TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ VIỆT NAM
DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN
VÌ TƯƠNG LAI KINH TẾ
ĐẤT NƯỚC
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.08.2010
KẾT
LUẬN của hai Tập Chủ đề là đòi hỏi DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN hiện hành để có
thể phát triển Kinh tế bền vững và lâu dài cho ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC
VIỆT NAM. Bài đính kèm dưới đây là tóm tắt lập trường đòi hỏi của
chúng tôi. Chúng tôi không dùng hai chữ CHỐNG CỘNG nữa bởi vì chính
đảng CSVN đã không còn giữ Ý thức hệ Cộng sản, mà chỉ còn giữ lại một
CƠ CHẾ độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế để vơ vết tài nguyên
Quốc gia và bóc lột Nhân Lực VN vào túi riêng của mình.
Phản ứng của
người được ưu đãi của Cơ Chế
Khi
phổ biến bài đính kèm dưới đây trên Diễn Đàn, chúng tôi nhận được
phản hồi sau đây, có thể từ Quốc nội hay từ Hải ngoại bởi một trong
những thành phần con ông cháu cha được du học do tiền tham nhũng của
bố mẹ thuộc đảng CSVN.
Re: [TinhThuong36] CSVN: CÔN ĐỒ CHÍNH TRỊ VÀ KẺ CƯỚP KINH TẾ
Thursday, August 5, 2010 6:36 AM
From: "Son Cao Van" soncv78@yahoo.com
To: "NGUYEN PHUC LIEN" wimimpactdrlien@yahoo.com
chào ngài Tiến Sy
Xin thưa với ngài, ngài biết biết gì về đất nước chúng tôi nà nói năng linh tính.
Thưa
ngài, cái mà ngài muốn vất bỏ:CNCS là thành quả của cha ông chúng tôi
đã đổ xương máu để giành lại từ từ ngoại bang, đã cho chúng tôi được
ăn học và mở mang với nước ngoài. Cuộc sống của chúng tôi tuy chưa
bằng với các nước phát triển song với tôi nhũng cái gì được thừa hưởng
không thua kém gì với các nước phát triển: tiền - tài- danh vọng đủ
cả. Cuộc sống của tôi và gia đình không kém gì các ngài, ra ngoài xã
hội có thể ngẩng cao đầu với mọi người. Nhũng cái đó ai cho ? Tôi ko
hiểu ngài sinh ra ở đâu, cội nguồn ở đâu mà ngài nỡ lên án, hận thù
với đất mẹ Việt Nam đến thế. Nếu ngài là người có lương tri, xin ngài
ít nhất đừng gửi mail cho tôi với các nội dung như trên để hàng ngày
tôi phải dọn chúng như những rác rưởi ko mong đợi
Chào ngài.
Xin
Ông “Son Cao Van“ nhìn lại và thấy Cơ Chế đã được xây dựng bằng xương
máu dân lành vô tội bị đảng CSVN giết chết, đạp lên thân xác họ để
bước tới chiếm đoạt quyền hành cho đảng. Hãy nhìn dân chết trong cuộc
Cải Cách Ruộng Đất, hãy nhìn những nấm mồ tập thể Tết Mậu Thân, hãy
nhìn cuộc tàn sát huynh đệ tương tàn do Hồ Chí Minh làm tay sai cho
Cộng sản Quốc tế để mở cuộc xâm chiếm Miền Nam yên lành, hãy nhìn
những triệu người bất chấp chết chóc trên biển cả hay trong rừng núi
bỏ nước ra đi vì thấy rõ cái ác độc côn đồ của Cơ Chế CSVN.
Được
hưởng ưu đãi của đảng và Cơ Chế bóc lột này, Ông “Son Cao Van“ tất
nhiên không muốn Dứt Bỏ Cơ Chế hiện hành. Nhưng trong tương lai, Dân
Oan, Dân nghèo sẽ đứng lên DỨT BỎ cái Cơ Chế này và chính cá nhân Ông,
con cháu của Tham nhũng.
Gửi tới tuổi trẻ,
tương lai Dân Tộc và Đất Nước
Trong
ảnh hưởng tuyên truyền của CSVN và bên cạnh thái độ của lớp người
hoạt đầu Chính trị nhằm nhẩy bàn độc lượm nhặt những mẩu bánh thẩy ra
do CSVN, một số bạn trẻ có thể nghĩ rằng chúng tôi, vì hận thù quá
khứ, nhất thiết đòi DỨT BỎ Cơ Chế này, mà không muốn “hòa giải hòa hợp
“ lừa bịp. Những người đã lớn tuổi, đã quá kinh nghiệm với CSVN, cũng
nhìn về tương lai Dân Tộc và Đất Nước. Họ muốn tương lai Đất Nước
không còn Cơ Chế CSVN hiện hành, thì lớp tuổi trẻ mới có thể chung
lưng xây dựng Đất Nước được. Còn Cơ Chế CSVN, thì việc nỗ lực xây dựng
của lớp tuổi trẻ chỉ là phục vụ cho một nhóm đảng xử dụng bạo lực để
bóc lột. Riêng cá nhân tôi, rời Việt Nam năm 1965, với 45 sống xa Quê
Hương, nhưng tôi nhất thiết chống cái Cơ Chế CSVN hiện hành, không
phải là vì hận thù quá khứ, nhưng VÌ TƯƠNG LAI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VN
TRONG BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI.
Chúng
tôi xin gửi đến bạn đọc hai Tập Chủ đề in thành sách. Hai Tập này là
Lập trường dứt khoát của chúng tôi đối với Cơ Chế CSVN hiện hành.
Chúng tôi in thành sách. Đây không phải là quảng cáo để quý bạn trẻ
mua, vì chúng tôi gửi nguyên bản đến quý bạn để quý bạn đọc mà không
cần mua. Điều quan trọng là quý bạn trẻ đọc để giữ vững lập trường
rằng phải DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH ĐỂ PHÁT TRIÊN ĐẤT NƯỚC TRONG
BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI.
Đính kem (Attachments):
1) Tập Chủ đề 1: DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN
Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT
Ventura, California, USA 2009
2) Tập Chủ đề 2: DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ
Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT
Ventura, California, USA 2010
Quý
bạn trẻ, những người không phải trải qua cuộc chiến xâm lăng Miền Nam
của Cộng sản, không có những dấu vết hận thù, nhưng quý bạn có những
dằn vặt cho tương lai, cần nhìn thấy rõ rằng việc phát triển Đất Nước
nhanh hay chậm là tùy thuộc việc DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH sớm hay
muộn. Quý bạn chỉ cần ghi lại (download ) nguyên bản của hai Tập sách,
chứ không cần mua, để đọc và thấy cái Cơ Chế này cần phải được DỨT BỎ
như thế nào vì chính quyền lợi tương lai của quý bạn. Đối với chúng
tôi, Quý Bạn Trẻ đọc những Tập sách Chủ đề này và nhất quyết đấu tranh
DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÁT NƯỚC BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI cho
tương lai, đó là điều quý báu vô giá rồi.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.08.2010
CSVN:
CÔN ĐỒ ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ VÀ
KẺ CƯỚP ĐỘC QUYỀN KINH TẾ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
UNICODE: http://viettudan.net
Geneva, 05.08.2009
Giới
thiệu loạt bài về Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, chúng tôi đã nhắc tới
cuốn sách DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN, xuất bản năm 2009 do Nhà
Xuất Bản DAY & NIGHT, Ventura, California, USA. Cuốn sách này được
trình bầy nặng về những LÝ THUYẾT KINH TẾ để cho thấy rằng phải DỨT BỎ
Cơ Chế CSVN hiện hành để Kinh tế Đất Nước có thể khởi công phát triển.
Loạt
18 Bài dưới Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, nội dung cuốn sách sẽ được
xuất bản trong năm nay 2010 cũng do Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT,
Ventura, California, USA, được viết chính yếu dựa trên những QUAN SÁT
KINH TẾT xẩy ra theo dòng Thời sự gần đây nhất để chứng minh cho LÝ
THUYẾT KINH TÉ mà chúng tôi đã trình bầy trong cuốn sách DỨT BỎ CƠ CHẾ
CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN xuất bản năm ngoái.
Nhất thống với tinh thần viết loạt bài này, Bài KẾT LUẬN hôm nay cũng dựa trên tài liệu Thời sự để cho thấy những điểm sau đây:
=> CSVN: côn đồ độc tài Chính trị
=> CSVN: kẻ cướp độc quyền Kinh tế
=> Khi Côn đồ là Kẻ cướp hay Kẻ cướp là Côn đồ, thì Kinh tế là bóc lột
CSVN: côn đồ độc tài Chính trị
Nếu
Quân đội, trên lý thuyết, được coi là bảo vệ Lãnh thổ, thì Quân độc
Cộng sản hiện nay không làm phận sự của mình trước xâm lăng của Trung
quốc. Công An Cộng sản là thành trì bảo vệ cho đảng và là đội ngũ chính
yếu trị Dân bằng võ lực, nhà tù và đe dọa hành quyết.
Xin hãy đọc bản tin thời sự mới nhất cách đây mấy hôm, đăng tải ngày 01.08.2010. Bản tin cho thấy rõ lập trường CÔN ĐỒ tuyên bố bằng chính mồm của một Thượng tướng đứng đầu lực lượng Công an:
Tin
Hà Nội - Thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng trong một dịp tiếp tân
với giới trí thức đã công khai nói thẳng: Đảng Cộng sản Việt Nam cấm
phản biện vì như thế là phản động. Tin này được một nhà trí thức Hà
Nội ký tên Nguyễn Trung Thực gửi ra loan trên báo Diễn Đàn bên Pháp.
Trước đó trên ấn bản số 1 Tạp chí Nhân quyền do chính nhà nước Cộng
sản Việt Nam phổ biến, trong đó có bài của Thứ trưởng Bộ công an Cộng
sản Việt Nam là Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, nhan đề Hãy hiểu đúng
về nhân quyền Việt Nam, trong đó dẫn lời Hồ Chí Minh để tự biện hộ
rằng tại Việt Nam đang có nhân quyền theo kiểu Việt Nam qua định nghĩa
của họ Hồ.
Tác
giả Nguyễn Trung Thực từ Hà Nội đã viết trên Diễn Đàn khi cho rằng
mùa hè năm ngoái, dư luận xôn xao về vụ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký
quyết định cấm đoán các trung tâm nghiên cứu độc lập được phản biện
công khai về các vấn đề chính sách, do đó mà Viện IDS đã tuyên bố tự
giải thể để phản đối. Giới trí thức cả nước đã được thông tin miệng về
những lời của thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng. Gặp một số trí thức
trong dịp này, ông Hưởng đã dõng dạc tuyên bố nguyên văn như sau: Nước
ta Đảng lãnh đạo, không có phản biện gì cả, phản biện là phản động.
Các anh muốn phản biện hả, nhà tù còn nhiều chỗ lắm! mà cũng chẳng cần
bắt bớ tù đày làm gì, thời buổi này tai nạn giao thông là chuyện cơm
bữa, mà cũng chẳng cần tông xe làm gì, buổi sáng các vị đi uống cà
phê, về tới nhà cứng đơ, không làm gì được nữa, có nghĩa là đã bị bỏ
độc. Lời tuyên bố trắng trợn của một tên Thượng tướng Công an làm cho
nhiều người ngán ngẩm và cho thấy sự đàn áp trắng trợn giới trí thức
và đối lập tại Việt Nam. (SBTN) (Posted on 01 Aug 2010).
Khi
một người đứng đầu Công an cả nước mở mồm trắng trợn đe dọa giết lát
bằng tông xe, bằng bỏ chất độc…, thì đó là thái độ của một tên CÔN ĐỒ.
Không lạ gì mà thời sự mới đăng việc Công an đánh chết anh Thomas
Nguyễn Nam ngày 03.07.2010 ở Giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng, bắt và đánh
chết thanh niên Nguyễn Văn Khương, ngày 23.07.201 ở xã Hồng Thái,
huyện Việt Yên, Bắc Giang.
Đảng
CSVN tổ chức cả một lực lượng Công an CÔN ĐỒ để bảo đảm cho Độc tài
Chính trị của mình, loại trừ, cầm tù tất cả mọi đối kháng chính trị,
thậm chí giết lát những người dân thấp cổ bé họng khi cất tiếng than lên
vì bị cướp bóc tận những phương tiện thiết cần nhất để làm ăn nuối
thân xác của mình. Dân Oan cả nước kêu than mà bị đàn áp vẫn luôn là
thời sự mà mọi người chứng kiến.
CSVN: kẻ cướp độc quyền Kinh tế
Ở
thời kỳ Kinh tế Tập quyền Chỉ huy, Cộng sản còn một chút nhân đạo.
