Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday, 11 December 2016

BƯU THIẾP VNCH=BÙI MỸ DƯƠNG=HUẾ=

ĐOÀN DỰ * PHAN LẠC TUYÊN


Tình Yêu-Tình Cha Con - Đạo Đức Của Người Cộng Sản Phan Lạc Tuyên
ĐOÀN DỰ ghi chép
THUA QUÝ BẠN, như quý bạn đã biết, Đoàn Dự tôi thuờng tránh, không thích nói tới bất cứ cái gì có dính dáng tới chính trị. Bởi vì, ở truờng hợp tôi rất khó, hễ nói sơ xuất, bên ấy không bằng lòng cũng chết, bên này không bằng lòng cũng chết, chẳng thà đừng nói còn hơn. Thế nhưng tôi lại thích kể với quý bạn những chuyện có thật. Mà, những chuyện có thật thì các nhân vật của nó cũng có thật, tránh sao cho khỏi đụng chạm? Tôi lấy ví dụ, câu chuyện tình yêu của cô gái Kampuchia này, cô ta có thật, nguời cô ta yêu là “ông thầy” Phan Lạc Tuyên cũng có thật.

Muốn nói thật về Phan Lạc Tuyên rất khó, dễ bị chuyện này chuyện khác như chơi. Tôi đa định lờ đi, nói sơ sơ thôi. Nhưng đã kể chuyện thì phải có đầu có cuối. Thôi thì tôi…uống thuốc liều, cứ kể thật rõ về ông Phan Lạc Tuyên với mối tình của cô gái Kampuchia Trinh Mây rồi ai muốn nghĩ sao thì nghĩ, nếu tôi trình bầy có điều gì khiến bên này hay bên ấy không bằng lòng, xin hãy thông cảm cho tôi là được. Bây giờ tôi xin bắt đầu…
Thân thế Phan Lạc Tuyên
Phan Lạc Tuyên sinh năm 1928, là hậu duệ đới thứ 13 của họ Phan cự phách ở làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây. Năm 1951, đang học dở dang trường Luật tại Hà Nội, Phan Lạc Tuyên được gọi vào danh sách đào tạo Sĩ quan trừ bị khoá 1 của Quân đội Quốc gia Việt Nam (lúc này đang chiến tranh Việt-Pháp, QGVN dưới quyền Pháp và Quốc trưởng BảoĐại), chung khoá với một loạt những vị sau này sẽ là các tướng lãnh tên tuổi của quân đội VNCH, như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Đức Thắng, Bùi Đinh Đạm, Nguyễn Bảo Trị, Chung Tấn Cang, Lê Nguyên Khang…vv.
Tới đầu năm 1960, do BS Trần Kim Tuyến giới thiệu, Phan Lạc Tuyên được Tổng thống Ngô Đình Diệm cho mời vào trong dinh với ý định “coi mặt” để cử giữ chức Tiểu khu trướng kiêm Tỉnh trưởng tỉnh Bình Dương chỉ mới có nguời tạm quyền. Nhiều người nói rằng do thấy Phan Lạc Tuyên mắt lé (sự thực là chỉ hơi lưỡng nhãn bất đồng thôi chứ không đến nỗi lé), ông Diệmcho rằng nguời mắt lé tính không trung thực nên đổi ý. Nhưng cũng có người nói chính Phan Lạc Tuyên từ chối chức vụ tỉnh trưởng do ghét chế độ Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, ông Diệm chỉ định Tuyên làm Chỉ huy phó Liên đoàn Biệt động quân, một binh chúng vừa mới thành lập, con cưng của chế độ, dưới quyền của Thiếu tá Chi huy trưởng Lữ Đinh Sơn. Doanh trại của Liên đoàn đóng tại Sa Mát gần biên giới Campuchia, thuộc tỉnh Tây Ninh.
Vào lúc 0 giờ ngày 11-11-1960, tại doanh trại ở biên giới, Đại úy Chỉ huy phó Phan Lạc Tuyên ra lệnh cho thuộc hạ bắt giữ Thiếu tá Chỉ huy trưởng Lữ Đinh Son, giành quyền kiểm soát toàn bộ 12 đại đội của Liên đoàn Biệt động quân, chỉ để 2 đại đội ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ canh phòng, còn Phan Lạc Tuyên thì chỉ huy 10 đại đội và 12 khẩu đại bác từ Tây Ninh kéo về Sài Gòn, cùng Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ huy truởng Lữ đoàn Nhảy dù, và Trung tá Vương Văn Đông, giảng viên Truờng Đại học Quân sự, tiến hành đảo chính TT Ngô Đinh Diệm, một vị Tổng thống cũng có phần nào giống như các ông, rất nặng tinh thần quốc gia dân tộc.

