ là hình ảnh hờ hững của một giấc mộng thoáng qua.

Hồi ấy kỳ thi cơ thủy chưa mở ở Thái Bình. Tôi cùng các bạn hữu phải sang trường Nam và ở luôn đó bốn ngày để chờ đợi kết quả. Ngày thứ năm tôi trở về Thái với cái mừng được trúng tuyển và tức khắc nghĩ đến sự thu xếp về quê. Anh Hòe, con ông Cả, cũng may mắn như tôi, và hai anh Chi và Hoạt. Tôi để cả tâm trí vào sự vui vẻ của mọi người. Vợ chồng ông chủ làm một bữa cơm sang trọng như bữa tiệc để khao chúng tôi. Cả nhà ngồi ăn trừ cô Lan khó ở từ mấy hôm trước. Tôi hỏi thăm qua quýt lấy lệ và cười nói giảo hoạt nhất nhà. Chi thỉnh thoảng trêu tôi bằng một câu ranh mãnh khác. Một lần, khi rượu ngà ngà say, và nhân thấy Chi đứng làm mối xin cô Lan cho tôi, ông Cả cười thích chí:

- Cái gì chứ cái đó thì được. Nhưng ai lấy con gái tôi thì phải ở gửi rể ba năm.

Tôi "xin vâng" và cười một cách rõ ràng tỏ ra tính cách đùa cợt của câu chuyện.

Tôi không kịp có thì giờ hối hận cho sự tàn ác vô tình có thể thấy trong câu đùa cợt. Tôi cũng không muốn nghĩ rằng Lan lúc đó có thể đau lòng vì tôi. Lan không còn liên lạc với tôi nữa.

Hôm sau tôi từ giã nhà ông chủ, lòng hớn hở tưởng đến sự mừng rỡ của mẹ tôi lúc thấy tôi về. Trong cái thì giờ đi xe từ Thái đến bến Tân Đệ và đợi tầu ở Nam qua, tôi mải nghĩ chuyện nghỉ hè, chuyện lên Hà Nội học ban Thành chung, không một lúc nào có một ý mến tiếc cô thiếu nữ con gái ông Cả.

Khi tàu Nam tới tôi đáp thuyền lên, chọn chỗ cất hành lý và vui vẻ ngó đầu ra trông một lần cuối cái bến tôi vẫn đi về trong mấy năm qua. Hai dãy nhà lá bồng bềnh ở hai con đường quạnh quẽ đang thong thả lùi lại và nhỏ dần. Một sự bâng khuâng nhẹ nhàng dìu tâm hồn người đến những tình cảm man mác, tôi bỗng thấy cả người xúc động vì nhận ra trong bọn người lác đác ở bến một cái xe đỗ vội, và trên xe bước xuống một người con gái ngơ ngác nhìn về phía tôi.

Tầu đã xa hẳn mạn sông. Mặt người trên bến không nhìn rõ. Tuy vậy, tôi không thể lầm được, người thiếu nữ kia chính là con người tội nghiệp đã hờn giận tôi và thương tôi.

Chỉ một lát, bến đò Tân Đệ đã khuất hẳn ven sông. Từ đó, tôi không gặp Lan lần nào nữa.

TRẦN MỘNG TÚ * VƯỜN MĂNG CỤT

Vườn Măng Cụt
Trần Mộng Tú


Người con gái ra đón ông Thành ở ngay khu đậu xe của chung cư. Cô hồn nhiên nắm tay ông, cái nắm tay không phải dắt ông cho khỏi vấp ngã, nhưng tỏ sự thân tình. Cô vừa đi vừa nói:
- Lâu quá rồi bác cháu mình không gặp nhau. Con xem đồng hồ áng chừng giờ bác đến, thế mà đúng. Con vừa ra chưa được năm phút đã nhìn thấy xe bác rẽ vào. Bác trông còn khỏe quá!

Rồi cô thấp giọng. “Mẹ con đang chờ bác.”

Ông Thành nhìn cô con gái của bạn, nhớ lại ngày cô còn bé tí, nay đã gần bốn mươi rồi, không trách mình già. Ông xiết chặt tay cô, nhớ đến người đã đi biền biệt.

Ông Thành là bạn thân từ thời còn rất trẻ của cha mẹ cô, ông là bạn học của ông Lâm từ thời trung học. Họ cùng trưởng thành, ra đời làm việc, lập gia đình, gần như lúc nào cũng có nhau. Họ cùng di tản, tham dự ngày con cái nhau ra trường và cưới hỏi. Cách đây năm năm, ông Lâm qua đời, rồi bà Thành cũng chỉ còn là một nắm tro than. Ông Thành sức khỏe bắt đầu hơi kém đi theo tuổi tác. Sắp tám mươi rồi, còn trẻ trung gì nữa, ông làm biếng đi ra ngoài, sự liên lạc cũng thưa thớt dần giữa hai nhà.

Tuần trước cô cháu Lan, gọi bác Thành thăm hỏi và nói thêm:

- Mẹ con mấy hôm nay không hiểu sao cứ mong gặp bác, nhắc bác hoài, bác có thể ghé qua xơi một bữa ăn trưa với mẹ con và con không?
Ông ngại đi quá, nhưng nghe cô cháu gọi đến lần thứ ba, ông không nỡ chối từ. Hơn nữa gặp lại vợ con của một người bạn thân đã qua đời, sẽ gợi nhớ cho mình bao nhiêu kỷ niệm thân tình cũ cũng là một điều nên làm.
Cô Lan đưa ông vào căn chung cư của mẹ, mẹ cô ở đây từ sau khi cha cô mất được một năm. Bà ở rất gần các con nhưng không muốn ở chung. Con cháu thay nhau gọi điện thoại, và ghé qua, khi sáng, lúc chiều. Thỉnh thoảng một người thu xếp đến ăn trưa với mẹ, không kể những tụ họp gia đình cuối tuần, nên tuy bà ở một mình ở tuổi bẩy mươi các con vẫn yên tâm.

Bà Lâm hôm nay có trang điểm nhẹ nhàng một chút, trông cho tươm tất tuổi già, chắc để tiếp khách Ông Thành để ý đến những bông hoa nhỏ tím đậm trên chiếc áo len mỏng mầu xám bà mặc, mầu sắc trông rất hài hòa.
Bà Lâm vồn vã đón ông:

- A, anh Thành. Anh trông khỏe mạnh quá, chẳng khác thời tôi mới gặp anh lần đầu. Anh còn nhớ lần đó không? Anh Lâm và tôi đón anh đi Lái Thiêu, đi thăm vườn trái cây. Chúng mình mua bao nhiêu là măng cụt.
Ông Thành lắc lắc cái đầu bạc trắng của mình, cố nhớ lại lần đầu tiên gặp bà. Tại sao lại ở vườn măng cụt nhỉ?

- Anh quên rồi à, chúng mình cùng đi trong cái xe Renault đen của ba anh Lâm?

Chịu, ông không thể nào nhớ ra được. Trí óc của mình sao có thể tệ đến thế nhỉ? Đã tám mươi đâu?

Cô Lan dọn bữa ăn trưa lên chiếc bàn nhỏ. Mấy món ăn nhẹ cho ba người. Bà Lâm hình như không chú ý đến thức ăn, Lan tiếp thức ăn vào chén của bác Thành, nhắc mẹ hai ba lần bà vẫn chưa cầm đũa.

Bà Lâm đang hứng khởi nói về dĩ vãng:

- Anh nhớ chứ. Mình ăn trưa ở Búng. Món nem chua ở đó cũng khá ngon. Sau đó mình vào vườn măng cụt, vườn chôm chôm, vườn dâu ở Lái Thiêu. Lúc đó tôi chưa lấy chồng, lần đầu tiên gặp tôi, anh đã yêu tôi ngay. Cả hai anh cùng yêu tôi. Anh nhớ không?

Cô Lan nhìn mẹ, không hiểu mẹ đang muốn nói gì? Ông Thành cũng sững người ra nhìn bà. Ông có yêu bà thời trẻ à? Không làm gì có chuyện đó. Thủa đó họ chơi chung với nhau, cả hai cặp. Thành,Tuyết và Lâm, Liên. Sau đó cả hai cặp đều thành vợ chồng.

Bà Lâm hồn nhiên nói tiếp:

- Mấy cái vườn trái cây khi được mùa mới hấp dẫn làm sao! Những chùm trái dâu, trái chôm chôm nặng trĩu chạm mặt đất. Măng cụt đỏ tím cả khu vườn. Muốn vào trong vườn phải rẽ cành hai bên mà đi. Anh nhớ không, anh dắt tôi vào đó, ở một chỗ vừa che mất anh Lâm, và anh đã tỏ tình.
Ông Thành thần mặt ra, hoang mang không hiểu những lời bà Lâm đang nói có thật hay không? Cô Lan có lẽ biết, đã đến lúc nên rút lui để cho hai người bạn già cũ nói chuyện quá khứ. Cô khe khẽ thu bát của mình, im lặng bước vào phòng ngủ của mẹ. Căn chung cư nhỏ, chỉ có nơi đó, cô có thể tránh mặt hai người.

Ông Thành nhíu mày lại, cố hình dung ra hình ảnh khu vườn trái cây, nơi ông đã mang người yêu của bạn vào đó tỏ tình. Không cách nào ông nhớ ra được. Trí óc mình lú lẫn rồi! Ông than thở trong đầu.

Bà Lâm nheo cặp mắt đã có thật nhiều vết nhăn kéo dài ra đến thái dương nhìn ông, từ tốn nói:

- Tôi để cho ông hôn tôi, nhưng tôi từ chối tình yêu của ông, vì lúc đó anh Lâm đã ngỏ lời cầu hôn trước ông. Chắc ông còn nhớ, hôm đó tôi mặc chiếc áo dài có những bông hoa mầu tím đỏ. Ông bảo mầu hoa trên áo đẹp giống mầu vỏ măng cụt, rồi ông bửa một trái măng ra chia cho tôi ăn một nửa, mầu vỏ tím hồng nhuộm mấy ngón tay ông, ông quệt lên má tôi, nói:” Em không cần thoa má hồng nữa, anh thoa cho em rồi”
Chi tiết đến thế này thì chuyện chắc phải có thật, mình không nhớ ra được thì ngày mai mình nên làm cái hẹn gặp bác sĩ. Tuổi tám mươi chắc bước vào tuổi mất trí nhớ rồi! Cả một dĩ vãng lãng mạn nên thơ như vậy, người đàn bà nhớ được, mình lại quên bẵng như đầu óc được nhúng vào một dung dịch hóa chất thì tệ thật. Ông không chối nữa, ông nhìn người đàn bà trước mặt, nhìn hai con mắt, mí đã sụp xuống nhưng tròng đen vẫn lóng lánh pha một chút tinh nghịch. Ông hạ mắt nhìn xuống cặp môi, cặp môi đều đặn, hơi cong, thoa một lớp son mỏng mầu hồng. Ông cố hình dung ra cặp môi thời còn trẻ của bà, cặp môi chắc tươi như bông hoa mận, căp môi theo như bà nhớ, ông đã cúi xuống hôn trong vườn măng cụt (Chắc là vội vàng lắm, vì hôn trộm người yêu của bạn mình)
Bà không để ông có thời giờ thả đầu óc về những hình ảnh bà nhắc nhở ông, bà uống một ngụm nước, nói tiếp:

- Sau đó tôi lấy anh Lâm, nhưng không thể quên mối tình của ông. Hôm đám cưới chúng tôi, ông làm rể phụ. Ông đẹp trai và rất xứng với tôi, nên có người đã nói, để ông làm chú rể thì đẹp đôi lắm. Mấy chục năm sống với ông Lâm, sanh mấy đứa con, nhưng chẳng lúc nào tôi không tơ tưởng đến ông. May mà chúng mình chưa hề xa nhau ngày nào cho đến khi anh Lâm mất hẳn. Bây giờ thì chắc chắn không còn ai ngăn trở mình nữa. Ông có nghĩ mình nên dọn vào ở chung không?

Thế này thì nguy quá rồi. Bà Lâm nhắc lại dĩ vãng cốt để nối hiện tại vào. Nhưng ông không hề nhớ được một chi tiết nào cả. Tuổi già thật khó chịu, nó xóa hết cả dĩ vãng, rồi dựng lên một tương lai huyễn hoặc. Ông cúi xuống uống nốt ngụm trà trong chén, cất tiếng gọi:

- Lan ơi! Bác về nghe con.