Thực vậy, Kinh tế Tập quyền Chỉ huy chủ trương Nhà Nước làm Kinh tế
thay Dân, nhưng còn có chút nhân đạo là phải bao cấp cho Dân. Nhưng
CSVN hiện nay chủ trương Kinh tế mệnh danh “định hướng XHCN”, thì Cộng
sản nắm độc quyền Kinh tế để bóc lột và không còn bao cấp cho dân nữa.
Đây
cũng không phải là lý thuyết, mà là thực tế thời sự. Thực vậy, Hội
Nghị Trung Ương 12 CSVN sửa sọan cho Đại Hội đảng năm 2011 đã không
tháo gỡ cho nền Kinh tế Việt Nam, mà ngược lại còn tiếp tục giữ Độc
quyền Kinh tế. Dự thảo Cương lĩnh từ Hội Nghị Trung Ương 12 đã viết rõ
rệt: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Đại
Hội đảng kỳ trước đã quyết định cho phép đảng viên làm Kinh tế mà Nhà
Nước hay đảng nắm giữ vai trò chủ đạo. Những đảng viên này, được bảo
trợ bởi Nhà Nước và đảng, giữ ưu tiên làm ăn cho cá nhân mình hay gia
đình mình từ Trung ương đến Tỉnh, Quận….
Một
đàng thì Nhà Nước đưa ra và tài trợ những Công ty, Tổng Công ty nhà
nước để nắm chủ đạo nền Kinh tế, một đàng thì những cá nhân đảng viên,
nắm những họat động kinh tế gọi là tư doanh, nhưng với quyền bảo trợ
của Nhà Nước và đảng, đã xử dụng đặc quyền và
ưu tiên Kinh tế sánh với những tư doanh không phải là đảng viên CSVN.
Đảng và Nhà Nước CSVN còn nắm trọn trong tay Đất đai và những tài
nguyên Quốc gia (Ressources naturelles) và nguồn nhân lực (Ressources
humaines).
Như vậy, cả một hệ thống nắm trọn nền Kinh tế Quốc gia:
=> Hệ
thống Công ty, Tổng Công ty, dưới danh nghĩa Tập đòan Kinh tế Nhà
Nước, có quyền chủ đạo Kinh tế, nghĩa là những Tập đòan tư doanh không
gồm đảng viên CSVN phải tùy thuộc những Tập đòan Kinh tế nhà nước gọi
là chủ đạo.
=> Những
cá nhân đảng viên CSVN, với sự bảo trợ của Nhà Nước và đảng từ Trung
ương đến Địa phương, tất nhiên dành những ưu tiên làm Kinh tế đối với
những cá nhân tư doanh không phải là đảng viên CSVN. Việc bảo trợ ưu
tiên này không phải là độc chiều người trên bảo trợ người dưới, mà là
hai chiều, nghĩa là người dưới có quyền đối với người trên bởi vì người
dưới nếu không được bảo trợ, sẽ tố cáo những thối nát, đặc quyền đặc
lợi mà người trên đang hưởng.
Đây là hệ thống làm ăn cướp dựt ưu tiên như của một nhóm Mafia. Đó là nhóm kẻ cướp vậy.
Khi Côn đồ là Kẻ cướp hay Kẻ cướp là Côn đồ,
thì Kinh tế là bóc lột
Đây
là sự cấu kết giữa CÔN ĐỒ Chính trị và KẺ CƯỚP Kinh tế, nghĩa là Độc
tài Chính trị và Độc quyền Kinh tế được kết hợp khắng khít với nhau
trong một Cơ Chế. Xin chú thích ở đây rằng chúng tôi không gọi là THỂ
CHẾ, mà là gọi là CƠ CHẾ. Thực vậy, một Thể Chế phải có Ý thức hệ đi kèm
như bảo đảm về Lý thuyết. Khi Ý thức hệ không còn nữa, như Ý thức hệ
Cộng sản, thì Thể chế chỉ còn là một cái máy, một Cơ Chế chuyển vận
không hồn. Ý thức hệ Cộng sản đã chết rồi ở Việt Nam, chỉ còn lại một CƠ
CHẾ, một cái máy không hồn, vô nhân đạo, duy trì Độc tài Chính trị và
Độc quyền Kinh tế. Đảng viên CSVN trở thành những Côn Đồ Chính trị,
không còn nghĩ đến Lý tưởng của Ý thức hệ mà Mác-Lê vạch ra trước đây,
trở thành những Kẻ Cướp Kinh tế, không còn nghĩ đến Dân nghèo phải bao
cấp cho chút miếng ăn.
Như
chúng tôi đã nói, năng về phương diện Lý thuyết, trong Chủ đề DỨT BỎ
CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN, ở đây với Chủ đề DÂN CHỦ HOÁ KINH TẾ, chúng
tôi muốn đưa ra một tỷ dụ đang là vấn đề THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ hiện
hành tượng trưng cho sự cấu kết giữa CÔN ĐỒ độc tài Chính trị và KẺ
CƯỚP Độc quyền Kinh tế. Đó là tỷ dụ Tổng Công ty VINASHIN thua lỗ tới
USD.4 tỉ.
Xin đọc những Bản Tin do chính những Thông tấn và Báo Chí lớn quốc tế tăng tải.
Bình luận của Báo LE MONDE như sau:
Báo đảng ngày 21-6: Quả tang bưng bít thông tin
Le
Monde là tờ báo lớn nhất, có số phát hành cao nhất nước Pháp, trong
số ra ngày 20-7-2010 có bài viết nhan đề «Công ty quốc doanh lớn
Vinashin của Việt Nam gặp những vấn đề nghiêm trọng, nợ lên đến hơn 3
tỷ Euros».
Bài
báo viết: Tổng công ty đóng tầu biển Vinashin là nhóm cơ sở quốc
doanh to lớn bậc nhất của nền công nghiệp Việt Nam hiện trong tình
hình gay go.
Từ
tình trạng quản lý quá lỏng lẻo quỹ công, dự án vạch ra không hợp lý,
thanh tra các dự án bị buông trôi, nay Tổng công ty Vinashin phải đối
mặt với một khoản nợ khổng lồ, lên đến 4 tỷ đôla, bằng 3,1 tỷ Euros.
Báo chí Việt Nam không e ngại chỉ trích sự kiện này và đòi phải có những biện pháp cải cách mạnh mẽ các cơ sở quốc doanh.
Cơ
quan Công an đã được giao nhiệm vụ mở cuộc điều tra Vinashin. Chủ
tịch Hội đồng quản trị của Tổng công ty Phạm Thanh Bình đã bị Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng bãi miễn chức vụ ngày 13-7-2010. Thứ trưởng bộ
Giao thông - Vận tải Nguyễn Hồng Trương được cử tạm thay thế ông Bình.
Một
Ban điều tra của Ban Chấp hành Ttrung ương đảng đã lên án các sai
phạm nghiêm trọng của Vinashin là huy động những khoản vốn cực lớn một
cách tùy tiện, lựa chọn không xác đáng các hướng đầu tư. Vinashin
đang phải thực hiện một cuộc kiểm điểm nghiêm túc.
Trên báo Tiền Phong, ông Trần Quang Vũ, tổng giám đốc Vinashin, đã bày tỏ lời xin lỗi đảng, chính phủ, thủ tướng và nhân dân.
Một
số người không loại bỏ mối liên quan giữa sự kiện trên với Đại hội
đảng sẽ họp trong 6 tháng tới. Đó là dịp các vị trí quyền lực then chốt
được quyết định. Các dịp như thế bao giờ các nhóm quyền lực cũng đấu
tranh với nhau.
Thêm
nữa, những bê bối của Vinashin không hề bất ngờ, như phát biểu của
ông Nguyễn Quang A, đồng chủ tịch của một nhóm tư duy. Đã có nhiều
cảnh báo từ trước trên báo chí về chủ trương chiến lược phát triển quá
đáng của cơ sở quốc doanh này.
Báo
chí đã nêu lên rằng trong năm 2009, Vinashin đã bị lỗ đến 18,8 triệu
đôla và từ nhiều tháng nay đã mắc những khoản nợ khổng lồ.
Bài
báo có riêng một đoạn để nói rõ tình trạng quản lý của Nhà nước quá
lỏng lẻo nuông chiều các cơ sở quốc doanh lớn như Vinashin. Nhiều cơ
quan Nhà nước phải cùng chịu trách nhiệm, do đã vung tay cung cấp quá
nhiều tài nguyên quốc gia, cấp những khoản tiền quá lớn từ Ngân hàng Nhà
nước cho Vinashin.
Bà
Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn kinh tế của chính phủ, nói với báo Tuổi
Trẻ rằng: «Nếu như chính phủ không hào phóng cấp cho Vinashin những
khoản tiền quá lớn thì tổn thất sẽ không đến nỗi nặng nề đến vậy ». Bà
nói thêm rằng: «Các cơ sở quốc doanh cần được đánh giá đúng khả năng
quản lý kinh doanh của nó, xem kỹ nó có tôn trọng các quy luật của thị
trường hay không, và sự đánh giá ấy phải được thực hiện bởi một cơ
quan chuyên trách có quyền lực».
Bộ
Giao thông - Vận tải báo tin sẽ cơ cấu lại nhóm kinh tế quốc doanh
Vinashin, một số cơ sở của nó không có nhiệm vụ trực tiếp trong việc
đóng tàu biển sẽ được tách ra khỏi Tổng công ty này, như các cơ sở vận
tải đường biển, xây dựng cảng biển và xây dựng khu công nghiệp ven biển
… sẽ được nhập vào các cơ sở kinh tế quốc doanh khác, như Tổng công
ty PetroVietnam, Vinalines … ».
Bùi Tín (trích dịch)
Bản Tin của Thông tấn AFP như sau:
Hãng
tin AFP hôm nay có bài nhìn lại vụ lao đao của Tập đoàn Công nghiệp
Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) với các ý kiến của một số chuyên gia nói
về lý do dẫn tới khoản lỗ khổng lồ của Vinashin.
Chủ
tịch Hội đồng Quản trị Phạm Thanh Bình của tập đoàn này đang bị điều
tra vì 'có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự' trong quá trình lãnh
đạo Vinashin và để khoản lỗ của công ty lên tới hơn bốn tỷ đôla Mỹ.
AFP
trích lời nhà Việt Nam học Carl Thayer từ Đại học New South Wales của
Úc nói Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng "là người ủng hộ chính cho việc xây
dựng các đại công ty của Việt Nam theo mô hình chaebol của Hàn Quốc."
Ông
Thayer cũng nói vụ scandal đáng ra đã có thể là mối đe dọa cho ông
Dũng nhưng ông đã "tấn công phủ đầu" bằng cách ra lệnh tái cơ cấu
Vinashin.
"Ông Dũng đã đặt mình vào thế đằng nào cũng thắng," ông Thayer được trích lời nói.
Nhưng
cách tái cơ cấu Vinashin của ông Nguyễn Tấn Dũng mà theo đó nợ của
Vinashin được san cho các tổng công ty khác, đã chịu nhiều chỉ trích.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói với báo chí trong nước:
"Nhà
nước đã chọn cứu Vinashin theo một cách dễ dãi nhất trong khi đẩy
gánh nặng nợ cho nền kinh tế, doanh nghiệp và suy cho cùng là người
dân đóng thuế gánh.
"...Trách nhiệm để xảy ra thua lỗ, nợ nần ở Vinashin đáng ra phải được xử lý bằng pháp luật."
Bà
Lan cũng nói các doanh nghiệp nhà nước sử dụng chừng 60-70% nguồn lực
của Việt Nam và nếu không có sự tái cơ cấu thì nền kinh tế Việt Nam
khó phát triển mạnh.
AFP
cũng dẫn lời ông Jonathan Pincus, người phụ trách Chương trình Giảng
dạy Kinh tế Fulbright tại thành phố Hồ Chí Minh nói các doanh nghiệp
nhà nước lớn đã dễ dàng có vốn và đất đai mà không phải cạnh tranh và
do vậy họ đã đầu tư quá mức.
Ông
Pincus nói với AFP: "Nhiệm kỳ và lương bổng của các giám đốc doanh
nghiệp nhà nước phải gắn với kết quả làm ăn của công ty."
AFP
cũng dẫn lời bà Phạm Chi Lan nói các giám đốc doanh nghiệp nhà nước
do thủ tướng bổ nhiệm và bởi vậy họ bỏ ngoài tai những chỉ thị từ bất
kỳ ai khác trong khi luật lệ hiện còn chưa rõ về vai trò quản lý của
các bộ đối với các doanh nghiệp này.
'Ưu
ái'-- Các chuyên gia kinh tế khác cũng đã lên tiếng chỉ trích điều mà
họ gọi là sự 'ưu ái' mà chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng dành cho
Vinashin.
Kinh tế gia Lê Dăng Doanh được trích lời nói:
"Tôi xin đơn cử một vài ví dụ điển hình về sự ưu ái này mà công luận đều biết.