Tuy cùng mưu đồ đại sự nhưng ba người khởi xướng lại không đồng nhất với nhau cả về mục đích lẫn phương pháp.
1- Nguyễn Chánh Thi thì quá lỗ mãng, võ biền, chỉ muốn gây binh biến để loại bỏ một số bộ phận mà ông ta ghét cay ghét đắng trong chính phủ và quân đội. Ý thức chính trị của Nguyễn Chánh Thi rất mù mờ.
2- Vương Văn Đông thì ngược lại, tuy không có lấy một người lính thuộc quyền làm thực lực nhưng lại quá nhiều mưu mô và tham vọng chính trị. Ông ta đang thậm thụt liên lạc với một số những tay Phòng Nhì Pháp cũ như Quách Sến, Nhữ Đinh Lan lưu vong tại Campuchia (lúc ấy thuờng gọi là Căm-Bốt, hoặc Cao Miên theo tiếng Việt). Đầu óc thân Pháp của Vương Văn Đông vẫn còn nặng nề, mơ tưởng tái lập ảnh hưởng chính trị của Pháp trên đất miền Nam.
3-Phan Lạc Tuyên thì thừa nhiệt tình, thực tâm muốn chấm dứt quyền lực của một chế độ mà ông ta phật ý, song cũng chưa hình dung ra được sẽ thay chế độ đó bằng cái gì.
Cả 3 vị lãnh đạo cuộc đảo chính đều không có chút ý thức nào về việc “chăm dân, trị quốc” nếu lật đổ được anh em ông Diệm .
Lẽ ra cuộc binh biến chỉ nổ ra sau 0 giờ ngày 12-11-1960, chậm hơn so với thực tế một ngày. Nhưng vì không có quân trong tay, sợ mất vai trò lãnh đạo sau khi đảo chánh thành công, do đóVương Văn Đông cố tình phát động binh biến truớc 24 giờ, sau đó mới báo cho Nguyễn Chánh Thi biết để đặt kẻ đồng mưu trước việc đã rồi. Mục đích của Đông là tạo cơ hội để giành quyền bầy binh khiển tướng, tự nâng cao vai trò của mình.
Vì bị động nên các đơn vị tham gia đảo chánh thi hành không đồng bộ. Mãi đến trưa ngày 11-11, mục tiêu quan trọng nhất là Dinh Độc Lập (dinh cũ, chưa bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử bỏ bom năm 1962) vẫn chưa bị chiếm. Bên trong hàng rào Dinh Độc Lập, sức kháng cự của Lữ đoàn liên minh phòng vệ tổng thống phủ vẫn còn rất mạnh.
Từ sân Bộ Tổng tham mưu, 12 khẩu đại bác 105 ly của Phan Lạc Tuyên đã nhắm hướng Dinh Độc Lập, lấy sẵn tọa độ, sẵn sàng trút sấm sét giã nát lực lượng phòng thủ trong Dinh nếu Đại tá Nguyễn Chánh Thi ra lệnh. Nhưng miệng lưỡi khôn ngoan của Trung tá Đông đã thuyết phục được Thi bãi bỏ lệnh xạ kích, vì: “Tổng thống đã xin điều đình, ta phải tin”. Thay vào đó, hai ông Thi và Đông quay sang chuẩn bị họp báo, ra tuyên ngôn…cùng các “chính khách” Phan QuangĐán, Phan Khắc Sửu, Luật sư Hoàng Cơ Thuỵ, Linh mục Hồ Văn Vui... nên bỏ lỡ cơ hội.
Bằng hệ thống điện đài cực mạnh trong Dinh Độc Lập, Tổng thống Ngô Đình Diệm có thời giờ liên lạc, gọi các tuớng lãnh trung thành đem quân về tiếp cứu. Trong khi các ông Thi, Đông, Tuyên tin tưởng vào lời hứa đầu hàng của Tổng thống, vẫn loay hoay thương thuyết cả ngày trời với ông Võ Văn Hải, bí thư riêng của ông Diệm về cách thức chuyển giao quyền lực tại Bộ Tổng tham mưu, hai ông Diệm, Nhu sẽ lưu vong ra sao..vv.., thì khuya ngày 11-11, ba bề bốn bên, quân “cứu giá” đã ùn ùn kéo về Sài Gòn.
1- Sư đoàn 7 của Tướng Huỳnh Văn Cao từ Biên Hoà vào.
2- Sư đoàn 13 của Đại tá Trần Thiện Khiêm từ Mỹ Tho lên.
3- Sư đoàn 5 của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu từ Bảo Lộc xuống...
Trong nội đô, một loạt các đơn vị khác như Lữ đoàn Thiết giáp của tướng Lê Nguyên Khang từ Gò Vấp, lực luợng hải quân của đề đốc Chung Tấn Cang ở Bến Bạch Đằng cũng đang rục rịch tấn công vào cạnh sườn quân đảo chính.
Hành sự như một tay tập sự, ông Nguyễn Chánh Thi phạm thêm một sai lầm khác là không cho quân đảo chánh chiếm Đai Phát thanh, cắt dây điện thoại. Đúng 1 giờ trưa ngày 12-11, đài công khai phát lời hiệu triệu của Tổng thống Diệm, tiếp tục kêu gọi các đơn vị đưa quân về Sài Gòn dẹp loạn.
Biết thất bại đã gần kề, hai ông Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông cho bắt Trung tướng Tư lệnh Biệt khu Thủ đô Thái Quang Hoàng, ném lên xe Jeep, phóng ra phi trường Tân Sơn Nhất, đẩy lên một chiếc máy bay DC4, ép buộc Đại uý Phan Phụng Tiên phải cầm lái rồi bay thẳng sang Phnôm Pênh xin tị nạn chính trị.
Về phần Đại uý Phan Lạc Tuyên, mới đầu Tuyên định liều mạng đánh một trận cuối cùng. Nhưng một số sĩ quan thuộc quyền xúm vào can ngăn khiến ông thay đổi ý định. Cùng với Trung úy Ân, Hạ si Thúc và một người lính, vị đại uý đảo chánh bất thành này dùng xe Jeep chạy về Tây Ninh.
Tại cửa khẩu Sa Mát phía bên Việt Nam, Phan Lạc Tuyên đưa thẻ Chỉ huy phó Biệt Động Quân,đánh lừa cho những người lính gác sơ hở, giúp Hạ sĩ Thúc có cơ hội vọt lên, tung gãy chiếc barrière chắn đường, phóng chiếc xe Jeep trên đó có 4 tay đào tẩu chạy thẳng sang đất Căm-Bốt, bắt đầu cuộc sống lưu vong.
Sau khi thẩm vấn, nhà chức trách Cao Miên đưa nhóm của Phan Lạc Tuyên về trại tị nạn Mônivông ở Phnôm Pênh. Hai ông Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đào tẩu bằng máy bay đã tới trước, cũng ở trại này. Tuy nhiên, những mâu thuẫn sâu sắc về quan điểm và những bất mãn, đổ tội lẫn nhau khiến ba kẻ lãnh đạo đảo chánh tách riêng mỗi nguời một nơi, không thèm nhìn mặt nhau. Mỗi người trong số họ lại tiếp tục theo đuổi ý định riêng, có quan điểm chính trị riêng.
Nắm được tư tuởng lung lay, “lập trường không phải lập truờng” của Phan Lạc Tuyên và các đàn em này đã là “cựu” Biệt Động quân, CS bèn liên lạc, lôi kéo. Một cuộc gặp gỡ bí mật đã diễn ra tại toà soạn báo Trung Lập, một tờ báo do “Mặt trận Giải phóng miền Nam” thành lập, tại số 380 đường Mônivông. Ở đây, Phan Lạc Tuyên được các ông Trần Văn Kiêm (chủ bút), Hai Lý (đại diện ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam) và Nguyễn Thế Thịnh (công nhân in) tiếpđón. Sau buổi tiếp xúc, Phan Lạc Tuyên đã nhận lời giữ liên lạc với ban Binh vận Trung ương Cục.
Ít lâu sau, phía Campuchia tách những nguời tị nạn thành 3 nhóm, cho đi 3 trại khác nhau tuỳ theo tư tưởng chính trị của họ. Nhóm của Phan Lạc Tuyên và các đàn em cựu Biệt động quân ở trong trại Tung Miênchay, nguyên trước đây là một chuồng ngựa cũ của Pháp. Thông qua Sa Biêng, một lính gác người Miên gốc Việt, sách báo, tài liệu của CS đã được chuyển vào trong trại cho nhóm của Tuyên. Từ sự thuyết phục của Phan Lạc Tuyên, các Trung úy Ân, Trung uý Hồ Công Minh, Thiếu úy Thái Trần Trọng Nghiã, Hạ sĩ Thúc và một số người khác đã đồng lòng cùng Tuyên theo về với “Mặt trận Giải phóng”.
Tháng 3 - 1962, tất cả mọi người tị nạn chính trị đều được phép ra khỏi trại, tự do kiếm việc làm trong thành phố Phnôm Pênh, chỉ mỗi tháng phải đến trình diện nhà chức trách địa phương một lần. Nhờ vốn tiếng Pháp và khả năng viết báo, Phan Lạc Tuyên xin được một chân trong ban biên tập tờ La Dépêche Du Cambodge (Điện Báo Campuchia) do Châu Seng, Bộ trưởng Thông tin sáng lập.
Biết tính nết ngang ngược, coi trời bằng vung của Phan Lạc Tuyên, ông Bộ trưởng kiêm Chủ bút luôn luôn nhắc nhở: “Viết gì cũng được nhưng đừng có quá khích. Ông Diệm cho mật vụ qua ném lựu đạn vô toà soạn thì chết đấy”.
Phan Lạc Tuyên nguyên là một nhà thơ (bài Tình Quê Hương do Nhạc sĩ Đan Thọ phổ nhạc từ năm 1953 hết sức nổi tiếng, ai cũng thuộc lòng vài câu:”Anh về qua xóm nhỏ. Em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều lên mái tóc. Tình quê hương đơn sơ…”).
Nhờ sự giới thiệu của ông Châu Seng, ít lâu sau, Phan tạc Tuyên vừa làm báo vừa được mời dạy môn Văn chương Pháp tại Lycée Anna Kout do Hoàng thân Virya, cậu ruột của ông hoàng Shihanouk làm Hiệu trưởng. Từ đó, một nữ sinh học trò của Tuyên, thuộc một gia đinh quý phái, có cảm tình với “thầy”…
Cô gái Campuchia
(Hình 2: hình Kathy Trinh Mây)
Tên nàng là Katherin Trinh Mây, thường gọi là Kathy, nữ sinh năm cuối trung học. Mẹ gốc Hoa lai Việt. Bố là người Campuchia hiện đang giữ chức Giám đốc Sở Y tế Thủ đô Phnôm Pênh. Kathy thừa hưởng được cả nét duyên dáng của mẹ lẫn sự thông minh, học thức của bố. Ngay chính bản thân cô cũng thành thạo 5 ngôn ngữ: Việt, Anh, Hoa, Pháp, Miên. Ngoài ra, Kathy lại là hoa khôi của trường Anna Kout.
Xuất thân quý phái, được cưng chiều và ưa mơ mộng, Kathy tỏ ra đặc biệt quan tâm đến “người hùng sa cơ lỡ bước” Việt Nam của mình. “Thầy” giỏi tiếng Pháp, lại là nhà thơ, những giờ dạy văn chương lãng mạn Pháp đã gieo vào lòng cô gái thông minh không thua gì thầy những giấc mơ bay bổng.
Thật ra, lúc ấy tuy mới 33 tuổi – cái tuổi các cô gái rất thích – nhưng Phan Lạc Tuyên đã có một người vợ chính thức cưới từ năm 1953 ở ngoài Bắc và có 3 con gái với bà này (Phuong Lan, Bạch Tuyết, Hoàng Yến). Sau khi vào Nam, là trung uý QĐVNCH, ông lấy thêm một bà khác tên Bùi Thị Nga, giáo viên tiểu học và có với bà này 2 con, 1 trai 1 gái (Phan Quốc Hung, Phan Thị Hoài Hà), tất cả đều sống ở khu Ông Tạ. (Trước năm 75, bà Bùi Thị Nga bị bệnh tâm thần,được đưa vào Dưỡng trí viện Biên Hoà, nay đã qua đời). Kathy không cần biết đến những chuyện đó, cô không cần hỏi ông “thầy” đã có vợ con hay chưa.
“Thầy” ở một mình trong căn gác trọ. Thỉnh thoảng Kathy lại mượn cớ đến nhờ thầy giảng giùm một đoạn văn Pháp, giải thích giúp một vài thành ngữ khó, sau đó cô giúp thầy thu dọn nhà cửa, giặt ủi quần áo, những công việc mà ở nhà chẳng bao giờ cô phải mó tay vào.
Còn khi đi học, Kathy thường làm như tình cờ, lái chiếc xe hơi riêng của mình đi qua nhà thầy để“thầy” đi nhờ. Mỗi lần như thế cô thường nhường tay lái cho thầy còn mình thì ngồi bên cạnh. Những ngày nghỉ lễ cô hay mời thầy đến nhà mình ở số 17 đuờng Yukanthor, ở chơi ăn cơm, chuyện trò với cha mẹ.
Ông Giám đốc Sở Y tế Phnôm Pênh cha của Kathy vốn là nguời có quốc tịch Pháp nên ghét ông Diệm. Phan Lạc Tuyên chống ông Diệm, điều này khiến ông càng quý mến “Mr. Le professeur Tuyên” hơn.
Kathy đã được Tuyên tâm sự về việc theo CS, cô cho biết cô sẵn sàng từ bỏ đời sống nhung lụa để đi theo “thầy” đến bất cứ nơi nào, kể cả sang Việt Nam mà cô chỉ nghe nói chứ chưa hề biết.
Tháng 7 năm 1963, Kathy đã thi đậu vào Đại học Y khoa Phnôm Pênh, nhóm cựu Biệt động quân Tuyên, Ân, Thúc, Minh… nhận được chỉ thị của Trung ương Cục ra lệnh rời đất Campuchia để về miền Nam nhận công tác do “Mặt Trận” giao phó.
Chuyến đi phải tuyệt đối giữ bí mật, không được tiết lộ ngay cả với những người thân thiết nhất, bởi vì lúc ấy chính phủ Nam Vang đang nghiêm cấm các hoạt động chính trị, hễ lộ ra là sẽ bị kẹt lại. Phan Lạc Tuyên mới theo về với “cách mạng”, muốn lập công nên càng ra sức giữ gìn hơn. Ông lặng lẽ dứt áo ra đi, không tiết lộ cho Katherin được biết. Kỷ niệm duy nhất mà ông đem theo là tấm hình Kathy chụp nghiêng, gương mặt xinh xắn, tươi cười (xin xem hình).
Sang tới căn cứ ở Tây Ninh, mọi người được phân tán ra, sau đó Phan Lạc Tuyên nhận được chỉ thị theo giao liên vượt Trường Sơn, ra Bắc, tham gia các hoạt động binh vận miền Nam, hô hào giải phóng.
Năm 1971, Ba Lan cho học bổng, không mấy người đi vì họ ít biết tiếng Pháp hoặc tiếng Ba Lan (Ba Lan không nói tiếng Nga), Phan Lạc Tuyên bèn xin đi.
Sau 3 năm ở Ba Lan và đã trở về Hà Nội được hơn 1 năm, tới ngày “giải phóng” 30-4-1975, Phan Lạc Tuyên tự động vào Sài Gòn rất sớm, không có phân phối công tác của cơ quan nào cả và ở luôn trong Nam, phất phơ bằng nghề dạy Phật học tại các chùa, không có cơ quan công tác chính thức. (PL Tuyên không được vào đảng).
Trong thời gian ở trong Nam, Phan Lạc Tuyên có biết đôi chút tin tức về Kathrin, người con gái Campuchia thông minh và giàu tình cảm đó: Sau khi Tuyên đi, Katherin thương nhớ, chờ đợi. Tuyên vẫn bặt tin. Đợi chờ không nổi, cô được cha mẹ cho sang Pháp du học, tốt nghiệp bác si Y khoa tại Pháp rồi lấy chồng nguời Pháp gốc Campuchia cũng là bác sĩ. Tin tức đến với Tuyên chỉ có bấy nhiêu, không hơn.
Sự thật, đối với Phan Lạc Tuyên, Katherin chỉ như một kỷ niệm đẹp vậy thôi. Bởi vì như trên đã nói, trước khi di cư vào Nam Tuyên đã có một người vợ và có với bà này 3 con. Rồi trong khi còn là sĩ quan QĐVNCH, tuy có vợ đấy nhưng Tuyên lấy thêm bà Bùi Thị Nga và có với bà này 2 con. Ra ngoài Bắc, Tuyên lấy bà Đỗ Thị Hồng Phấn, cán bộ y tế (y tá trong cơ quan nhà nuớc), có thêm 2 con với bà này, ấy là chưa kể các mối tình “lặt vặt” khác.
Ta hãy nghe lời bà Hồng Phấn nói với Tuyên khi, sau 30-4-75, Tuyên muốn bà đi với mình vào trong Nam: “Tôi khổ quá ông Tuyên ơi! Ông là cái thứ tiểu tư sản, lại ngụy quân cũ! Đảng muốn tôi lấy ông để cảm hoá ông. Nào ngờ ông vẫn tính dê như quỷ, đi đến đâu là dính đàn bà đến đấy. Mà bây giờ lại có 2 vợ trong ấy rồi, cả một đống con. Tôi theo ông vào Nam tôi xấu hổ với bạn bè tôi lắm. Bạn tôi đứa nào lấy chồng tập kết ra Bắc bây giờ gia đình trong Nam viết thư ra cũng nhà cao cửa rộng chờ đón! Thôi tôi bỏ ông, tôi ở lại Hà Nội!”. (Theo lời kể của bà Thu Khanh, cô giáo, vợ của Cố Thi sĩ Đại uý QLVNCH Phan Lạc Giang Đông em ruột Phan Lạc Tuyên, đi cải tạo 13 năm rưỡi, sang Mỹ năm 1994 theo diện HO, mất năm 2001 tại Mỹ). Như vậy chúng ta thấy tình yêu của Phan Lạc Tuyên đối với cô gái Campuchia chưa chắc đã phải là một mối tình tha thiết như cô đối với ông.
Năm 1980, sau khi đã định cư lâu dài ở phường 18, quận Tân Bình, Sài Gòn, một hôm Phan Lạc Tuyên tình cờ gặp một phụ nữ người Hoa cùng ở cùng phường, cho biết bà là bà con với bên nhà chồng của người chị cả của cô gái Campuchia tên Trinh Mây. Người chị cả này hiện ở Gò Vấp, sắp đi với chồng sang Pháp. Phan Lạc Tuyên giật mình ngạc nhiên, bèn xin địa chỉ rồi lên Gò Vấp tìm kiếm. Cuối cùng Tuyên đã gặp được bà chị cả đó. Cũng may, chỉ hai bữa nữa bà sẽ lên máy bay sang Pháp.
Người chị tiếp đải Tuyên rất tử tế. Bà vừa chậm nuớc mắt vừa sụt sùi khóc và kể cho Tuyên nghe bằng thứ tiếng ngòng ngọng của nguời Campuchia nói tiếng Việt nhưng rất rành rẽ nghe tiếng Việt…
Sau khi Tuyên đi, Katherin đến căn gác trọ. Cô thấy vắng tanh và không hiểu tại sao anh ra đi như vậy mà không một lời từ giã. Nhưng cô không trách anh vì đoán phải có lý do nào đó quan trọng nên anh mới giữ bí mật đến thế. Dù đau đớn, cô vẫn tin sẽ có ngày anh trở lại. Cô khóc một mình rồi nhặt nhạnh các giấy tờ, khung ảnh mà anh để lại, đem về cất giữ, nâng niu như những kỷ vật.
Cô học hết năm thứ 3 Đại học Y khoa Phnôm Pênh thì được cha mẹ cho sang Pháp du học, tiếp tục ngành Y. Đến tháng 2 năm 1965, báo chí đảng Cộng sản Pháp đăng tin Hội nghị Nhân dân Đông Dương sẽ đuợc tổ chức tại thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia. Cô mừng như bắt được vàng khi coi danh sách đoàn đại biểu MTGPMN tham dự hội nghị có tên Phan Lạc Tuyên. Ngay lập tức cô gác việc học sang một bên, mua vé máy bay bay về Phnôm Pênh với hy vọng gặp được ông “thầy” mà cô yêu thương tha thiết.
Suốt mấy hôm liền, sáng nào Kathy cũng ôm một bó hoa tươi đứng chờ bên lề đường trước cổng của nơi diễn ra hội nghị. Nhưng nguyên tắc của các đoàn đại biểu hết sức nghiêm ngặt. Mỗi sáng, xe đến đón tận cửa khách sạn nơi các đại biểu ở. Đưa đến hội nghị xe cũng đậu sát bậc thềm trước phòng tiền sảnh. Khi trả các đại biểu về khách sạn cũng vậy, hết sức kỷ luật. Ngoài ra, các đại biểu – nhất là đoàn Việt Nam - tuyệt đối không được quyền có bất cứ một cuộc tiếp xúc riêng tư nào khác. Do đó, Kathy không gặp được Phan Lạc Tuyên, cô chán nản trở lại Pháp.
Sau khi đã tốt nghiệp bác sĩ y khoa, tuổi cũng đã lớn, không thể chờ đợi được nữa, Kathy lập gia đình với một bạn đồng nghiệp cùng quốc tịch Pháp gốc Campuchia nhưng đã ra trường trước nàng nhiều năm và đã đậu xong tiến sĩ y khoa. Nhân cha của Katherin làm giám đốc Sở Y tế Phnôm Pênh nay đà hưu trí, hai người bàn nhau trở về Campuchia, làm bác sĩ giải phẫu trong Bệnh viện Pnôm Pênh. Họ sinh đuợc một con gái.
Tháng 4-1975, Khmer Đỏ tiến vào “giải phóng” Phnôm Pênh. Dân chúng vui mừng hớn hở đem biểu ngữ, cờ quạt ra đón. Nhưng chỉ 3 hôm sau, Pôn Pốt theo lệnh của Trung Quốc, đuổi hết dân chúng ra khỏi thành phố và bắt đầu tiêu diệt. Họ giết dân bằng súng ống, xẻng cuốc hay bất cứ cái gì mà họ có thể đập vỡ sọ được. Gia đinh Katherin Trinh Mây đều chết hết trong nạn diệt chủng tàn bạo và ngu xuẩn đó, kể cả đứa con gái mới lên 2 tuổi của vợ chồng Trinh Mây. Chỉ riêng bà chị cả – tức người đang nói chuyện với Phan Lạc Tuyên – là sống sót. Bà lấy chồng người Hoa, gia đình nhà chồng làm nghề buôn bán ở bên Việt Nam, lúc ấy bà đang ở Việt Nam nên thoát chết. Bà không ngờ có dịp được kể lại mọi chuyện với Phan Lạc Tuyên, người mà bà biết là em gái bà đã yêu thương tha thiết. Lúc ấy, năm 1980, Tuyên 52 tuổi.
Bà Thu Khanh kể về Phan Lạc Tuyên
Cũng như Phan Lạc Giang Đông (tên thật, không phải bút hiệu), Phan Lạc Tuyên là một nhà thơ. Tâm hồn các nhà thơ thì thường phóng khoáng, rất đẹp. Nhưng riêng Phan Lạc Tuyên, không phóng khoáng, không đẹp. Chúng ta hãy nghe bà Thu Khanh, vợ của Phan Lạc Giang Đông, tức em dâu Phan Lạc Tuyên, nhà ở khu Ông Tạ, hiện nay đang ở bên Mỹ, thuật lại trên Internet những ngày đầu trở về của anh ruột chồng:
“Vào tháng 8 năm 1975 - nghiã là sau 30/4/75 ít tháng thì nguời anh chồng tôi là Phan Lạc Tuyên trở về Sài Gòn. Tuyên mặc quần áo bộ đội, đi dép râu, đội nón cối, vai đeo ba lô, tay dắt đứa con trai nhỏ 6 tuổi tên là Phan Đỗ Trí (con của vợ lấy ở ngoài Bắc ).
Hôm đó bố chồng tôi đã được báo trước nên cụ ngồi ở nhà cả ngày để chờ. Quả thật làm cha mẹ ai mà không mừng rỡ khi con cái xa cách bao nhiêu năm nay trở về, nên tâm sự cha chồng tôi cũng thế. Cụ rưng rưng lệ, ôm lấy PL Tuyên và ôm đứa cháu nội nay mới 6 tuổi.
Kế đó là chú Tùng, người chú rể, nhà ở đối diện với cổng nhà tôi ở khu Ông Tạ. Chú nghe thấy tiếng reo mừng nên chạy qua, ôm lấy PL Tuyên mà hôn thắm thiết vào hai bên má. Tôi rất ngạc nhiên vì chú hôn đúng mốt xã hội chủ nghia chiếu trên ti vi gần đây. Hiện chú đang được làm tổ trưởng dân phố.
Sau khi hàn huyên và dẫn Tuyên đi thăm Bà trẻ (vợ kế của bố chồng tôi) ở Vuờn Soài, có cửa tiệm buôn bán vàng bạc, và thăm một ông chú cũng ở Ông Tạ, nhà cao cửa rộng, cũng có cửa tiệm buôn bán vàng bạc. Ăn cơm xong, bố chồng tôi bảo Phan Lạc Tuyên: “Đây là khu Công giáo, anh ở không được đâu, người ta ghét anh lắm. Anh đi với bố sang nhà chú Tư, bên ấy rộng rãi, sang trọng, có tiền có bạc, có người hầu hạ, bố con anh ăn uống đầy đủ và an ninh hơn”.
PL Tuyên suy nghĩ một lát rồi đứng lên đeo ba lô và dẫn con đi theo ông cụ.
Tới khoảng 10 giờ đêm bố chồng tôi mới trở về nhà, nét mặt cụ rất tươi vui….
Hơn một tháng tôi không gặp PL Tuyên trở lại. Bỗng một hôm, sáng sớm Chủ nhật, tôi được con gái của PL Tuyên đua mẩu giấy, trong đó PL Tuyên ghi: “Thím Giang, tôi mời thím đúng 9 giờ sáng nay phải đến nhà ông Tú Tài để có cuộc họp quan trọng. Thím phải đúng giờ và không được vắng mặt”.
Tôi rất ngạc nhiên nhưng cũng đến đúng giờ. Khi bước vào cửa, tôi được chỉ lên trên lầu.
Cái lầu 3 của nhà ông Tú Tài (em ruột cụ Phan Vọng Húc, bố chồng tôi), có một chiếc bàn dài, kê ghế hai bên. Mọi người đã đông đủ, một bên là cụ Phan Vọng Húc, Bà trẻ, đến hai cô con gái Bà trẻ. Một bên là các con Phan Lạc Tuyên, gồm: Phan Thị Phuong Lan , Phan Thị Bạch Tuyết , Phan Thị Hoài Hà, Phan Quốc Hung. Có một chỗ trống ở đầu ghế dài này là chỗ giành cho tôi ngồi.
Hai đầu bàn thì chỉ có một cái ghế dựa trống. Còn Phan Lạc Tuyên đứng. Tôi buớc vào chỗ xong, quả thật tôi nín thở - Không hiểu điều gì sẽ xảy ra! Chắc chắn không phải là một cuộc họp mặt vui vẻ!
Dăm bảy phút trôi qua mà sao nghe lâu và nặng nề quá! Phút chờ đợi đã tới.
Ông Tú Tài đã từ lầu dưới đi lên, bước vào! Ông là chú của chồng tôi nên tôi chào: “Thưa chú!”, còn thì không ai chào cả!
Phan Lạc Tuyên tay kéo ghế dựa, chỉ ông Tu Tài: “Mời ông ngồi đây!” rồi lên tiếng ngay và nói liên tu:
“Thưa ông Tu Tài! Tôi xin lỗi, ông và tôi trong xã hội mới không ngồi chung một chiếu. Ông chiếu khác, tôi chiếu khác. Do đó hôm nay, sau một tháng mười ngày tôi và hai con tôi ăn ở tại nhà ông là để xác định rõ ràng chúng ta không thể ngồi cùng một chiếu! Vở kịch của chúng ta đến đây đã chấm dứt. Nay, truớc sự hiện diện của bố tôi: cụ Phan Vọng Húc, mẹ kế tôi và thím Giang Đông, tôi tuyên bố trả lại tiền ăn một tháng mười ngày - đúng theo tiêu chuẩn xã hội chủ nghia - là 15 kí gạo.Và tôi dọn ra khỏi nhà ông. Bạch Tuyết! Đem gạo ra đây trả cho ông Tu Tài!”.
Ông Tu nhìn túi gạo để ngay truớc mặt rồi nói:
“Thưa bác Sếp (bố chồng tôi trước 1954 làm trưởng phòng Địa Chánh nên mọi người gọi là cụ Sếp) và thưa anh Tuyên, chú nghĩ anh về là chú mừng và nhất là anh lại đậu tiến sĩ về khoa khảo cổ, nên khi chú nghe tin bác Sếp và anh nói muốn tạm thời ở nhà chú thì chú mừng rỡ nhận lời ngay. Chú cũng có ý muốn gần anh để lúc rảnh sẽ trao đổi với anh đôi điều về sách vở, thơ phú. Nào ngờ vì lý do gì, anh giận chú mà bỏ đi đột ngột và trả chú 15 kí gạo thế này. Quả thật chú cũng chỉ thuê riêng một người để hầu hạ anh và hai cháu thôi chứ chú cũng biết trong xã hội mới đâu có quyền thuê người ở để hầu hạ mình như truớc.
Cách mạng về thì chú cũng chấp hành ngay mọi việc mà! Nay giá anh cho chú một cục đá khảo cổ để chú làm kỷ niệm chứ gạo thì tuy nhà ai cũng khó khăn nhưng chú còn lo được, còn cái tình chú cháu khó kiếm lại được! Chú hiểu thân phận chú không cùng một chiếu với anh thì dù nhà nước muốn xử thế nào chú cũng chấp nhận chứ không dám nhờ anh che chở. Kể cả các em đi cải tạo cũng phó mặc cho số trời! Chưa bao giờ chú nói nhờ vả hoặc xin xỏ anh một điều gì cả”.
Ông Tu Tài nói xong, Phan Lạc Tuyên tuyên bố: “Giải tán!”. - Tất cả mọi người ra về”.
Đấy là đoạn mở màn, bây giờ chúng ta xem một đoạn khác của bà Thu Khanh:
“Sau ngày đánh tư sản thì tới ngày cho kê khai nhà cửa, ai diện nào bị đi kinh tế mới, ai được hợp thức hoá nhà và cho chuyển hộ khẩu...vv.
Tôi ở chung hộ khẩu với gia đinh nhà chồng từ khi lấy Giang Đông. Nay Tuyên muốn tôi phải tách hộ khẩu vì không muốn có trong hộ khẩu vợ con của một thằng em là sĩ quan ngụy đang đi cải tạo.