Ông kéo ghế đứng lên. Ông không trả lời về đề nghị của bà Lâm vội, ông chỉ nói nhỏ nhẹ, và hứa một lời rất bâng quơ:

- Tôi về nghe chị. Sẽ trở lại thăm chị khi nào trí óc sáng suốt thêm một chút.

Lan tiễn bác Thành ra chỗ đậu xe. Cô ở trong buồng ngủ, sát vách, nên đã nghe hết lời của mẹ kể. Hai bác cháu yên lặng đi bên nhau không nói năng gì. Ông Thành đã ngồi vào xe, trước khi mở máy, ông quay kính xuống nói như tâm sự với Lan:

_ Chắc bác cần đi khám lại cái đầu của mình. Những điều mẹ con nói hôm nay, bác không làm sao hình dung ra được một dĩ vãng vừa thơ mộng, lãng mạn, vừa tội lỗi của tuổi trẻ. Bác có mất trí nhớ tồi tệ đến thế không?

Bác nhớ là cả ba con và bác cùng lớn lên ở Đà Lạt. Những kỷ niệm của bốn người: Lâm, Liên, Thành,Tuyết có với nhau hồi đó là: Cà phê Tùng, Nhà thờ con gà, Đồi Cù, trường Võ Bị Đà Lạt, và những trại mận. Rồi ngày ba mẹ con đám cưới, bác đang tu nghiệp võ bị ở Mỹ, làm sao bác phù rể được nhỉ?

Ông nói xong, ngẩn người ra như không tin những điều mình nhớ, ông đợi Lan trả lời câu hỏi của mình.

Lan cho hẳn đầu cô vào trong cửa xe, gục đầu lên vai bác Thành, cô ngửi được mùi già nua trên cổ bác phả ra, mùi của ba cô ngày trước, làm cô khóc nức lên:

- Bác ơi! Không phải bác mất trí nhớ đâu. Mẹ con đấy, mẹ con bị Alzheimer nặng lắm rồi. Mẹ con quên hết dĩ vãng thật của mình, và ngày nào cũng vẽ ra một câu chuyện mẹ con tin là đã xẩy ra trong đời mình.

Tối hôm đó, Ông Thành trằn trọc trên giường, không sao ngủ được. Ông cứ nhớ mãi câu nói của cháu Lan. “Mẹ con vẽ ra một câu chuyện, mẹ con tin là đã xẩy ra trong đời mình.”

Ông bâng khuâng: Liên mất trí thật, hay Liên yêu mình từ trẻ mà mình không biết?

Một vườn măng cụt đổ ập xuống giấc mơ của ông trong đêm.

Tháng 11/2008
__________________

HÀ THÚC SINH * SONG THAO

NGHE SONG THAO KỂ CHUYỆN
Hà Thúc Sinh
Phàm đọc một tác giả như hầu chuyện một người bạn. Người bạn lâu năm, ta quen cách ăn cách nói, ta yên tâm mà đối xử. Bạn nháy mắt một cái ta biết ý rồi, bạn ho một cái ta càng biết ý hơn, nói chi khi bạn cười bạn khóc. Không 51 cũng 49 phần trăm ta đã “nắm” được tâm tình bạn, và cứ thế, ta biết góp thêm những cái ta cho là nó có tham dự vào nỗi cao hứng của ta, bằng không thì “thôi, bỏ chuyện đó đi Tám, mình làm chén rượu”. Chuyện vãn với anh bạn quen thú là như thế. Nhưng với người bạn lạ, a, bạn tưởng là tôi sẽ không thích thú lắng nghe. Chẳng vậy đâu. Đôi khi trong cái thói quen lung khởi quá đáng của anh, ta cứ kiên nhẫn, vì có thể vẫn có lắm bất ngờ thú vị xảy ra; kể cả trong lối nói tưởng là thông tục hay ba hoa ấy đừng tưởng không có những điều bắt ta dừng lại, gật gù.
Thế nào thì “Bỏ Chốn Mù Sương” của nhà văn Song Thao vẫn là một người bạn mới của tôi, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, cả sách lẫn người.
Cứ xem ngay truyện đầu, Như Giọt Rượu Nồng, ôi thôi, tôi đã có ngay cảm tưởng được hầu chuyện một anh bạn tự biết mình thông minh. Anh nói quá xá, nhiệt tình quá xá, như người có cái ruột để ngoài da, kẹt xe dưới trời tuyết, ngoái sang thấy anh bạn đồng hành trên xe bên cạnh, là tôi, mặt mày băn khoăn, táo bón; và cứ thế, như một người vui vẻ, anh đem một câu chuyện chẳng cần biết tôi thích hay không, kể ào ạt xem ra muốn giúp tôi đốt được chăng mối băn khoăn trăn trở khi nhìn về con đường nhầy nhụa phía trước. Mới đầu tôi choáng váng. Bực nữa. Chà, trong cái thế giới sex ngập tới răng này, anh còn nhồi thêm chi vào tai tôi chuyện cái anh chàng Alain “hoàn toàn sống theo bản năng” kia nhỉ? Ấy nhưng bạn chớ tưởng tôi không theo anh sát sạt đó nghe. Tôi là tên đàn ông bình thường! Tôi có cáu kỉnh với tên Alain nhưng mà cái kinh nghiệm của hắn về đàn bà, thú thật tôi cũng ước ao chi lạ. Chậc chậc, sống mà thấu được “bộ ngực săn dòn đầy ắp của gái Hạ Uy Di. Cái lẳng lơ khiêu khích của gái Mễ Tây Cơ. Cái mông chắc nịch tròn trịa của gái Nam Mỹ. Sự nồng nàn nóng bỏng của gái Ba Tây. Vẻ hồn nhiên vô tội của gái Bắc Âu...'' thì quả đời như thế không là đáng sống lắm sao? Không là một ưu đãi của trời đó sao?
Nhưng tôi thích hơn cái “đằng sau khuôn mặt dễ nhìn này là một b óc biết suy nghĩ” của cô Jennifer. Cô có lối chống trả dễ thương quá xá. Tiếc sao tôi đang chăm chú muốn nghe thêm về cô, thì người kể chuyện tự dưng đánh rơi cô đâu mất tiêu. Thật là một sự đãng trí đáng cho những phụ nữ đoan trang quy trách!
Bạn tưởng giận vậy rồi tôi bỏ luôn ông bạn mới, tống ga đi thẳng. Làm gì có chuyện đó. Trước mặt còn kẹt xe quá xá mà. Tôi nghe tiếp và đây là điều đã làm tôi yên tâm...vậy vậy. Ít nhất anh đã không kể một câu chuyện sex khơi khơi mà rõ là có chủ đích. Alain bông lơn đưa ra một đề nghị vô luân: “Mày muốn đổi vợ mày không?”. Chà, chuyện xoàng Tây Mỹ. Thế anh phản ứng thế nào. Tôi hồi hộp chờ. Anh “muốn vung tay đấm mạnh vào bộ mặt nham nhở của Alain”. Nguy! Tây to hơn mình. May. Anh khôn. Phản ứng “quá đáng” ấy chỉ xảy ra trong tâm tưởng - tâm tưởng một anh chàng Á Đông vốn thấm nhuần cái đạo vợ chồng. (Ấy nhưng sao tôi không tránh được cảm tưởng anh hơi...gian trong vụ này. Anh khai thác hơi nhiều cái món đạo đức Á Đông, mà xem ra có vẻ ngấm ngầm lấy điểm bà xã?) Dĩ nhiên cấu kết câu chuyện “phải đạo” như thế, thôi cũng được; tôi xin chia xẻ với bà nhà, và mừng cho anh!
Xe vẫn kẹt. Nhưng tôi đã nhuốm bệnh tò mò rồi đấy. Tôi ra bộ hờ hững nhưng thực thì đang đeo anh sang truyện kế tiếp “Bỏ Chốn Mù Sương”. Gì chứ gái thông minh mà còn thận trọng nữa ai chẳng thích. Cô Ánh là gái thông minh và thận trọng. Cô được chị bạn khen đẹp, cho điểm 10. Xem cô thận trọng thế nào. “...chị ngâm thơ xong cứ đứng tần ngần trước gương nhìn mặt mình như tiếc nuối. Nếu đôi mắt chị to hơn một chút, khuôn mặt tròn trịa hơn một chút, sống mũi cao hơn một chút, da mặt ít sần sùi hơn một chút thì chị có thể là một người đàn bà dễ nhìn (!). Ngắm dung nhan chị tôi nghĩ là chị có phần quá dễ dãi khi cho điểm nhan sắc tôi nên tôi đành bấm bụng hạ số điểm xuống ba bốn phân cho sát với thực tế”. Thực mà nói tôi không thích can dự lắm vào chuyện tình của mấy cô gái không là của tôi. Tôi tảng lờ nhìn ra ngoài cửa xe, kệ anh muốn nói hươu nói vượn tùy. Có điều quả tôi đang có tí manh tâm, ước sao mình hớt được con nhỏ thông minh này, để giúp cô em biết vui biết buồn, ngày cô bỏ lại cái khu học xá có nhiều mẩu đối thoại thật rộn rã ấy.
Thôi, chắc tôi phải đi thôi. Nhưng đi đâu? Trước mắt tôi còn kẹt mấy dặm xe. Tuyết vẫn đổ quá xá quà xa. Anh bạn mới lại lăng xăng nhảy sang hàng mớ truyện khác. Anh muốn nghe chuyện “Theo Dòng Thác” không? Thôi thôi. Tôi xưa nay kỵ nước và xà phòng, xin tha cho. Thế mà chết chửa. Anh cứ lôi xuyệch tôi sang Âu Châu. Rõ là một người rộng chân rộng cẳng. Anh còn nói tiếng Đức với cái nhà cô Kristina cho đó nữa chứ. Có điên đầu tôi không! Anh, Pháp thì còn vớ va vớ vẩn được. Đức tôi chịu gì thấu. Sao? “Đôi tay Cảnh mở hội hoa đăng. Dòng suối màu sữa uốn mình thức giấc. Thịt da lên gai ngây ngất. Dạt dào tiếng thác vỗ. Rung động nỗi khát khao. Bùng nổ những đê mê đang triền miên vỗ về hai khối da ngà”. Xin anh! Không âm mưu xúi tên văn sĩ nghèo là tôi trộm tiền vợ bay sang Âu Châu đấy chứ? Anh lại còn nói dối nữa. Gớm, “gái Bắc Âu hồn nhiên vô tội” là thế đấy à? Nhưng mà này, anh ấm ớ lắm thôi. Đã đến cái giai đoạn nhìn xuống mà ngâm “rày rày sẵn đúc...”, đến nỗi người ta phải phong cho anh là “ông thần thác”, thế mà khi người đẹp ngước nhìn, anh lại còn giả vờ giả vịt “anh chẳng bao giờ hiểu được ánh mắt đó” là nghĩa làm sao. Anh quê quán đâu thế? Hà Nội à? Rõ là trai Hà Ni mới có được cái ỡm ờ thế đấy. Thôi tôi đi đây. Còn kẹt. Ừ nhỉ. Nhưng cho tôi nghỉ chút chớ. Đầu tôi đang lộn xộn với mấy cái bill cuối tháng này. Tôi năn nỉ nhưng anh bạn nào có cho tôi nghỉ. Anh lôi tôi đi tiếp, cho hưởng luôn một không khí “Giao Thừa Ở Một Nơi Khác”. A, mà anh đang kể chi đó? “Người Đàn Ông Bên Cạnh”? Cái cô gì nhỉ? Cô ấy từ hôn anh chàng Nguyễn chỉ vì anh này ưa nhìn gái đẹp, loại người mà cô mỉa mai “Anh đừng làm bộ nữa. Em tưởng đàn ông các anh ưa nhìn những chỗ không có áo chứ!” Cô cũng thông minh, nhưng cô lại tự biến mình thành kẻ đối lập với sự thông minh bẩm sinh. Tệ hơn, sự thông minh không đủ để cô hiểu rằng chính những kẻ thích nhìn vẻ đẹp mới là kẻ đến gần được bàn tay sáng tạo của Thượng Đế. Rồi tưởng sao, cô đi lấy một anh Tàu, rồi cô than cô mất đi tiếng “mình” thân thương, cả đời “tôi chỉ có một người đàn ông bên cạnh”. Cái “tem” hay. Cô nào chê trai Việt lắm vào, anh nên kể cho họ nghe câu chuyện, để thấy sự bạc phước luôn là hậu quả từ một chọn lựa sai lầm.
Ồ, cái tranh đẹp quá! Ai vậy? Đinh Cường à? Nhất. Tay nhà nghề có khác. Thôi đừng kể nữa. Để tôi xem tranh. Anh Thái Tuấn thì tôi biết anh từ ngày còn để chỏm, tiên chỉ, xin yêu mà miễn bình. Hoàng Xuân Sơn à? Tay này tài hoa rất mực. Nhưng ông vẽ gì đây? Đầu ngỗng ngóc lên từ chiều sâu... mộng mị. Chà, bí hiểm bí hiểm. Tranh Hồ Đình Nghiêm? Lần đầu được thấy. Cũng liêu trai tây phương quá xá chớ. Có điều hơi nhem. Thành hơi hãi. Giữa đường, dưới đêm trăng tuyết, gặp em thế này thì cũng ấn tượng lắm lắm. Cái bìa thì khỏi giới thiệu. Nhìn biết của Nghiêu Đề rồi. Ông này có dạo tôi chọc quê, gọi ông là “chủ công ty gói bánh lá (ta quen gọi bánh giò)”. Tranh nào của ông cũng mướt, có điều chả hiểu sao cứ phải xua người đẹp vào sau những bụi chuối. Âm mưu chi chăng? Hay đó là cuộc thử nghiệm về sức hấp dẫn giữa... kiến và da thơm?
Gì nữa đây? Anh lại lai rai kể chuyện vượt biên, chuyện gia đình... Và chính một trong mấy chuyện về gia đình quả có bắt tôi phải nghiêm chỉnh lắng nghe. Truyện “Cô Ngân”.
Đây là câu chuyện mà thảm kịch đời của một nhân vật nữ, sâu xa cũng bắt nguồn từ một ẩn ức (?). Tôi không tin câu chuyện có sự lôi cuốn ở nghệ thuật kể. Khá rườm rà. Nhưng nội dung thì chứa hình ảnh một phụ nữ Việt Nam cho dù lấy tây, nhưng hồn Việt nơi cô sợ rằng không thiếu phụ nữ ngày nay có lấy ta, còn giữ được như thế.
Cô sinh trong một gia đình phú nông có phần nệ cổ. Cô xấu hơn các em. Và do đó mỗi khi trong nhà có tiếng heo tiếng gà bị vật thịt xôn xao - dấu hiệu một cô em gái được nhà chồng rước đi - thì cô vui đến...nước mắt giàn giụa. Sự xốn xang ấy, dồn nén ấy khiến có lúc ngủ chung với thằng cháu nhỏ tinh quái, nó “tò mò luồn tay vào ngực cô (...) cô làm như say ngủ (...) Ngực cô tròn trịa nhỏ nhắn”. Nó ''mân mê “hạt đậu xanh” rồi kề miệng vô (...) Mắt cô Ngân vẫn nhắm tít, miệng cô hơi mỉm cười (...).
Dù ai cũng có cô, có dì, nhưng không phải ai cũng có kinh nghiệm này. Tuy thế, xét sâu về mặt ẩn ức tình dục, ta khó có thể đặt vấn đề đạo đức vào đây mà ổn. Tôi chỉ xem đó như một động lực có tham dự vào sức đẩy cô Ngân, một người ghét tây, ghét Nhật, dấn thân vào con đường cách mạng, rồi khi nhận chân được Việt minh, cô về đem cả nhà dinh tê. Rồi cô vào tù Hỏa Lò, rồi cô...lấy tây, bị gia đình từ bỏ, và theo chồng hồi hương đến sống nơi hòn đảo Corse xa xôi, tuyệt vô âm tín với gia đình.
Nhiều chục năm sau, khi Sài Gòn mất, từ nơi xa xôi cô mới ra mặt xốn xang lo lắng như một hòn máu về những hòn máu khác. Lúc ấy người ta mới biết cô vẫn hoàn toàn là một người Việt Nam, nghĩa là lý do sự vắng mặt chẳng qua vì cô vẫn ghim cứng trong lòng cái truyền thống gia đình Việt Nam: “Anh cả giả cha”. Cô sợ anh cả mà không dám liên lạc, chỉ đến khi cả gia tộc lâm vòng hoạn nạn, cô cuống lên, mới biên thư “xin bố Nhương (anh cả) tha thứ và cho phép cô được thư từ liên lạc với gia đình”. Còn đời cô sống với người chồng tây như thế nào? Cô nuôi cả một bày con đông nên ông nên bà, được lối xóm tây đầm kính trọng đến kinh ngạc. Thành quả ấy cô thú nhận “thật ra cô thấy những việc cô làm cho gia đình (của riêng cô) chẳng có gì là ghê gớm cả. Cô chỉ bắt chước đúng cuộc sống của bà nội: quên mình hy sinh cho chồng con...”
Tôi ngừng nghe chuyện kể của tác giả Song Thao nơi đây với chút ý nghĩ bâng khuâng thế này: Anh có giọng kể duyên dáng, ví von thông minh, có nhiều chi tiết mới lạ quanh đời sống được khám phá bất ngờ... Nhưng với tác phẩm đầu tay này, xem ra anh còn sung sức quá, do vậy có thể vì đó mà có nhiều chỗ hồi ức, nhiều đoạn diễn tả tâm trạng hay tâm tình các nhân vật, anh chấm ngòi bút hơi mạnh, hơi sâu vào bình mực...Điều đó cho người đọc niềm tin rằng ở những tác phẩm tới, có thể nhờ chút “mỏi tay”, anh sẽ hạn chế được lượng mực, và người đọc không lo gì mà sẽ không được đọc thêm nhiều truyện ngắn mới vẫn rộn rã, nhiệt tình nhưng dưới một hình thức ngắn gọn, chặt chẽ và xa thể ký sự hơn.
Nhiều đàn bà của anh đã nhẩy sang xe tôi đến ngộp, tôi muốn gạt ra. Thế mà cái “Cô Ngân” ấy thì ở lại!
Saigon Times, Rosemead, California, ngày 8/10/1993
Nắng Mới, Montreal, Canada, số 23, tháng 8/1993