"Phát
hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế được 750 triệu đô
la, chính phủ giao ngay cho Vinashin, một việc chưa có tiền lệ trên thế
giới là chính phủ đi vay trên thị trường quốc tế để trao lại cho một
doanh nghiệp kinh doanh.
"Ông
Phạm Thanh Bình đến các địa phương được cấp đất với diện tích rất
lớn, ở vị trí rất thuận lợi, dù chưa hề có dự án kinh tế - kỹ thuật,
các tỉnh đề nghị cung cấp các phương án kinh doanh, dự án đầu tư thì
ông Bình nhờ can thiệp để được cấp ngay.
"Vinashin
triển khai đầu tư tràn lan tới hàng trăm dự án. Có tới hàng trăm công
ty con từ trại nuôi lợn Vinashin đến cửa hàng ô tô Vinashin trên
đường Lê Duẩn (Hà Nội), hay resort ở gần Tam Đảo đều mang nhãn hiệu
Vinashin.
"Mua tàu của Italia không qua giám định kỹ thuật, tàu về không thích hợp, càng làm ăn càng thua lỗ."
KẾT
LUẬN của chúng tôi là, trên mặt LÝ THUYẾT cũng như theo QUAN SÁT THỰC
TẾ, phải DỨT BỎ cái Cơ Chế CSVN hiện hành cấu kết giữa CÔN ĐỒ ĐỘC TÀI
CHÍNH TRỊ và KẺ CƯỚP ĐỘC QUYỀN KINH TẾ để bắt đầu phát triển Kinh tế
thực sự. Dứt bỏ Cơ Chế này và thực hiện DÂN CHỦ HOÁ KINH TẾ, thì việc
phát triển Kinh tế mới BỀN VỮNG và LÂU DÀI cho Quê Hương.
Đây
không phải là việc chống Lý thuyết Cộng sản vì Lý thuyết ấy đã chết
nghẻo lâu rồi. Đây là việc đòi hỏi cho tương lai Phát triển Kinh tế Bền
Vững và Lâu Dài cho Đất Nước Việt Nam.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 05.08.2010
DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN
VÌ TƯƠNG LAI KINH TẾ
ĐẤT NƯỚC
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.08.2010
KẾT
LUẬN của hai Tập Chủ đề là đòi hỏi DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN hiện hành để có
thể phát triển Kinh tế bền vững và lâu dài cho ĐẤT NƯỚC và DÂN TỘC
VIỆT NAM. Bài đính kèm dưới đây là tóm tắt lập trường đòi hỏi của
chúng tôi. Chúng tôi không dùng hai chữ CHỐNG CỘNG nữa bởi vì chính
đảng CSVN đã không còn giữ Ý thức hệ Cộng sản, mà chỉ còn giữ lại một
CƠ CHẾ độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế để vơ vết tài nguyên
Quốc gia và bóc lột Nhân Lực VN vào túi riêng của mình.
Phản ứng của
người được ưu đãi của Cơ Chế
Khi
phổ biến bài đính kèm dưới đây trên Diễn Đàn, chúng tôi nhận được
phản hồi sau đây, có thể từ Quốc nội hay từ Hải ngoại bởi một trong
những thành phần con ông cháu cha được du học do tiền tham nhũng của
bố mẹ thuộc đảng CSVN.
Re: [TinhThuong36] CSVN: CÔN ĐỒ CHÍNH TRỊ VÀ KẺ CƯỚP KINH TẾ
Thursday, August 5, 2010 6:36 AM
From: "Son Cao Van" soncv78@yahoo.com
To: "NGUYEN PHUC LIEN" wimimpactdrlien@yahoo.com
chào ngài Tiến Sy
Xin thưa với ngài, ngài biết biết gì về đất nước chúng tôi nà nói năng linh tính.
Thưa
ngài, cái mà ngài muốn vất bỏ:CNCS là thành quả của cha ông chúng tôi
đã đổ xương máu để giành lại từ từ ngoại bang, đã cho chúng tôi được
ăn học và mở mang với nước ngoài. Cuộc sống của chúng tôi tuy chưa
bằng với các nước phát triển song với tôi nhũng cái gì được thừa hưởng
không thua kém gì với các nước phát triển: tiền - tài- danh vọng đủ
cả. Cuộc sống của tôi và gia đình không kém gì các ngài, ra ngoài xã
hội có thể ngẩng cao đầu với mọi người. Nhũng cái đó ai cho ? Tôi ko
hiểu ngài sinh ra ở đâu, cội nguồn ở đâu mà ngài nỡ lên án, hận thù
với đất mẹ Việt Nam đến thế. Nếu ngài là người có lương tri, xin ngài
ít nhất đừng gửi mail cho tôi với các nội dung như trên để hàng ngày
tôi phải dọn chúng như những rác rưởi ko mong đợi
Chào ngài.
Xin
Ông “Son Cao Van“ nhìn lại và thấy Cơ Chế đã được xây dựng bằng xương
máu dân lành vô tội bị đảng CSVN giết chết, đạp lên thân xác họ để
bước tới chiếm đoạt quyền hành cho đảng. Hãy nhìn dân chết trong cuộc
Cải Cách Ruộng Đất, hãy nhìn những nấm mồ tập thể Tết Mậu Thân, hãy
nhìn cuộc tàn sát huynh đệ tương tàn do Hồ Chí Minh làm tay sai cho
Cộng sản Quốc tế để mở cuộc xâm chiếm Miền Nam yên lành, hãy nhìn
những triệu người bất chấp chết chóc trên biển cả hay trong rừng núi
bỏ nước ra đi vì thấy rõ cái ác độc côn đồ của Cơ Chế CSVN.
Được
hưởng ưu đãi của đảng và Cơ Chế bóc lột này, Ông “Son Cao Van“ tất
nhiên không muốn Dứt Bỏ Cơ Chế hiện hành. Nhưng trong tương lai, Dân
Oan, Dân nghèo sẽ đứng lên DỨT BỎ cái Cơ Chế này và chính cá nhân Ông,
con cháu của Tham nhũng.
Gửi tới tuổi trẻ,
tương lai Dân Tộc và Đất Nước
Trong
ảnh hưởng tuyên truyền của CSVN và bên cạnh thái độ của lớp người
hoạt đầu Chính trị nhằm nhẩy bàn độc lượm nhặt những mẩu bánh thẩy ra
do CSVN, một số bạn trẻ có thể nghĩ rằng chúng tôi, vì hận thù quá
khứ, nhất thiết đòi DỨT BỎ Cơ Chế này, mà không muốn “hòa giải hòa hợp
“ lừa bịp. Những người đã lớn tuổi, đã quá kinh nghiệm với CSVN, cũng
nhìn về tương lai Dân Tộc và Đất Nước. Họ muốn tương lai Đất Nước
không còn Cơ Chế CSVN hiện hành, thì lớp tuổi trẻ mới có thể chung
lưng xây dựng Đất Nước được. Còn Cơ Chế CSVN, thì việc nỗ lực xây dựng
của lớp tuổi trẻ chỉ là phục vụ cho một nhóm đảng xử dụng bạo lực để
bóc lột. Riêng cá nhân tôi, rời Việt Nam năm 1965, với 45 sống xa Quê
Hương, nhưng tôi nhất thiết chống cái Cơ Chế CSVN hiện hành, không
phải là vì hận thù quá khứ, nhưng VÌ TƯƠNG LAI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VN
TRONG BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI.
Chúng
tôi xin gửi đến bạn đọc hai Tập Chủ đề in thành sách. Hai Tập này là
Lập trường dứt khoát của chúng tôi đối với Cơ Chế CSVN hiện hành.
Chúng tôi in thành sách. Đây không phải là quảng cáo để quý bạn trẻ
mua, vì chúng tôi gửi nguyên bản đến quý bạn để quý bạn đọc mà không
cần mua. Điều quan trọng là quý bạn trẻ đọc để giữ vững lập trường
rằng phải DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH ĐỂ PHÁT TRIÊN ĐẤT NƯỚC TRONG
BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI.
Đính kem (Attachments):
1) Tập Chủ đề 1: DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN
Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT
Ventura, California, USA 2009
2) Tập Chủ đề 2: DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ
Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT
Ventura, California, USA 2010
Quý
bạn trẻ, những người không phải trải qua cuộc chiến xâm lăng Miền Nam
của Cộng sản, không có những dấu vết hận thù, nhưng quý bạn có những
dằn vặt cho tương lai, cần nhìn thấy rõ rằng việc phát triển Đất Nước
nhanh hay chậm là tùy thuộc việc DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH sớm hay
muộn. Quý bạn chỉ cần ghi lại (download ) nguyên bản của hai Tập sách,
chứ không cần mua, để đọc và thấy cái Cơ Chế này cần phải được DỨT BỎ
như thế nào vì chính quyền lợi tương lai của quý bạn. Đối với chúng
tôi, Quý Bạn Trẻ đọc những Tập sách Chủ đề này và nhất quyết đấu tranh
DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÁT NƯỚC BỀN VỮNG VÀ LÂU DÀI cho
tương lai, đó là điều quý báu vô giá rồi.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.08.2010
CSVN:
CÔN ĐỒ ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ VÀ
KẺ CƯỚP ĐỘC QUYỀN KINH TẾ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
UNICODE: http://viettudan.net
Geneva, 05.08.2009
Giới
thiệu loạt bài về Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, chúng tôi đã nhắc tới
cuốn sách DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN, xuất bản năm 2009 do Nhà
Xuất Bản DAY & NIGHT, Ventura, California, USA. Cuốn sách này được
trình bầy nặng về những LÝ THUYẾT KINH TẾ để cho thấy rằng phải DỨT BỎ
Cơ Chế CSVN hiện hành để Kinh tế Đất Nước có thể khởi công phát triển.
Loạt
18 Bài dưới Chủ đề DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ, nội dung cuốn sách sẽ được
xuất bản trong năm nay 2010 cũng do Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT,
Ventura, California, USA, được viết chính yếu dựa trên những QUAN SÁT
KINH TẾT xẩy ra theo dòng Thời sự gần đây nhất để chứng minh cho LÝ
THUYẾT KINH TÉ mà chúng tôi đã trình bầy trong cuốn sách DỨT BỎ CƠ CHẾ
CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN xuất bản năm ngoái.
Nhất thống với tinh thần viết loạt bài này, Bài KẾT LUẬN hôm nay cũng dựa trên tài liệu Thời sự để cho thấy những điểm sau đây:
=> CSVN: côn đồ độc tài Chính trị
=> CSVN: kẻ cướp độc quyền Kinh tế
=> Khi Côn đồ là Kẻ cướp hay Kẻ cướp là Côn đồ, thì Kinh tế là bóc lột
CSVN: côn đồ độc tài Chính trị
Nếu
Quân đội, trên lý thuyết, được coi là bảo vệ Lãnh thổ, thì Quân độc
Cộng sản hiện nay không làm phận sự của mình trước xâm lăng của Trung
quốc. Công An Cộng sản là thành trì bảo vệ cho đảng và là đội ngũ chính
yếu trị Dân bằng võ lực, nhà tù và đe dọa hành quyết.
Xin hãy đọc bản tin thời sự mới nhất cách đây mấy hôm, đăng tải ngày 01.08.2010. Bản tin cho thấy rõ lập trường CÔN ĐỒ tuyên bố bằng chính mồm của một Thượng tướng đứng đầu lực lượng Công an:
Tin
Hà Nội - Thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng trong một dịp tiếp tân
với giới trí thức đã công khai nói thẳng: Đảng Cộng sản Việt Nam cấm
phản biện vì như thế là phản động. Tin này được một nhà trí thức Hà
Nội ký tên Nguyễn Trung Thực gửi ra loan trên báo Diễn Đàn bên Pháp.
Trước đó trên ấn bản số 1 Tạp chí Nhân quyền do chính nhà nước Cộng
sản Việt Nam phổ biến, trong đó có bài của Thứ trưởng Bộ công an Cộng
sản Việt Nam là Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, nhan đề Hãy hiểu đúng
về nhân quyền Việt Nam, trong đó dẫn lời Hồ Chí Minh để tự biện hộ
rằng tại Việt Nam đang có nhân quyền theo kiểu Việt Nam qua định nghĩa
của họ Hồ.
Tác
giả Nguyễn Trung Thực từ Hà Nội đã viết trên Diễn Đàn khi cho rằng
mùa hè năm ngoái, dư luận xôn xao về vụ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký
quyết định cấm đoán các trung tâm nghiên cứu độc lập được phản biện
công khai về các vấn đề chính sách, do đó mà Viện IDS đã tuyên bố tự
giải thể để phản đối. Giới trí thức cả nước đã được thông tin miệng về
những lời của thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng. Gặp một số trí thức
trong dịp này, ông Hưởng đã dõng dạc tuyên bố nguyên văn như sau: Nước
ta Đảng lãnh đạo, không có phản biện gì cả, phản biện là phản động.