Tuyên mời bố chồng tôi ra làm việc. Đầu tiên, cụ được lệnh mở cái rương kê duới gầm bàn thờ. Tuyên lục lọi trong đó, bắt được lá đơn cụ viết gửi cho cảnh sát quận Tân Bình với nội dung nhờ cảnh sát đưa chị Bùi Thị Nga vào Duỡng trí viện Biên Hoà vì chị bị tâm thần, cứ gọi tên các vị lãnh đạo quốc gia ra mà chửi.
Đọc đơn đó Tuyên đã nổi sùng nhưng vẫn lục tiếp và lôi ra tấm hình cụ Húc chụp chung với hai nguời Mỹ. Hai người này vốn là cố vấn Văn hóa, xin chụp chung vì cụ là nhà nghiên cứu, có tên trong ban Tu Thu và Dịch thuật, đã được Giải thưởng Văn học - Dịch thuật với cuốn sách cụ dịch có tên “Phan Trần trá hôn”. Và Tuyên tiếp tục lôi ra một cái hộp đựng huy chương với lá cờ Vàng của VNCH, hình của Phó tổng thống Trần Văn Hương đang bắt tay và trao giải thưởng. Rồi hết, không còn gì khác.
Tuyên mặt đỏ phừng phừng, chỉ vào mặt bố chồng tôi, la:
Ông là thằng phản động! Ông không xứng đáng vơi tôi một tí nào cả! Trong khi tôi đi kháng chiến thì ông ở nhà làm đơn cho cảnh sát bỏ tù vợ tôi - bỏ tù vợ một thằng Cộng sản! Đây là lá đơn chính chữ ông viết!”.
Cụ Húc phân bua :
“Vợ anh điên thật nhưng bắt vào trại tâm thần thì ở nhà không ai đưa đi được. Vì người điên khoẻ lắm, thầy phải làm đơn để cảnh sát họ đưa đi -Đi chữa bệnh chứ có đi tù đâu!”.
Tuyên giơ tấm hình:
“Cái này ông còn chối cãi được không? Ông liên lạc với CIA, chụp chung hình với CIA!”.
Cụ Húc giải thích:
“Thầy đâu có làm gì với CIA! Họ là cơ quan Văn hoá”.
“Hừ! Văn Hoá ! Ngành nào cũng là CIA hết! Này thì giải thưởng Văn Chương! Này thì huy chương! Này cờ quạt…”.
Tuyên ném các thứ xuống đất, lấy chân đi lên. Ông cụ lại nói gần như khóc:
“Thôi anh à, dù sao thì thầy cũng chịu ơn của chính phủ miền Nam. Anh cho phép thầy nhặt lá cờ lên, thắp một nén nhang rồi thầy giao nhà cửa cho anh. Anh là con cả, trưởng tộc, thờ cúng tổ tiên kế thầy!”.
Cụ Húc lom khom nhặt lá cờ. Tuyên giật ngược lại dí xuống đất:
“Để cho ông thắp nhang thôi!”.
Thắp nhang và vái mấy vái xong, cụ hốt hoảng ra về Cống Bà Xếp, ở với người vợ sau cùng là Bà Tu Cao với đứa con gái nhỏ tên là Hải, cưới sau ngày bà mẹ ruột chồng tôi mất để hầu hạ cụ.
Hai gian nhà cụ Húc được khoá trái lại, giao chìa khoá cho Tuyên. Tuyên đề trước cửa: “Cấm mở! Cấm bọn phản động tụ họp cúng giỗ, ăn nhậu!”.
Một tuần sau ông cụ đau. Tôi lên Cống Bà Xếp thăm. Cụ không dậy được. Tôi hỏi cụ: “Thầy có làm sổ gia đình không? Con sẽ hợp thức nhà và xin tách hộ khẩu”.
Cụ nói:
“Thằng Tuyên nó không còn tính người. Hôm qua nó mời cậu lên và nó sai cô Tổng (em ruột cụ, cô của Giang Đông) nhổ nước miếng và chỉ vào mặt thầy, chửi: “Anh là đồ chó!”. Tại nó muốn thầy phải xác nhận phần nhà thầy cho con là của thầy rồi làm giấy tờ cho nó luôn, thầy trả lời thầy không thể làm như thế vì không có nhà con sẽ phải đi kinh tế mới. Lúc Giang Đông về cũng phải đi kinh tế mới theo con. Bởi vậy nên thằng Tuyên tức, bắt cô Tổng nhổ vào mặt và chửi thầy!”.
Tôi nói:
“Cách đây ba bữa anh Tuyên cũng bảo con phải chửi thầy nhưng con không chửi. Con nói con là con nhà có giáo dục, hễ con mà chửi là bố mẹ con sẽ từ con ngay. Hơn nữa con là cô giáo, học trò ở khắp quanh đây, nếu con mất dạy như thế thì phụ huynh sẽ làm đơn đề nghị cho con nghỉ việc lập tức. Anh Tuyên bảo nếu vậy thì thằng Giang Đông cứ tiếp tục ở trong trại cải tạo. Ý anh ấy muốn thầy ghét con, không ký tên cho con nhà rồi anh ấy chiếm luôn”.
Ông cụ nói:
“Thôi con cứ về lo sang tên và làm hộ khẩu mới đi. Thầy không cho nó chiếm căn nhà thầy cho con đâu”.
Bà Thu Khanh còn viết nhiều nữa nhưng thôi, bấy nhiêu đủ rồi, tôi không trích thêm. Điều tôi muốn kể với quý bạn là năm 2008, Phan Lạc Tuyên 80 tuổi, ông lấy một cô nghe nói là sinh viên, chưa đầy 30 tuổi. Còn hiện nay, 2010, ông 82 tuổi, đang “tu” trong chùa Diệu Giác ở phường 13 quận Gò Vấp, chỗ đường No Trang Long giáp với đường Phan Văn Trị.
Quý bạn hỏi một nguời 80 tuổi, có tài gì mà lấy được một cô chưa tới 30 tuổi? Được quá đi ấy chứ! Phan Lạc Tuyên có nhiều nhà, ông ta bán đi, có vài trăm cây vàng trong túi thì muốn lấy người bao nhiêu tuổi mà chả được! Chỉ có điều, nếu bị cô ta móc hết tiền thì…đi ở chùa!
http://www.thoibao.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1092:qthi-sq-va-co-gai-kampuchea&catid=17:chuyen-ben-nha&Itemid=36

BƯU THIẾP VNCH


Ngoại tôi vẫn thường nhắc đến chuyện ngày xưa..thật là xưa lúc bà chỉ có mấy tuổi theo ông cố ông sơ đi tận vào cái xứ Xẻo Rô này để khai khẩn đất hoang lập ruộng lập vườn , ngồi trên bộ ván phía sau hè ngoại chỉ tay vào cái khoảnh rừng rậm phía sau nhà còn sót lại mấy đám dừa nước mọc chen lẩn với mấy cây ô rô , cóc kèn ..bà nói là ngày xưa nơi đó là cái ổ cọp..xa hơn nửa là đám rừng ngập nước cây bần cây tràm mọc chen lẩn đan chằng chịt với nhau nơi đó vô số ổ ong nhưng dưới đất thì cũng đầy cá sấu.
Mẹ tôi cũng lớn dần theo mảnh đất này..rồi bọn cọp dữ ..đám cá sấu cũng rút đi theo từng bứơc tiến của những con người khai phá đất hoang.

Postcard QUÊ NGOẠI gởi đi Canada ngày 18-6-1969 với 2 con tem Kỷ Niệm 50 năm ngày Quốc Tế Lao Động.
Name:  que ngoai.jpg  Views:  877  Size:  69.3 KB

Name:  que ngoai matsau.jpg  Views: 795  Size:   40.9 KB

Con rạch nhỏ trước nhà ngoại cũng được đào lớn ra thành con kinh rộng rải chạy thẳng tấp nối liền với những khúc sông khác mang nứơc ngọt đầy phù sa đổ vào vùng đất ngập mặn này , ghe giang hồ bắt đầu cặp bến để trao đổi những sản vật từ thành thị lấy những món đồ quí nơi đây..mật ong..tôm cá.Bà con dân giang hồ sông nước sống hẳn trên chiếc thuyền rày đây mai đó buôn bán nhưng cũng không bao giờ quên được cái lể nghỉa đạo đức của ông bà..trên chiếc thuyền có lập hẳn bàn thờ ông thiên làm nơi cúng quảy.

Postcard CON THUYỀN với BÀN THỜ ÔNG THIÊN gởi đi Canada ngày 11-8-1969.
Name:  que ngoai 1.jpg  Views: 849  Size:  65.9 KB

Name:  que ngoai 1 matsau.jpg  Views: 777   Size:  43.4 KB
Khác hẳn với quê ngoại..quê nội tôi ở miền Trung nước Việt giáp với biển Thái Bình nhà nội tôi nằm trên một ốc đảo xung quanh là những đầm tôm đầm cá được bao bọc bởi năm ngọn núi che chở gió biển lồng lộng quanh năm.

Postcard ĐẦM TÔM trên vụng biển AN KHE gởi đi Canada ngày 15-12-1969 với bộ tem Tổng Động Viên.
Name:  que noi.jpg  Views: 769  Size:  54.7 KB

Name:  que noi 1 mat  sau.jpg  Views: 755  Size:  53.9 KB

Những ngày rảnh rổi không có việc làm ở đầm tôm trai tráng trong làng đi ra ngoài cảng biển khuân vác những bao gạo , thực phẩm từ tàu lớn chuyển sang tàu nhỏ để mang vào bờ.

Postcard PHU KHUÂN VÁC TRÊN BIỂN gởi đi Canada ngày 23-10-1969 với 3 con tem.
Name:  que noi 1.jpg  Views: 741  Size:  69.0 KB

Name:  que noi 1  matsau.jpg  Views: 729  Size:   44.8 KB
Qua các lớp tiểu học ở quê cha mẹ tôi được ông bà nội và ngoại gởi lên Sài Gòn để tiếp tục bậc Trung Học..là con nhà nghèo phải ở nơi xa thành phố mà bây giờ gọi là những quận ngoại thành..mổi buổi sáng hai ông bà phải ngồi xe thổ mộ (xe ngựa) để đến trường , có lẽ cùng cảnh cùng chí hướng hai ông bà đã cảm kích lẩn nhau và sau khi tốt nghiệp Trung Học và có được việc làm ổn định cha tôi đã về quê rước ông bà nội vào tận miền Tây để xin lể cầu hôn.


Postcard XE NGỰA trên bến xe ngựa trước Sở Hỏa Xa Sài Gòn gởi đi Mỹ ngày 10-5-1960.
Name:  so  hoaxa.jpg  Views: 861  Size:  43.5 KB

Name:  so hoaxa matsau.jpg  Views: 724  Size:  69.8  KB
Tôi lớn lên trong vòng tay thương yêu của cha mẹ , mặc dầu cả hai làm việc cực nhọc nhưng buổi cơm chiều của gia đình bao giờ cũng ấm cúng và tràn đầy tiếng cười.

Postcard BUỔI CƠM CHIỀU gởi đi Canada ngày 11-7-1969 với 2 con tem Năm Quốc Tế Nhân Quyền.
Name:  an toi.jpg   Views: 839  Size:  59.1 KB

Name:  antoi matsau.jpg  Views: 706  Size:  41.7  KB
Cha tôi mổi ngày xách cặp táp đi làm cho Khách Sạn Caravelle thật đúng giờ cứ 8 giờ sáng là đi..5 giờ chiều là về tới nhà.

Postcard HOTEL CARAVELLE gởi Bỉ ngày 1-6-1969 với 2 tem chim hình tam giác.
Name:   caravelle.jpg  Views: 703  Size:  101.6 KB

Name:  caravelle  matsau.jpg  Views: 694  Size:  57.1 KB

Mẹ tôi có một sạp bán rau cải trong Chợ Củ gần đường Hàm Nghi..sau giờ học anh chị em chúng tôi ra đây để tiếp mẹ dọn dẹp cửa hàng.

Postcard CHỢ CỦ gởi đi Canada ngay 22-10-1969 với bộ tem Tổng Động Viên.
Name:  cho  cu.jpg  Views: 692  Size:  52.5 KB

Name:  cho cu matsau.jpg  Views: 689  Size:  55.1  KB
Đối với tôi SÀI GÒN đích thực là QUÊ HƯƠNG , tôi lớn lên từ thành phố này..rong chơi khắp nẻo đường ngoài giờ học , khi thi đậu vào Trường Kỷ Thuật Phú Thọ cha tôi thưởng cho tôi một chiếc xe Velo-Solex..ô i sung sướng làm sao..

Postcard VÒNG QUAY TRƯỚC THƯƠNG XÁ TAX và chiếc xe VELO-SOLEX gởi đi Canada ngày 20-4-1970.
Name:   tax.jpg  Views: 829   Size:  44.6 KB

Name:  tax matsau.jpg  Views: 681  Size:  41.7 KB
Từ nhà thờ Đức Bà tôi phóng thẳng về đường Lê Thánh Tôn qua khỏi chợ hoa ghé vào cái sạp bán bún thịt nướng làm một tô..ai mà đi ngang hàng bún thịt nướng của dì Bảy mà không ghé là không được...mùi thịt nướng thơm lừng.


Postcard NHÀ THỜ ĐỨC BÀ gởi đi Canada ngày 19-9-1969.
Name:    ducba.jpg  Views: 679  Size:  44.8 KB

Name:  ducba matsau.jpg  Views: 669  Size:  39.7  KB
Postcard CHỢ HOA gởi đi Canada ngày 6-11-1969.
Name:  cho hoa.jpg  Views: 807   Size:  63.3 KB

Name:  cho hoa  matsau.jpg  Views: 661  Size:  41.9  KB
Postcard HÀNG BÚN THỊT NƯỚNG gởi đi Belgique ngày 1-8-1970
.
Name:  bun thit nuong.jpg  Views: 671  Size:  54.5 KB

Name:  btn matsau.jpg  Views: 659  Size:  46.8 KB


Mặc  định

Những ngày thứ bảy hoặc chủ nhật tôi thường dạo phố Sài Gòn...từ đường Gia Long (bây giờ là Lý Tự Trọng) tôi gởi chiếc xe Velosolex nơi nhà bà cô có tiệm bán vải , đi bộ qua chợ Sài Gòn thẳng ra Công Trường Quách thị Trang rồi theo đại lộ Lê Lợi đi về hướng đường Nguyển Huệ vào thương xá Tax đi lòng vòng ...rồi trở về lại Gia Long theo lộ trình củ đôi khi còn ghé ngang góc đường Trương Định và Lê Thánh Tôn nơi có cái sạp bán đồ khô ngoài vỉa hè để mua cho mẹ đòn bánh Tét hay cho mấy đứa em vài cục kẹo dừa ngọt lịm.


Postcard đường Gia Long gởi đi Canada ngày 18-8-1969.

Name:  duong gia long.jpg  Views: 570  Size:  71.2 KB

Name:  dgl matsau.jpg  Views: 567  Size:  42.4 KB
Postcard công trường Quách thị Trang gởi đi Canada ngày 14-3-1970.

Name:   quachthitrang.jpg  Views: 565  Size:  51.8 KB

Name:  qtt matsau.jpg  Views: 560  Size:   43.1 KB
Postcard tượng Quách Thị Trang gởi đi Belgique ngày 20-6-1970.
Name:  qtt  tuong.jpg  Views: 573  Size:  63.9 KB

Name:  qtt tuong matsau.jpg  Views: 558  Size:   49.9 KB
Postcard đường Nguyển Huệ nhìn từ Tòa Đô Chính (Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố) gởi đi Mỹ ngày 22-6-1966.

Name:   NH tu TDC.jpg  Views: 552  Size:  43.0 KB

Name:  NH matsau.jpg  Views: 555  Size:  57.3 KB
Postcard Quầy Bán Đồ Khô gởi đi Canada ngày 18-6-1969.
Name:  cho tet.jpg  Views: 551   Size:  63.2 KB

Name:  cho tet mat sau.jpg   Views: 557  Size:  49.0 KB
Sở Thú (Thảo Cầm Viên) cũng là nơi anh chị em chúng tôi rất thích vào dạo chơi xem chim cò và thích nhất là ngồi nghỉ chân trên những băng đá xung quanh hồ sen.Vào dịp hè khi gia đình có một chút tiền dư thì cha mẹ cho các anh em chúng tôi ra Cấp (Vũng Tàu) để tắm biển , thật là thích thú khi nhìn cảnh ghe thuyền đánh cá trở về Bãi Trước đầy cá tôm cua ghẹ..ôi những con ghẹ bông thật là to .


Postcard Sở Thú gởi đi Belgique ngày 15-8-1969.


Name:  so  thu.jpg  Views: 558  Size:  62.3  KB

Name:   so thu matsau.jpg  Views: 544  Size:  50.2 KB
Postcard Vũng Tàu gởi đi Belgique ngày 16-8-1969.
Name:  vungtau.jpg  Views:  542  Size:  58.8 KB

Name:  vt matsau.jpg  Views:  538  Size:  52.3 KB
Dù xa QUÊ HƯƠNG tôi vẩn không bao giờ quên được Sài Gòn với những chiếc xe thổ mộ kết nối tình duyên của song thân ..với những gánh hàng rong khắp nẽo đường thành phố với những tòa nhà dinh thự lộng lẩy.
Postcard Xe Thổ Mộ mang tên Sài Gòn một Paris của Á Châu.

Name:  xe  tho mo.jpg  Views: 674  Size:  61.3 KB

Name:  xtm matsau.jpg  Views: 533  Size:   13.4 KB
Postcard Gánh Hàng Rong gởi đi Canada ngày 18-2-1970.
Name:  khoai lang.jpg   Views: 571  Size:   42.2  KB

Name:  khoailang matsau.jpg  Views: 530  Size:   54.1 KB
Postcard Dinh Độc Lập ( Hội Trường Thống Nhất) gởi đi Belgique ngày 10-8-1969.
Name:   dinh DL.jpg  Views: 601  Size:  95.9 KB

Name:  dinh DL matsau.jpg  Views: 535  Size:  60.0  KB

Bài nầy xin tặng đến những bạn xa QUÊ HƯƠNG và những người con của Sài Gòn năm xưa.