PHAN MẠNH HÙNG * TIỂU THUYẾT NAM BỘ

Tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ từ 1887 đến 1932


Tiến trình hiện đại hóa văn học ở Việt Nam được bắt đầu ở Nam Bộ, và bắt đầu bằng một tiểu thuyết: Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, công bố năm 1887. Tác phẩm này tưởng chừng như rơi thỏm vào bóng tối, bởi một thời gian khá dài, người ta chỉ biết Tố Tâm (1925) như là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên. Kỳ thực, ngày hôm nay, khi tiếp xúc với văn bản Truyện Thầy Lazarô Phiền, trên góc nhìn thể loại và thi pháp tự sự, chúng ta phải bất ngờ khi thấy sự khởi đầu của cái văn bản có số phận lặng lẽ này, lại là một khai phá mới. Một trong những khai phá quan trọng mà bài viết này muốn tập trung nói đến, đó là với tư cách là một tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất, Truyện Thầy Lazarô Phiền đã mở ra một con đường thênh thang cho hàng loạt tiểu thuyết được xây dựng theo phương thức trần thuật này, làm nên tính hiện đại của tiểu thuyết và văn chương, đánh thức cái tôi cá nhân trên phương diện sáng tạo và trong đời sống.
 
Sẽ không thể nào hiểu đầy đủ và chính xác về tiến trình hiện đại hóa văn học ở Việt Nam, nếu không chạm đến cái con đường mà Truyện Thầy Lazarô Phiền đã mở ra: nhân vật xưng tôi trực tiếp kể về mình, nhân vật xưng tôi phơi bày tâm trạng của chính mình với kẻ khác.
Theo tìm hiểu có thể chưa đầy đủ của mình, chúng tôi thấy ở Nam Bộ, trong khoảng từ 1887 đến năm 1932, tiểu thuyết được xây dựng theo phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất có các cuốn sau: Truyện Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản (1865-1911), Lâm Kim Liêng (sic) (1910) của Trần Thiên Trung (1867-1919), Oan kia theo mãi (1922) của Lê Hoằng Mưu (1897-1942), Mười lăm năm lưu lạc (1923), Duyên phận lỡ làng (1925), Hai mươi năm lao lực (1927) của Phạm Minh Kiên (?-?), Thói đời đen bạc (1928) của Phạm - V. - Chương (?-?), Tơ hồng cay nghiệt (Câu chuyện canh tràng) (1925) của Phú Đức (1901-1970), Sổ đoạn trường của Nguyễn Thành Long (?-?), Đoạn nghĩa tóc tơ của Nguyễn Hữu Tình (?-?)… Trong bài viết này, chúng tôi sẽ nghiên cứu các tiểu thuyết trên nhằm tìm ra những đặc trưng về phương thức trần thuật của loại tiểu thuyết này, xác định đóng góp quan trọng của nó trong con đường đổi mới văn học và đổi mới xã hội Việt Nam.
Vấn đề này đã được nghiên cứu như thế nào ở Việt Nam? Có thể nói, đã có một số công trình nhấn mạnh về tính hiện đại của Truyện Thầy Lazarô Phiền, trong đó nhắc đến nhân vật xưng tôi (1). Gần đây, có một vài công trình đặt vấn đề khảo sát rộng hơn đến những tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất ở Nam Bộ (2).
1. Trong tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất, vai trò của người trần thuật hết sức quan trọng, chi phối phương thức triển khai thế giới nghệ thuật, quan niệm về con người và thế giới. Sự chi phối của người trần thuật trước hết, dễ thấy nhất là đối với thế giới nhân vật trong tác phẩm. Kete Humburger cho rằng: “các nhân vật trong một truyện kể ở ngôi thứ nhất chỉ có thể được nắm bắt trong một mối liên hệ thường xuyên với người trần thuật ở ngôi thứ nhất. Điều đó không có nghĩa là tất cả chúng đều phải ở trong một mối liên hệ với cá nhân anh ta, mà chỉ là chúng được anh ta nhìn, quan sát và mô tả, chỉ duy nhất bởi anh ta thôi” (3). Ngoài ra, tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất không chỉ là sự thể hiện bản thân cái Tôi - người trần thuật, mà qua đó chúng ta còn biết về thế giới xung quanh Tôi qua cái nhìn hồi cố. “Truyện kể ở ngôi thứ nhất có ý định không những kể lại thế giới như là kinh nghiệm của cái Tôi, mà còn kể lại thế giới như là chính nó, như là một thực tế độc lập với cái Tôi mà với cái thế giới này cái tôi phải đối diện” (4).
Lý luận văn học ghi nhận có ba phương thức trần thuật mà các nhà văn thường sử dụng: phương thức khách quan, phương thức chủ quan và phương thức liên chủ quan. Tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất thuộc về phương thức chủ quan. Trong phương thức trần thuật chủ quan, sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật. Có thể xem đây là điểm nhìn từ bên trong, là phương thức trần thuật có tính chất nội quan (introspection). Theo nhận định của Huỳnh Như Phương, tác phẩm mang phương thức trần thuật nội quan “là những tác phẩm trong đó câu chuyện và các sự kiện được trình bày bởi người kể chuyện nói về mình ở ngôi thứ nhất và xuất hiện như một con người thực hiện hữu trong thế giới mà các nhân vật đang hoạt động. Sự trần thuật này mang tính chất cá thể hóa rất cao, nó diễn đạt sâu sắc những tâm trạng, tình cảm và nếm trải của con người. Bởi vì ở đây người trần thuật đã kể lại những gì mà chính người ấy đã trải nghiệm và quan sát, anh ta đồng thời vừa là nhân vật, vừa là người kể chuyện” (5). Mặt khác, trần thuật ở ngôi thứ nhất tạo ra những thuận lợi nhất định trong mối liên hệ tác phẩm và người đọc, như nhận xét của Tzevan Todorov, “là ngôi dễ dàng nhất trong việc phù phép độc giả đồng nhất với nhân vật, bởi lẽ, như chúng ta biết đại từ “tôi” thuộc về tất cả mọi người. Ngoài ra, để dễ dàng đồng nhất độc giả với nhân vật, người kể chuyện sẽ là “một con người trung bình”, qua người này mỗi độc giả (hoặc gần như vậy) có thể nhận ra mình” (6).
            Như vậy, theo những quan niệm vừa dẫn, những tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất đã trình bày một thể nghiệm khá mới mẻ về cách thể hiện cuộc sống thông qua cái nhìn, sự trải nghiệm có tính chủ quan của cá nhân.
2. Sự xuất hiện của những tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất ở Nam Bộ cho thấy sự ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây diễn ra khá sớm. Với câu chuyện được kể ở ngôi thứ nhứ nhất xưng “tôi”, tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất Nam Bộ có nhiều điều mới mẻ khi ở đó cái tôi tự truyện, cái tôi tự thú của nhân vật đã trải ra cùng người đọc tạo nên một sự giao tiếp thân mật, gần gũi và tin tưởng. Qua đó cũng đã trình hiện một kiểu nhân vật mới: nhân vật con người cá nhân tự nhiên, sống động như đang hiện diện đâu đó trong cuộc sống. Nhân vật con người cá nhân đó lại được miêu tả bằng ngôn ngữ của đời sống. Đó là những dấu hiệu quan trọng của tiểu thuyết mang tinh thần hiện đại. Sau đây là một số phương diện biểu hiện chủ yếu.
2.1. Cốt truyện và kết cấu tác phẩm
Cốt truyện là phương diện hết sức quan trọng của một tác phẩm tự sự, là toàn bộ những sự kiện có quan hệ với nhau trong quá trình tác phẩm. Cốt truyện có hai phương diện gắn bó hữu cơ “một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật; mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội” (7). Vương Trí Nhàn cho rằng: “Ngay khi chỉ được xem như một bộ khung cần được đắp thêm chi tiết mới trở nên sinh động thì cốt truyện đã là cách hình dung về đời sống, tức một yếu tố đánh dấu trình độ hiểu biết của xã hội về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh cũng như con người với nhau” (8).
Xét về nguồn gốc của cốt truyện, tiểu thuyết trần thuật ngôi thứ nhất có cốt truyện được xây dựng với những sự kiện được rút ra từ chính hiện thực đời sống đương thời, là những trải nghiệm cuộc đời của bản thân nhân vật chính và một phần nào đó là của chính nhà văn. Có cốt truyện bao gồm toàn bộ cuộc đời của nhân vật, là diễn trình đời sống của nhân vật từ lúc sinh ra cho đến khi chết như Truyện Thầy Lazarô PhiềnOan kia theo mãi. Cũng có cốt truyện chỉ bao gồm một khoảng thời gian nhất định, xảy ra những biến cố quan trọng quyết định cuộc đời nhân vật ở các tiểu thuyết Lâm Kim Liêng, Duyên phận lỡ làng, Mười lăm năm lưu lạc, Hai mươi năm lao lục, Thói đời đen bạc, Tơ hồng cay nghiệt. Có thể thấy, cốt truyện lấy chất liệu từ cuộc sống đương thời, kể về câu chuyện của cá nhân, thường có khả năng hút vào nó các sự kiện có tính chất thời sự, những phương diện và cảm thức văn hóa của thời hiện tại. Hiện thực đời sống bề bộn, sinh động trở thành nền tảng, căn rễ của cảm quan hiện thực và sự lựa chọn phương thức tả thực của nhà văn. Điều này, theo chúng tôi là hết sức cần thiết có những tác động không nhỏ đến quá trình đổi mới văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Truyện Thầy Lazarô Phiền đã khởi đầu với tuyên bố tác phẩm viết về những chuyện đời nay, về những con người bình thường trong đời sống, không phải những vị anh hùng tài đức đời xưa đã được nói nhiều trong thơ, văn, phú, truyện. Cùng với Truyện Thầy Lazarô Phiền, các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ với cốt truyện được người viết rút tỉa, chọn lọc từ cuộc sống hiện tại đã góp phần đổi mới văn học theo hướng hiện đại.
Khởi đi từ nền tảng hiện thực cuộc sống, từ góc độ người kể chuyện, tiểu thuyết trần thuật ngôi thứ nhất ở Nam Bộ đã xây dựng cấu trúc cốt truyện mang những đặc điểm tiến bộ so với cấu trúc cốt truyện trong truyền thống: cốt truyện chú trọng sự kiện; cốt truyện chú trọng tâm lý và kết thúc không có hậu. Các tiểu thuyết với cốt truyện sự kiện có trục vận động là những sự kiện, biến cố ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời nhân vật. Kiểu cốt truyện này biểu hiện rõ nhất trong các tiểu thuyết Mười lăm năm lưu lạc, Duyên phận lỡ làng, Hai mươi năm lao lực của Phạm Minh Kiên, Thói đời đen bạc của Phạm - V. - Chương. Cốt truyện chú trọng tâm lý có thể thấy trong Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Oan kia theo mãi của Lê Hoằng Mưu, Tơ hồng cay nghiệt của Phú Đức. Cốt truyện chú trọng tâm lý thường lấy diễn biến tâm lý và xung đột nội tâm nhân vật làm trọng. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy cốt truyện chú trọng yếu tố tâm lý trong Thầy Lazarô PhiềnOan kia theo mãi. Có sự gần gũi giữa cốt truyện Oan kia theo mãi của Lê Hoằng Mưu và truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản ở trên những nét lớn: là bi kịch gia đình của nhân vật chính và hành trình sám hối tội lỗi của họ. Tuy nhiên, là sản phẩm sáng tạo của hai nhà văn ở vào hai thời điểm khác nhau, giữa chúng có những nét riêng tạo nên giá trị của mỗi tác phẩm: Thầy Phiền quê Bà Rịa, theo đạo Công giáo còn Hà Cảnh Tiên quê Bến Tre, không theo đạo; Thầy Phiền không có con còn Hồ Cảnh tiên có con trai 5 tuổi; Vợ thầy Phiền bị đầu độc còn vợ Hồ Cảnh Tiên dắt con bỏ đi; Thầy Phiền ra cho thuộc cấp bắn chết thầy Liễu còn Hồ Cảnh Tiên đầu độc Đậu Chánh Tâm; Thầy Phiền ốm chết còn Hồ Cảnh Tiên gieo mình xuống sông tự vẫn. Truyện Thầy Lazarô PhiềnOan kia theo mãi có cốt truyện chú trọng tâm lý, kết thúc không có hậu. Cái chết của thầy Phiền như được dự báo trước (bằng những dằn vặt cộng với bệnh tình ngày càng nặng) còn cái chết của Hồ Cảnh Tiên hết sức đột ngột (nhân vật tự tử).
Kết thúc không có hậu là kiểu kết thúc hết sức mới mẻ xuất hiện sớm trong tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ. Ngoại trừ Thói đời đen bạc có kết thúc có hậu, còn những tiểu thuyết khác đều có kết thúc không có hậu: kết thúc với dư vị buồn và cay đắng, đổ vỡ hạnh phúc của nhân vật chính trong Lâm Kim Liêng, Duyên phận lỡ làng, Mười lăm năm lưu lạc, Hai mươi năm lao lục, Tơ hồng cay nghiệt; với sự uất hận và kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính có Thầy Lazarô PhiềnOan kia theo mãi. Kiểu kết thúc với dư vị cay đắng và đặc biệt là kết thúc bằng cái chết có thể xem lả kiểu kết thúc khá mới mẻ trong tiểu thuyết Nam Bộ. Ở miền Bắc, kiểu cốt truyện chú trọng tâm lý và kết thúc không có hậu có thể thấy trong Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách (1896-1973).
Một trong những phương diện nghệ thuật tương đối mới mẻ của một số tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất chính là phương diện kết cấu. Các tác phẩm như Thầy Lazarô Phiền, Oan kia theo mãi, Duyên phận lỡ làng, Mười lăm năm lưu lạc, Tơ hồng cay nghiệt có kiểu kết cấu của truyện lồng truyện. Trong Thầy Lazarô Phiền, thầy Phiền kể lại cuộc đời của mình cho người bạn đồng hành nghe và tới phiên người đó trần thuật lại câu chuyện đã nghe ở ngôi thứ nhất. Câu chuyện về cuộc đời thầy Phiền (trong quá khứ) được lồng trong câu chuyện về cuộc gặp gỡ (thời hiện tại) giữa thầy và nhân vật đồng hành với thầy. Cùng một kiểu thức như vậy, Oan kia theo mãi có câu chuyện quá khứ cuộc đời của Hồ Cảnh Tiên lồng vào câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Hồ Cảnh Tiên và ký giả Lê Hoằng Mưu. Nhận xét về kỹ thuật viết trong Oan kia theo mãi, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Tác giả biết sử dụng yếu tố hấp dẫn là treo lơ lửng cái hồi hộp, phập phồng của số phận nhân vật trung tâm. Oan kia theo mãi viết theo kiểu Ngàn lẻ một đêm, bộ tiểu thuyết Ả Rập nổi tiếng mỗi đêm một câu chuyện. Câu chuyện Hồ Cảnh Tiên kể, nhân vật chính trong Oan kia theo mãi, được sắp xếp trong 32 đêm, mỗi đêm một diễn tiến, lần lượt đưa nhân vật vào bước đường cùng” (9). Chúng ta cũng có thể nói đến một sự tương dồng về mặt kết cấu giữa các tiểu thuyết Duyên phận lỡ làng (năm ngày tự thuật của Hà Cảnh Lạc), Tơ hồng cay nghiệt (với 2 đêm kể của Minh Gương) với Ngàn lẻ một đêm. Ở đó, người đọc cũng được dẫn dắt vào hành trình số phận và tâm lý nhân vật với biết bao sự hồi hộp, trông đợi. Ngoài ra, với truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản chúng ta thấy một kiểu kết cấu vòng tròn, như nhà nghiên cứu Hoàng Dũng đã chỉ ra: “Mở đầu truyện là hình ảnh ngôi mộ Lazarô Phiền và kết thúc cũng là hình ảnh ngôi mộ Lazarô Phiền, một kiểu kết cấu mãi đến Chí Phèo (1941) của Nam Cao mới thấp thoáng gặp lại qua hình ảnh chiếc lò gạch cũ ở phần đầu và cuối truyện” (10). Về điểm này, chúng ta có thể khẳng định truyện Thầy Lazarô Phiền có những đóng góp hết sức quan trọng và mới mẻ về mặt kết cấu tác phẩm trong văn học Việt Nam.