Các anh muốn phản biện hả, nhà tù còn nhiều chỗ lắm! mà cũng chẳng cần
bắt bớ tù đày làm gì, thời buổi này tai nạn giao thông là chuyện cơm
bữa, mà cũng chẳng cần tông xe làm gì, buổi sáng các vị đi uống cà
phê, về tới nhà cứng đơ, không làm gì được nữa, có nghĩa là đã bị bỏ
độc. Lời tuyên bố trắng trợn của một tên Thượng tướng Công an làm cho
nhiều người ngán ngẩm và cho thấy sự đàn áp trắng trợn giới trí thức
và đối lập tại Việt Nam. (SBTN) (Posted on 01 Aug 2010).
Khi
một người đứng đầu Công an cả nước mở mồm trắng trợn đe dọa giết lát
bằng tông xe, bằng bỏ chất độc…, thì đó là thái độ của một tên CÔN ĐỒ.
Không lạ gì mà thời sự mới đăng việc Công an đánh chết anh Thomas
Nguyễn Nam ngày 03.07.2010 ở Giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng, bắt và đánh
chết thanh niên Nguyễn Văn Khương, ngày 23.07.201 ở xã Hồng Thái,
huyện Việt Yên, Bắc Giang.
Đảng
CSVN tổ chức cả một lực lượng Công an CÔN ĐỒ để bảo đảm cho Độc tài
Chính trị của mình, loại trừ, cầm tù tất cả mọi đối kháng chính trị,
thậm chí giết lát những người dân thấp cổ bé họng khi cất tiếng than lên
vì bị cướp bóc tận những phương tiện thiết cần nhất để làm ăn nuối
thân xác của mình. Dân Oan cả nước kêu than mà bị đàn áp vẫn luôn là
thời sự mà mọi người chứng kiến.
CSVN: kẻ cướp độc quyền Kinh tế
Ở
thời kỳ Kinh tế Tập quyền Chỉ huy, Cộng sản còn một chút nhân đạo.
Thực vậy, Kinh tế Tập quyền Chỉ huy chủ trương Nhà Nước làm Kinh tế
thay Dân, nhưng còn có chút nhân đạo là phải bao cấp cho Dân. Nhưng
CSVN hiện nay chủ trương Kinh tế mệnh danh “định hướng XHCN”, thì Cộng
sản nắm độc quyền Kinh tế để bóc lột và không còn bao cấp cho dân nữa.
Đây
cũng không phải là lý thuyết, mà là thực tế thời sự. Thực vậy, Hội
Nghị Trung Ương 12 CSVN sửa sọan cho Đại Hội đảng năm 2011 đã không
tháo gỡ cho nền Kinh tế Việt Nam, mà ngược lại còn tiếp tục giữ Độc
quyền Kinh tế. Dự thảo Cương lĩnh từ Hội Nghị Trung Ương 12 đã viết rõ
rệt: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Đại
Hội đảng kỳ trước đã quyết định cho phép đảng viên làm Kinh tế mà Nhà
Nước hay đảng nắm giữ vai trò chủ đạo. Những đảng viên này, được bảo
trợ bởi Nhà Nước và đảng, giữ ưu tiên làm ăn cho cá nhân mình hay gia
đình mình từ Trung ương đến Tỉnh, Quận….
Một
đàng thì Nhà Nước đưa ra và tài trợ những Công ty, Tổng Công ty nhà
nước để nắm chủ đạo nền Kinh tế, một đàng thì những cá nhân đảng viên,
nắm những họat động kinh tế gọi là tư doanh, nhưng với quyền bảo trợ
của Nhà Nước và đảng, đã xử dụng đặc quyền và
ưu tiên Kinh tế sánh với những tư doanh không phải là đảng viên CSVN.
Đảng và Nhà Nước CSVN còn nắm trọn trong tay Đất đai và những tài
nguyên Quốc gia (Ressources naturelles) và nguồn nhân lực (Ressources
humaines).
Như vậy, cả một hệ thống nắm trọn nền Kinh tế Quốc gia:
=> Hệ
thống Công ty, Tổng Công ty, dưới danh nghĩa Tập đòan Kinh tế Nhà
Nước, có quyền chủ đạo Kinh tế, nghĩa là những Tập đòan tư doanh không
gồm đảng viên CSVN phải tùy thuộc những Tập đòan Kinh tế nhà nước gọi
là chủ đạo.
=> Những
cá nhân đảng viên CSVN, với sự bảo trợ của Nhà Nước và đảng từ Trung
ương đến Địa phương, tất nhiên dành những ưu tiên làm Kinh tế đối với
những cá nhân tư doanh không phải là đảng viên CSVN. Việc bảo trợ ưu
tiên này không phải là độc chiều người trên bảo trợ người dưới, mà là
hai chiều, nghĩa là người dưới có quyền đối với người trên bởi vì người
dưới nếu không được bảo trợ, sẽ tố cáo những thối nát, đặc quyền đặc
lợi mà người trên đang hưởng.
Đây là hệ thống làm ăn cướp dựt ưu tiên như của một nhóm Mafia. Đó là nhóm kẻ cướp vậy.
Khi Côn đồ là Kẻ cướp hay Kẻ cướp là Côn đồ,
thì Kinh tế là bóc lột
Đây
là sự cấu kết giữa CÔN ĐỒ Chính trị và KẺ CƯỚP Kinh tế, nghĩa là Độc
tài Chính trị và Độc quyền Kinh tế được kết hợp khắng khít với nhau
trong một Cơ Chế. Xin chú thích ở đây rằng chúng tôi không gọi là THỂ
CHẾ, mà là gọi là CƠ CHẾ. Thực vậy, một Thể Chế phải có Ý thức hệ đi kèm
như bảo đảm về Lý thuyết. Khi Ý thức hệ không còn nữa, như Ý thức hệ
Cộng sản, thì Thể chế chỉ còn là một cái máy, một Cơ Chế chuyển vận
không hồn. Ý thức hệ Cộng sản đã chết rồi ở Việt Nam, chỉ còn lại một CƠ
CHẾ, một cái máy không hồn, vô nhân đạo, duy trì Độc tài Chính trị và
Độc quyền Kinh tế. Đảng viên CSVN trở thành những Côn Đồ Chính trị,
không còn nghĩ đến Lý tưởng của Ý thức hệ mà Mác-Lê vạch ra trước đây,
trở thành những Kẻ Cướp Kinh tế, không còn nghĩ đến Dân nghèo phải bao
cấp cho chút miếng ăn.
Như
chúng tôi đã nói, năng về phương diện Lý thuyết, trong Chủ đề DỨT BỎ
CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN, ở đây với Chủ đề DÂN CHỦ HOÁ KINH TẾ, chúng
tôi muốn đưa ra một tỷ dụ đang là vấn đề THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ hiện
hành tượng trưng cho sự cấu kết giữa CÔN ĐỒ độc tài Chính trị và KẺ
CƯỚP Độc quyền Kinh tế. Đó là tỷ dụ Tổng Công ty VINASHIN thua lỗ tới
USD.4 tỉ.
Xin đọc những Bản Tin do chính những Thông tấn và Báo Chí lớn quốc tế tăng tải.
Bình luận của Báo LE MONDE như sau:
Báo đảng ngày 21-6: Quả tang bưng bít thông tin
Le
Monde là tờ báo lớn nhất, có số phát hành cao nhất nước Pháp, trong
số ra ngày 20-7-2010 có bài viết nhan đề «Công ty quốc doanh lớn
Vinashin của Việt Nam gặp những vấn đề nghiêm trọng, nợ lên đến hơn 3
tỷ Euros».
Bài
báo viết: Tổng công ty đóng tầu biển Vinashin là nhóm cơ sở quốc
doanh to lớn bậc nhất của nền công nghiệp Việt Nam hiện trong tình
hình gay go.
Từ
tình trạng quản lý quá lỏng lẻo quỹ công, dự án vạch ra không hợp lý,
thanh tra các dự án bị buông trôi, nay Tổng công ty Vinashin phải đối
mặt với một khoản nợ khổng lồ, lên đến 4 tỷ đôla, bằng 3,1 tỷ Euros.
Báo chí Việt Nam không e ngại chỉ trích sự kiện này và đòi phải có những biện pháp cải cách mạnh mẽ các cơ sở quốc doanh.
Cơ
quan Công an đã được giao nhiệm vụ mở cuộc điều tra Vinashin. Chủ
tịch Hội đồng quản trị của Tổng công ty Phạm Thanh Bình đã bị Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng bãi miễn chức vụ ngày 13-7-2010. Thứ trưởng bộ
Giao thông - Vận tải Nguyễn Hồng Trương được cử tạm thay thế ông Bình.
Một
Ban điều tra của Ban Chấp hành Ttrung ương đảng đã lên án các sai
phạm nghiêm trọng của Vinashin là huy động những khoản vốn cực lớn một
cách tùy tiện, lựa chọn không xác đáng các hướng đầu tư. Vinashin
đang phải thực hiện một cuộc kiểm điểm nghiêm túc.
Trên báo Tiền Phong, ông Trần Quang Vũ, tổng giám đốc Vinashin, đã bày tỏ lời xin lỗi đảng, chính phủ, thủ tướng và nhân dân.
Một
số người không loại bỏ mối liên quan giữa sự kiện trên với Đại hội
đảng sẽ họp trong 6 tháng tới. Đó là dịp các vị trí quyền lực then chốt
được quyết định. Các dịp như thế bao giờ các nhóm quyền lực cũng đấu
tranh với nhau.
Thêm
nữa, những bê bối của Vinashin không hề bất ngờ, như phát biểu của
ông Nguyễn Quang A, đồng chủ tịch của một nhóm tư duy. Đã có nhiều
cảnh báo từ trước trên báo chí về chủ trương chiến lược phát triển quá
đáng của cơ sở quốc doanh này.
Báo
chí đã nêu lên rằng trong năm 2009, Vinashin đã bị lỗ đến 18,8 triệu
đôla và từ nhiều tháng nay đã mắc những khoản nợ khổng lồ.
Bài
báo có riêng một đoạn để nói rõ tình trạng quản lý của Nhà nước quá
lỏng lẻo nuông chiều các cơ sở quốc doanh lớn như Vinashin. Nhiều cơ
quan Nhà nước phải cùng chịu trách nhiệm, do đã vung tay cung cấp quá
nhiều tài nguyên quốc gia, cấp những khoản tiền quá lớn từ Ngân hàng Nhà
nước cho Vinashin.
Bà
Phạm Chi Lan, nguyên cố vấn kinh tế của chính phủ, nói với báo Tuổi
Trẻ rằng: «Nếu như chính phủ không hào phóng cấp cho Vinashin những
khoản tiền quá lớn thì tổn thất sẽ không đến nỗi nặng nề đến vậy ». Bà
nói thêm rằng: «Các cơ sở quốc doanh cần được đánh giá đúng khả năng
quản lý kinh doanh của nó, xem kỹ nó có tôn trọng các quy luật của thị
trường hay không, và sự đánh giá ấy phải được thực hiện bởi một cơ
quan chuyên trách có quyền lực».
Bộ
Giao thông - Vận tải báo tin sẽ cơ cấu lại nhóm kinh tế quốc doanh
Vinashin, một số cơ sở của nó không có nhiệm vụ trực tiếp trong việc
đóng tàu biển sẽ được tách ra khỏi Tổng công ty này, như các cơ sở vận
tải đường biển, xây dựng cảng biển và xây dựng khu công nghiệp ven biển
… sẽ được nhập vào các cơ sở kinh tế quốc doanh khác, như Tổng công
ty PetroVietnam, Vinalines … ».
Bùi Tín (trích dịch)
Bản Tin của Thông tấn AFP như sau:
Hãng
tin AFP hôm nay có bài nhìn lại vụ lao đao của Tập đoàn Công nghiệp
Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) với các ý kiến của một số chuyên gia nói
về lý do dẫn tới khoản lỗ khổng lồ của Vinashin.
Chủ
tịch Hội đồng Quản trị Phạm Thanh Bình của tập đoàn này đang bị điều
tra vì 'có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự' trong quá trình lãnh
đạo Vinashin và để khoản lỗ của công ty lên tới hơn bốn tỷ đôla Mỹ.
AFP
trích lời nhà Việt Nam học Carl Thayer từ Đại học New South Wales của
Úc nói Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng "là người ủng hộ chính cho việc xây
dựng các đại công ty của Việt Nam theo mô hình chaebol của Hàn Quốc."
Ông
Thayer cũng nói vụ scandal đáng ra đã có thể là mối đe dọa cho ông
Dũng nhưng ông đã "tấn công phủ đầu" bằng cách ra lệnh tái cơ cấu
Vinashin.
"Ông Dũng đã đặt mình vào thế đằng nào cũng thắng," ông Thayer được trích lời nói.