BÙI MỸ DƯƠNG * THƯ CHO CÁC CON

*




Lời viết cho các con tôi
Sinh hữu hạn tử vô kỳ. Thật vậy, sau 9 tháng 10 ngày trong bụng mẹ tuy có xê-xích nhưng thế nào thai-nhi cũng chào đời và ngày sinh được xác-định mặc dù có mấy ai biết được ngày mình sẽ ra đi. Vì thế phải có những lời trăn-trối với người ở lại sợ không kịp nói, hay chưa kịp nói, thì đã tắt lịm đi vào thiên-thu!
Bây giờ đã ở tuổi thất-thập nói cũng không “gở”, muốn vài lời với đàn con cháu yêu-quý kẻo một mai yếu đuối, quên lãng không từ-giã, không kịp, hay chưa kịp bầy tỏ tâm-tình với các con, các cháu, gia-đình yêu-dấu mà vợ chồng đã dầy công vun đắp xây dựng và thương yêu.
Các con trai, gái, dâu, rể, cháu nội, ngoại thương yêu của Mẹ ơi! Trước hết cám-ơn các Cụ, Ông Bà nội ngoại đã cho đời sống đến bây giờ có bầy con cháu để yêu, để hãnh-diện và vui lúc tuổi già. Mầu-nhiệm của Đất Trời, của Tạo-hóa cho muôn loài nối tiếp cuộc sống. Con cháu là hiện-thân của chính mình vì đó là những tế-bào đang được luân-lưu nuôi-dưỡng trong cơ-thể của con, cháu, chắt!
Trong lời từ-giã Bố Quốc-anh đã nói: “Chúng con mỗi đứa vẫn mang phần nào của Bố, vì vậy Bố ra đi nhưng thật sự Bố vẫn còn đây mãi với chúng con!”
Vì những lý-do đó nên người ta mới lấy vợ, lấy chồng hầu con cháu nối tiếp cuộc sống mãi mãi về sau.
Bố Mẹ đã kết hợp theo trong giá-thú là ngày 7 tháng 5 năm 1963 nhưng lễ cưới đời thường được hai bên gia-đình tổ-chức có họ hàng, bạn bè chứng kiến là ngày 29 tháng 9 năm 1963. Thời tiết của mùa thu dịu-dàng, mát-mẻ, đẹp-đẽ cho cuộc tình. Trong bài “Mầu tím hoa sim” của Hữu-Loan và Phạm-Duy đã tả thân-phận của người lính: “Cưới xong là tôi đi”. Đúng vậy, Bố ra đơn-vị (Pleiku) còn Mẹ ở lại nhà (Sài-Gòn) hoàn-tất việc học, nhớ thương vời-vợi…!
Gia-đình thành-hình là sự ra đời của các con. Tên các con được bàn-luận và lựa chọn cho có ý-nghĩa, và âm điệu. Khởi-sự từ tên Bố, Chương (ngọc đẽo) một loại ngọc viết theo chữ Hán có bộ ngọc đứng cạnh; vì thế tên của các con cũng theo phương cách đó.
Nguyễn Quốc-Anh (ánh sáng ngọc) ra đời lúc 8 giờ 10 sáng, ngày 9 tháng 12 năm 1964 (tức là ngày 5 tháng Chạp năm Giáp-thìn) tại Sài-gòn, thủ-đô của miền Nam Tự-Do, cũng mệnh-danh là “Hòn ngọc Viễn-đông”. Quốc-Anh, nhà gọi là “ Cu”, cái tên quê mùa dễ thương được âu-yếm đặt cho đứa con trai đầu lòng. Nơi con sinh ra, nhạc-sĩ Y-Vân đã ngợi ca “Sài gòn đẹp lắm Sài-gòn ơi, Sài-Gòn ơi”. Bệnh-viện Saint Paul của Pháp do các bà sơ điều-hành là nơi con mở mắt. Bác-sĩ Trần thị Mỹ đón con ra khỏi lòng Mẹ, rồi sơ Vincent trông nom. Quốc Anh cân nặng 3.050kg khỏe mạnh, giống Bố cái trán rộng, bàn tay góc cạnh. Từ Pleiku bay về Bố mang 10 bông hồng nhung đến thẳng nhà thương mừng mẹ con mình. Tiệc đầy tháng là ngày Mẹ vào lại nhà thương vì “băng huyết”. Bác-sĩ Mathieu cho tiếp máu và nạo mới cứu được. Hú vía! Tử-thần lảng-vảng. Nhờ bà ngoại bồng ẵm nuôi dưỡng, Mẹ học xong năm chót ở Sài-gòn. Để vợ gần chồng, con gần cha, nhiệm-sở đầu tiên của Mẹ là trường trung-học Pleiku.
Nguyễn ngọc Mỹ-Trinh ra đời lúc 1 giờ 10 tối, ngày 16 tháng 11 năm 1966 (ngày 5 tháng Mười năm Bính-ngọ) tại Dân-y-viện Pleiku. Bố đỡ và cô Trần thị Lan nữ-hộ-sinh phụ giúp. Con nặng 3.500kg khỏe mạnh nhưng lần này máu chảy không ngừng ngay trên bàn đẻ. Bác Phạm văn Hoàng và bố cứu chữa mãi tới 7 giờ sáng hôm sau mới ra khỏi phòng sinh. Nguy cấp phải truyền máu nên “ máu Việt cộng hay máu Mỹ” cũng phải chấp-nhận thôi. Để khỏi làm độc, phải chích thêm Penicilin. Một lần nữa thấp-thoáng cửa Thiên-đường vì Mẹ bị phản-ứng thuốc. Anh Quốc-Anh nay thêm em gái Mỹ-Trinh là niềm vui của Bố Mẹ nên những đau-đớn mệt mỏi cũng quên nhanh. Mỹ-Trinh giống Bố nhiều, theo tướng-số “con gái giống cha giầu ba mươi đụn” ???
Xưa nay trinh-tiết là nét đẹp và quý nhất của người con gái (chữ trinh đáng giá ngàn vàng). Vì ước muốn con gái vừa đẹp, vừa quý, nên Mỹ-Trinh là tên của con. Như đã ước-định tên các con phải có bộ ngọc giống Bố nên Nguyễn ngọc Mỹ-Trinh đã có trong khai-sinh. Cô gái miền cao-nguyên, sinh-quán xã Hội-thương Hội-phú, tỉnh Pleiku tuy xa lạ với người miền xuôi nhưng giờ đây là chứng tích một phần đất của nước Việt đã ngàn trùng xa cách. Gia đình có một gái “má đỏ môi hồng” y như trong thơ của Vũ-hữu-Định và nhạc của Phạm Duy trong bài “Còn một chút gì để nhớ ”.
Nguyễn Anh-Hoàng (nửa ngọc bích) ra đời lúc 1 giờ 30 tối ngày 17 tháng 2 năm 1968 (nhằm ngày 19 tháng Giêng Mậu-thân) tại Quân-y-viện Pleiku. Cô nữ-hộ-sinh Phan thị Huế phụ Bố đỡ con ra khỏi lòng Mẹ. Đề-phòng trước thuốc cầm máu uống trong thời kỳ mang thai nhưng độ đông không tăng mấy vì thế tử-thần vẫn quanh-quẩn mỗi khi sinh nở. Năm sinh con thật kinh-khủng; Việt-cộng vi-phạm lệnh ngưng bắn đã tấn-công ào-ạt vào các đô-thị, tỉnh-lỵ giết biết bao dân vô-tội. Điển-hình nhất tại Huế với nhiều mồ chôn tập-thể. Máu chẩy rồi cũng phải ngừng, bắn giết rồi cũng dẹp yên. Hoàng của Mẹ bụ-bẫm nặng 3.800kg. Con hay ăn chóng lớn còn có tên “Hoàng heo”. Con giống Bố nhiều. Dấu tích những ngày chinh-chiến vẫn còn vì Hoàng ở lâu dưới hầm tránh đạn pháo nên phổi yếu và rất sợ lạnh. “Một chàng trai đi lên đi xuống” trong thơ nhạc, yêu biết chừng nào Pleiku nơi chôn rau cắt rốn của hai đứa con và nhiệm-sở đầu tiên của Bố Mẹ.
Nguyễn Hoàng-Việt sinh lúc 11 giờ trưa ngày 2 tháng 5 năm 1974 năm Giáp-Dần, tuổi rất tốt cho con trai. Con nặng 3.850kg lớn hơn tất cả các anh chị. Nhà thương Tầu Sùng-chính phía Chợ-Lớn phường Chợ-Quán là nơi con chào đời. Một lần nữa lại thoát-hiểm; cũng trong ngày đầy tháng, mẹ phải vào nhà thương vì máu chẩy. Người ta thường nói “y-gia đa quái-tật” còn Bố thì cho rằng trong thời-gian học y-khoa hay thực-tập có những sai-sót nên bị quả-báo chăng? Mê chồng, mê con nhưng nguy-hiểm cho tính-mạng cũng phải ngừng để nuôi-dưỡng vì thế Hoàng-Việt còn gọi là thằng Út. Lúc đầu Bố đặt tên con là Vũ, một loại ngọc nhưng trùng với một cụ trong họ. Muốn đổi hoặc xóa phải ra tòa; văn-phòng đề nghị chữa lại dễ nhất là đổi ra chữ “Việt”. Việt là “vượt” như câu “cá vượt vũ-môn” ý rất hay. Việt còn là tên nước Việt Nam thân-yêu. Định-mệnh chăng, tên con khẳng-định mình là người Việt-Nam, muôn đời không quên nguồn gốc.
Theo nhận xét: Mỹ-Trinh, Anh-Hoàng giống Bố khuôn mặt tròn, vai ngang mặc âu-phục đẹp còn Quốc-Anh, Hoàng-Việt mặt dài, vai xuôi giống mẹ một chút cho công-bằng.
“Banh da, xẻ thịt, chết lên chết xuống mấy lần” được đàn con, có trai, có gái, một gia-đình đầy đủ. Lúc bé ngoan-ngoãn dễ thương, khi lớn chịu học, có nghề-nghiệp tốt, hiếu-đễ với Bố Mẹ, thật không còn mơ ước gì hơn. Quốc-Anh, Ngọc Mỹ-Trinh, Anh-Hoàng, Hoàng-Việt, tên được chọn lựa cẩn-trọng, máu huyết tế-bào của Bố Mẹ luân-lưu trong cơ-thể các con. Mong các con thương yêu đùm bọc nhau vì “một giọt máu đào hơn ao nước lã.”
Vật đổi, sao dời. Năm 1975 bao công-lao xây đắp vụt tan như mây khói. Với hai bàn tay trắng dắt-díu bốn con thơ tìm đất sống; thật mừng tất cả đã an-toàn đến bến Tự-Do.
Làm lại từ đầu mặc dầu tuổi lớn nhưng nặng gánh, Bố học lại, Mẹ chấp-nhận làm bất-cứ việc gì miễn sao cho các con tiếp tục cắp sách tới trường. Cuộc sống khiêm-tốn, vất-vả nhưng kết quả tốt; Bố đã lấy được bằng hành-nghề, giúp các con tiến-thân.
Từ miền quê nhỏ bé, nghèo-nàn thoát khỏi lũy tre rồi bằng ý-chí và học-lực Bố Mẹ mong xây dựng tương-lai cho đàn con. Các con đã nối nghiệp nhà, nghề mà trước kia Bố vất-vả lắm mới đạt được. Mỹ là nước cho nhiều cơ-hội. Ai cố-gắng sẽ thành-công. Bố Mẹ giúp các con phương-tiện bước vào tầng lớp cao của xã-hội và cháu chắt cứ thế mà đi. Mấy chục năm xa quê-hương tổng-kết lại gia-đình ta đã thêm người, thêm của nếu so-sánh với lúc ra đi.
Con gái Mỹ Trinh lập gia-đình với Phan gia-Quang ngày 16 tháng 10 năm 1993 tại tiểu-bang California miền tây nước Mỹ. Cuộc hôn-nhân của Trinh-Quang do tình yêu vì hai người quen biết nhau trong những năm đại-học. Phong-tục, tập-quán, lễ-giáo là kim chỉ-nam cho cuộc hôn-nhân. Gia-đình mới này đã có một gái đầu lòng và Bố Mẹ được vinh dự đặt tên cho cháu gái: Phan ngọc Quỳnh-An (1-8-1997). Bé trai Phan tại Thành-Vũ (26-12-2003) do Quang chọn để tiếp nối giòng họ (Chánh, Gia, Tại...)
Ở hải-ngoại các gia-đình nhỏ có bà nội, bà ngoại là nhất vì con cháu được coi sóc kỹ-lưỡng. Sau 10 năm Trinh mở phòng nha tại quận Cam, Quang làm nhà thương nhưng “buôn có bạn, bán có phường”, gia-đình Mỹ-Trinh đã rời California năm 2003 sang Houston lập-nghiệp. Thế là bà ngoại mất việc, có nhớ con nhớ cháu phải trả tiền cho máy bay làm cầu nối để rồi mỗi lần sang thăm khi về lại sụt-sùi mưa ngâu buồn ghê!
Con trai út Hoàng-ViệtTrịnh thị Bão-Hương đã thành-hôn ngày 10 tháng 5 năm 2003 sau những nghi-lễ chạm-ngõ, vấn-danh (đám-hỏi). Gia-đình này đã có hai con gái. Bố mẹ đặt tên cho con cháu gái đầu lòng Nguyễn Việt Anh-Thư sinh ngày 12 tháng 2 năm 2006; cháu gái thứ hai do bên ngoại chọn lựa: Nguyễn Trịnh Trâm-Anh chào đời vào ngày 17 tháng 8 năm 2009. Gia đình Việt-Hương trước ở Loma Linda cách quận Cam 60 miles. Bố mất, thương Mẹ cô-đơn Việt-Hương và các con đã về ở với mẹ. Cám ơn các con.
Nhớ xưa ngày lễ Tết, sinh-nhật, kỷ-niệm ngày cưới, các con tự vẽ lời chúc ngây-ngô mộc-mạc. Rồi sau có những tấm thiếp đẹp thay thế tình-cảm chân-thành, hoa-mỹ hơn. Lúc còn đi học, chỉ có chút tiền mà các con đã góp lại mua quà tặng; thật cảm-động trước tình-cảm các con dành cho. Rồi những món quà lớn hơn, giá trị hơn. Những bữa tiệc ở tiệm ăn sang-trọng, quần áo dầy dép do những nhà vẽ kiểu nổi tiếng. Không cân đo tình-cảm bằng những quà tặng nhưng nó thể-hiện được sự chú-tâm thương-mến tận-tình của người cho và người nhận.
Dù ở đâu, xã-hội nào chữ Hiếu phải được đề-cao. Với suy-nghĩ bình-thường “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”, Gia-huấn của Nguyễn Trãi, lời dậy của Khổng-Phu-tử đã bị lãng quên dần tại xã hội này, nhưng gia-đình ta vẫn còn giữ-gìn tuân-thủ. Ông ngoại lúc sinh-thời cũng nói: “Chỉ cần lúc sống đối-sử tử-tế chứ khi chết rồi dù mâm cao cỗ đầy nào có ích gì??” Một bài hát mang tên “Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ” cũng là có ý đó. Vậy hiện-tại mới quan-trọng. Bố Mẹ ghi-nhận và trân-quý lòng hiếu-thảo của các con, từ lời nói tới việc làm. Bố lâm-bệnh các con trai, gái, dâu, rể đều chăm lo, săn-sóc tận-tình, chắc Bố cũng hài-lòng về tình thương yêu đó.
Thời thơ-ấu ở nơi thôn-ổ nếp sống đơn-sơ giản-dị. Rồi chinh-chiến kéo dài, bao biến-động thời-cuộc để rồi trắng tay nên tính Bố cần-kiệm, lo xa đã hằn xâu trong tâm-não, không bao giờ hoang-phí cho riêng mình! Ngày nay các con trưởng-thành ở một nước văn-minh giầu mạnh vẫn không quên nguồn cội; lòng hiếu-thảo thực-hiện bàng-bạc trong mọi phương-cách. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là mô-hình cho cuộc sống cho dù ở xứ Mỹ có chương-trình hưu-bổng đầy đủ, không là gánh nặng cho các con.
Quốc-Anh, Mỹ-Trinh, Anh-Hoàng, Hoàng-Việt, những đứa con yêu-quý, là nguồn vui, là cái phao lúc gặp sóng gió của cuộc đời. Phan gia-Quang rể thảo, Trịnh thị Bão-Hương dâu hiền; các cháu nội Anh-Thư, Trâm-Anh, cháu ngoại Quỳnh-An, Thành-vũ đã cho Bố Mẹ hưởng những thương yêu và hạnh-phúc. Bố đã mãn-nguyện mang theo hình ảnh đẹp về gia-đình mình. Nói đến con dâu và con rể, Bố mẹ thực sung-sướng và hạnh-phúc vì Quang đã là thành-viên trong gia đình họ Nguyễn 17 năm mà chưa một lần làm phiền lòng, luôn vui-vẻ đón tiếp chân-thành. Căn nhà ở Sugar Land có phòng riêng dành cho “ông bà ngoại”. Mỗi lần sang chơi đều có thêm vật trang-trí mới. Rồi những tiệm ăn nào ngon, lạ cũng được mời “nếm thử”. Những cử-chỉ ân-cần chăm sóc: Bố bị bệnh, Quang tham-gia tích-cực, bàn-luận cùng các anh em và bạn bè tìm giải-pháp cứu chữa. Với Mẹ, những viên thuốc mẫu cần dùng sưu-tập từ các phòng mạch khác, tuy không đáng là bao song lòng nghĩ tới là quý-hóa rồi. Cám-ơn rể quý, mong gia-đình con luôn hạnh-phúc, là chồng tốt, là cha yêu trong căn nhà lớn tại Texas.
Bão Hương con dâu út thật dễ thương đã về với gia-đình này 7 năm. Bố Mẹ cũng chưa lần nào phàn-nàn về con. Nhiều người than phiền con dâu ở xứ này nhưng mẹ con ta đều giữ bổn-phận: con lễ-phép, kính-trọng nghe lời; Mẹ giúp con an-tâm coi sóc cháu khi đi làm. Cụ nội bà thường nói: “Bắc cầu mà noi, chứ đừng bắc cầu mà lội” ý nói “gieo nhân nào gặt quả ấy”. Một lần nữa cám ơn con dâu của Mẹ.
Đời Bố Mẹ trải qua cuộc chiến kéo dài, nào chống thực-dân Pháp rồi Quốc Cộng điêu-tàn làm cho mọi người mệt mỏi và nghèo-nàn nên “du-lịch” chỉ là những ý-nghĩ viển-vông không-tưởng. Ở quê-hương mới, một nước phồn-thịnh, có làm có hưởng, năm 1998 mẹ đã cùng Quốc-Anh đến Trung-Hoa, nước có quan-hệ mật-thiết: láng-giềng phương bắc, 1000 năm cai-trị nên phong-tục, văn-hóa ảnh-hưởng rất nhiều. Chuyến đi Cao-miên, Thái-lan, Bố Mẹ được hưởng tiện-nghi tối-đa. Bố ít chịu đi chơi nhưng một chuyến như thế thật đầy đủ và ý-nghĩa. Bố không còn ở với chúng ta nữa. Bây giờ các con, cháu dồn hết tình thương cho Mẹ, cố tạo niềm vui hầu quên những nỗi khổ đau mà gia-đình vừa trải qua nhưng càng được hưởng những ưu-ái thương yêu, lại càng xót-xa nhớ đến người xưa!
Anh Hoàng cho mẹ đi chơi miền Địa-trung-hải bằng du-thuyền, đã ghé Tây-ban-nha, Pháp, Roma, một cái nhìn sơ qua về Âu-châu.
Muốn biết nước Mỹ phải đến Washington, DC trung-tâm quyền-lực về chính-trị còn New York, trọng-tâm sức mạnh của kinh-tế thế-giới, gia-đình Quang-Trinh và Quốc Anh đã hướng dẫn chuyến đi. Được ăn ngon ngắm nhìn cảnh lạ, cái đẹp của một nước văn-minh, khoa-học nhất thế-giới và cũng tự nhủ mình đã dẫn con đi đúng hướng. Việt và Trinh đã phối-hợp chuyến nghỉ hè tại Florida có Disney World, khu giải-trí lớn nhất thế-giới để mẹ, con, bà, cháu gặp nhau. Cũng một mục đích tạo niềm vui cho cả đại-gia-đình, một chuyến nghỉ hè Hawaii với cảnh thiên-nhiên núi non hùng-vĩ. Giữa trời biển bao-la chợt thấy con người quá nhỏ bé như chiếc lá cuốn theo trận cuồng-phong. Những ngày cùng con trai, gái, dâu, rể, nội ngoại thật vui nhưng vẫn không khỏi ngậm-ngùi nhớ thương người yêu dấu. “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Kiều).
Đời là bể khổ nhưng chuốt lọc lại, bỏ qua những bất-hạnh thì đời Mẹ thật đẹp và hạnh-phúc. Lúc bé là chắt, là cháu, là con đầu tiên hưởng biết bao tình yêu thương của cụ nội, bà nội, ông bà ngoại, bà cô và cha mẹ. Gia-đình đông đủ anh chị em. Khi lập gia-đình thì chồng chung-thủy, yêu thương, các con hiếu-thảo các cháu ngoan. Đời sống vợ chồng ấm êm, một đàn con ngoan thành-đạt và Mẹ một lòng lo tròn bổn-phận làm vợ, làm mẹ, làm bà. Thời-gian ở trần-thế không còn bao lâu nhưng một mai phải ra đi cũng không ân-hận và mang theo hình ảnh đẹp về cuộc đời. Cám ơn, cám ơn….tất cả
Đầu hạ Canh Dần 6/2010 Bùi Mỹ Dương

*

NGUYỄN QUANG DUY * BÀ CÁT HANH LONG


*


Bà Cát Thành Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ Chí Minh
Monday, July 5, 2010 3:21 PM



Trên một số diễn đàn đăng lại bài "Những kỉ niệm về Bác Hồ" của Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân (1954-1982), bài viết có nhắc đến việc xử bắn bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm. Trước đây tôi có may mắn tìm được một tài liệu về vụ xử bắn này để viết bài "Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất" đăng trên một số diễn đàn vài năm về trước (2007). Bài viết dưới có vài hiệu đính xin được phổ biến lại trên diễn đàn, hết sức cám ơn.