Sự tiếp xúc với văn học nước ngoài đã cho phép nhà văn Nam Bộ học tập kinh nghiệm và vận dụng vào sáng tạo. Tuy vậy, sự tiếp thu ấy không phải là đồng đều giữa những người cầm bút, mức độ vận dụng những yếu tố mới cũng tùy thuộc vào quan niệm và thị hiếu thẩm mĩ của từng người. Hơn nữa, như các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, có sự ảnh hưởng của thị hiếu người đọc đối với việc lựa chọn thủ pháp của nhà văn. Trước sức ép của thị hiếu người đọc, cũng có khi là quán tính của người cầm bút, đã cho thấy sự thỏa hiệp giữa cái mới và những yếu tố truyền thống. Thói đời đen bạc của Phạm - V. - Chương nằm trong trường hợp này. Trong khi lựa chọn phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất, tác phẩm này lại có kiểu kết cấu tam phân đoạn của truyện thơ Nôm, có tóm tắt nội dung ở đầu mỗi đoạn như những đoạn giáo đầu của tiểu thuyết chương hồi. Chẳng hạn: Đoạn thứ nhứt: vì cơn biến nợ duyên tráo chác; bởi vận nghèo phụ tử chia lìa. Đoạn thứ nhì: cơn vận khứ, phiêu lưu đất khách; lúc thới lai sum hiệp người thân. Đoạn thứ ba: vì tình, hiếu ngổn ngang, Ngọc Tùng toan tự vận; bởi nợ duyên vương vấn khiến sum vầy. Rõ ràng kiểu kết cấu này, thực chất là kiểu kết cấu hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên của truyện thơ Nôm thời trung đại. Việc xuất hiện kiểu kết cấu mới mẻ bên cạnh kiểu kết cấu truyền thống cho thấy tính chất giao thời và sự ảnh hưởng từ nhiều nguồn của tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
2.2. Người kể chuyện
Người kể chuyện đóng vai trò là cầu nối giữa tác giả và độc giả. Đối với tiểu thuyết Nam Bộ, người kể chuyện là một phương diện quan trọng dẫn dắt vào cái tôi cá nhân vốn đầy uẩn khúc của nhân vật.
Lý thuyết tự sự học đặc biệt chú ý đến khía cạnh người kể chuyện và các mối quan hệ giữa người kể chuyện và điểm nhìn, giọng điệu, nhân vật. Theo T.Z. Todorov: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt” (11).
Có thể thấy, với phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, tư cách kể chuyện được trao cho nhân vật thì dĩ nhiên truyện sẽ được kể theo quan điểm của nhân vật. Người kể, với năng lực phân tích phán đoán cá nhân, đã tự do thể hiện những hiểu biết, quan niệm về nhân sinh của mình. Những phát ngôn của người kể chuyện trong phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, rõ ràng sẽ mang đậm dấu ấn chủ quan.
Trong tiểu thuyết Oan kia theo mãi, Duyên phận lỡ làng, Mười lăm năm lưu lạc, Tơ hồng cay nghiệt có ít nhất hai người người kể chuyện, tạo ra hai tầng trần thuật. Một người dẫn chuyện xưng “tôi” - là nhân vật xuất hiện bên cạnh câu chuyện được nhân vật chính kể - với vai trò dẫn chuyện, một người kể chuyện xưng “tôi” còn lại là nhân vật chính - chủ thể câu chuyện. Người kể chuyện xưng tôi trong vai trò dẫn chuyện tất nhiên sẽ bị cuốn vào ít hay nhiều, biết ít hay nhiều về nhân vật chính và nói với độc giả ở ngôi thứ nhất. Nhưng dù như vậy, người kể chuyện này không phải là người biết hết toàn bộ câu chuyện, anh ta chỉ có thể kể cái mà anh ta biết với tư cách là người nghe kể các sự kiện đã xảy ra của nhân vật chính. Điều này dẫn đến một thực tế: anh ta không phải là người kể chuyện toàn tri. Anh ta cũng không thật sự trùng khít với tác giả - nhà văn ngoài đời thật (tác giả văn học) dù có khi anh ta mệnh danh tác giả - nhà văn xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm như kiểu “Bẩm ông tôi là Lê Hoằng Mưu… chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn” (Oan kia theo mãi). Có một sự gián cách giữa tác giả thật và nhân vật “tác giả - trong tư cách người dẫn chuyện. Sự xuất hiện tên thật của nhà văn trong tiểu thuyết với tư cách người dẫn chuyện có tác dụng tạo một ra một “ảo giác” rằng câu chuyện độc giả đang theo dõi là chuyện có thật trong cuộc sống hiện tại, không phải chuyện bịa. Xét ở cấp độ văn bản thì anh ta (người dẫn chuyện) cũng giống như độc giả, anh ta không thể đoán biết trước những gì đã xẩy ra với nhân vật chính khi nhân vật tự bộc lộ, tự kể câu chuyện của mình, anh ta chỉ là kẻ đồng hành với quá trình kể chuyện. Chẳng hạn, trong truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, người kể chuyện kiểu này không phải có vai trò của một người dẫn chuyện toàn tri, trọng tâm câu chuyện chủ yếu được xây dựng qua lời kể (dòng hồi tưởng và giọng kể) của nhân vật thầy Phiền, qua đó cho thấy được từng biến cố và trải nghiệm cuộc sống của thầy: lúc nhỏ sống cùng gia đình, mẹ mất sớm, lớn lên đi học, kết bạn với Vero Liễu, lập gia đình rồi bị li gián dẫn đến việc giết bạn và vợ, sống trong ân hận và kết thúc bằng cái chết. Tất cả được tái hiện một cách chân xác với những mốc thời gian, địa điểm cụ thể. Hoàng Dũng cho rằng: “Truyện Thầy Lazarô Phiền được viết theo hai tầng trần thuật, với nhân vật tôi chỉ đóng vai trò người dẫn truyện. Tôi như thế cũng không biết gì hơn độc giả; người trần thuật không còn toàn năng nữa - tôi thực chất cũng chỉ là một độc giả” (12). Theo chúng tôi, việc sáng tạo ra nhân vật người dẫn chuyện trong tác phẩm làm cho nội dung bớt đơn điệu, làm chậm nhịp độ kể và độ căng của cốt truyện. Ngoài ra cuộc gặp gỡ tâm tình giữa người dẫn chuyện và nhân vật chính là cái nguyên cớ, khơi nguồn cho hành động kể của nhân vật chính. 
Không xuất hiện kiểu nhân vật người dẫn chuyện, tiểu thuyết Lâm Kim Liêng, Thói đời đen bạc chỉ có một người kể chuyện xưng tôi. Người kể chuyện đồng thời cũng là nhân vật chính làm cho kiểu thức này luôn có tính hai mặt, và như Tzevan Todorov đã chỉ ra: “Với tư cách người kể chuyện, diễn ngôn của anh ta không bị thử thách trước sự thực, nhưng với tư cách là nhân vật, anh ta có thể nói dối” (13). Trên cấp độ văn bản, chỉ có một người kể chuyện xưng tôi cũng là nhân vật chính của câu chuyện kể về những trải nghiệm cuộc sống của mình. Những tiểu thuyết này thể hiện tối đa dòng tâm tưởng và suy tư của nhân vật chính. Lâm Kim Liêng (Lâm Kim Liêng) và Hồ Thanh Xuân (Thói đời đen bạc) là người kể đồng thời là người chép lại câu chuyện. Một trong những dấu hiệu để nhận biết nằm nơi phần mở đầu và kết thúc tác phẩm. Thói đời đen bạc mở đầu với tự thuật của Hồ Thanh Xuân: “Sanh trưởng nơi nhà thi lễ, tôi họ Hồ, tên thiệt Thanh Xuân…” và kết thúc “... Nghĩ thói đời hay có bạc đen, lời quê kịch mấy hàng ký thuật”. Nhân vật Lâm Kim Liêng (Lâm Kim Liêng) sau khi tự thú, bộc bạch cuộc tình duyên đầy sóng gió do đam mê dục vọng của mình đã kết thúc tự thuật với những dòng như sau: “Bởi nay thấy nhiều bạn nữ lưu còn trầm luân nơi cuộc thế, nên tôi trù nghi làm Tự thuật này (chúng tôi in nghiêng - PMH) mà xưng thưa lỗi tôi, trước là ăn năn thống hối, sau là chỉ đường hoang, nẻo hiểm cho chị em lấy đó mà làm chỗ sửa mình họa may đến ngày bước vào dị lộ”. Như vậy, ở đây, người trần thuật đã mượn điểm nhìn của nhân vật để kể chuyện. Điểm nhìn của cả hai chập làm một, rất khó phân định.
Liên quan đến phương thức trần thuật là điểm nhìn trần thuật. Lý thuyết tự sự ghi nhận ba loại điểm nhìn cơ bản: điểm nhìn với tiêu điểm hóa từ bên ngoài (truyện kể khách quan); tiêu điểm hóa từ bên trong (truyện kể ở ngôi thứ nhất); tiêu điểm hóa zéro (truyện không có tiêu điểm).
Trong ba loại tiêu điểm vừa đề cập, các tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất có kiểu tiêu điểm hóa từ bên trong, được triển khai từ điểm nhìn của nhân vật. Truyện được trình bày theo điểm nhìn của “tôi” - nhân vật (trong vai người kể chuyện). Từ điểm nhìn này, thế giới hiện thực cùng với đời sống nội tâm của nhân vật được khai triển. Cùng với sự xuất hiện của nhân vật người dẫn chuyện (cũng xưng tôi, có khi xưng là ký giả) bên cạnh nhân vật chính (xưng tôi), chúng ta thấy bắt đầu có sự luân chuyển điểm nhìn. Việc gia tăng thêm điểm nhìn trong tiểu thuyết đã khiến câu chuyện trở nên sinh động hơn. Dù cho sự luân chuyển điểm nhìn chưa liên tục và tinh tế, nhưng chúng cho thấy dấu hiệu của kiểu tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đa tuyến, bắt đầu có sự chuyển dịch trên hai hay nhiều người kể chuyện. Hay nói cách khác, đó là dấu hiệu của kiểu tự sự nhiều người kể. Trong các tiểu thuyết của Phạm Minh Kiên và Lê Hoằng Mưu, nhân vật chính xưng tôi kể câu chuyện cuộc đời mình cho nhân vật người dẫn chuyện nghe trong những khoảng thời gian nhất định: nội dung tiểu thuyết Duyên phận lỡ làng diễn ra trong năm ngày tự thuật của Hà Cảnh Lạc; nội dung tiểu thuyết Oan kia theo mãi của Lê Hoằng Mưu được Hồ Cảnh Tiên tự thuật trong ba mươi hai đêm; Trong Tơ hồng cay nghiệt (Câu chuyện canh trường) của Phú Đức, Minh Gương kể trong hai đêm. Điều đó dẫn đến việc nhân vật người dẫn chuyện thường xuyên phải xuất hiện giữa “những ngày”, “những đêm” mà nhân vật tự kể. Người dẫn chuyện luôn đồng hành cùng quá trình kể của nhân vật chính.
Nhân vật người dẫn chuyện xuất hiện để dẫn dắt câu chuyện đồng thời đưa ra những nhận xét, đối thoại với nhân vật chính. Do đó, bên cạnh điểm nhìn của nhân vật chính còn có điểm nhìn của nhân vật người dẫn chuyện. Người kể chuyện thường luân phiên giữa hai điểm nhìn trực tiếp và gián tiếp. Nhân vật người dẫn chuyện không chỉ mô tả những gì anh ta thấy (kể chuyện) mà còn miêu tả cảm xúc những gì anh ta thấy (kể tâm trạng).
Có thể nhận thấy, khi sáng tạo ra kiểu người kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm, tác giả văn học đã đẩy khỏi bản thân mình gánh nặng trách nhiệm trần thuật. Hạn chế của hình thức này bộc lộ ở chỗ tác giả không thể mô tả được một cách trực tiếp ý thức, đời sống tâm lý bên trong của nhân vật một cách khách quan, nhưng lại cho phép tác giả đưa vào việc trần thuật quan điểm riêng của nhân vật làm cho các sắc thái tâm lý nhân vật mang đậm tính chủ quan, mời gọi độc giả khám phá. Cách viết này đã thể nghiệm một cách thức cắt nghĩa đời sống theo cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ bên cạnh lối viết mà ở đó, người kể chuyện không xuất hiện trong tác phẩm nhưng là người biết hết mọi việc và kể lại cho độc giả - kiểu người kể chuyện toàn tri, góp phần làm phong phú các hình thức tự sự.
 2.3. Nhân vật và ngôn ngữ trần thuật
Trong tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ, nhân vật trở thành tâm điểm, nền tảng cấu tạo nên nội dung và hình thức của tác phẩm. Điều này đã được báo hiệu ngay nhan đề của tác phẩm, chẳng hạn: Lâm Kim Liêng của Trần Thiên Trung (Trần Chánh Chiếu) có phụ chú là tự thuật; Thói đời đen bạc của Phạm - V. - Chương có kèm phụ chú Hồ Thanh Xuân tự thuật; Duyên phận lỡ làng của Phạm Minh Kiên có kèm phụ chú Cảnh Lạc năm ngày tự thuật; Mười lăm năm lưu lạc của Phạm Minh Kiên có kèm phụ chú Dương Tuấn Anh tự thuật; Oan kia theo mãi của Lê Hoằng Mưu kèm lời phụ chú Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật. Kiểu phụ chú: “tên nhân vật + tự thuật” khiến cho độc giả hiểu là nhân vật tự kể về cuộc đời và số phận của mình (nhân vật tự thuật), là một trong những dấu hiệu để nhận biết tác phẩm chủ yếu sử dụng ngôi thứ nhất để trần thuật, theo đó, cốt truyện sẽ là những trải nghiệm của chính nhân vật. Cách đặt nhan đề có kèm cụm từ “tự thuật” như vậy chắc chắn là chịu ảnh hưởng từ cách đặt tên của một số tác phẩm trong văn học phương Tây. Bàn về nhan đề một số tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XVIII, Lê Nguyên Cẩn cho rằng: “Nếu chú ý tới tiêu đề của tác phẩm chúng ta sẽ thấy xuất hiện kiểu tiêu đề mang tính chất cá thể, đề cập đến số phận cá nhân và tạo ra tiền đề, điều kiện cần thiết cho sự xuất hiện nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ nhất” (14). Có thể thấy, ấn tượng đầu tiên của một tác phẩm văn học nói chung và một tiểu thuyết nói riêng nằm ở nhan đề tác phẩm. Nhan đề tác phẩm góp phần mời gọi người đọc bước vào thế giới văn chương. Do đó, việc đặt nhan đề không phải là một lựa chọn ngẫu nhiên của nhà văn mà là có dụng ý, nhắm đến không chỉ là một thông báo mà có khi là một thông điệp.
Nhân vật trong các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1932 là những nhân vật sám hối, sau khi đã lầm lạc, sa ngã trong cuộc sống hoặc nhân vật mang bất hạnh, đau buồn, mong được chia sẻ với người khác. Chúng tôi cho rằng, việc xuất hiện kiểu nhân vật sa ngã do đam mê dục vọng là một trong những biểu hiện mới mẻ của nhân vật thuyết Nam Bộ: con người cá nhân. Con người cá nhân được miêu tả dưới nhiều góc độ (tập trung nhất là con người xã hội và con người tâm lý), thể hiện những đột phá mang tính cách tân trong cái nhìn về con người trong tiểu thuyết Nam Bộ. Ở phương diện này, Truyện Thầy Lazarô Phiền có vinh dự là tác phẩm đầu tiên khai sinh ra kiểu nhân vật khác trước. Nhân vật được miêu tả dưới góc độ đời tư, tự nhiên, chân thật, với đời sống tâm lý phức tạp khó nắm bắt.
Ngoại hình nhân vật được nhà văn chú ý đặc tả như một cách thức gợi mở vào những uẩn khúc tâm hồn. Cách xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình của nhân vật không phải là mới. Thủ pháp này được thể hiện khá phổ biến trong văn học thời kỳ trung đại. Các nhà văn Nam Bộ khi sử dụng thủ pháp này đã có nhiều cách tân đáng kể. Nếu như trong văn học cổ việc miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình với những chi tiết có tính ước lệ, thể hiện tính cách phi phàm của nhân vật thì trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này đã đổi khác. Các chi tiết bình thường, cụ thể làm nên hình hài và tính cách nhân vật được nhà văn chú trọng.