Nhưng
cách tái cơ cấu Vinashin của ông Nguyễn Tấn Dũng mà theo đó nợ của
Vinashin được san cho các tổng công ty khác, đã chịu nhiều chỉ trích.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nói với báo chí trong nước:
"Nhà
nước đã chọn cứu Vinashin theo một cách dễ dãi nhất trong khi đẩy
gánh nặng nợ cho nền kinh tế, doanh nghiệp và suy cho cùng là người
dân đóng thuế gánh.
"...Trách nhiệm để xảy ra thua lỗ, nợ nần ở Vinashin đáng ra phải được xử lý bằng pháp luật."
Bà
Lan cũng nói các doanh nghiệp nhà nước sử dụng chừng 60-70% nguồn lực
của Việt Nam và nếu không có sự tái cơ cấu thì nền kinh tế Việt Nam
khó phát triển mạnh.
AFP
cũng dẫn lời ông Jonathan Pincus, người phụ trách Chương trình Giảng
dạy Kinh tế Fulbright tại thành phố Hồ Chí Minh nói các doanh nghiệp
nhà nước lớn đã dễ dàng có vốn và đất đai mà không phải cạnh tranh và
do vậy họ đã đầu tư quá mức.
Ông
Pincus nói với AFP: "Nhiệm kỳ và lương bổng của các giám đốc doanh
nghiệp nhà nước phải gắn với kết quả làm ăn của công ty."
AFP
cũng dẫn lời bà Phạm Chi Lan nói các giám đốc doanh nghiệp nhà nước
do thủ tướng bổ nhiệm và bởi vậy họ bỏ ngoài tai những chỉ thị từ bất
kỳ ai khác trong khi luật lệ hiện còn chưa rõ về vai trò quản lý của
các bộ đối với các doanh nghiệp này.
'Ưu
ái'-- Các chuyên gia kinh tế khác cũng đã lên tiếng chỉ trích điều mà
họ gọi là sự 'ưu ái' mà chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng dành cho
Vinashin.
Kinh tế gia Lê Dăng Doanh được trích lời nói:
"Tôi xin đơn cử một vài ví dụ điển hình về sự ưu ái này mà công luận đều biết.
"Phát
hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế được 750 triệu đô
la, chính phủ giao ngay cho Vinashin, một việc chưa có tiền lệ trên thế
giới là chính phủ đi vay trên thị trường quốc tế để trao lại cho một
doanh nghiệp kinh doanh.
"Ông
Phạm Thanh Bình đến các địa phương được cấp đất với diện tích rất
lớn, ở vị trí rất thuận lợi, dù chưa hề có dự án kinh tế - kỹ thuật,
các tỉnh đề nghị cung cấp các phương án kinh doanh, dự án đầu tư thì
ông Bình nhờ can thiệp để được cấp ngay.
"Vinashin
triển khai đầu tư tràn lan tới hàng trăm dự án. Có tới hàng trăm công
ty con từ trại nuôi lợn Vinashin đến cửa hàng ô tô Vinashin trên
đường Lê Duẩn (Hà Nội), hay resort ở gần Tam Đảo đều mang nhãn hiệu
Vinashin.
"Mua tàu của Italia không qua giám định kỹ thuật, tàu về không thích hợp, càng làm ăn càng thua lỗ."
KẾT
LUẬN của chúng tôi là, trên mặt LÝ THUYẾT cũng như theo QUAN SÁT THỰC
TẾ, phải DỨT BỎ cái Cơ Chế CSVN hiện hành cấu kết giữa CÔN ĐỒ ĐỘC TÀI
CHÍNH TRỊ và KẺ CƯỚP ĐỘC QUYỀN KINH TẾ để bắt đầu phát triển Kinh tế
thực sự. Dứt bỏ Cơ Chế này và thực hiện DÂN CHỦ HOÁ KINH TẾ, thì việc
phát triển Kinh tế mới BỀN VỮNG và LÂU DÀI cho Quê Hương.
Đây
không phải là việc chống Lý thuyết Cộng sản vì Lý thuyết ấy đã chết
nghẻo lâu rồi. Đây là việc đòi hỏi cho tương lai Phát triển Kinh tế Bền
Vững và Lâu Dài cho Đất Nước Việt Nam.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 05.08.2010
THƠ VÕ ĐẠI TÔN
--------------------------------------------------------------
SÓNG TRIỀU DÂNG...
(Biểu tình chống Văn Công Cộng Sản tại Sydney, Úc Châu, chiều đông lạnh 06.8.2010)
Võ Đại Tôn
Như sóng dâng cuồn cuộn
Từng trạm ga về đây.
Giữa trời Đông lạnh xuống
Cờ vàng chiều tung bay.
Này bạn quân nhân, nắm chặt bàn tay
Ấm thêm tình chiến hữu.
Mẹ dắt đàn con cùng nhau tề tựu
Góp lòng dân giữ vẹn Niềm Tin.
Gió đêm buốt lạnh, máu chảy về tim
Thêm nguồn sống vì quê hương dân tộc.
Từng đoàn người, cuốn xoay cơn lốc
Tụ về nơi điểm hẹn, hướng chung lòng.
Bên kia bờ biển Đông
Quê hương còn tang tóc.
Mấy chục năm rồi, vẫn cao tiếng khóc
Quyền Con Người trên giấy mờ phai.
Tuổi thơ em rao bán hình hài
Trò chơi giữa lòng nhân loại.
Mẹ già lên tiếng gọi,
Em mỏi mắt chờ mong.
Biển ngàn khơi đã nổi cuồng phong
Triệu linh hồn giạt trôi vô định.
Vì Tự Do lẽ Tử Sinh liều lĩnh
Thuyền mong manh trời nước mênh mông
Tìm đất sống theo định mệnh xuôi dòng
Về bến lạ, bước chân vào viễn xứ.
Hồn mang theo quá khứ
Đâu phải vì niềm riêng.
Nhưng ngoảnh nhìn, chung nỗi hận triền miên
Vì đất nước còn chìm sâu đáy vực.
Xin góp bàn tay cùng lương tâm tỉnh thức
Nổi đau chung, xin chia sẻ đọa đày.
Thưa cùng MẸ : - “Con vẫn còn đây” (*)
Chiều đông lạnh, phất cao cờ Đại Nghĩa.
Ba mươi lăm năm, tưởng xa rồi chiến địa
Nhưng “họ” còn theo, lời xảo quyệt dối gian (*)
Nghệ thuật, văn công, nghị quyết chiêu hàng,
Luôn ám ảnh, bóng ma vờn hải ngoại.
Cờ phất đêm nay, vạn lời chung tiếng nói
Đòi lại quyền cho Tổ Quốc hồi sinh.
Này bạn quân nhân, dù gió lạnh run mình
Ta vẫn đứng, chung hàng nghiêm thẳng lối.
Này Chị, này Anh, không quên nguồn cội
Cùng đàn con, cao tiếng thét vì Dân.
Ngạo nghễ cờ bay, xin được góp phần
Cùng Dân Tộc xóa tan dòng nghịch sử.
Triệu lòng son dù tha phương viễn xứ
Vẫn bền gan, thách đố với thời gian.
Rồi mai đây chế độ Đỏ hung tàn
Không còn nữa, trời Xuân bừng Đất Mẹ.
Tiếng thét đêm nay mở đường cho thế hệ
Một Ngày Mai , cùng vui sống Tự Do!
VÕ ĐẠI TÔN
Úc Châu, đêm 6.8.2010.
(*) Bản nhạc “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây”, thơ Võ Đại Tôn, Nguyễn Ánh Chín phổ nhạc.
(*) Cộng Sản Việt Nam.
SÓNG TRIỀU DÂNG...
(Biểu tình chống Văn Công Cộng Sản tại Sydney, Úc Châu, chiều đông lạnh 06.8.2010)
Võ Đại Tôn
Như sóng dâng cuồn cuộn
Từng trạm ga về đây.
Giữa trời Đông lạnh xuống
Cờ vàng chiều tung bay.
Này bạn quân nhân, nắm chặt bàn tay
Ấm thêm tình chiến hữu.
Mẹ dắt đàn con cùng nhau tề tựu
Góp lòng dân giữ vẹn Niềm Tin.
Gió đêm buốt lạnh, máu chảy về tim
Thêm nguồn sống vì quê hương dân tộc.
Từng đoàn người, cuốn xoay cơn lốc
Tụ về nơi điểm hẹn, hướng chung lòng.
Bên kia bờ biển Đông
Quê hương còn tang tóc.
Mấy chục năm rồi, vẫn cao tiếng khóc
Quyền Con Người trên giấy mờ phai.
Tuổi thơ em rao bán hình hài
Trò chơi giữa lòng nhân loại.
Mẹ già lên tiếng gọi,
Em mỏi mắt chờ mong.
Biển ngàn khơi đã nổi cuồng phong
Triệu linh hồn giạt trôi vô định.
Vì Tự Do lẽ Tử Sinh liều lĩnh
Thuyền mong manh trời nước mênh mông
Tìm đất sống theo định mệnh xuôi dòng
Về bến lạ, bước chân vào viễn xứ.
Hồn mang theo quá khứ
Đâu phải vì niềm riêng.
Nhưng ngoảnh nhìn, chung nỗi hận triền miên
Vì đất nước còn chìm sâu đáy vực.
Xin góp bàn tay cùng lương tâm tỉnh thức
Nổi đau chung, xin chia sẻ đọa đày.
Thưa cùng MẸ : - “Con vẫn còn đây” (*)
Chiều đông lạnh, phất cao cờ Đại Nghĩa.
Ba mươi lăm năm, tưởng xa rồi chiến địa
Nhưng “họ” còn theo, lời xảo quyệt dối gian (*)
Nghệ thuật, văn công, nghị quyết chiêu hàng,
Luôn ám ảnh, bóng ma vờn hải ngoại.
Cờ phất đêm nay, vạn lời chung tiếng nói
Đòi lại quyền cho Tổ Quốc hồi sinh.
Này bạn quân nhân, dù gió lạnh run mình
Ta vẫn đứng, chung hàng nghiêm thẳng lối.
Này Chị, này Anh, không quên nguồn cội
Cùng đàn con, cao tiếng thét vì Dân.
Ngạo nghễ cờ bay, xin được góp phần
Cùng Dân Tộc xóa tan dòng nghịch sử.
Triệu lòng son dù tha phương viễn xứ
Vẫn bền gan, thách đố với thời gian.
Rồi mai đây chế độ Đỏ hung tàn
Không còn nữa, trời Xuân bừng Đất Mẹ.
Tiếng thét đêm nay mở đường cho thế hệ
Một Ngày Mai , cùng vui sống Tự Do!
VÕ ĐẠI TÔN
Úc Châu, đêm 6.8.2010.
(*) Bản nhạc “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây”, thơ Võ Đại Tôn, Nguyễn Ánh Chín phổ nhạc.
(*) Cộng Sản Việt Nam.
TRẦN BÌNH NAM * VIỆT MỸ & NGUYÊN TỬ
Quan hệ Việt-Mỹ và vấn đề trang bị nguyên tử cho Việt Nam
Trần Bình Nam
Chữ
“nguyên tử” ở đây có thể hiểu là nguyên tử sản xuất điện lực hay vũ
khí nguyên tử. Nói đến sự chế tạo vũ khí nguyên tử là nói
đến một cái gì “cấm kỵ” trên thế giới chờ đợi sự phản đối và tố cáo từ
mọi phía, nhất là phía của kẻ mạnh được quyền có vũ khí nguyên tử (Hoa
Kỳ, Trung quốc, Liên bang Nga, Anh và Pháp).
Sau khi chứng kiến
hai quả bom nguyên tủ cỡ nhỏ tàn phá hai thành phố Hiroshima và
Nagasaki của Nhật năm 1945, lương tâm thế giới đồng thuận một điểm:
“thế giới này tốt đẹp hơn nếu không có vũ khí nguyên tử.”
Nhưng quá trễ. Sự mong muốn đơn giản đó không thực hiện được. Con quỷ
nguyên tử đã ra khỏi miệng bình không vị thần nào có phép thần thông
bắt nhốt nó lại vào bình. Thế giới đành chấp nhận sống chung với quỷ sa
tăng. Nhưng trớ trêu là nhờ sự có mặt của quỷ sa tăng mà từ
năm 1945 đến nay đã không xẩy ra trận thế giới đại chiến thứ 3.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết hai lần
đụng độ nhau. Một lần năm 1948 khi Liên Xô phong tỏa tây Bá Linh và
Hoa Kỳ dùng cầu không vận bay qua lãnh thổ Đông Đức tiếp vận cho Bá
Linh. Và một lần năm 1962 khi Liên Xô lén đặt hỏa tiễn nguyên tử tại
Cuba nhắm vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ cho phong tỏa Cuba.