Kính

Nguyễn Quang Duy



Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm và ông Hồ chí Minh.



Nguyễn Quang Duy



Ông Hòang Tùng, nguyên Tổng Biên Tập báo Nhân Dân (1954-1982), vừa qua đời tại Hà Nội, ngày 19 tháng 6 năm 2010. Trên một số diễn đàn mạng đã đăng lại bài viết "Những kỉ niệm về Bác Hồ". Trong bài viết này ông đã nhắc đến việc xử bắn bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm. Người viết có may mắn tìm được một tài liệu về vụ xử bắn này để viết bài "Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải cách ruộng đất" đăng trên một số diễn đàn vài năm về trước (2007). Bài viết này có vài hiệu đính xin được phổ biến lại để bạn đọc xa gần nắm rõ hơn về vụ án này.



Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc Việt Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam . Sự kiện này đã dẫn đến việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau nhiều năm bị che đậy, các tài liệu, các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm văn học... được phổ biến trong thời gian gần đây giúp chúng ta biết thêm sự thật về cuộc cải cách ruộng đất này.

Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ Thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông.

Những tài liệu cho thấy Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam . Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCSVN đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.

Ít tháng sau, ĐCS đã sách động nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn.

Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm gần xong lục địa, cửa hậu cần mới đang được khai thông. Việt Minh bắt đầu nhận được những viện trợ từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945.

Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.

Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357).

Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.

Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).

Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh". (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).

Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Trong "Tuần lễ vàng" bà đã đóng góp cho Việt Minh 100 lạng vàng. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.

Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam ". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"

Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm".

Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Thành Tín viết tiếp: "Thế nhưng không có gì động theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi".

Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: "Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao". Thành Tín nhận xét: "Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình".

Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân." Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: "Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc".

Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc "những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!".

Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: "Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn" .

Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí". Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ".

Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.

Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.

Địa chủ ác ghê

Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:

Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:

* Giết chết 14 nông dân.
* Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
* Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
* Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
* Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào!

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:

* Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
* Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
* Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
* Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
* Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
* Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.

Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:

Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!

(21-7-1953)



Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng?

Nhà báo Thành tín cũng viết: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nhóm từ "mấy tên lâu la" được dùng trong bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà.

Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp.

Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ tên tác giả các bài viết trong đó là C.B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C.B.

Không thấy bài viết này được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’." Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc với một bút hiệu khác.

Khi đọc bản thảo bài viết này, ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và các cán bộ CCRĐ.

Ông Hoàng Văn Chí có viết trong khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von: "đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ phải phá cho kỳ hết bụi rậm." (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chương 12, trang 90).

Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: "bà đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chuẩn y". Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ:

* Thứ nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần, trang 3), là một đại địa chủ.
* Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ...
* Thứ ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố "toàn dân kháng chiến", địa chủ đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo, đóng góp, tham gia kháng chiến. Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng kháng chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã có Quốc tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu "toàn dân kháng chiến" không còn cần thiết nữa.
* Thứ tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có ruộng đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng Lao động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng cho chính quyền kháng chiến.
* Thứ năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị.
* Thứ sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân thực thi sách lược "chia để trị".
* Thứ bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao quyền lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: "Các đoàn CCRĐ đã rút kinh nghiệm về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la to Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm" (Nguyễn Văn Trấn, trang 270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: "Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản bội, Hồ Chí Minh muôn năm!" (Vũ Thư Hiên, chương 1).

Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh mới đích thân viết bài trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm.

Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).

Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).

Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, của người nông dân là người cày có ruộng ... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam.

CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác.

Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải.


Tài liệu tham khảo

* C.B., Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, Báo Nhân Dân, 1955
* Đoàn Duy Thành, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn
* Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ, Điện thơ Câu lạc bộ Dân Chủ
* Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Bản dịch của Mạc Định, Nhà xuất bản Chân Trời Mới, Sài Gòn, 1964
* Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả
* Thanh Cần, Tội ác bóc lột địa tô của giai cấp địa chủ, Nhà xuất bản Sự Thật, 1955
* Thành Tín, Mặt thật
* Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Văn Nghệ California, USA, 1997
* Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác! ... Nửa thế kỷ trước, CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI MIỀN BẮC1949-1956, tập 2, Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam, trang 67-86.
* Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày
* Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1995
* Hồ Chí Minh Toàn tập, Viện Mác Lê Nin, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1989



Phụ lục

Ảnh chụp bài viết “Địa chủ ác ghê” từ nguồn: C.B., Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất, báo Nhân Dân, 1955



Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Úc Đại Lợi
5/7/2010

VÕ QUÊ * MÓN ĂN HUẾ






LỤC BÁT MÓN HUẾ
Hoan hô thi sĩ Võ Quê
Hương vị xứ Huế liệt kê thiệt tài
Đọc lời tả thực là hay
Coi hình thú thiệt, lão đây quá thèm.
Hoàng Ngọc Hùng


CƠM HẾN
Đã nghe ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành...
Mời anh buổi sáng chân thành món quê


BÁNH BÈO
Tôm chấy hồng thắm cánh bèo
Dẻo thơm bột gạo quê nghèo nên thương
Hẹn em ngồi quán ven đường
Bánh bèo kết mối tơ duyên đôi lòng



BÁNH NẬM
Mảnh mai xanh sắc lá dong
Mềm mại bánh nậm ấm trong tay người
Nhụy hồng bột trắng tươi mươi
Xuýt xoa nước mắm ngọt lời tỉ tê



BÁNH BỘT LỌC
Bột trong bọc thịt tôm hồng
Lá xanh em gói ươm nồng hương yêu
Bánh ngon nước mắm cay nhiều
Mời anh bữa lỡ ban chiều cùng em



BÁNH PHU THÊ
Lá dừa ôm bột lọc trong
Ngọt ngào thơm nhụy đậu xanh ửng vàng
Phu thê vui chuyện xóm làng
Mừng nhau tác hợp thiếp chàng hòa duyên



BÁNH RAM ÍT
Này em ăn ngậm mà nghe
Ram vàng ít dẻo càng mê vị tình
Mới hay đặc sản Huế mình
Sắc hương dân dã cung đình tìm nhau



MÈ XỮNG
Thơm tho mềm dẻo ngọt ngào
Mè vàng bột nhuyễn ôi chao! Tuyệt vời!
Món quà xứ Huế em ơi
Kẹo ngon mẽ xững tặng người tình chung


TÔM CHUA
Nguyên là đặc sản Gò Công
Theo bà Từ Dũ ra cùng Hương Giang
Tôm hồng, ớt đỏ, riềng vàng...
Vị chua thấm lưỡi nhớ hàng thịt phay (thịt heo luộc)


NEM HUẾ
Mời em khai vị món nem
Em nem anh chả tình thêm mặn mà
Nem thơm, chua, ngọt đậm đà
Nhờ ai quết nhuyễn thịt thà đêm đêm



CHẢ HUẾ
Mời anh thử miếng chả này
Nâng ly hào sảng hương say tận lòng
Cung đình chả phượng nem công
Đôi ta nem chả vốn dòng dân gian






CHÈ HẠT SEN
Hạt sen vừa bổ vừa thanh
Tan trên đầu lưỡi ngọt lành hương xưa
Chè sen mời gọi người thơ
Mát lòng du khách ngẩn ngơ bạn tình


CHÈ BỘT LỌC BỌC THỊT QUAY
Ngọt ngào bùi béo tìm nhau
Thịt quay nằm giữa trắng phau bột mềm
Quen nhau tình đã nên duyên
Chè ngon xứ Huế ngỡ quên đường về




CHÈ ĐẬU NGỰ
Thức ngon xưa tiến quân vương
Tinh hoa trời đất đượm hương kinh thành
Chè đậu ngự mát và thanh
Đêm, dâng chén ngọc an lành châu thân






THƠ NGHIÊU MINH






Thơ NM: Ngắm Trăng Trong Rượu
Monday, July 5, 2010 7:52 PM
From:
View contact details
To:
Minhnghieu@aol.com


(photo TT-10)
Ngắm Trăng Trong Rượu
Trên đường về hàm cốc
Lưng thanh ngưu nghêu ngao
Bên thác già cô độc
Ta dòng nước xôn xao
Giữa hàng kinh thanh tịnh
Ta ẩn mình tầm duyên


Cõi xung quanh khép kín
Ta hạt bụi bay lên
Trâu bỏ ta giữa lộ
Bèn ngắm cuội làm thơ
Ta và cuội chưa ngộ
Nên thất tình vu vơ
Đứng giữa rừng hoa hạnh
Có con bướm đang say
Trên đài hoa hiển thánh
Ta và bướm liêu trai
Khộng nhị cũng không nhất
Ta tứ cố tha phương
Cái còn thì đã mất
Cái yêu cũng khó thương
Giờ ngắm trăng trong rượu
Trăng sân trước sân sau
Trăng dùi ta đi ngủ
Ta say em lần đầu
Nghiêu Minh

*


TIN GIÁO XỨ VƯỜN XOÀI



Vợ của LM Phan Khắc Từ tuyên bố

Vợ của LM Phan Khắc Từ tuyên bố

Được hỏi về vụ Đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt bị tống xuất ra nước ngoài...Bà Tư Liên úp mở: " Những ai chống lại Đảng, chống lại nhân dân thì đều có chung một số phận như thế "
( Bản tin của một Giáo dân, Giáo xứ Vườn Xoài gửi cho Điện báo http://www.haingoai phiemdam. com/




Bà Ngô Thị Thanh Thủy ( Tư Liên ) Vợ của LM Phan Khắc Từ tuyên bố...
30/06/2010
( HNPĐ ) Tin mới nhất được cư dân mạng, nhất là giáo dân ở Giáo Xứ Vườn Xoài đang rộ lên chuyện Bà Ngô Thị Thanh Thủy ( Bí danh Tư Liên ) đã công khai ra mặt với tư cách là vợ Chính thức của Linh Mục Phan Khắc Từ...Trong buổi phát động ngày "Ngày gia đình Việt Nam, 28.06.1010" vừa qua, tại Giáo Xứ Vườn Xoài, Bà Thủy với một bộ đồ rất " mốt " đã xuất hiện.
Khi được hỏi về liên hệ giữa Bà với LM Chánh xứ Phan Khắc Từ. Bà Tư Liên người đã từng giữ chức Bí thư Quận đòan Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tại Quận Bình Thạnh và sau về làm Cửa hàng trưởng Nhà hàng nổi tại Bến Tân cảng gần khu cầu Bình Lợi, đã thẳng thừng tuyên bố:

" Tôi là vợ chính thức, có hôn thú của ông Phan Khắc Từ, Tôi đã có 2 con với ông ấy, chúng tôi sống rất hạnh phúc..."

Được hỏi theo dư luận “Ông Từ đã từng có ý định xin cởi áo, từ bỏ chức vụ linh mục, như trường hợp của các cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị mà sau 1975 đã chính thức xin với giáo quyền cho họ được công khai rời bỏ chức vụ linh mục và hòan tục trở về cương vị của một người giáo dân bình thường..." Bà nghĩ sao về dư luận ấy..

Bà Tư Liên phản bác ngay: " Chuyện gia đình tôi là chuyện riêng tư, đến Tòa thánh còn không dám treo chén nữa là...Vả lại, quý vị nên nhớ, trong Đạo anh Từ là linh mục. Nhưng ngoài đời anh ấy là một Đảng viên...Anh ấy giúp Đạo thì phải có bổn phận một công dân chứ ... vả lại bên Tin lành hay bên Chính thống giáo, thì vị mục sư hay linh mục mà có vợ con là chuyện bình thường "
Bà Tư Liên còn cười mỉa mai:
- Tôi xin hỏi quý vị..Ngày hôm nay là ngày gì? Có phải tựu chung chỉ chủ trương 1 vợ 1 chồng, gia đình hạnh phúc phải không? Chúng tôi ( Anh Từ và Tôi ) đã làm tròn phương hướng của Phong trào...Còn những ông Giám Mục, Linh mục đang sơ sờ trước mắt kia, đang thậm thụt vợ nọ con kia, gái bao đủ thứ chuyện" Ai phải ai trái !
Lại được hỏi: " Bà có can đảm chỉ đích danh các vi Giám mục, Linh mục ấy không?"
Bà Tư Liên nói: " Tôi không sợ gì mà không nói, nhưng bây giờ chưa phải lúc !"

Được hỏi về vụ Đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt bị tống xuất ra nước ngoài...Bà Tư Liên úp mở: " Những ai chống lại Đảng, chống lại nhân dân thì đều có chung một số phận như thế "
( Bản tin của một Giáo dân, Giáo xứ Vườn Xoài gửi cho Điện báo http://www.haingoai phiemdam. com/
HNPĐ
Nguồn tin: haingoai phiemdam

THIỆN Ý * LM.NGUYỄN VĂN LÝ

Bình luận

ĐƠN KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN CSVN CỦA TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM LM NGUYỄN VĂN LÝ

Thiện Ý – 21.6.2010



Qua các phương tiện truyền thông đại chúng, chắc quý độc giả đã biết, ngày 8 tháng 6 năm 2010 vừa qua, một tù nhân lương tâm là Linh mục Công giáo Nguyễn Văn Lý đã gửi “Đơn kiện số 1” đến Tòa án Nhân quyền của Liên Hiếp Quốc có trụ sở ở Thụy Sĩ, để kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (NCQ CSVN) . Nội dung đơn kiện gồm 3 phần chính:

- Một là tiến trình Linh mục Nguyễn Văn Lý bị NCQ CSVN giam cầm tất cả 4 lần, tổng cộng 17 năm tù giam, 14 năm quản chế trong 7 lần. (Yếu tố cấu thành tội phạm).
- Hai là các văn kiện pháp luật và các sự kiện lịch sử làm căn cứ khởi kiện. (Luật pháp quốc tế và quốc nội qui kết).
- Ba là mục tiêu khởi kiện nhằm thành đạt mục đích gì. (Thỉnh cầu). Trước hết trong tiến trình bị bắt bất công 4 lần, Linh mục Nguyễn Văn Lý đã trình bày chi tiết các lần bị bắt, bị đối xử tàn tệ và bị giam cầm tổng cộng 17 năm trong nhà tù khắc nghiệt của chế độ, đã đưa đến tác hại đến thể xác và tinh thần của nguyên cáo ra sao.

Tất cả sự bắt bớ, giam cầm, đối xử tàn tệ này của NCQ CSVN, trước sau chỉ vì những hoạt động đấu tranh ôn hòa của nguyên cáo Nguyễn Văn Lý, cho các Quyền Tự do, Dân chủ, Nhân quyền phù hợp với qui định trong Luật pháp Quốc tế mà chính NCQ CSVN cũng đã ký kết và cam kết thi hành. Chính vì vậy mà nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý, đã kiện bị cáo là NCQ CSVN trước Cơ quan Tài phán Quốc tế, căn cứ trên các văn kiện pháp lý quốc tế và quốc nội có hiệu lực thi hành sau đây:

1/ Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc ngày 16-12-1966, và NCQ CSVN đã xin tham gia ngày 24-9-1982. -
Điều 19, khoản 2: “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
- Điều 22, khỏan 1: “Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.”
2/ Tuyên ngôn Quốc tế Bảo vệ những Người Đấu tranh cho Nhân quyền ngày 9 -12-1998; - Điều

5: Qui định “Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế: a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa; b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.

- Điều 7: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.
- Điều 8,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.
- Điều 8,2: Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.

- Điều 12,1: Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản. 3/ - Luật ký kết, tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế do NCQ CSVN ban hành ngày 24-6-2005 và có hiệu lực thi hành ngày 1-1-2006. Trong luật quốc nội này, còn quy định rõ nguyên tắc hiệu lực luật quốc tế cao hơn luật quốc nội, rằng khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.

- 6,1: Trong trường hợp Văn bản Qui phạm Pháp luật trong Nước và Điều ước Quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của Điều ước Quốc tế.