Vị thầy tu khả kính tên Phiền (Thầy Lazarô Phiền), nếu cái tên đã được cha mẹ đặt từ khi lọt lòng, thì đó là một báo hiệu bất hạnh đã ứng nghiệm vào cả cuộc đời thầy. Thầy hiện lên trước mắt độc giả và người bạn đồng hành của mình với một ấn tượng đặc biệt: “Thầy chừng ba mươi tám, ba mươi chín tuổi, thấp người, giọng nói đau thương. Mặt mũi thì xanh xao mét ưởng, mình thì ốm o gầy mòn, lại cái áo dòng người mặc nó bay phấp phới hai bên làm cho thầy ấy giống như hình con bù nhìn, để nơi đồng ruộng mà đuổi chim”. Hình ảnh khổ hạnh ấy cho thấy đây là một con người mang nhiều tâm sự buồn thương, tạo sự tò mò muốn khám phá cho người bạn đối diện và với độc giả. Là con người của đời thường, Hồ Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi) được Lê Hoằng Mưu tả: “Bây giờ đây tôi xem kỹ, lại cũng nhờ có ngọn đèn cầu càng khuya càng rạng ánh soi, tôi mới thấy rõ người ấy đầu vấn khăn lược, chơn mang giày Tây, mình mặc áo ca-sơ-mia, quần nhiễu. Mặt xanh như màu lá, mắt sâu má thỏn, càng nhìn coi càng thẳm lạnh lùng, nếu trước tôi chẳng biết có người ấy đây, bỗng nhiên mà thấy, ắt tôi tưởng là hồn ma hiện tại”. Hình dạng của Hồ Cảnh Tiên thật tiều tụy. Rõ ràng, đây không phải là hình vóc của con người nghèo đói mà là người bị suy sụp về tình cảm, tư tưởng. Trên khuôn hình đó, nhân vật thường “mỉm cười một cách đau đớn” trong quá trình thuật lại chuyện của mình. Hình ảnh của Hà Cảnh Lạc (Duyên phận lỡ làng) hiện ra dưới ngòi bút của Phạm Minh Kiên: “Ký giả đi vừa tới cái ghế xanh, dựa bên lùm cây im lợp kia, thấy một người mặc áo dài quần trắng, giày đen, ngồi chống tay lên cằm, day mặt xuống mé sông, bộ sầu đông thảm bắc”. Còn Minh Gương (Tơ hồng cay nghiệt) của Phú Đức: “Ngoài đầu cầu có một gã xanh mày ngồi một mình dựa cái bàn sắt, trên có một ly rượu mát (la bière) vài phân đã cạn. Trang sức có bề mô phạm, rõ ràng phái mặt văn minh, người mặc một bộ đồ âu phục bằng tussor, ngồi đoanh tròng mà nhìn chị nguyệt nhưng mà mặt có vẻ ưu sầu, vì ánh trăng mà ký giả thấy được hai dòng lệ ứa chói nháng tợ sao”. Điểm chung gữa những nhân vật chính trong các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất trong văn học Nam Bộ là những nam nhân, có học thức và có bi kịch tình cảm gia đình. Ngoài ra, các nhân vật không chỉ là chứng nhân kể lại các biến cố mà chính là nạn nhân của các biến cố đó. Thầy Phiền không chỉ là chứng nhân của một thời kỳ giao tranh gữa quân đội Pháp Nam, của chính sách cấm đạo mà còn là nạn nhân của thời cuộc. Hồ Thanh Xuân, Lâm Kim Liêng là những nạn nhân của “thói đời đen bạc”. Có thể thấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả nhân vật chính của tác phẩm, những nhân vật khác thường được đề cập qua cái nhìn của nhân vật chính, và thường không được miêu tả.
Dường như có một dụng ý của các tác giả khi tạo một văn cảnh cho sự xuất hiện của các nhân vật này: thầy Phiền với vẻ khổ hạnh đứng đối diện với sông nước mênh mông trên đường xuống Bà Rịa; Hồ Cảnh Tiên cô đơn trên cầu Thủ Ngữ dưới màn đêm; Hà Cảnh Lạc một mình ngồi day mặt xuống mé sông vào một buổi chiều; Minh Gương ngồi đầu cầu tàu một mình ngắm trăng. Cảnh sông nước mù khơi có lẽ hợp với tâm trạng cô đơn của nhân vật và cũng khiến cho nhân vật dễ bộc lộ, sẻ chia nỗi đau của mình với người khác. Và nếu cái tên Phiền (Thầy Lazarô Phiền) như một sự trùng ứng với số phận thì những cái tên khác như Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi), Cảnh Lạc (Duyên phận lỡ làng), Thanh Xuân (Thói đời đen bạc), Minh Gương (Tơ hồng cay nghiệt) đáng lẽ là tươi vui, hoan lạc, sáng sủa thì lại có một sự trái ngược trớ trêu trong cuộc đời: buồn thương, thất vọng. Tất cả đều là dụng ý của các nhà văn nhằm tiến đến việc mô tả một cách toàn diện hình tượng nhân vật trung tâm trong tác phẩm của mình. Như vậy, Cách đặt tên cho nhân vật đã có những nét khác với một số tác giả cùng thời. Một số nhà văn khi xây dựng nhân vật thường “hé lộ” tính cách và phẩm chất nhân vật thông qua tên gọi. Tên gọi của nhân vật phần nào cho thấy bản chất con người của nhân vật mà nhà văn muốn xây dựng. Những cái tên lắm lúc gợi cho người đọc đoán biết được những tính cách và phẩm chất nhân vật. Chẳng hạn những cái tên của nhân vật như: Hảo trong Cười gượng của Hồ Biểu Chánh; Hạnh trong Kẻ oán người ưng của Nguyễn Bửu Mộc gợi nhớ những người con gái có phẩm hạnh tốt; thị Bần, thằng Bỉ, thằng Cực, con Lượm trong Mạng nhà nghèo của Nguyễn Bửu Mộc gợi lên hình ảnh đói khổ, cơ cực của các nhân vật; Thiện Tâm trong Hòn máu bỏ rơi của Nguyễn Thới Xuyên, Hữu Nhơn trong Tại tôi của Hồ Biểu Chánh, Lê Quý Hữu trong Hổ thầm của Nguyễn Bửu Mộc là những người tốt bụng luôn giúp những người nghèo khó; Bội Nghĩa trong Hổ thầm có bản chất lừa thầy phản bạn; Diệt Tộc trong Mạng nhà nghèo là người giết vợ cả, giết vợ hai và giết cả cha của mình.
Ngoài ra, các nhà văn đã miêu tả được thế giới nội tâm phức tạp song trùng với ngoại hình của nhân vật. Với phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, ở đó nhân vật tự bộc lộ mình, đã mang đến cho tiểu thuyết một xu hướng hướng nội đậm nét. Qua những lời tự thú, trần tình của nhân vật, thế giới nội tâm được phơi mở. Ngòi bút của nhà văn có điều kiện chạm đến những khuất lấp bí ẩn, những biến thái tế vi của tâm hồn nhân vật. Ở đó chúng ta bắt gặp những giây phút nhân vật nói thật sau những đổ vỡ, lầm lạc, sa ngã khi đứng trước sự phán xét của tòa án lương tâm. Thầy Lazarô Phiền có thể thoát sự trừng trị của pháp luật sau khi gây tội ác, nhưng thầy luôn phải sống trong lo sợ và ân hận. Nguyễn Trọng Quản đã đặc tả hành trình tự vấn của vị thầy tu: “Thầy ôi! Đã mười năm nay, tôi như thể không còn trái tim nữa, trái tim tôi như thể đã biến hóa ra tro bụi rồi, tôi như thể mất trí khôn vậy. Chớ chi thuở trước tôi đừng có… ôi thôi. Nói đến chừng nào càng đau lòng chừng nấy, bấy giờ có một sự chết làm cho tôi quên người đó mà thôi… Tôi có ý đi tu cho đặng trông cậy có lẽ đọc kinh cầu nguyện thì tôi sẽ quên người tôi đã đem hết lòng hết trí mà thương, song vô ích, thầy! Sự tôi chịu cực mười năm nay thì đã đủ mà đền tội tôi rồi”. Nhân vật cố trốn chạy vết thương quá khứ, thế nhưng càng lẩn tránh, quá khứ càng ám ảnh, bủa vây, xiết chặt và theo thời gian dồn nhân vật đến cái chết: “Phải mà thầy ấy thấy mặt tôi khi ấy sẽ kinh khủng chẳng sai, là vì khi đó tôi như bị quỷ ám vậy. Một ít nữa thì tôi sẽ giết một người kia vô tội, mà bây giờ tôi còn gượng mà cười đặng thì mặt mũi tôi hóa ra gớm ghiếc lắm”. Và không phải ngẫu nhiên, tác giả đã miêu tả thầy Phiền “nước mắt chảy ròng” nhiều lần trong tác phẩm. Đó là giọt nước mắt của sự hối hận, một biểu hiện nhân văn sâu sắc của tính thiện trong con người thầy Phiền. Truyện Thầy Lazarô Phiền đã tạo dựng được thế giới nghệ thuật độc đáo tựa trên hành trình tâm lý của nhân vật. Chính ở phương diện này, truyện Thầy Lazarô Phiền đã đưa ra một thử nghiệm, một lối đi đầy hứa hẹn khám phá thế giới nội tâm con người trong các tiểu thuyết sử dụng phương thức trần thuật ngôi thứ nhất ở Nam Bộ. Đấy là chưa kể đến sự ảnh hưởng của hình mẫu nhân vật thầy Phiền đối với nhân vật Hồ Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi) của Lê Hoằng Mưu. Cũng có trạng huống tình cảm như thầy Phiền, Hồ Cảnh Tiên ghen tuông rồi dẫn đến ngộ sát, sống trong sự giằn vặt khổ đau và kết thúc bằng cái chết. Có thể thấy, thể hiện diễn trình tâm lý phức tạp của nhân vật là tâm điểm chú ý của nhà văn trong quá trình kiến tạo tác phẩm với phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất. Xuất phát từ phương thức trần thuật này, thế giới nội tâm của nhân vật được mở ra một cách tự nhiên, mang đậm tính chất tự thú, sám hối. Hành trình kể lại câu chuyện cuộc đời, nhân vật đã tự mình nhận xét, ứng xử, suy nghĩ trước và sau những biến cố cuộc đời. Điều này dẫn đến một hệ quả: tình tiết và cốt truyện của tiểu thuyết vận động gắn chặt với hành trình của tâm lý nhân vật, và do vậy, toàn bộ cấu trúc nghệ thuật tác phẩm mang đậm dấu ấn chủ quan của người kể. Trong thực tế, phải đến sau 1932 chúng ta mới thấy lại phương thức tự sự này trong những sáng tác của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh, và dĩ nhiên là ở một cấp độ mới. Điều đó lại càng cho thấy một thực tế: tinh thần hiện đại và tiên phong cũng như những đóng góp quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa văn học của tiểu thuyết Nam Bộ.
Phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, với lối kể chuyện chủ quan, đã có những tác động đến những khía cạnh quan trọng của cấu trúc nghệ thuật, trong đó có vấn đề ngôn ngữ và giọng điệu. Tựa trên nền tảng trần thuật ở ngôi thứ nhất, với nhân vật xưng tôi, ngôn ngữ tiểu thuyết chủ yếu là thứ ngôn ngữ đơn thanh. Đặc biệt trong các tiểu thuyết Lâm Kim LiêngThói đời đen bạc tính chất đơn thanh càng rõ, bởi nội dung của chúng được kể hoàn toàn theo quan điểm của nhân vật. Cảm giác của người đọc đối với những tiểu thuyết này là ở chỗ nó gần với độc thoại, thường rất ít đối thoại mà nếu có thì nó cũng là giọng điệu của nhân vật. Tuy vậy, những tiểu thuyết có sự xuất hiện của người dẫn chuyện xưng “tôi” bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ của nhiều giọng tạo nên sự đa thanh, nhiều bè. Trong truyện Thầy Lazarô Phiền có giọng thương cảm sẻ chia của người dẫn chuyện và giọng hối hận đến khắc kỉ của thầy Phiền. Bản thân giọng thầy Phiền cũng có nhiều sắc thái cung bậc: giận giữ khi nghi ngờ vợ ngoại tình (tất nhiên thầy vẫn giữ bề ngoài bình thản - đây là điểm khác biệt giữa nhân vật của Nguyễn Trọng Quản và của các tác giả khác), hối hận sau khi giết vợ và bạn, chân thành tin tưởng khi giao tiếp với người bạn đồng hành. Hà Cảnh Tiên trong Oan kia theo mãi cũng có giọng mang nhiều cung bậc giống thầy Lazarô Phiền. Riêng Thói đời đen bạc nổi bật là giọng thuyết giảng đạo đức, giọng của nhân vật bị chi phối bởi giọng luân lý của tác giả.
3. Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra sớm ở Nam Bộ, và bằng thể loại tiểu thuyết. Tìm hiểu tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, chúng ta không thể không đề cập đến những đóng góp của tiểu thuyết, mà đặc biệt là dòng tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ từ 1887 đến 1932.
Trong tiến trình hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX, Truyện Thầy Lazarô Phiền (1887), với tư cách là tiểu thuyết trần thuật ngôi thứ nhất, tác phẩm này đã mở ra một lối đi đầy hứa hẹn cho tiểu thuyết mang tinh thần hiện đại. Truyện Thầy Lazarô Phiền còn có một vinh dự khác là đã đưa ra tuyên ngôn cho nền văn học mới: “Đã biết rằng xưa nay dân ta chẳng thiếu chí thơ văn phú truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà những đấng thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi vì đó tôi mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường trước mắt ta luôn như vậy sẽ có nhiều người lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải buồn một giây”. Chúng ta thấy tinh thần hiện đại gì qua phát biểu này? Có thể nói, tinh thần hiện đại thể hiện qua quan niệm văn học mới mẻ khác với quan niệm văn học của thời kỳ trung đại về văn thể, đối tượng phản ánh, tinh thần ngôn ngữ, chức năng của văn học. Hay nói cách khác, tuyên ngôn này cho thấy sự khác biệt giữa nền văn học truyền thống và nền văn học mới mà các nhà văn đang cố gắng xây dựng, sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về cuộc sống, xã hội và con người. Tinh thần văn nghệ mới mẻ mà Nguyễn Trọng Quản khởi xướng và thể nghiệm qua Truyện Thầy Lazarô Phiền đã được các nhà văn Nam Bộ kiên trì thực hiện và đã tạo ra nhiều thành tựu. Sự xuất hiện của dòng tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất là một trong những thành tựu ấy. Tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất, sau Truyện Thầy Lazarô Phiền, đã tiếp nối và làm phong phú hơn các thủ pháp nghệ thuật nhằm biểu hiện sâu sắc các khía cạnh phức tạp của con người cá nhân.
Trên phương diện kỹ thuật tự sự, tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ đã có những đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn xuôi tự sự Việt Nam. Từ rất sớm, khi nền văn học chưa bước hẳn vào thời hiện đại, tiểu thuyết Việt Nam vẫn còn ở dạng phôi thai, các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất đã trình bày những câu chuyện của thời hiện tại, với một kiểu người kể chuyện mang điểm nhìn của cái tôi chủ quan, một kiểu nhân vật con người cá nhân với những đam mê, lầm lạc, tự thú khác xa với kiểu nhân vật đấng bậc trong văn học trung đại. Và, cũng cần nói đến một thực tế là, từ rất sớm, tinh thần tự chủ về văn hóa trên phương diện ngôn ngữ thể hiện rất rõ trong ngôn từ của tiểu thuyết. Tinh thần viết “tiếng An nam ròng” khởi đi từ Trương Vĩnh Ký và thế hệ của ông qua thế hệ Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Phạm Minh Kiên, Phú Đức… càng được khẳng định. Tinh thần ấy, nơi các tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất, biểu hiện ở việc ngôn ngữ kể và tả được người viết kiến tạo trên nền tảng, sắc thái khẩu ngữ. Càng có ý nghĩa hơn nếu chúng ta thừa nhận rằng, việc tăng cường ngôn ngữ đời sống trong tác phẩm không những tạo ra sắc thái độc đáo của ngôn ngữ văn học vùng miền, mặt khác như Nguyễn Huệ Chi đã chỉ ra, nó cũng góp phần “phá vỡ ngôn ngữ với phép tắc từ chương học cổ truyền” (15). Đó là những đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Trên phương diện đời sống xã hội, tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ, từ rất sớm, đã đề xuất căn bản một vấn đề hết sức hệ trọng đối với đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ tiền hiện đại: vấn đề con người cá nhân. Theo chúng tôi, hiện đại hóa văn học, xét ở một phương diện nào đó đã góp phần hiện đại hóa xã hội. Nếu thừa nhận như vậy thì từ rất sớm, Nguyễn Trọng Quản, nơi lời đề tặng Truyện Thầy Lazarô Phiền cho các bạn đồng môn cũng đã cho thấy một mong muốn hiện đại hóa xã hội Việt Nam, thể hiện một ước mơ hết sức chân thành và cảm động: “Các bạn còn nhớ chăng trên những lối đi ấy, miệng phì phà điếu thuốc bị cấm, chúng ta vừa sánh bước vừa thốt ra thành lời niềm mơ ước cho xứ Nam Kì thân yêu của chúng ta nột tương lai chói rạng ánh sáng, tiến bộ và văn minh! Này các bạn! mong rằng tác phẩm mà tôi khiêm tốn mà tôi đề tặng các bạn đây là khởi điểm của sự thực hiện mơ ước ngày trước”. Ngày hôm nay chúng ta không biết những thanh niên du học, tiếp xúc văn minh phương Tây thế hệ Nguyễn Trọng Quản đã mơ ước điều gì cho xã hội Việt Nam? Nhưng, như lời nhà văn nói, tác phẩm Truyện Thầy Lazarô Phiền là “khởi điểm của sự thực hiện ước mơ ngày trước” thì chúng ta cũng có thể ước đoán phần nào dự tính của họ: hiện đại hóa xã hội. Hiện đại hóa xã hội bắt đầu từ sự đổi mới văn học và qua đó đặt vấn đề về đời sống, quyền sống của con người cá nhân trong xã hội. Có thể nói, trên phương diện xã hội, tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất ở Nam Bộ đã mang đến tiếng nói của con người cá nhân trong đời sống. Ngoài ra, hiện đại hóa xã hội, nhìn từ hiện đại hóa văn học, một phương diện nào đó chính là quá trình đại chúng hóa văn học. Đại chúng hóa văn học ở Nam Bộ được tiến hành đồng thời từ phía sáng tác và tiếp nhận và dễ thấy ở tiểu thuyết. Tiểu thuyết Nam Bộ thời sơ khởi đã hướng đến đại chúng, và từ rất sớm đã xác lập được mô hình hiện đại mang tính đại chúng. Đó là những khơi nguồn, đóng góp của tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX1
_____________