Cả hai lần
Liên Xô xuống thang vì không muốn thấy một trận chiến tranh nguyên tử
mà cả hai chắc chắn sẽ bị hủy diệt. Tại Trung Đông. Năm 1973
Ai Cập đánh lén Do Thái và sau đó biết Do Thái đã có một kho bom
nguyên tử nhưng không chính thức công bố (1), khối A Rập vĩnh viễn từ
bỏ ý đồ tiêu diệt Do Thái. Hai nước Ấn Độ và Pakistan tranh
giành vùng Kashmir, một mất một còn cũng không đi đến chiến tranh toàn
diện vì cả hai đều có vũ khí nguyên tử. Việt Nam bị Trung
quốc đe dọa từ trận đánh biên giới đầu năm 1979. Đến năm 1992 Việt Nam
rơi vào thế kẹt sau khi Liên Xô sụp đổ phải làm hòa với Trung quốc và
bị Trung quốc uy hiếp đủ điều. Nạn mất nước của Việt Nam trở thành một
hiện thực càng ngày càng rõ nét.
Trong chiến lược đối
đầu với Hoa Kỳ để vươn lên thành siêu cường, Trung quốc có nhu cầu thôn
tính Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam bỗng có một mối lo chung.
Việt Nam phải làm gì để sống còn? Hoa Kỳ phải làm gì để trì hoãn cuộc
chạm trán với Trung quốc tại Biển Đông? Câu trả lời
“unthinkable” chung cho hai câu hỏi trên là: Hoa Kỳ giúp Việt Nam điều
kiện trang bị vũ khí nguyên tử để tránh một cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt
của Trung quốc trên đất liền và ngoài Biển Đông.
Nếu
nhìn lại các động thái của Việt Nam và của Hoa Kỳ trong 15 năm qua
chúng ta không khỏi thấy rằng Việt Nam và Hoa Kỳ đều nghĩ đến giải pháp
này. Đầu năm 1995, Việt Nam quyết định trang bị lò điện
nguyên tử ước tính hoạt động vào năm 2012. Tháng 4/1995 ông
Đỗ Mười, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam công du Nam Hàn đã ngỏ ý
mua lò điện nguyên tử của Nam Hàn (2). Năm 2001 Việt Nam và
Hoa Kỳ ký một văn thư ghi nhận cách thức Việt Nam thủ đắc nhiên liệu và
phát triển điện lực nguyên tử (3).
Tháng 4/2010 tổng thống
Obama mời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị thượng đỉnh về an
toàn nguyên tử (Nuclear Security Summit) tại Hoa Thịnh Đốn.
Và biến chuyển mới nhất, theo bài báo “U.S., Hanoi in Nuclear Talks” do
ký giả Jay Solomon viết đăng trên tờ Wall Sreet Journal ngày 3/8/2010
thì bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang cùng với Việt Nam tiến hành các thủ tục
cần thiết để Việt Nam có thể tinh chế chất Unranium. Tinh
chế Uranium để làm gì? Câu trả lời ai cũng biết dù muốn hay không muốn
nói ra. Và cũng không ai ngạc nhiên khi thấy Trung quốc đã lên tiếng
cảnh giác.
Về việc này cách đây 15 năm tôi có đặt thành vấn đề
trong một bài viết nhan đề: “Việt Nam đang nghĩ đến trang bị vũ khí
nguyên tử”. Bài viết đó được trích lại nguyên văn ở đây để
dùng làm kết luận bài viết này. Việt Nam đang nghĩ đến trang bị vũ
khí nguyên tử Trần Bình Nam (Bài viết tháng 7-1995. Trích từ Tuyển
Tập Bình Luận Chính Trị Tập II 1995-1996, trang 93)
Khoảng giữa năm 1995 một bài báo đăng trên tờ Vietnam News, một tờ báo
Anh Ngữ tại Việt Nam, tiết lộ rằng Bộ Năng Lượng Việt Nam đang có kế
hoạch nghiên cứu khả năng trang bị lò điện nguyên tử. Tiền đầu tư cho
dự án là 3 tỉ mỹ kim và dự trù hoạt động khoảng 2012 .
Kế hoạch
này làm nhiều người ngạc nhiên . Ngạc nhiên vì nhiều lẽ. Đã
đành Việt Nam là một nước đang phát triển và cần nhiều năng lượng trong
tương lai, nhưng Việt Nam có nhiều dầu hỏa để chạy các nhà máy nhiệt
điện . Đó là chưa nói đến khả năng thủy điện của Việt Nam chưa khai thác
hết. Ngoài ra theo tài liệu của Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế tính
đến đầu năm 1994, trong số 33 nước trên thế giới có lò điện nguyên tử
không có nước nào trong Hiệp hội Asean. Việt Nam sắp trở thành thành
viên chính thức của Hiệp hội này . Tìm cách phát triển năng
lượng là phóng nhìn đúng về tương lai, nhưng trong những điều kiện hiện
nay của Việt Nam nghĩ đến lò điện nguyên tử phải chăng những người
đang lãnh đạo Việt Nam có ẩn ý gì khác hơn là năng lượng?
Đầu năm 1995 trong bản báo cáo “Việt Nam – Con đường phát triển tới năm
2020” do viện Nghên Cứu Dự Báo Chiến Lược Khoa Học và Công Nghệ thuộc
Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường phổ biến không thấy đề cập đến
năng lượng nguyên tử.
Cho nên quyết định nghiên cứu để trang bị
lò điện nguyên tử dù ước tính đến năm 2012 mới sẵn sàng phải chăng là
một tính toán đột xuất nảy sinh do kết quả của Thỏa Ước NPT và nhu cầu
an ninh. Hội nghị nhằm hạn chế sự phổ biến vũ khí nguyên tử
trong tháng 4 và tháng 5 vừa qua tại New York tuy đồng ý kéo dài Thỏa
ước NPT (Non Proliferation Treaty) vô hạn định nhưng ai cũng biết đó
chỉ là một đồng thuận tạm bợ trước áp lực của 5 nước đang có vũ khí
nguyên tử là Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Anh, Pháp và Trung quốc và cũng vì
không ai đưa ra được một sáng kiến nào khác để giữ cho thế giới an toàn
hơn trước tình trạng lan tràn của vũ khí nguyên tử.
Người ta
không chờ đợi các nước trên thế giới thay đổi chính sách nguyên tử sau
hội nghị hạn chế sự phổ biến vũ khí nguyên tử vừa rồi nếu không muốn
nói là cảnh giác hơn trước thái độ của Pháp và Trung quốc. Mực của bản
văn hội nghị chưa khô Trung quốc và Pháp đã đua nhau thí nghiệm vũ khí
nguyên tử . Trên nguyên tắc, càng ít nước có vũ khí nguyên
tử càng tốt nhưng chỉ tốt khi nào các nước khác không thể tự trang bị
vũ khí nguyên tử, và các nước có vũ khí nguyên tử đồng thành tâm hủy bỏ
các kho vũ khí của mình .
Tình trạng thế giới hôm nay không
vậy. Nhiều nước, ngoài 5 nước chính thức, đã có vũ khí nguyên tử nhưng
chưa công nhận . Nhiều nước khác có kiến thức khoa học và khả năng kỹ
thuật để chế tạo vũ khí nguyên tử nhưng chưa chế tạo. Vì vậy sự hạn chế
là vô phương và trở nên nguy hiểm. Thế giới hôm nay trở nên
đa cực, sự thủ đắc vũ khí nguyên tử cũng cần đa phương. Đồng thuận một
công thức đa phương nguyên tử phản ánh thực trạng của thế giới còn ít
nguy hiểm hơn duy trì hiện trạng một cách gượng gạo .
Trước bối
cảnh đó một sự tính toán cho riêng mình không phải là điều không hữu
lý nói về lâu về dài. Việt Nam cũng có lý do để nghĩ đến vũ khí nguyên
tử hơn bất cứ một quốc gia nào khác. Bên cạnh anh khổng lồ Trung quốc
nhiều tham vọng có vũ khí nguyên tử chỉ chực nuốt lấy tài nguyên của
mình bằng sức mạnh Việt Nam phải chuẩn bị cái gì để tự bảo vệ. Và phải
chăng đó là tiến trình suy tư của các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay.
Sau khi Vietnam News tiết lộ kế hoạch thiết lập lò điên
nguyên tử, ngày 21 tháng 4, 1995 đài BBC phỏng vấn ông Nguyễn Khuyến,
chủ biên Vietnam News.
Ông Khuyến hơi lúng túng khi biện minh sự
cần thiết của lò điện nguyên tử đối với Việt Nam. Theo ông Khuyến,
thủy điện Việt Nam có nhưng không phải vô tận, các cơ sở nhiệt điện thì
dầu hỏa không thiếu nhưng không sạch cho môi sinh. Khi được hỏi về
kiến thức khoa học cần thiết ông Khuyến nói Việt Nam có nhiều khoa học
gia từng theo học nguyên tử lực tại Liên bang Xô viết trước kia. Tuy
nhiên có thể ông Khuyến trả lời cho qua chuyện.
Nhớ vụ lò
nguyên tử của Liên bang Xô viết tại Chernobyl (gần Kiev, Ukraine) nổ
tháng 4 năm 1986 làm hằng trăm người chết và hơn 135.000 người phải di
tản mấy năm sau mới trở lại được và bụi phóng xạ rôi xuống nhiều vùng
tại Âu châu đã sinh ra ung thư và hư thai và còn tiếp tục gây tác hại
trong nhiều chục năm tới người ta không nghĩ Việt Nam sẽ tìm học kỹ
thuật nguyên tử nơi Liên bang Nga . Theo tin tức, tháng 4 vừa
rồi khi công du Nam Hàn, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười
đã ngỏ ý muốn mua lò điện nguyên tử của Nam Hàn. Có lẽ Việt Nam sẽ tìm
học kỹ thuật nguyên tử hiện đại tại các nước Á châu và trong khối dân
chủ (dù Việt Nam nay chưa phải là một nước dân chủ ) Lò
nguyên tử sản xuất điện lực là cơ sở tốt nhất để nghiên cứu và huấn
luyên nhân sự cho ngành sản xuất vũ khí nguyên tử, và cũng là một cách
điều chế nhiên liệu cho vũ khí nguyên tử .
Một cơ sở như Trung
Tâm Nguyên Tử Lực trước kia ở Đà Lạt cũng là một cơ sở nghiên cứu tốt
nhưng hình như sau năm 1975 chính quyền cộng sản không mấy lưu tâm cho
nên dụng cụ trang bị và tài liệu nghiên cứu bị thất thoát, chuyên viên
ngành nguyên tử lực của Việt Nam Công Hòa còn lại không được tin cậy,
nhân viên mới thì không có khả năng và khi có chương trình đi lao động
nước ngòai các nhân viên này đều được đi Đông Âu lao động như một đặc
ân nên cơ sở này đã không đóng góp được gì trong sự phát huy khả năng
hiểu biết về nguyên tử lực. Về phương diện khoa học và kỹ
thuật ngành nguyên tử lực không phải là một ngành học khó nhất. \
Nguyên
tắc tổng quát của bom nguyên tử thì hầu như ai cũng biết nhưng trở
ngại là hiểu biết khoa học và kỹ thuật liên hệ không được phổ biến.
Nhân (nucleus) của nguyên tử chất Uranium 238 (U-238) có 238
trung hòa tử (chất Plutonium 239 có 239 trung hòa tử trong nhân) ở một
trạng thái ít cân bằng nên nếu được bắn bằng một trung hòa tử có tốc độ
thích hợp nguyên tử U-238 có thể bị vỡ đôi làm tung tóe các trung hòa
tử khác bay tứ tung như những viên đạn trung hòa tử khác . Khi một
nguyên tử U-238 vỡ đôi vật chất bị thất thoát và tỏa ra một năng lượng
lớn như công thức liên hệ giữa vật chất và năng lượng (E= mc2) của
nhà bác học Einstein.
Mặc khác, các viên đạn trung hòa tử do sự
vỡ đôi một nhân U-238 tạo thành, nếu đủ điều kiện sẽ có khả năng bắn vỡ
các nguyên tử U-238 khác ở chung quanh và cứ thế tiếp tục thành phản
ứng dây chuyền làm tiêu hao thanh Uranium và tỏa ra một khối năng lượng
khổng lồ dưới hình thức nhiệt và sức ép, tạo ra hiện tượng nổ nguyên
tử hay nôm na là bom nguyên tử. Vấn đề then chốt là làm thế
nào để tạo ra phản ứng dây chuyền. Chất Uranium trong thiên nhiên là
chất U-235 có nhân rất vững không thể bị bắn vỡ .
Chất U-238
có thể bị bắn vỡ chỉ chiếm 1 phần 140 trong U-235 thiên nhiên . Cho
nên việc đầu tiên là lọc chất U-235 để tăng tỉ số chất U-238 lên mới có
cơ may phá vỡ. Kỹ thuật lọc này (gọi là tinh chế - enrichment) rất cao
và là một bí mật quốc phòng của các quốc gia có vũ khí nguyên tử.