- 6,2: Việc ban hành Văn bản Qui phạm Pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành Điều ước Quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề. Đồng thời, để hỗ trợ cho căn bản pháp lý khởi kiện vừa nêu, nguyên cáo Nguyễn Văn Lý còn đưa ra những sự kiện thực tiễn lịch sử để so sánh hoạt động tranh đấu của nguyên cáo với hành động tương tự về tính chất của một số nhân vât lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, nhưng đều không bị Nhà cầm quyền đương thời bắt bớ, giam cầm và đối xử tàn tệ như NCQ CSVN đối xử với nguyên cáo và những Nhà đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền Việt Nam ngày nay. Đó là trường hợp Karl Marx khi viết và công bố Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản ở Luân Đôn Anh quốc, Nguyễn Ái Quốc tức các Nhà ái quốc Việt Nam như Cụ Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hồ Chí Minh, v.v. đã viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam như Cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923 đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Nhất là thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên Cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt. Dựa trên căn bản pháp luật và thực tiễn lịch sử trên đây, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý đã đòi bị cáo là NCQ CSVN phải trả lại tất cả những gì thuộc sở hữu cá nhân mà Công an Cộng sản đã tịch thu những lần khám xét trú sở và bắt cầm tù nguyên cáo, bồi thường mọi thiệt hại vật chất, sức khỏe, tinh thần đã gây ra cho nguyên cáo.v.v…

Nhận định nội dung Đơn Kiện số 1 của người tù lương tâm Linh mục Nguyễn Văn Lý, người ta thấy đã nêu lên được những yếu tố cấu thành tội phạm theo các điều khoản qui định của các Công ước Quốc tế được coi là Luật pháp Quốc tế và vi phạm Luật Quốc nội của chính NCQ CSVN ban hành liên quan đến việc thi hành Luật pháp Quốc tế, khi bắt bớ giam cầm nguyên cáo Nguyễn Văn Lý chỉ vì các hành vi đấu tranh cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền phù hợp với Luật pháp Quốc tế và Quốc nội. Công luận quốc dân Việt Nam ở hải ngoại cũng như trong nước hy vọng rằng, nếu Cơ quan Tài phán Quốc tế chấp nhận đơn kiện, tiến hành xét xử, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý có nhiều yếu tố và cơ hội thắng kiện.

Nhưng để thắng kiện, nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý cần sự trợ giúp thiện nguyện của các Luật sư Việt Nam tài giỏi thông thạo Công pháp và Tư pháp Quốc tế ở hải ngoại cũng như trong nước. Quý vị Luật sư tài giỏi của Việt Nam nghĩ sao ? Liệu quý vị có thể qui tụ thành một Tổ hợp Luật sư để nhiệm cách miễn phí cho nguyên cáo Linh mục Nguyễn Văn Lý trước tòa án có thẩm quyền hay không ? Tuy nhiên niềm hy vọng Tòa án Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc có trụ sở ở Thụy Sĩ thụ lý vụ này đã khó, nếu vượt qua được, thì bản án nếu được tuyên phạt bị cáo là NCQ CSVN cũng khó thi hành trên thực tế, khi chính Tòa Án Quốc tế cũng chưa có phương thức thi hành án hữu hiệu, trong bối cảnh ĐCSVN vẫn độc quyền thống trị độc tài, độc tôn và độc quyền như hiện nay.

Tất nhiên, dù được xét hay không và có thắng kiện hay không thì đơn kiện số 1 của người tù lương tâm Linh mục Nguyễn Văn Lý đã có tác dụng tức thời như BẢN CÁO TRẠNG SỐ 01 mở đầu cho nhiều Bản cáo trạng khác sau này về tội ác của nhà cầm quyền Cộng sản hiện nay đối với các nhà bất đồng chính kiến đã và đang đấu tranh ôn hòa cho các Nhân quyền và Dân quyền căn bản của mọi tầng lớp Nhân dân trong Nước.@@@ Thiện Ý - Houston, ngày 21-6-2010 @@@ Chú thích của Lm Nguyễn Văn Lý : Thực ra, tôi chắc chắn thắng kiện không cốt ở chỗ có Tòa án Nhân Quyền của LHQ xử thắng hay không. Vì hiện nay, rất tiếc, chưa có Tòa án Nhân quyền của LHQ, mà mới chỉ có các Tòa án Nhân quyền của các Tổ chức và Tòa án Tội ác Chiến tranh, hoặc Tội ác Chống Loài người (The International Criminal Court) và Tòa án Công lý của LHQ (The International Court of Justice, chưa xét xử các loại tội vi phạm nhân quyền của các Nhà nước). Mục tiêu cốt yếu tôi nhắm là Bản Cáo trạng số 1 này chắc chắn được đón nhận cách thuyết phục giữa Công luận QT rằng NCQ CSVN đã vi phạm Công pháp QT, còn tôi lại là người đã hành động hợp pháp, đã và đang có quyền lên án và kết án CSVN.

Phải cần hàng trăm, hàng ngàn người Dân VN kiện tụng như thế, để LHQ nhận thức được tình trạng bức thiết mà sớm thiết lập loại Tòa án xét xử các tội vi phạm nhân quyền tương tự, điều mà hiện nay Tòa án Công lý LHQ mới chỉ biết khuyến cáo, nhắc nhở các NCQ vi phạm, mà chưa thể kết tội thành bản án ràng buộc pháp lý chặt chẽ được. Trong khi đó, các Tòa án Nhân quyền của các Tổ chức Nhân quyền QT hoặc của các Nước thì chưa thể xét xử một NCQ đang tại chức, dù NCQ ấy độc tài và tàn bạo đến đâu đi nữa. Vì thế, các loại Tòa án này mới chỉ biết đơn phương lên án và kết án, chưa thể có biện pháp chế tài nghiêm minh hiệu quả. Tuy nhiên, các Tổ chức này có thể khuyến cáo các Chính phủ và các Tổ chức Phi chính phủ phải có những hành động chế tài thích hợp. Ít ra, đây là điều các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình chúng tôi đang mong đợi./.

*

HÀN LÂM VIỆN SĨ NGUYỄN PHÚ THỨ * LÚC LÂM CHUNG


Mai táng cúng kiến như thế nào?
Tiểu Đệ

Nhân viết bài các nghệ sĩ đã qua đời, xin tiếp nối : Tìm hiểu sự lâm chung cho đến mai táng cúng kiến như thế nào?
Khi người Lâm Chung, nếu chúng ta rờ nơi vào thân người đó, thấy nóng chổ nào thì thân trung ấm vãng sanh nơi đó, nếu nóng ở đỉnh đầu là bậc thánh, ở mặt là cỏi trời, ở ngực là trở lại làm người, ở bụng là ngạ quỉ, ở đầu gối là bàn sanh, ở lòng bàn chân là địa ngục.
Lâm mạng (hấp hối) 临 命
Chung thời (chết) 终 时 Lâm chung 临 终
Giữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền
与 诸 圣 众 现 在 其 前
Thị nhân chung thời tâm bất điên đảo
视 人 终 时 心 不 颠 倒
tức đắc vãng sanh
即 得 往 生
Thánh đảnh nhản sanh thiên
圣 等 眼 生 天
Nhơn tâm ngạ quỉ phúc
人 心 饿 鬼 福
Bàn sanh tất cước ly
旁 生 必 脚 离
Địa ngục khước tâm xuất
地 獄 却 心 出
Cuộc đời khó ai biết được tương lai, để chọn sự sống được sung túc thoải mái về vật chất lẫn tinh thần mãi mãi hết được. Bởi vì, nhân loại bị chi phối các vận hành Trời Đất tạo nên trong thời gian nào đó, vì thế mọi người không thể thoát khỏi luân hồi : Sanh, Lão, Bịnh và Tử.

Do vậy, đã làm con người thì có sanh có tử trong kiếp con người không một ai tránh khỏi, khi Cha Me sanh ta ra mỗi người mỗi gia cảnh, mỗi phương cách khác nhau, đều do căn nghiệp của ta cùng tạo hóa sắp bày mà ra, để rồi khi lìa đời cũng không một ai giống nhau và mọi người đang sanh sống không ai không biết sẽ có ngày chết, ngưởi chết sớm vì sống nhỏ tuổi, ngưởi chết già vì sống thọ lớn tuổi.

Hơn nữa, chúng ta đã biết cái chết sẽ làm cho gia đình người chết phải đau khổ tột cùng, vì mất một người thân. Từ đó, tất cả đời sống chúng ta có được hiện tại chỉ là tạm bợ kể cả bản thân, chớ không phải của riêng chúng ta mãi mãi. Nếu con người biết tìm đường tu tập học Phật Pháp để thoát khỏi luân hồi sanh tử vĩnh viễn, thì sẽ có ích lợi vô cùng.

Nhiều người lúc lâm chung không thể vãng sanh Tây phương cực lạc như sau :
1.- Có hạng người niệm Phật lúc bình thường công phu niệm Phật chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung tuy có tâm nguyện cầu sanh Tây phương cực lạc, nhưng vì bệnh nặng không thể nhất tâm niệm Phật, lại không được trợ duyên niệm Phật và còn gặp cảnh bà con bi ai khóc lóc gây chướng ngại, để rồi khi chung mạng không thể vãng sanh Tây phương cực lạc được, mà phải đọa lạc vào cảnh giới khổ đau.
2.- Có hạng người niệm Phật lúc bình thường công phu niệm Phật chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung lại được trợ duyên niệm Phật rất tốt. Nhưng người này tâm vốn điên đảo lại tham luyến tình ái thế gian chí đến đắm trước vợ con, tài sản... không chịu nhất tâm nguyện cầu sanh Tây phương cực lạc, để rồi khi chung mạng không thể vãng sanh Tây phương cực lạc, mà phải trở lại đọa lạc vào cảnh giới sanh tử luân hồi.
3.- Có hạng người niệm Phật lúc bình thường, nhưng chỉ chuyên cầu nhà cửa khang trang, mạng sống an vui lâu dài, đến khi lâm chung chỉ lo sợ chết, chỉ mong cầu bệnh mau thuyên giảm, nhưng không phát tâm cầu sanh Tây phương cực lạc, để rồi khi chung mạng không thể vãng sanh Tây phương cực lạc, sau cùng sẽ tùy theo nghiệp nhân phiền não ác độc ra đi quyết đọa lạc trong tam đồ ác đạo.
Ngoài ra, xin trích dẫn dành cho người lúc lâm chung, nhưng khi chung mạng được vãng sanh Tây phương cực lạc như sau :
Riêng đối với người sắp lâm chung, các người trong gia quyến biết nhất tâm niệm Phật để trợ niệm cùng tiễn đưa thần thức người chết được vãng sanh, lại không bi ai khóc lóc để cho thần thức người mạng chung niệm Phật nhất tâm đi trên con đường cầu vãng sanh Tây phương cực lạc, đem đến kết quả tốt đẹp như ý muốn, bởi vì, thần thức người sắp lâm chung không bị xáo trộn để đưa đến đọa lạc vào địa ngục hay đọa vào các đường ác ngạ quỷ, súc sanh trong chốn đau khổ.
Hơn nữa, có người lúc bình thường không có lòng tín nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, nhưng khi lâm chung lại gặp được thiện tri thức khai thị
và thân nhân trong gia quyến không bi ai khóc lóc, nhứt tâm niệm Phật để trợ niệm, khiến cho tâm người lâm chung hoan hỉ cầu vãng sanh Tây phương cực lạc được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn đúng theo bốn mươi tám đại nguyện của Ngài.
Nhân đây, xin trích dẫn 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà sau đây :
NGUYỀN THỨ NHỨT : Tôi thành Phật được,
Thì nước tôi là nước tịnh thanh,
Ngục hình ngã quỉ, súc sanh,
Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.
NGUYỀN THỨ HAI : Nước này tịnh giới,
Đàn bà cùng con gái tịch nhiên.
Những người trong các nhơn, thiên,
Cùng loại cầm thú cần chuyên tu hành.
Thảy đều đặng hoá sanh thọ cảm,
Thất bảo trì cửu phẩm liên hoa.
NGUYỀNTHỨ BA : dân chúng Phật Đà,
Khi cần ăn uống, hoá ra sẵn sàng.
Bát thất bửu, bỉ bàng đựng lắm,
Trăm món ngon khỏi sắm ở đâu.
Ăn rồi khí dụng liền thâu,
Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.
NGUYỀN THỨ TƯ : nhân dân trong nước,
Muốn áo quần, khăn, lược, mão, giày,
Thảy đều hoá đủ sẵn bày,
Khỏi mua khỏi giặt, khỏi may cực lòng.
NGUYỀN THỨ NĂM : giáp vòng địa lợi,
Từ đất bằng lên tới hư không.
Thảy đều lầu các điện cung,
Cùng là cây trái ao sông cửa nhà.
Các thứ ấy đều là trân bửu,
Cùng bá thiên hoa báu hương thơm.
Hợp nhau thành tạo kết đơm,
Trau dồi trang sức, cho làm phiền ba.
Mùi hương ấy xông ra khắp đủ,
Cả mười phương hưởng thụ cấp kỳ.
Chúng sanh hạnh Nguyện chuyên trì,
Tin và tưởng Phật, đến thì vãng sanh.
NGUYỀN THỨ SÁU : dân lành quốc độ.
Thương kính nhau quí tợ ruột rà.
Không lời qua lại bất hoà,
Không ganh không ghét, sanh ra tranh giành.