(1) Xin xem:
- Nguyễn Văn Trung: Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên – Thầy Phiền của Nguyễn Trọng Quản, (tài liệu in ronéo), Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
- Bằng Giang: Văn học quốc ngữ Nam Kỳ 1865-1930, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
- Nguyễn Huệ Chi: Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu, Tạp chí Văn học, số 5-2002.
- Trần Hữu Tá: Nghĩ về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam Bộ, Tạp chí Văn học, số 10-2000.
- Hoàng Dũng: Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản và những đóng góp vào kĩ thuật hư cấu trong văn học Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 10-2000.
- Nguyễn Thị Thanh Xuân: Văn học hiện đại Việt Nam bước đầu quan trọng ở Sài Gòn - Nam Bộ, Tạp chí Văn học, số 3-2000.
- Võ Văn Nhơn: Con đường đến với tiểu thuyết hiện đại của hai nhà văn tiên phong Nam Bộ, Tạp chí Văn học, số 3-2000.
- Huỳnh Thị Lan Phương, Nguyễn Văn Nở: Vấn đề xác định thể loại Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Nghiên cứu Văn học, số 4-2011.
(2) Xin xem:
- Lê Tú Anh: Thử đề xuất một cách phân loại tiểu thuyết giai đoạn 1900-1930, Nghiên cứu Văn học, số 7-2009.
- Đỗ Hải Ninh: Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, Nghiên cứu Văn học, số 8-2011.
(3) Hamburger, K.: Logic học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.427.
(4) Lotman, IU. M.: Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.447.
(5) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương: Lý luận văn học - Vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.202.
(6), (13) Todorov, T.Z.: Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, (Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch), Nxb. Đại học Sư Phạm, Hà Nội, 2008, tr.102, 101.
(7) Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên): Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr.100.
(8), (11) Trần Đình Sử (chủ biên): Tự sự học (một số vấn đề lý luận và lịch sử), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004, tr.161, 117.
(9) Nguyễn Văn Trung: Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên, (tài liệu in ronéo), Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr.4.
(10), (12) Hoàng Dũng: Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản và những đóng góp vào kĩ thuật hư cấu trong văn học Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 10-2000, tr.56, 56.
            (14) Lê Nguyên Cẩn: Về tiểu thuyết sử dụng ngôi thứ nhất trong văn học phương Tây thế kỷ XVIII, Tạp chí Văn học, số 3-2003, tr.27-28.
(15) Nguyễn Huệ Chi: Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu, Tạp chí Văn học, số 5-2002, tr.16.