Nhưng có U-235 đủ lượng U-238 cũng chưa chắc sẽ có phản ứng dây
chuyền nếu khối lượng và hình thù của khối Uranium bị bắn không thích
hợp. Trong ngành vũ khí ngưòi ta gọi khối lượng này là “khối tới độ”
(Critical mass).
Tính toán “khối tới độ” đòi hỏi những hiểu
biết toán học cấp cao phức tạp và các công thức và phương pháp tính
toán cũng còn là những bí mật quốc phòng. Một quốc gia muốn
trang bị vũ khí nguyên tử phải tự giải quyết hai vấn đề kỹ thuật (tinh
chế chất Uranium) và khoa học (tính toán “khối tới độ”) vì không ai
chuyển nhượng các hiểu biết này nếu không muốn nói có thể bị thế giới
trừng phạt. Với đà phát triển kinh tế hiện nay và óc khoa
học thiên phú của người Việt, Việt Nam có thể tự giải quyết các vấn đề
trên, nhưng đó không phải là con đường dễ đi.
Con đường qua các
lò nguyên tử sản xuất điện lực dễ đi hơn. Các lò nguyên tử này sản xuất
ra chất Plutonium 239 (P-239) có nhân không vững như chất U=238 và
cũng có thể dùng để chế tạo bom nguyên tử. (Chúng ta không bàn đến bom
khinh khí do hiện tượng đúc chảy các nguyên tử khinh khí dưới nhiệt độ
cao do mộtquả bom nguyên tử nhỏ cung cấp.) Không biết các
nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đang tính toán gì.
Nhưng
trong tình hình thực tế hiện nay dù thỏa ước NPT được kéo dài vô hạn
định thế giới vẫn “đồng sàng dị mộng”, và việc nhiều nước trên thế
giới, ngoài 5 nước chính thức có vũ khí nguyên tử sẽ có vũ khí nguyên
tử là điều thế nào cũng xẩy ra trong thập niên tới thì việc chuẩn bị để
tự vệ là một việc hợp lý thôi./. (Tháng 7/1995)
**
Trần Bình Nam August 7, 2010 binhnam@sbcglobal.net www.tranbinhnam.com (1) “Do Thái và bom nguyên tử”
Trang nhà www.tranbinhnam.com tài liệu số 357– Bình Luận. Link: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/DoThaiVaBomNguyenTu.htm (2)
“Việt
Nam đang nghĩ đến trang bị vũ khí nguyên tử” Tuyển Tập Bình Luận Chính
Trị - Tập II 1995-1996, Trần Bình Nam, trang 93. (3) “U.S., Hanoi
in Nuclear Talks”, by Jay Solomon, Wall Street Journal số ngày
3/8/2010
Quan hệ Việt-Mỹ và vấn đề trang bị nguyên tử cho Việt Nam
Trần Bình Nam
Sau khi chứng kiến hai quả bom nguyên tủ cỡ nhỏ tàn phá hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật năm 1945, lương tâm thế giới đồng thuận một điểm: “thế giới này tốt đẹp hơn nếu không có vũ khí nguyên tử.” Nhưng quá trễ. Sự mong muốn đơn giản đó không thực hiện được. Con quỷ nguyên tử đã ra khỏi miệng bình không vị thần nào có phép thần thông bắt nhốt nó lại vào bình. Thế giới đành chấp nhận sống chung với quỷ sa tăng. Nhưng trớ trêu là nhờ sự có mặt của quỷ sa tăng mà từ năm 1945 đến nay đã không xẩy ra trận thế giới đại chiến thứ 3. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết hai lần đụng độ nhau. Một lần năm 1948 khi Liên Xô phong tỏa tây Bá Linh và Hoa Kỳ dùng cầu không vận bay qua lãnh thổ Đông Đức tiếp vận cho Bá Linh. Và một lần năm 1962 khi Liên Xô lén đặt hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba nhắm vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ cho phong tỏa Cuba.
Cả hai lần Liên Xô xuống thang vì không muốn thấy một trận chiến tranh nguyên tử mà cả hai chắc chắn sẽ bị hủy diệt. Tại Trung Đông. Năm 1973 Ai Cập đánh lén Do Thái và sau đó biết Do Thái đã có một kho bom nguyên tử nhưng không chính thức công bố (1), khối A Rập vĩnh viễn từ bỏ ý đồ tiêu diệt Do Thái. Hai nước Ấn Độ và Pakistan tranh giành vùng Kashmir, một mất một còn cũng không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai đều có vũ khí nguyên tử. Việt Nam bị Trung quốc đe dọa từ trận đánh biên giới đầu năm 1979. Đến năm 1992 Việt Nam rơi vào thế kẹt sau khi Liên Xô sụp đổ phải làm hòa với Trung quốc và bị Trung quốc uy hiếp đủ điều. Nạn mất nước của Việt Nam trở thành một hiện thực càng ngày càng rõ nét.
Trong chiến lược đối đầu với Hoa Kỳ để vươn lên thành siêu cường, Trung quốc có nhu cầu thôn tính Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam bỗng có một mối lo chung. Việt Nam phải làm gì để sống còn? Hoa Kỳ phải làm gì để trì hoãn cuộc chạm trán với Trung quốc tại Biển Đông? Câu trả lời “unthinkable” chung cho hai câu hỏi trên là: Hoa Kỳ giúp Việt Nam điều kiện trang bị vũ khí nguyên tử để tránh một cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt của Trung quốc trên đất liền và ngoài Biển Đông.
Nếu nhìn lại các động thái của Việt Nam và của Hoa Kỳ trong 15 năm qua chúng ta không khỏi thấy rằng Việt Nam và Hoa Kỳ đều nghĩ đến giải pháp này. Đầu năm 1995, Việt Nam quyết định trang bị lò điện nguyên tử ước tính hoạt động vào năm 2012. Tháng 4/1995 ông Đỗ Mười, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam công du Nam Hàn đã ngỏ ý mua lò điện nguyên tử của Nam Hàn (2). Năm 2001 Việt Nam và Hoa Kỳ ký một văn thư ghi nhận cách thức Việt Nam thủ đắc nhiên liệu và phát triển điện lực nguyên tử (3).
Tháng 4/2010 tổng thống Obama mời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị thượng đỉnh về an toàn nguyên tử (Nuclear Security Summit) tại Hoa Thịnh Đốn. Và biến chuyển mới nhất, theo bài báo “U.S., Hanoi in Nuclear Talks” do ký giả Jay Solomon viết đăng trên tờ Wall Sreet Journal ngày 3/8/2010 thì bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang cùng với Việt Nam tiến hành các thủ tục cần thiết để Việt Nam có thể tinh chế chất Unranium. Tinh chế Uranium để làm gì? Câu trả lời ai cũng biết dù muốn hay không muốn nói ra. Và cũng không ai ngạc nhiên khi thấy Trung quốc đã lên tiếng cảnh giác.
Về việc này cách đây 15 năm tôi có đặt thành vấn đề trong một bài viết nhan đề: “Việt Nam đang nghĩ đến trang bị vũ khí nguyên tử”. Bài viết đó được trích lại nguyên văn ở đây để dùng làm kết luận bài viết này. Việt Nam đang nghĩ đến trang bị vũ khí nguyên tử Trần Bình Nam (Bài viết tháng 7-1995. Trích từ Tuyển Tập Bình Luận Chính Trị Tập II 1995-1996, trang 93) Khoảng giữa năm 1995 một bài báo đăng trên tờ Vietnam News, một tờ báo Anh Ngữ tại Việt Nam, tiết lộ rằng Bộ Năng Lượng Việt Nam đang có kế hoạch nghiên cứu khả năng trang bị lò điện nguyên tử. Tiền đầu tư cho dự án là 3 tỉ mỹ kim và dự trù hoạt động khoảng 2012 .
Kế hoạch này làm nhiều người ngạc nhiên . Ngạc nhiên vì nhiều lẽ. Đã đành Việt Nam là một nước đang phát triển và cần nhiều năng lượng trong tương lai, nhưng Việt Nam có nhiều dầu hỏa để chạy các nhà máy nhiệt điện . Đó là chưa nói đến khả năng thủy điện của Việt Nam chưa khai thác hết. Ngoài ra theo tài liệu của Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế tính đến đầu năm 1994, trong số 33 nước trên thế giới có lò điện nguyên tử không có nước nào trong Hiệp hội Asean. Việt Nam sắp trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội này . Tìm cách phát triển năng lượng là phóng nhìn đúng về tương lai, nhưng trong những điều kiện hiện nay của Việt Nam nghĩ đến lò điện nguyên tử phải chăng những người đang lãnh đạo Việt Nam có ẩn ý gì khác hơn là năng lượng? Đầu năm 1995 trong bản báo cáo “Việt Nam – Con đường phát triển tới năm 2020” do viện Nghên Cứu Dự Báo Chiến Lược Khoa Học và Công Nghệ thuộc Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường phổ biến không thấy đề cập đến năng lượng nguyên tử.
Cho nên quyết định nghiên cứu để trang bị lò điện nguyên tử dù ước tính đến năm 2012 mới sẵn sàng phải chăng là một tính toán đột xuất nảy sinh do kết quả của Thỏa Ước NPT và nhu cầu an ninh. Hội nghị nhằm hạn chế sự phổ biến vũ khí nguyên tử trong tháng 4 và tháng 5 vừa qua tại New York tuy đồng ý kéo dài Thỏa ước NPT (Non Proliferation Treaty) vô hạn định nhưng ai cũng biết đó chỉ là một đồng thuận tạm bợ trước áp lực của 5 nước đang có vũ khí nguyên tử là Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Anh, Pháp và Trung quốc và cũng vì không ai đưa ra được một sáng kiến nào khác để giữ cho thế giới an toàn hơn trước tình trạng lan tràn của vũ khí nguyên tử.
Người ta không chờ đợi các nước trên thế giới thay đổi chính sách nguyên tử sau hội nghị hạn chế sự phổ biến vũ khí nguyên tử vừa rồi nếu không muốn nói là cảnh giác hơn trước thái độ của Pháp và Trung quốc. Mực của bản văn hội nghị chưa khô Trung quốc và Pháp đã đua nhau thí nghiệm vũ khí nguyên tử . Trên nguyên tắc, càng ít nước có vũ khí nguyên tử càng tốt nhưng chỉ tốt khi nào các nước khác không thể tự trang bị vũ khí nguyên tử, và các nước có vũ khí nguyên tử đồng thành tâm hủy bỏ các kho vũ khí của mình .
Tình trạng thế giới hôm nay không vậy. Nhiều nước, ngoài 5 nước chính thức, đã có vũ khí nguyên tử nhưng chưa công nhận . Nhiều nước khác có kiến thức khoa học và khả năng kỹ thuật để chế tạo vũ khí nguyên tử nhưng chưa chế tạo. Vì vậy sự hạn chế là vô phương và trở nên nguy hiểm. Thế giới hôm nay trở nên đa cực, sự thủ đắc vũ khí nguyên tử cũng cần đa phương. Đồng thuận một công thức đa phương nguyên tử phản ánh thực trạng của thế giới còn ít nguy hiểm hơn duy trì hiện trạng một cách gượng gạo .
Trước bối cảnh đó một sự tính toán cho riêng mình không phải là điều không hữu lý nói về lâu về dài. Việt Nam cũng có lý do để nghĩ đến vũ khí nguyên tử hơn bất cứ một quốc gia nào khác. Bên cạnh anh khổng lồ Trung quốc nhiều tham vọng có vũ khí nguyên tử chỉ chực nuốt lấy tài nguyên của mình bằng sức mạnh Việt Nam phải chuẩn bị cái gì để tự bảo vệ. Và phải chăng đó là tiến trình suy tư của các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay. Sau khi Vietnam News tiết lộ kế hoạch thiết lập lò điên nguyên tử, ngày 21 tháng 4, 1995 đài BBC phỏng vấn ông Nguyễn Khuyến, chủ biên Vietnam News.
Ông Khuyến hơi lúng túng khi biện minh sự cần thiết của lò điện nguyên tử đối với Việt Nam. Theo ông Khuyến, thủy điện Việt Nam có nhưng không phải vô tận, các cơ sở nhiệt điện thì dầu hỏa không thiếu nhưng không sạch cho môi sinh. Khi được hỏi về kiến thức khoa học cần thiết ông Khuyến nói Việt Nam có nhiều khoa học gia từng theo học nguyên tử lực tại Liên bang Xô viết trước kia. Tuy nhiên có thể ông Khuyến trả lời cho qua chuyện.