NGUYỀN THỨ BẢY : dân sanh trong nước,
Không có lòng uế trược dâm ô.
Cũng không có tánh tục thô,
Cùng là nóng giận, hồ đồ, ngu si,
NGUYỀN THỨ TÁM : chuyên trì thiện niệm,
Cứ đường ngay, tiệm tiệm lướt đi.
Nếu ai muốn nói chuyện gì,
Người kia hiểu ý tức thì khỏi phân.
NGUYỀN THỨ CHÍN : chúng dân từ thiện,
Tai chẳng nghe những chuyện không lành.
Có đâu sự ác tự hành,
Mấy điều nghiệp chướng đã thành vô danh.
NGUYỀN THỨ MƯỜI : chúng sanh đều ví,
Huyễn thân là mộng mị mà thôi
Vậy nên lòng chẳng nhiễm đời,
Tánh không tham muốn, khắp nơi vui cười.
NGUYỀN MƯỜI MỘT : tiên, người, tuy khác
Hình dung đồng một sắc vàng y.
Mặt mày nghiêm chỉnh phương phi,
Trong ngần, đẹp đẽ, không chi ví bằng.
NGUYỀN MƯỜI HAI : mười phương thế giới,
Thiên, nhơn, cùng các loài súc sanh.
Hoá thân về cõi lạc thành,
Chứng ngôi duyên giác thinh danh trùng trùng,
Ngồi Thiền toạ, chăm lòng tịch tịnh,
Hiệp cùng nhau tính tuổi it nhiều.
Chẳng hề biết đặng bao nhiêu
Ngàn, muôn, ức kiếp số nhiều khó phân.
NGUYỀN MƯỜI BA : thiên, nhơn, trên giải.
Hiệp cùng nhau đếm mãi dân cư.
Không hề rõ biết số dư,
Tại An Dưỡng Quốc nhiều như cát Hằng.
NGUYỀN MƯỜI BỐN : dân hằng quốc độ,
Thảy thảy đồng trường thọ miên miên.
Không sao biết đặng số niên,
Sống lâu vô lượng, vô biên kiếp đời.
NGUYỀN MƯỜI LĂM : dân thời thanh tịnh,
Trụ vào ngôi chí tánh tự nhiên.
Ly chư loạn tưởng đảo điên,
Đắc vô phân biệt chứng duyên Niết Bàn.
NGUYỀN MƯỜI SÁU : Lạc bang dân chúng,
Vui vẻ mà thọ dụng đủ đều.
Thảy đồng với các Tỳ kheo,
Chứng phần Vô Lậu chẳng theo sự đời.
NGUYỀN MƯỜI BẢY : khi tôi thành Phật.
Sẽ giảng kinh thuyết thật độ sanh.
Làm cho sở Nguyện đắc thành,
Công tôi giảng đạo trọn lành hơn ai.
NGUYỀN MƯỜI TÁM : hoá thai cõi dục.
Người người đều đắc Túc Mạng thông.
Rõ điều tiền kiếp xa trông,
Hằng hà sa kiếp biết đồng kim sanh.
NGUYỀN MƯỜI CHÍN : chúng sanh ức vạn,
Đắc thần thông thiên nhãn tịnh quang.
Thấy toàn vũ trụ mười phương.
Trùng trùng duyên khởi thế gian tỏ tường.
NGUYỀN HAI MƯƠI : Tây phương dân chúng,
Thiên Nhĩ Thông đắc dụng nghe xa.
Những lời phát Nguyền bủa ra.
Của trăm ngàn ức Phật Đà khẩu tuyên.
NGUYỀN HĂM MỐT : nhơn thiên trong nước
Tha Tâm Thông biết được chẳng sai,
Những điều tâm niệm mỗi loài,
Thập phương thế giới cầu ngoài tánh linh,
NGUYỀN HĂM HAI : chúng sanh quốc độ,
Thần Túc Thông đắc ngộ dong chơi,
Bao hàm thế giới nơi nơi,
Vượt qua một mạch, mau thời hơn bay,
NGUYỀN HĂM BA : khi tôi thành Phật,
Danh hiệu con tỏ thật mười phương.
Phật và đại chúng tán dương,
Còn dân trong nước lai vương tôi hoài.
Thiên, nhơn với các loài thú vật,
Niệm danh con cho thật chí thành.
Sanh lòng vui vẻ hiền lành,
Lâm chung sẽ đặng hoá sanh sen vàng.
NGUYỀN HĂM BỐN : ánh quang minh chiếu,
Nơi đầu con tuyệt diệu rõ ràng.
Mặt trời cùng ánh mặt trăng,
Tuy là sáng tỏ chẳng bằng Phật quang.
NGUYỀN HĂM LĂM : hào quang tôi chói,
Khắp cùng nơi ngõ tối khúc quanh
Thiên, nhơn cùng các súc sanh,
Thấy liền đặng khởi lòng thành qui y.
NGUYỀN HĂM SÁU : bất kỳ nhơn, thú,
Trong thập phương vũ trụ vân vân.
Nhờ hào quang chiếu đến thân,
Từ hoà tâm tánh hơn dân cõi trời.
NGUYỀN HĂM BẢY : Tiên, Người, phát ý
Tâm Bồ đề trì chí giới trai.
Lục Ba La Mật quảng khai,
Làm nhiều công đức chẳng sai một thì,
Khi thọ mạng chí kỳ viên mãn,
Có tôi và các hạng Tăng lành.
Phóng quang tiếp dẫn vãng sanh,
Đặng làm Bồ tát tại thành Lạc ban.
NGUYỀN HĂM TÁM : Thiên, Nhơn vũ trụ,
Nghe danh tôi sắm đủ bỉ bàng,
Hương hoa đăng chúc huy hoàng,
Tràng phan, bảo cái cúng dường Như Lai.
Tạo Tháp, Tự, trì trai thanh tịnh,
Làm việc lành tâm định tưởng tôi.
Tưởng luôn trọn một ngày thôi,
Chắc là sẽ đặng nước tôi về liền.
NGUYỀN HĂM CHÍN : Nhơn, Thiên mười cõi,
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê.
Hiệu tôi thập niệm chuyên bề,
Lâm chung sẽ đặng sanh về Lạc bang
Trừ những kẻ hung tàn hỗn tạp,
Cùng những người Phật pháp dễ khinh
Ai mang tội ấy vào mình,
A Tỳ địa ngục thọ hình chung thân.
NGUYỀN BA MƯƠI : Thiên, Nhơn cầm thú
Trong thập phương vũ trụ khôn lường.
Trước đà tạo tội thường thường
Sau nghe danh Phật tỏ tường cung khai.
Cầu sám hối, trì trai, giới sát,
Nguyền làm lành, nước Phật mông sanh.
Lâm chung sẽ đặng công lành.
Khỏi tam đồ khổ hoá sanh liên đài.
NGUYỀN BA MỐT : Tiên, Người mười cảnh,
Nghe danh tôi đảnh lễ theo về.
Vui mà tu hạnh Bồ đề,
Người người cung kính, kiêng nề tán dương
NGUYỀN BA HAI : thập phương thế giới,
Những đàn bà con gái chán đời.
Phát tâm tín niệm danh tôi,
Thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn.
NGUYỀN BA BA : chúng dân mới tới,
Quả vô sanh bất thối chứng liền
Lại còn quả Phật đoàn viên,
Ngoại trừ những vị bổn nguyền độ sanh
Tôi sẽ giúp cho thành sở mộ.
Tới tha phương tế độ hàm linh.
Hạnh tu Bồ tát rất tinh,
Lại còn thấy sức oai linh hộ truyền.
Cho người ấy tinh chuyên tiến bộ,
Cùng chúng sanh tín thọ pháp huyền
Bồ đề, tịch diệt, Phổ Hiền,
Tấn thêm Tối thắng cần chuyên thi hành.
NGUYỀN BA BỐN : dân lành trong nước
Độ chúng sanh, dùng đủ mọi phương.
Ước nguyền sẽ đặng như lòng,
Bao nhiêu ác nghiệp ba đường khỏi mang.
NGUYỀN BA LĂM : các hàng Bồ tát,
Muốn cúng dường chư Phật đâu đâu,
Hoa hương, anh lạc, trân châu,
Liền đi khắp đủ, vừa hầu bữa ăn.
NGUYỀN BA SÁU : muôn ngàn báu vật,
Muốn cúng dường chư Phật Thánh Hiền,
Ước ra thì có đủ liền,
Cúng dâng khắp cả về miền chưa trưa.
NGUYỀN BA BẢY : ai vừa đọc tụng,
Hoặc thọ trì phụng cúng chư kinh,
Đặng tài biện luận thông minh,
Lại thêm Bát Nhã, trí lành cao siêu.
NGUYỀN BA TÁM : giảng điều pháp lý,
Đủ viên thông, đầy trí huệ tâm,
Nghĩa kinh cùng với Pháp âm
Dẫu rằng vi diệu cao thâm đều cùng.
NGUYỀN BA CHÍN : quốc trung Bồ tát,
Thảy thảy đồng dõng bạt kiên cần.
Mỗi người đều đặng kim thân,
Ba hai tướng tốt đủ phân sắc màu.
Thuyết các Pháp gồm thâu đạo Phật,
Cũng in như chư Phật đương thời.
NGUYỀN BỐN MƯƠI : Nước của tôi.
Hoàn toàn tinh sạch, chiếu soi một màu.
Chư Bồ tát ví như muốn thấy,
Cõi Phật nào là thấy chằng ngoa,
Dòm trong bửu thọ hiện ra,
Cảnh nào Phật nấy như là soi gương.
NGUYỀN BỐN MỐT : mọi đường công đức,
Bồ tát nào chưa được hoàn toàn,
Đặng nghe, đặng thấy đạo tràng,
Bề cao cho đến bốn ngàn Na do.
NGUYỀN BỐN HAI : các đồ nhật dụng,
Quốc độ tôi thiệt đúng tinh minh.
Chói ngời hình sắc đẹp xinh,
Dầu thiên nhãn chẳng nhìn hình đặng đâu.
NGUYỀN BỐN BA : ai ai trong nước.
Chỉ mong cầu nghe được Pháp, Kinh.
Tự nhiên sở Nguyện đắc thành,
Không chờ mời thỉnh thường tình thế gian.
NGUYỀN BỐN BỐN : Thanh Văn, Duyên Giác,
Trong nước tôi đều đắc oai thần.
Hào quang tỏ rạng vô ngần,
Biện tài thuyết pháp ngang phần Pháp Vương.
NGUYỀN BỐN LĂM : tha phương Bồ tát,
Nghe danh tôi, tấn phát phụng hành
Thảy đều đặng phép tịnh thanh,
Định thần giải thoát phước lành thưởng ban.
Như ai muốn cúng dường Phật, Pháp
Trong một đời đi khắp Hà sa.
Tuy là đường sá rất xa.
Định thân không lạc Thiền na chẳng lìa.
NGUYỀN BỐN SÁU : Chư tôn Bồ tát,
Ở tha phương nghe đạt danh tôi,
Quy y tinh tấn vừa rồi,
Định thiền bình đẳng phục hồi bổn nguyên,
Đắc pháp Nhẫn lên ngôi Chánh giác
Đặng thấy thương các bậc Như Lai.
NGUYỀN BỐN BẢY : như vầy,
Tha phương Bồ tát về đầy nước tôi.
Hướng đạo cả tâm hồi bất nhị ,
Chẳng thối lui địa vị cao sâu.
NGUYỀN BỐN TÁM : báu mầu.
Tha phương Bồ tát khấu đầu quy y.
Chư vị ấy đắc kỳ sở Nguyện,
Nhất, Nhị, Tam, Nhẫn Thiện Pháp Vương.
Pháp môn của Phật khôn lường,
Thập phương vững trụ dẫn đường chúng sinh
Khi Pháp Tạng Nguyện xong bốn tám,
Cõi tam thiên sáu món rung rinh.
Hương hoa đổ xuống đầy thành
Hư không phát tiếng chắc thành Như lai.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
http://www.tangthuphathoc.net/tinhdo/48dainguyencuaducphatadida.htm
48 Đại Nguyện Của Đức Phật A Di Đà
Trích Trong Kinh Vô Lượng Thọ
1. Lúc tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
2. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chán giác.
3. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
4. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
5. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
6. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
7. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
8. Giả sư khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
9. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
10. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
11. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
12. Lúc tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
13. Lúc tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
14. Lúc tôi thành Phật, hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
15. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
16. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà cón nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
17. Lúc tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
18. Lúc tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
19. Lúc tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
20. Lúc tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
21. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
22. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
23. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
24. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
25. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
26. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
27. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
28. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
29. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
30. Lúc tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
31. Lúc tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
32. Lúc tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
33. Lúc tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
34. Lúc tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
35. Lúc tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
36. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
37. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
38. Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợ tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
39.Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
40. Lúc tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
41. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
42. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
43. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
44. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
45. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
46. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
47. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
48. Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
Nói tóm lại, Đức Phật A Di Ðà, với 48 đại nguyện, có công đức của Ngài rất rộng lớn, bởi do lòng đại bi đại nguyện lợi tha. Ngài đành bỏ tất cả ngôi sang cao quí, nguyện tu hành khi thành Phật, ở trên một cảnh giới huy hoàng trang nghiêm, để tiếp độ chúng sanh. Trải qua một thời gian được kết quả, y báo, chánh báo xuất hiện rực rỡ như lời Ngài đã thệ nguyện
Trở lại việc Tìm hiểu sự lâm chung cho đến mai táng cúng kiến như thế nào? Xin văn tắt ngắn gọn như sau :
Nếu gặp người đang bị bịnh nặng, trong tương lai sẽ lâm chung, thân nhân nên dọn dẹp giường bịnh cho khang trang và thay quần áo cho người bịnh thật sạch sẽ, đặc biệt, đặt bàn có bông hoa cúng Phật, rồi cung thỉnh quý Ngài Tôn Đức Tăng Ni, (nếu có thêm ban hộ niệm càng tốt), để tụng kinh Cầu An và Sấm Hối cho người bịnh.
Ngoài ra, nên nhắc nhở người bịnh luôn luôn niệm : bởi vì, thời gian này sức khỏe rất yếu, chỉ có thể nghe kinh và không thể đọc kinh được.
Trong thời gian người bịnh đang lâm chung, các thân nhân không nên bi ai khóc lóc, mà nhứt tâm cùng quý Tăng Ni, ban hộ niệm Chùa để tụng Lễ Vía A Di Đà và kinh A Di Đà.
Nhân đây, xin trich dẫn tiêu biểu trong quyển Nghi Thức Tụng Niệm như sau : Bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh Độ Đà La Ni :
HỒI HƯỚNG VÃNG SANH
Nguyện sanh Cực Lạc cảnh Phương Tây, chín phẩm hoa Sen là Cha Mẹ, Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh, Bồ Tát bất thối là bạn hữu.

TỰ QUY Y và ĐÀNH LỄ
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại.
HỒI HƯỚNG
Công đức sám hối khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới.
Đều được vãng sanh Cực Lạc
NGHI THỨC CẦU SIÊU
Nguyện tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo, tiếp độ hương linh vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Nguyện Ta bà Giáo chủ đại từ đại bi Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lạc tôn Phật, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Linh sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát, tiếp độ hương linh vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Nguyện Tây phương Giáo chủ đại từ đại bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại hải chúng Bồ Tát, tiếp độ hương linh vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Quy mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ :
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc
Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật

Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát...
Khi người bịnh đã lâm chung, thân nhân trong gia đình nên cẩn thận thăm dò thân thể người chết, đợi thấy chết hẳn mới tiến hành thủ tục tắm rửa thay quần áo để tẩn liệm, thông thường đầu người chết quay vào nhà, hai chân đưa ra sân nhà, để người chết sẽ ra đi được chôn cất về hướng Tây tại nghĩa trang (địa) hay đem đi hỏa thiêu, không thể trở lại nhà được.
Đó là, quan niệm người xưa ở Việt Nam, khi đất đai còn nhiều để chôn cất, xây lập nhà mồ rộng rãi, còn ngày nay, thì việc chôn cất vì đất đai rất hạn hẹp, đôi khi chôn cất phải chồng lầu và có thời gian mướn hạn định, chớ không vĩnh cửu được.
Kế đến, làm tuần cúng kiến cho người chết 7 thất (tuần lễ) liên tục để cầu siêu hương hồn vong linh người quá vãng. Người xưa quan niệm khi người lâm chung, thần thức sẽ xuất khỏi thân thể tùy theo nghiệp lực để đi đầu thai, có thể tức thời, cho đến tối đa 7 tuần lễ. Bởi vì, con người có Thất phách là 7 vía (ba hồn 7 vía). Một đặc điểm dáng lưu ý, trên gương mặt mọi người đểu có có 7 khiếu là : 2 mắt, 1 miệng, 2 tai và 2 mũi, cho nên phải làm lễ 7 tuần thất.
Hơn nữa, chúng ta còn thấy con số 7 là con số tối đa của nguyên số thuộc thiên là số dương.
Do vậy, con số 7 tượng trưng cho sự sinh hóa cả vũ trụ, ngay cả sự sống chết của con người như lập đàn Dược Sư Thất Bảo để cầu an hay tổ chức thất thất trai tuần (49 ngày) để cầu siêu cũng dùng đến nó. (kính xin quý bậc cao kiến bổ khuyết thêm cho đầy đủ hơn, chân thành cảm ơn)

Xuyên qua những dẫn chứng nêu trên, khi người lâm chung, tu theo Pháp môn Tịnh Độ, đã nhất tâm niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sanh Tây phưong Cực Lạc, thông thường biết thời gian lâm chung, trên trời đôi khi có những hiện tượng đặc biệt xuất hiện như mưa rơi hạt lớn, nắng đẹp bất chợt hoặc có cầu vòng ngũ sắc, đôi khi ban đêm có nhiều chùm sao giống hoa cái và hương linh thường được quý Chư Phật, Thánh Chúng đến vây quanh đón rước vãng sanh Tây phương cực lạc A Di Đà.

Để kết thúc bài này xin mượn bài Biết đủ sẽ đủ như sau :
Biết đủ sẽ đủ
Các bình chậu hủ đựng lủ khủ,
Biết dùng chúng nó đời sẽ đủ,
Không tranh đủ thiếu được an ngủ,
Vui sống mọi người trong hoàn vủ.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Tiểu Đệ

*

PHỞ CALI



LTS:

Tại hải ngoại, xét về kích cở cái tô có thể chia ra ba loại : tô lớn, tô vừa, tô nhỏ. Tô nhỏ ở đây nhiều thịt, nhiều bánh hơn ở Việt Nam. Trong bài này, người viêt (không ghi tên) chỉ nói đến tô lớn. Tô lớn ở các nơi cũng không lớn bằng cái tô ở trong bài này. Hiện nay ở Canda, tô nhỏ khoảng $3, tô vừa $5, tô lớn $7. Người ngoại quốc rất thích phở Việt Nam.


*
Pho Garden 2109 Clement Street Between 22nd Ave & 23rd Ave

San Francisco, CA 94121






Thử sức với phở... khổng lồ độc đáo. Cửa hàng phở độc đáo này có tên là Phở Garden nằm ở tận San Francisco, Mỹ cơ, đến đây bạn sẽ được ăn phở - món ăn của người Việt, nhưng thú vị hơn là bạn sẽ được ăn bát phở khổng lồ đấy.

Sau khi nhận được bát phở khổng lồ này, vị khách nào cũng phải sửng sốt vì khối lượng phở khổng lồ trước mắt. Những vị khách đến với cửa hàng này có lẽ không phải vì muốn thưởng thức hương vị của phở mà họ muốn thử sức với bát phở khổng lồ này.

Nếu vị khách nào ăn được hết tô phở hẳn sẽ rất tự hào khi đọc được dòng chứ ở đáy của bát: "You did it" (Bạn đã làm được), còn nếu không thể ăn hết muốn dừng "cuộc chơi" thì bạn phải vẫy là cờ trắng có dòng chữ: "I surrender" (Tôi đầu hàng).

Tươi cười trước thử thách... 2 em bé chung 1 bát.
Cụ thể là bạn sẽ phải ăn 2 pounds bánh phở và 2 pounds thịt, mà 2 pounds thì đã gần bằng 1 kg rùi, và nếu bạn ăn hết bạn phở (mà không cần uống hết nước) trong vòng 60 phút thì bạn sẽ được miễn phí còn nếu không bạn sẽ phải trả 22USD (tương đương 418.000dd), ngoài một tấm ảnh của bạn sẽ được treo trên tường.







Nụ cười tự tin? Tuy không thành công nhưng rất hãnh diện. Cổ động viên đông đảo nhưng cũng khó có thể vượt qua thử thách. Anh chàng này ăn vất vả quá! Rất nhiều người xin dừng cuộc chơi... ...với vẻ bất lực Dù đầu hàng nhưng vẫn tươi cười. Đây là 1 thử thách quá lớn cho phái yếu? Suýt nữa thì thành công... Rất tự tin... ...vẻ mặt thất thần. Thật khó khăn... Tuy nhiên không phải là không có người thành công... Dòng chữ ở đáy bát đã hiện ra: "You did it".



*

TIN TỨC VNCH


*

(Bản Tin VNCHF WA)
Lần đầu tiên sau 35 năm lưu vong di tản sau biến cố 30/4/1975, một phái đoàn gồm 8 người của chính phủ VNCH do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Chỉ huy trưởng Công Binh kiêm thứ trưởng




Định Cư của chính phủ VNCH cầm đầu và các vị khác như Thiếu Tướng Lý Tòng Bá Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh Quân Lực VNCH, Luật Sư Lâm Chấn Thọ Cố Vấn Pháp Luật, Luật Sư Bennetto Cố Vấn Pháp Luật, Bác Sĩ Nghiêm Phú Phụ Tá Vận Động, Ông Nguyễn Cần Phụ Tá Ngoại Giao, và Ông Hồ Văn Sinh Phụ Tá Nội Vụ đã xuất hiện và vận động chính trị một cách công khai tại Quốc Hội Hoa Kỳ vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Trong suốt 2 ngày 28 và 29/6/2010 vừa qua. Với sự ngạc nhiên, bất ngờ và nhanh chóng, Phái đoàn Chính Phủ VNCH do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích hướng dẩn đã tiếp xúc được vào khoảng 8 văn phòng Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu Quốc hội hằng quan tâm đến tình trạng vi phạm tự do, tôn giáo và nhân quyền của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam cũng như nâng đở hổ trợ các sinh hoạt của Cộng Đồng người Việt Nam tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. đó là các văn phòng Thượng Nghị Sĩ Brownback, Dân Biểu Ed Royce, Dân Biểu Mike Honda, Dân Biểu Zoe Lofgren, Dân Biểu Chris Smith, Dân Biểu Loretta Sanchez, Dân Biểu Joseph Cao, Dân Biểu Frank Wolf và các chuyên viên phúc trình của Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ về các vấn đề quốc tế.