(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số tháng 8-2012)

TRẦN DẠ TỪ * BÀI KỶ NIỆM

Bài Kỷ Niệm
Trần Dạ Từ
Tôi nhớ người thôi hết mùa xuân
đường đi nghe mắt đã âm thầm
chân buồn lên đống đôi chiều nắng
mang lá xanh còng gây tiếc thương
thuở ấy tôi về ngang đất cũ
ngày thơ ngây cũng đẹp như hồn
người đi trên những con đường đó
lòng cũng lên mùi cỏ mới thơm

em áo còn bay chiều ước hẹn
giấc mơ đời ngọt vị bâng khuâng
nắm tay dài mãi niềm lưu luyên
chân chậm dừng như đến ngại ngần

tôi gửi đời tôi trong tóc ấy
ôm người chưa chắc nổi vòng lưng
chiếc hôn đầu chết trên vừng trán
môi đã nghìn năm biết tủi hờn

tôi nhớ người thôi hết đời tôi
đường đi không kết nổi câu cười
buồn hoang đến nửa đời thơ dại
trong những chiều ai mang áo phơi

(Thuở Làm Thơ Yêu Em)


TS. LÊ MỘNG NGUỆN * KIM THÀNH & TÔN THẤT PHÚ SĨ

Lê Mộng Nguyên * Bến Đợi thơ của đồng tác giả Kim Thành – Tôn Thất Phú Sĩ và Kim Vân Kiều 1 & 2 của Quách Vĩnh Thiện phổ thơ Nguyễn Du…

Bến Đợi thơ của đồng tác giả Kim Thành – Tôn Thất Phú Sĩ và Kim Vân Kiều 1 & 2 của Quách Vĩnh Thiện phổ thơ Nguyễn Du…

Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên



Trong Chiều Sinh Hoạt Văn Hóa Nghệ Thuật do Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, tổ chức ngày 27 th.01-2008 tại Quán Đào Viên, đường Baudricourt, Quận 13, dưới chủ đề : « Hội luận về những Nét Đẹp trong Kim Vân Kiều của thi hào Nguyễn Du » và sau khi nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên « Nói về Ns Nghiêm Phú Phi và Lê Mộng Bảo » vừa vĩnh viễn ra đi, Ns Trịnh Hưng tưởng niệm Ns Châu Kỳ, và nhà văn Hồ Trường An nhắc nhở nữ danh ca Mộc Lan, nhà thơ chủ tịch và điều hợp Đỗ Bình giới thiệu hai khuôn mặt mới của Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN - Paris : thi sĩ Tôn Thất Phú Sĩ và Ns Quách Vĩnh Thiện.