Với những lập luận vững chắc về các vấn đề liên quan đến ngoại giao, chính trị và pháp lý, Phái Đoàn Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã trình bày một cách thuyết phục bắt đầu từ vấn đề tranh chấp biển đông, sự chiếm cứ bất hợp pháp của Trung Cộng trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của VNCH cho đến các diển biến đưa đến sự di tản bi thãm của hàng triệu Quân Dân Cán Chính VNCH. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Đại Diện Chính Phủ VNCH ngoài lãnh thổ sau cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Nội Các Chính Phủ VNCH của Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn 27/11/2009 đã cho biết nguyên nhân chính là sự vi phạm trầm trọng hiệp định Paris năm 1973 mà Cộng Sản Bắc Việt đã cố tình xé bỏ để xâm lăng chiếm đóng Việt Nam Cộng Hòa, từ đó gây ra không biết bao nhiêu thảm nạn cho cả Nước VNCH. Luật Sư Lâm Chấn Thọ đã trình bày rất rỏ ràng về Bản Định Ước Quốc Tế ký ngày 2/3/1973 do 12 Nước dưới sự chứng kiến của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đó là Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, Chính Phủ Liên Bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết, Chính Phủ Canada, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Hoa Kỳ, Chính Phủ Cộng Hòa Pháp, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Hung-ga-ri, Chính Phủ Cộng Hòa Indonexia, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Chính Phủ Vương Quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan. Tất cả đều cam kết bảo đãm chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình và tiến tới một cuộc tổng tuyển cử tự do, công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng tất cả những điều này đã không xảy ra vì những thủ đoạn gian trá, lừa bịp của Cộng Sản Bắc Việt. Trong các cuộc tiếp xúc với thời gian đã định sẵn, Phái Đoàn Chính Phủ VNCH đã đặt biệt nhấn mạnh đến giải pháp VNCH trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Đều mà chính giới cũng như nhân dân Hoa Kỳ có thể giúp được là dựa trên điều 7 của Bản Định Ước Quốc Tế để triệu tập một Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam nhằm trả lại một sự công bằng cho Nước Việt Nam Cộng Hòa.

Với những tài liệu cụ thể rỏ ràng chứng minh sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự bức bách tàn hại của Cộng Sản Việt Nam, phái đoàn VNCH hầu như không gặp một trở ngại nào trong công cuộc vận động Quốc Hội Hoa Kỳ tại Washington DC. Nếu thời thế sẽ thay đồi để dân tộc Việt Nam vượt qua những đau thương tủi nhục dưới sự thống trị bạo tàn của Đảng Cộng Sản Việt Nam để còn vươn lên cùng với một thế giới văn minh, tiến bộ tự do, dân chủ, nhân quyền, thì ngày hôm nay là một dấu hiệu. Thiếu Tướng Lý Tòng Bá đã nói với sự tin tưởng.

Được biết Phái Đoàn Chính Phủ VNCH trước khi vào Quốc Hội Hoa Kỳ, đã đến thăm viếng Bức Tường Đá Đen ghi tên 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ đã hy sinh chiến đấu vì tự do tại Việt Nam. Tại đây phái đoàn đã được Lử Đoàn 31 Tình Nguyện Trừ Bị của Quân Đội Hoa Kỳ hổ trợ trong phần nghi lể rất cảm động dưới sự chứng kiến của nhiều người Mỹ cũng đến thăm viếng tại nghĩa trang quân đội rất linh thiêng nầy.

Phái Đoàn Chính Phủ VNCH sau khi rời Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn sẽ tiếp tục công việc vận động tại nhiều nước khác mà trước đây từng là đồng minh chiến đấu để bảo vệ mãnh đất Miền Nam Tự Do chống lại sự xâm nhập của Cộng Sản. class="newreply" href="http://tvvn.org/forum/newreply.php?s=e0fae7df674a6485f7f93ce7d61d0485&do=newreply&p=35257" rel="nofollow">Trả lời   có kèm theo trích đoạn Trả lời có kèm theo trích đoạn

http://tvvn.org/forum/showthread.php?13591-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-Hoa-v%E1%BA%ADn-%C4%91%E1%BB%99ng-Qu%E1%BB%91c-H%E1%BB%99i-Hoa-K%E1%BB%B3

RFA * TRUNG HOA & MỸ


*

Hải quân Trung Quốc tập trận nhắm vào Hoa Kỳ?
2010-07-03
Tin tức mấy ngày qua cho biết, Hải quân Trung Quốc đang chuẩn bị tập trận ở khu vực Biển Hoa Đông (East China Sea), vùng biển tiếp giáp giữa Nhật Bản với Trung Quốc.

AFP photo
Tàu ngầm xử dụng năng lượng hạt nhân của TQ được đưa ra lần đầu nhân dịp kỷ nịêm 60 năm thành lập nước CHND.Trung Quốc
Mục đích của việc tập trận này là gì? Cuộc tập trận này có liên quan gì đến kế hoạch tập trận chung giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn hay không? Mời quý vị cùng Thông tín viên Ngọc Trân điểm qua các sự kiện có liên quan.
Thứ năm tuần trước, Quân đội Trung Quốc thông báo, Hải quân Trung Quốc chuẩn bị tập trận có bắn đạn thật ở ngoài khơi Biển Hoa Đông trong sáu ngày, kể từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7 sắp tới.
Quân đội Trung Quốc cũng đã thông báo, kể từ lúc nửa đêm cho đến sáu giờ chiều ngày 30 tháng 6 đến ngày 5 tháng 7, ngoại trừ các tàu chuẩn bị tham gia tập trận, tất cả các tàu thuyền khác đều bị cấm đi vào vùng biển ngoài khơi tỉnh Chiết Giang, thuộc miền Đông Trung Quốc, là nơi diễn tập quân sự của Hải quân Trung Quốc trong sáu ngày tới. Thông báo cũng cho biết, để bảo đảm an toàn, tất cả các tàu bè phải tuân theo lệnh của Hải quân Trung Quốc.

Đối phó với Hoa Kỳ?

Mặc dù các viên chức Bộ Quốc phòng Trung quốc khẳng định rằng, cuộc diễn tập này nằm trong kế hoạch luyện tập thường xuyên của Hải quân Trung Quốc, thế nhưng các phân tích gia cho rằng, hành động này có liên quan đến cuộc diễn tập đã lên kế hoạch giữa Hải quân Hoa Kỳ và hải quân Nam Hàn ở khu vực biển Hoàng Hải.
Mặc dù chính phủ Trung Quốc không hề nói bất cứ điều gì về cuộc tập trận này, nhưng bất cứ ai có kinh nghiệm về chiến lược quân sự đều tin chắc rằng nó có liên quan với nhau.
Chuyên gia nghiên cứu về Hoa Kỳ Shi Yinhong

Cũng xin nhắc thêm rằng, Hoa Kỳ và Nam Hàn đã lên kế hoạch diễn tập quân sự chung ở vùng biển Hoàng Hải nhằm đối phó với Bắc Hàn, ngay sau khi các nhà điều tra quốc tế tìm thấy bằng chứng ngư lôi Bắc Hàn chính là thủ phạm đánh chìm tàu hải quân Nam Hàn, giết chết 46 thủy thủ hôm 26 tháng 3 vừa qua.
Cuộc diễn tập chung giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn dự kiến diễn ra trong 4 ngày đầu tháng 6, thế nhưng tin tức cho biết, kế hoạch tập trận này đã bị hoãn lại cho đến tháng 7 sắp tới. Tin tức cũng cho biết thêm, tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hoa Kỳ, tàu USS George Washington cũng dự tính sẽ tham gia cuộc diễn tập này.
Mặc dù Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng phủ nhận bất kỳ mối liên hệ nào giữa cuộc diễn tập quân sự của họ với cuộc tập trận chung giữa Hoa Kỳ và Nam Hàn, mà cho rằng đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên về thời gian, thế nhưng các phân tích gia cho biết, hành động diễn tập của Trung Quốc chắc chắn có liên quan đến kế hoạch tập trận của Hoa Kỳ và Nam Hàn, cũng như sự hiện diện của tàu sân bay Hoa Kỳ trong khu vực.

chinese-missile-frigate-250
Lực lượng đặc biệt hải quân Trung Quốc trên boong tàu chiến tên lửa hôm 13/04/2010. AFP photo
Liên quan đến vấn đề này, ông Shi Yinhong , chuyên gia nghiên cứu về Hoa Kỳ tại trường Đại học Renmin Trung Quốc, có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết: “Mặc dù chính phủ Trung Quốc không hề nói bất cứ điều gì về cuộc tập trận này, nhưng bất cứ ai có kinh nghiệm về chiến lược quân sự đều tin chắc rằng nó có liên quan với nhau”.
Mới đây, nhật báo Mingpao có trụ sở tại Hongkong cũng cho biết thêm, việc thông báo trước nhiều ngày về cuộc diễn tập quân sự của Quân đội Trung Quốc là “một hành động hiếm thấy” của nước này nếu chỉ với mục đích duy nhất là tuyên bố về cuộc diễn tập quân sự.

Kềm chế hay làm ngơ?

Cũng xin nhắc thêm để thính giả hiểu, do Trung Quốc là nước đỡ đầu của Bắc Hàn, nên từ khi tàu Cheonan của Nam Hàn bị đánh chìm, Bắc Kinh chưa bao giờ công khai lên án Bắc Hàn, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế.
Không những thế, Trung Quốc thường đưa ra lập luận để bênh vực cho hành động của Bắc Hàn. Đầu tháng 6 vừa qua, khi Hoa Kỳ đưa vấn đề này ra phản đối tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Thiếu tướng Chu Thành Hổ, Giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Đại học Quốc phòng Trung Quốc cho rằng, Hoa Kỳ đã thiên vị khi chỉ trích Bắc Hàn đánh chìm tàu Nam Hàn, nhưng đã không lên án Israel khi họ tấn công tàu cứu trợ ở dải Gaza cuối tháng 5 vừa qua. Ông Chu nói rằng, có sự phân biệt trong thái độ và chính sách của Hoa Kỳ về hai trường hợp này.
Có sự khác nhau giữa kềm chế và cố ý mù quáng đối với các vấn đề nhất quán. Tôi hy vọng rằng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sẽ nhận ra rằng đây là một ví dụ về Bình Nhưỡng đã vượt qua giới hạn mà chúng ta nên thảo luận một cách nghiêm túc.
Tổng thống Barack Obama

Ông Robert Gates, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đã đáp trả lại rằng, vụ tấn công tàu chiến Nam Hàn là một hành động bất ngờ mà không được cảnh báo trước, còn chuyện xảy ra với tàu cứu trợ ở dải Gaza, Israel đã nhiều lần đưa ra cảnh báo.
Trong khi Hoa Kỳ lên án hành động của Bắc Hàn và muốn Trung Quốc hậu thuẫn nghị quyết trừng phạt nước này ở Hội Đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, thế nhưng Trung Quốc luôn viện cớ rằng, họ lo ngại tình trạng bất ổn ở Bắc Hàn có thể xảy ra các vấn đề lớn tại biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, nên Bắc Kinh luôn kêu gọi các bên hãy kềm chế.
Do vậy, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng phản đối cuộc diễn tập quân sự chung đã lên kế hoạch giữa Mỹ và Nam Hàn, cũng như phản đối sự hiện diện của tàu sân bay Hoa Kỳ trong vùng, cho rằng điều này sẽ tạo ra căng thẳng mới trong khu vực.
Ông Tần Cương, Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã phản đối cuộc diễn tập chung giữa Mỹ và Nam Hàn khi ông nói rằng, Bắc Kinh phản đối bất kỳ hành động nào phá hoại sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc không hề công khai lên tiếng phản đối Bắc Hàn, là nơi khơi mào cho cuộc xung đột trong khu vực.

Hải quân Trung Quốc đứng trên boong tàu khu trục hạm tên lửa Task   Force 525, tại cảng quốc tế ở Manila vào ngày 13 Tháng 4 năm 2010. AFP   PHOTO / TED ALJIBE.
Hải quân Trung Quốc đứng trên boong tàu khu trục hạm tên lửa Task Force 525, tại cảng quốc tế ở Manila vào ngày 13 Tháng 4 năm 2010. AFP PHOTO / TED ALJIBE.
Ông Tần Cương cho biết, Bắc Kinh rất quan ngại về cuộc diễn tập chung này và đang theo dõi vấn đề một cách chặt chẽ. Ông nói: “Trong tình hình hiện tại, các bên có liên quan nên kiềm chế và tránh các hoạt động có thể làm cho căng thẳng leo thang, cũng như gây ảnh hưởng đến lợi ích của các nước trong khu vực”.
Phía Hoa Kỳ cho rằng, cuộc tập trận này không nhằm mục đích đe dọa Trung Quốc hay làm mất ổn định trong khu vực, mà chỉ “với mục đích bảo đảm khả năng duy trì hòa bình của Mỹ và đánh bại sự xâm lược trên bán đảo Triều Tiên”.
Phản đối thái độ của Trung Quốc về vấn đề Triều Tiên, hôm chủ nhật vừa qua tại Hội nghị Thượng đỉnh G-20 ở Toronto, Tổng thống Obama đã lên án Trung Quốc, ông nói: “Có sự khác nhau giữa kềm chế và cố ý mù quáng đối với các vấn đề nhất quán. Tôi hy vọng rằng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sẽ nhận ra rằng đây là một ví dụ về Bình Nhưỡng đã vượt qua giới hạn mà chúng ta nên thảo luận một cách nghiêm túc”.
Liệu cuộc tập trận của Hải quân Trung Quốc có phải là ngẫu nhiên như các viên chức Trung Quốc đã nói hay với mục đích nhắm vào Hoa Kỳ? Có lẽ không khó để tìm câu trả lời.

Theo dòng thời sự:

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/China-military-exercise-aimed-at-us-ntran-07032010111122.html

Saturday, July 3, 2010


XÃ HỘI VIỆT NAM * HÀ NỘI


Hình ảnh Hà Nội Ngàn Năm Văn Vật ngày nay




HAY DE PHONG !!!
:
.Chúng ta phải rất cẩn thận khi về VN.Tôi có ba má một người bạn ra Hà Nội chơi và đi thăm Vịnh Hạ Long. Ông nhìn thấy họ câu được một con cá , lỡ miệng khen con cá đẹp, vậy mà họ bắt buộc ông phải mua với gía 100USD.Họ giữ cả hai vợ chồng lại và còn tính làm dữ nữa cho đến khi phải bỏ ra đúng 100USD thì bọn đánh cá này mới chịu buông ra cho đi.Khi về đến Mỹ rồi vẫn còn hãi hùng..

Theo chân nhóm “nữ quái” chuyên bắt chẹt du khách ở Bờ Hồ(Dân trí) - Nhóm phụ nữ khoảng 8 người với bình phong là những người làm nghề gồng gánh, buôn bán trên phố, họ trắng trợn ép du khách để lấy tiền bằng các thủ đoạn: ấn quang gánh vào vai du khách, ép chụp ảnh rồi đòi tiền “bo”, chèo kéo khách mua hàng giá cao...


Nhóm phụ nữ trong vai người buôn bán tụ tập chờ "con mồi"


Ngày nào cũng vậy, khoảng 9h30 sáng, nhóm phụ nữ này bắt đầu tụ tập tại đầu phố Cầu Gỗ. Sau đó, họ chuẩn bị vài túi dứa xanh gọt sẵn, mấy quả chuối để lỏng chỏng trên đôi quang gánh và bắt đầu một "ngày làm việc". Ai cũng đi đôi giầy ba ta buộc chặt chân gọn gàng. Khi “hóa trang” xong, nhìn hình thức bề ngoài, họ không khác gì mấy người buôn bán gồng gánh quê chân chất, nhưng thực chất chỉ nhăm nhe rình rập "chộp" những vị nước ngoài đang còn bỡ ngỡ để moi tiền.


Những phụ nữ này thường đứng "săn" khách ở vị trí có đông người nước ngoài qua lại, mắt láo liên nhìn các hướng để xác định “con mồi”. Khi "con mồi" xuất hiện, họ bắt đầu tiếp cận bằng vẻ niềm nở, vồn vã để tạo sự thân thiện với du khách, sau đó vội vàng ấn đôi quang gánh vào vai mời chụp ảnh, tiếp theo là các hành vi úp nón lên đầu khách, lấy túi dứa dúi vào tay họ... Lúc này du khách vẫn chưa biết được ý đồ của mấy “bà bán rong”, chỉ khi bị đòi đến 5 đô la một túi dứa, hoặc 50-100 nghìn đồng, thậm chí nhiều hơn cho việc "thuê quang gánh chụp ảnh" hay "mua hàng" thì khách mới té ngửa. Sau đó lợi dụng sự bất đồng về ngôn ngữ, họ dùng số đông để áp đảo và thường thắng thế trong lúc đôi co với khách nước ngoài.


Một thủ đoạn khác cũng rất trắng trợn, họ chuẩn bị sẵn nhiều tiền lẻ, khi khách trót trả tiền bằng đô la hay tiền mệnh giá lớn, họ moi ra một vốc tiền lẻ dúi vào tay khách rồi... chuồn.
Kết thúc màn "thuê quang gánh" và "bán hàng" như vậy, bao giờ cũng là cái lắc đầu, nhún vai ngán ngẩm chấp nhận việc đã rồi. Cứ thế rất nhiều du khách đã sa bẫy nhóm phụ nữ này, để rồi hằn lại một ấn tượng rất xấu về thủ đô Hà Nội, nơi đang chuẩn bị bước sang tuổi... 1000.

Trong khi chính quyền và nhân dân Thủ đô đang nỗ lực quảng bá với bạn bè quốc tế về Hà Nội nghìn năm thì cảnh tượng những người đội lốt hàng rong lừa đảo du khách diễn ra một cách công khai tại một không gian văn hóa tiêu biểu giữa thủ đô là điều không thể chấp nhận được.

Phóng viên Dân trí đã mất gần một tuần "theo" nhóm phụ nữ này để ghi lại những hình ảnh không đẹp dưới đây.
Lao tới ấn quang gánh vào du khách

Những hành động thiếu văn hóa khiến du khách bất bình

Nhưng không vì thế mà họ dễ dàng buông tha

Kẻ trước, người sau úp nón và ấn quang gánh vào vai du khách và ... đòi tiền

Bị “hàng rong” quây thô bạo, nhiều du khách không hiểu chuyện gì đã xảy ra với mình

Nếu một người ép được du khách thì cả nhóm lao vào để dở nhiều thủ đoạn khác nhằm lấy tiền

Nhóm “hàng rong” này thường nhắm đến những du khách hiền lành đi đơn lẻ

Hoặc đôi trai gái


Nếu du khách bất cẩn thì sẽ bị nhóm “hàng rong” móc tiền rất tinh vi và điệu nghệ
Khi chưa hay, du khách vui vẻ vì lầm tưởng đây là những người bán hàng tốt bụng

Rồi ngã ngửa khi bị đòi tiềnDưới đây là trọn màn lừa đảo:


Chèo kéo và chụp nón

Rồi mồm năm miệng mười để dồn du khách

Từ 5 đến 7 đô la cho vài ba quả chuối hoặc vài miếng dứa gọt sẵn

Bị đòi tiền giá cắt cổ khách đã phản ứng lại nhưng đành chấp nhận

 

No comments:

Post a Comment