Tác giả (với Kim Thành) của tập thơ nổi tiếng BẾN ĐỢI đã trình làng thành công mỹ mãn tại Little Saigon, California - Hoa Kỳ ngày 28 tháng 10-2007, nhà thơ Tôn Thất Phú Si sinh ngày 01/10/1942 tại Đà Nẳng, là cựu học sinh trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, La San Pellerin Huế. « Từ bỏ những ngày êm ả trên ghế trường đại học y khoa năm 1964 anh chen vai thích cánh tranh đua cùng hàng ngàn sinh viên toàn quốc, Huế, Sài Gòn, Đà Nẳng, Nha Trang, Cần Thơ giành một chỗ học trong khóa 15 SQHQ tại trường sĩ quan hải quân Nha Trang » (Trần Văn Sơn, 28/10/2007). Sau 6 năm cải tạo trong nhiều trại tù, anh vượt biên năm 1981 và định cư tại Pháp. Có lẽ vì tôi là người đã sống trên đất Kinh thành Hoa Lệ từ hơn nửa thế kỷ nên lúc anh Đỗ Bình nói về bài thơ đắc ý nhất của tác giả « Bến Đợi », tôi nghĩ đến « Paris… Anh Tìm Em » :… Bờ sông Seine in dấu chân em bướcHồn anh theo từng ngọn cỏ em quaTiếng thở đau từ hư vô đọng lạiVẫn còn đây dấu vết thuở ban đầuKhải Hoàn Môn những con đường hội ngộTình của mình cũng nở rộ trong timEm ơi ! Cứ mỗi lần nghe sóng vỗLà mỗi lần anh tâm nguyện cầu xinNhưng em hiểuĐâu có phải lần nàoSóng cũng dịu dàng hôn bờ cát em điAnh tìm em giữa phố Paris……………………………………….Thật dịu dàng tinh khiết như Thảo Chi trong Nhẹ Bước Vào Thơ, êm ái nhưng buồn đau tương tự Tế Hanh : “…Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu / Ngàn đời không đủ sức đi mau / Có chi vương víu trong hơi máy / Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau…“ (Nghẹn Ngào), đúng như triết gia Doãn Quốc Sỹ đã viết : “Thơ của Tôn Thất Phú Sĩ mang nét dịu dàng, lời thơ trung thực, mượt mà…“


Ns Quách Vĩnh Thiện được anh điều hợp Đỗ Bình giới thiệu là tác giả mà cũng là người thực hiện một công trình vĩ đại và lâu dài, một thử thách chưa từng có : phổ thơ KIM VÂN KIỀU của đại thi hào Nguyễn Du, gồm cả thảy 3254 câu ! Chúng ta biết trước đó, với Kiều Ca (Songs of Kiều hay Le Roman de Kiều en chansons), THU HÀ và nhóm nghệ sĩ trong đoàn ca nhạc của nàng, đã làm (cách đây khoảng chín năm) 2 CD dài gần hai tiếng đồng hồ, ra mắt ngày 19 tháng 06-1999 trước đồng hương cư ngụ tại Hoa Kỳ (trên 1000 khán thính giả có mặt tại Trung Tâm Hội Nghị Santa Clara ở San Jose, California)… Nhóm Thu Hà trình bày Truyện Kiều bằng cách trích từng đoạn này qua đoạn khác (với những lời dẫn giải mở đầu và nối tiếp rõ ràng do Diệu Tân và Vũ Quỳnh Hương, Vũ Hà diễn đọc) để làm sống lại một cách xác lý nỗi đoạn trường của Vương Thúy Kiều. « Kiều Ca » theo ý niệm này, gồm trước nhất một phần Ngâm qua những giọng ưu ái và linh động của Thu Hà, Thanh Hùng, Kiều Loan, và phần thứ hai bằng lời Ca (do Hải Hà phổ nhạc) của Thu Hà, Anh Dũng với phụ họa nữ, và hòa âm Hồ Đăng Tín… Khác hẳn với nữ Nghệ sĩ Bích Thuận trong CD « Kim Vân Kiều » đã ngâm hoàn toàn theo kiểu Tao Đàn mà thi sĩ Đinh Hùng phát khởi từ thập niên 60 để ngâm thơ mới, phần thơ trong Kiều Ca của Thu Hà, Thanh Hùng và Kiều Loan, được ngâm theo điệu cổ truyền gọi là Kiều Lẫy, nghĩa là lượm lặt những câu thơ trong Truyện Kiều từ nhiều đoạn khác nhau để thu ghép lại với nhau theo vần điệu, tương tự như mấy cụ nhà nho, nhà chùa ngâm Kiều ngày xưa… Đi đôi với Kiều Lẫy, nỗi đau khổ, gian truân của Thúy Kiều cũng được diễn tả qua điệu sa mạc, ru em hay chiêu hồn, làm cho đôi mắt thính giả nhiều lúc rướm lệ, thông cảm với thân phận long đong, bèo bọt của nhân vật chính trong « Đoạn Trường Tân Thanh » của Tố Như tiên sinh.



Trong Chiều Văn Hóa ngày 27 th.01-2008, trước một cử tọa có nhiều quan khách giáo sư học giả tiến sĩ hay bác sĩ như nhà thơ Nguyễn Bá Hậu đã nhắc lại :“ Tất cả chúng ta đều biết cụ Nguyễn Du, qua thi phẩm Kim Vân Kiều, đã được cơ quan quốc tế UNESCO liệt vào hạng danh nhân thế giới. Vì giá trị một tác phẩm được đánh giá theo hai phương diện, văn chương và tư tưởng cho nên chúng ta nên tìm hiểu những nét đẹp về hai phương diện đó trong Kim Vân Kiều. Cách đây hai tháng, trong buổi hội thảo do Câu Lạc Bộ chúng ta tổ chức, tôi đã có dịp trình bày một phần những nét đẹp về văn chuơng Nguyễn Du như tài mô tả một cách linh động , đầy màu sắc những cảnh đẹp thiên nhiên (phong hoa tuyết nguyệt) qua những câu thơ sau chẳng hạn :
Gương nga chênh chếch nhòm songVàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sânHải đường lả ngọn đông lânGiọt sương trĩu nặng cành xuân la đà…Long lanh đáy nước in trờiThành xây khói biếc, non phơi ánh vàng…Đòi phen gió tựa hoa kềNửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu…


Để tả hình dáng và tính nết con người, Nguyễn Du chỉ dùng vài vần thơ y như một họa sĩ dùng một vài nét chấm phá…”Nói như thế, Bs Hậu muốn sắp tác giả Truyện Kiều vào hạng những nhà thơ ấn tượng, mặc dầu khi Tố Như tiên sinh đi sâu vào nỗi đoạn trường của Vương Thúy Kiều, ông thuộc về phái văn chương biểu hiện. Cả hai phương pháp đã làm cho công trình phổ nhạc Kim Vân Kiều của Quách Vĩnh Thiện được thanh thoát hơn, vì vần điệu trong thể thơ lục bát rất giàu, chỉ có 4 câu thơ (28 chữ) mà chứa đựng tới 6 vần : “Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau / Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”…



Trong hai CD KIM VÂN KIỀU 1 - Trăm Năm Trong Cõi Người Ta & 2 - Bên Tình Bên Hiếu, Quách Vĩnh Thiện giới thiệu tóm tắt nhà đại thi hào việt Nam (1766-1820) như sau : “Nguyễn Du biệt hiệu là Tố Như, ông trải qua nhiều khó khăn thời thơ ấu, mồ côi cha lúc 10 tuổi, 13 tuổi mẹ ông qua đời. Năm 1802, ông được làm quan với triều Nguyễn…” Tác giả hai CD này loan báo sẽ cho ra những Albums kế tiếp : KVK 3 - Quyến Gió Rủ Mây, KVK 4 – Tài Tử Giai Nhân, KVK 5 – Cá Chậu Chim Lòng, KVK 6 - Hại Nhân Nhân Hại, KVK 7 - Chữ Tài Chữ Mệnh : tất cả gồm 77 bài hát với 3254 câu thơ của Nguyễn Du. Và nói tiếp : “Truyện Kiều không chỉ là tiếng kêu thương đau cho thân phận một người con gái tài sắc, còn là lời tố cáo đanh thép những bất công tàn ác của một xã hội rối ren và mục nát vào thế kỷ 18 và 19. Nguyễn Du khóc cho thân phận Thúy Kiều là phản ảnh của tâm trạng mình. Truyện Kiều là một tác phẩm phong phú, độc đáo của dân tộc Việt Nam”. Kế đó, Ns Quách Vĩnh Thiện tâm tình với cử tọa chiều hôm ấy như sau :


“Tôi tập Thiền từ năm 1966 được cảm nhận là Thiền đem lại nhiều sức khỏe cho chính mình và nhìn thấy những tánh hư tật xấu của mình để sửa đổi và đi đến sự thanh tịnh cho nội tâm… Nhờ thế tôi làm được những bài hát Thiền do các Thiền sư làm ra mà các nhạc sĩ nổi tiếng như … Hoàng Thi Thơ, Duy Khánh, Trần Trịnh vân vân… đã vấn thân để phổ nhạc Thiền mà tôi đã làm hơn 80 bài hát Thiền.Năm 2005 tình cờ tìm thấy một tập thơ Kim Vân Kiều mục nát rách tan tả, ngồi dáng lại tập thơ…kế tiếp luôn tiện đọc lại tập thơ KVK mà mình đã biết rất ít. Đọc đi đọc lại ba lần rồi cảm nhận được nội dung quá xuất sắc và rung động đến câu “Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người”Từ đó có ý định là phổ nhạc hết truyện Kiều.



Đây là một công việc đầy khó khăn về âm nhạc và tài chánh vì phải làm 7 CD và mỗi CD gồm có 11 bài tức là 77 bài hát phải tốn kém rất nhiều tài chánh và thời gian, hiện đã thực hiện 26 bài. Bắt đầu thực hiện vào năm 2005 và dự định hoàn tất vào cuối năm 2009 tức là 5 năm trường. Không có cơ quan nào hỗ trợ tài chánh cả, các CD được các bạn ủng hộ để tiến hành cho CD kế tiếp. Về lối phổ nhạc vì tôi sống thưở nhỏ ở Việt Nam và đi du học sang Pháp vào lúc 20 tuổi, hấp thụ hai nền văn hóa Á Âu và trở thành nhà kỷ Sư Tin Học nên nhạc của tôi không hẳn là lối nhạc Việt Nam mà cũng không hẳn là lối nhạc Châu Âu. Những bài phổ nhạc được trình bày do các ca sĩ trẻ ở Việt Nam, toàn là những ca sĩ đang lên và được hâm mộ tại Việt Nam như : Quỳnh Lan, Tố Hà, Hương Giang, Mỹ Dung, Mai Thảo, Xuân Phú, Thùy Long…” :
Dạy rằng : “ Mộng triệu cứ đâu, Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!”Vâng lời khuyên giải thấp cao, Chưa xong điều nghĩ, đã dào mạch Tương
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,Nách tường buông liễu bay sang láng giềng.Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng,Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.Cho hay là giống hữu tình,Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong!Chàng Kim từ lại thư song,Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.Sầu đong càng khắc càng đầy,Ba thu dọn lại một ngày dài ghê !Mây tần khóa kín song theBụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng. Buồng văn hơi lạnh như đồng,Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loanMành tương phơn phớt gió đàn,Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình :Vì chăng duyên nợ ba sinh,Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.Một vùng cỏ mọc xanh rì,Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu !Gió chiều như gợi cơn sầu,Vi-lô hiu hắt như màu khơi trêu.Nghề riêng nhớ ít, tưởng nhiều.Xăm xăm đè nẻo Lam-kiều lần sang.Thâm nghiêm, kín cổng, cao tường,Cạn dòng lá thắm, dút đường chim xanh. Lơ thơ tơ liễu buông mành, Con oanh học nói trên cành mỉa mai
(Bài ca thứ 7 “Mộng Triệu Mạch Tương 235 – 270, trích CD Kim Vân Kiều 1, Nhạc Quách Vĩnh Thiện, Thơ Nguyễn Du - Giọng nam ca sĩ Thùy Long).


Lê Mộng Nguyên (Paris)
 

 


No comments:

Post a Comment