Nhớ vụ lò nguyên tử của Liên bang Xô viết tại Chernobyl (gần Kiev, Ukraine) nổ tháng 4 năm 1986 làm hằng trăm người chết và hơn 135.000 người phải di tản mấy năm sau mới trở lại được và bụi phóng xạ rôi xuống nhiều vùng tại Âu châu đã sinh ra ung thư và hư thai và còn tiếp tục gây tác hại trong nhiều chục năm tới người ta không nghĩ Việt Nam sẽ tìm học kỹ thuật nguyên tử nơi Liên bang Nga . Theo tin tức, tháng 4 vừa rồi khi công du Nam Hàn, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã ngỏ ý muốn mua lò điện nguyên tử của Nam Hàn. Có lẽ Việt Nam sẽ tìm học kỹ thuật nguyên tử hiện đại tại các nước Á châu và trong khối dân chủ (dù Việt Nam nay chưa phải là một nước dân chủ ) Lò nguyên tử sản xuất điện lực là cơ sở tốt nhất để nghiên cứu và huấn luyên nhân sự cho ngành sản xuất vũ khí nguyên tử, và cũng là một cách điều chế nhiên liệu cho vũ khí nguyên tử .
Một cơ sở như Trung Tâm Nguyên Tử Lực trước kia ở Đà Lạt cũng là một cơ sở nghiên cứu tốt nhưng hình như sau năm 1975 chính quyền cộng sản không mấy lưu tâm cho nên dụng cụ trang bị và tài liệu nghiên cứu bị thất thoát, chuyên viên ngành nguyên tử lực của Việt Nam Công Hòa còn lại không được tin cậy, nhân viên mới thì không có khả năng và khi có chương trình đi lao động nước ngòai các nhân viên này đều được đi Đông Âu lao động như một đặc ân nên cơ sở này đã không đóng góp được gì trong sự phát huy khả năng hiểu biết về nguyên tử lực. Về phương diện khoa học và kỹ thuật ngành nguyên tử lực không phải là một ngành học khó nhất. \
Nguyên tắc tổng quát của bom nguyên tử thì hầu như ai cũng biết nhưng trở ngại là hiểu biết khoa học và kỹ thuật liên hệ không được phổ biến. Nhân (nucleus) của nguyên tử chất Uranium 238 (U-238) có 238 trung hòa tử (chất Plutonium 239 có 239 trung hòa tử trong nhân) ở một trạng thái ít cân bằng nên nếu được bắn bằng một trung hòa tử có tốc độ thích hợp nguyên tử U-238 có thể bị vỡ đôi làm tung tóe các trung hòa tử khác bay tứ tung như những viên đạn trung hòa tử khác . Khi một nguyên tử U-238 vỡ đôi vật chất bị thất thoát và tỏa ra một năng lượng lớn như công thức liên hệ giữa vật chất và năng lượng (E= mc2) của nhà bác học Einstein.
Mặc khác, các viên đạn trung hòa tử do sự vỡ đôi một nhân U-238 tạo thành, nếu đủ điều kiện sẽ có khả năng bắn vỡ các nguyên tử U-238 khác ở chung quanh và cứ thế tiếp tục thành phản ứng dây chuyền làm tiêu hao thanh Uranium và tỏa ra một khối năng lượng khổng lồ dưới hình thức nhiệt và sức ép, tạo ra hiện tượng nổ nguyên tử hay nôm na là bom nguyên tử. Vấn đề then chốt là làm thế nào để tạo ra phản ứng dây chuyền. Chất Uranium trong thiên nhiên là chất U-235 có nhân rất vững không thể bị bắn vỡ .
Chất U-238 có thể bị bắn vỡ chỉ chiếm 1 phần 140 trong U-235 thiên nhiên . Cho nên việc đầu tiên là lọc chất U-235 để tăng tỉ số chất U-238 lên mới có cơ may phá vỡ. Kỹ thuật lọc này (gọi là tinh chế - enrichment) rất cao và là một bí mật quốc phòng của các quốc gia có vũ khí nguyên tử. Nhưng có U-235 đủ lượng U-238 cũng chưa chắc sẽ có phản ứng dây chuyền nếu khối lượng và hình thù của khối Uranium bị bắn không thích hợp. Trong ngành vũ khí ngưòi ta gọi khối lượng này là “khối tới độ” (Critical mass).
Tính toán “khối tới độ” đòi hỏi những hiểu biết toán học cấp cao phức tạp và các công thức và phương pháp tính toán cũng còn là những bí mật quốc phòng. Một quốc gia muốn trang bị vũ khí nguyên tử phải tự giải quyết hai vấn đề kỹ thuật (tinh chế chất Uranium) và khoa học (tính toán “khối tới độ”) vì không ai chuyển nhượng các hiểu biết này nếu không muốn nói có thể bị thế giới trừng phạt. Với đà phát triển kinh tế hiện nay và óc khoa học thiên phú của người Việt, Việt Nam có thể tự giải quyết các vấn đề trên, nhưng đó không phải là con đường dễ đi.
Con đường qua các lò nguyên tử sản xuất điện lực dễ đi hơn. Các lò nguyên tử này sản xuất ra chất Plutonium 239 (P-239) có nhân không vững như chất U=238 và cũng có thể dùng để chế tạo bom nguyên tử. (Chúng ta không bàn đến bom khinh khí do hiện tượng đúc chảy các nguyên tử khinh khí dưới nhiệt độ cao do mộtquả bom nguyên tử nhỏ cung cấp.) Không biết các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam đang tính toán gì.
Nhưng trong tình hình thực tế hiện nay dù thỏa ước NPT được kéo dài vô hạn định thế giới vẫn “đồng sàng dị mộng”, và việc nhiều nước trên thế giới, ngoài 5 nước chính thức có vũ khí nguyên tử sẽ có vũ khí nguyên tử là điều thế nào cũng xẩy ra trong thập niên tới thì việc chuẩn bị để tự vệ là một việc hợp lý thôi./. (Tháng 7/1995)
**
Trần Bình Nam August 7, 2010 binhnam@sbcglobal.net www.tranbinhnam.com (1) “Do Thái và bom nguyên tử”
Trang nhà www.tranbinhnam.com tài liệu số 357– Bình Luận. Link: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/DoThaiVaBomNguyenTu.htm (2)
“Việt Nam đang nghĩ đến trang bị vũ khí nguyên tử” Tuyển Tập Bình Luận Chính Trị - Tập II 1995-1996, Trần Bình Nam, trang 93. (3) “U.S., Hanoi in Nuclear Talks”, by Jay Solomon, Wall Street Journal số ngày 3/8/2010
RFI * OBAMA & BIỂN ĐÔNG
Obama muốn ngăn chận sự bành trướng trên biển của Trung Quốc
Hải quân Trung Quốc tập trận trên Biển Đông cuối tháng 6/2010
© AFP/ Park Yeong-Dae
Hoa
Kỳ cố gắng chống lại những đòi hỏi về chủ quyền lãnh hải của Bắc
Kinh, bằng cách giúp đỡ các đồng minh trong khu vực. Đó là nội dung
của bài báo mang tựa đề «Obama muốn ngăn chận sự bành trướng trên biển
của Trung Quốc», của đặc phái viên nhật báo Le Figaro tại Washington.
Tác
giả nhận xét, sau khi ông Obama đăng quang vào đầu năm 2009, một vị
tổng thống Mỹ đậm chất « Á châu » nhất từ trước đến nay, nhiều nhà phân
tích của Washington cho rằng, thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 sẽ chứng
kiến một thế giới lưỡng cực Mỹ - Trung, được gọi là Chinamerica. Được
dựa trên một lý thuyết thuần kinh tế, quan niệm này đang vỡ vụn qua
thực tại ở châu Á.
Đối với nước Mỹ, có hai vấn đề. Một là cần
phải thừa nhận sức mạnh kinh tế tài chính ngày càng tăng của Trung
Quốc, và như vậy phải chấp nhận G20 là một diễn đàn của các vấn đề toàn
cầu, nâng cao vai trò của Trung Quốc tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Mặt
khác, phải để cho Bắc Kinh đóng vai trò lãnh đạo chính trị tại vùng
Viễn Đông – khu vực đang là đầu tàu của nền kinh tế thế giới, và Hoa Kỳ
đang có các đồng minh thân thiết. Nhưng vào tháng bảy vừa qua, chính
quyền ông Obama đã phát ra các tín hiệu cho thấy Mỹ không có ý định
ngó lơ tình hình khu vực này.
Bài báo nêu ra vụ tàu Cheonan của
Hàn Quốc, đồng minh của Mỹ từ thập niên 50, bị ngư lôi Bắc Triều Tiên
bắn chìm làm 46 thủy thủ thiệt mạng. Tuy các nhà lãnh đạo Bắc Kinh vẫn
coi chế độ Bình Nhưỡng là một chế độ « hơi điên khùng », nhưng vẫn
không muốn khuyên giải, cho dù Bắc Kinh dư sức gây áp lực. Cuộc tập
trận chung Mỹ - Hàn vừa qua là một thông điệp cứng rắn gởi đến Bình
Nhưỡng. Lập tức Bắc Triều Tiên đe dọa sẽ đáp trả « bọn đế quốc » bằng
vũ khí hạt nhân. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giữ thái độ bình tĩnh, thậm chí
dửng dưng trước lời đe dọa này. Nhưng ngược lại, sự phản kháng của
Trung Quốc tuy lời lẽ ít hiếu chiến hơn, nhưng phía Mỹ lại coi là
nghiêm trọng hơn.
Do còn nể mặt Bắc Kinh, nên cuộc tập trận
chung Mỹ - Hàn chỉ diễn ra ở vùng biển Nhật Bản, tránh vùng biển Hoàng
Hải gần lãnh hải Trung Quốc. Nhưng các tuyên bố công khai đầy ngạo
mạn của Bắc Kinh đã khiến Washington trở nên cứng rắn hơn. Hải quân
Hoa Kỳ vừa loan báo là sẽ tiến hành một cuộc tập trận trên biển thứ
hai, và lần này sẽ ngay tại hải phận quốc tế Hoàng Hải.
Tác giả
cũng nhận định, từ nhiều tháng qua Washington đã sử dụng một chính
sách ngoại giao khá tế nhị, nhằm kìm hãm tham vọng bá chủ của Trung
Quốc tại vùng biển Đông Nam Á, nơi giao thương phân nửa trọng tải hàng
hóa giao dịch của thế giới. Đối với Hoa Kỳ, các đòi hỏi về lãnh hải
của Trung Quốc là không thể nào chấp nhận được, và Hoàng Hải cũng như
Biển Đông không phải là Tây Tạng !
Le Figaro nhắc lại sự kiện
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đích thân tham dự Diễn đàn khu vực
ASEAN vừa qua. Và trước đoàn đại biểu Việt Nam không giấu được vẻ hài
lòng, bà Clinton đã tuyên bố không có quốc gia nào được tự cho mình sở
hữu đặc khu kinh tế trên biển, lấy cớ nhằm kiểm soát quân sự các hòn
đảo san hô không người ở là Hoàng Sa và Trường Sa.
Tờ báo nói
thêm, năm 1974 Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam
và năm 1988 đã dùng vũ lực chiếm các bãi đá ngầm tại quần đảo Trường
Sa, đánh chìm các tàu Việt Nam. Trận hải chiến này đã làm quan hệ
ngoại giao giữa hai chính phủ cộng sản « anh em » bị băng giá trong
suốt ba năm. Theo Le Figaro, bên cạnh quyền đánh cá ở vùng biển giàu
hải sản này, quan trọng nhất vẫn là nguồn dầu hỏa vốn được các nhà địa
chất Mỹ phát hiện vào năm 1968.
Le Figaro cũng chú ý đến chi
tiết, bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì, quá tức giận vì
bài phát biểu của bà Hillary Clinton, đã bỏ ra khỏi phòng họp cả
tiếng đồng hồ. Khi quay lại, ông ta đã hùng hồn lên án Hoa Kỳ xúi giục
các nước chống lại Trung Quốc, chế diễu « chế độ xã hội chủ nghĩa »
của Việt Nam, và nhìn thẳng vào mặt người đồng nhiệm Singapore khi
tuyên bố : « Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và
đây là một thực tế ».
Còn thứ ba tuần rồi, ông Đổng Vân Hổ, thứ
trưởng Thông tin Trung Quốc đã tuyên bố với báo Le Figaro là người Mỹ
chẳng việc gì phải can dự vào các tranh chấp lãnh hải trong một khu
vực chẳng phải thuộc về họ, nơi họ đã gây chiến trước đây, và mọi vấn
đề sẽ được giải quyết một cách hòa bình « giữa những người châu Á với
nhau ».
Tác giả nhắc lại rằng, trong thập niên 30 người Nhật
cũng đã từng hùng biện là người da trắng chẳng nên can dự vào châu Á,
nơi sẽ xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng, và kết quả ra sao thì ai
cũng rõ.
*
Các báo
Pháp hôm nay chú ý nhiều đến tình hình nội bộ. Le Monde hoan nghênh
quyết định của Hội đồng Bảo hiến, xem các điều khoản chủ yếu trong đạo
luật quy định các thủ tục hình sự liên quan đến việc câu lưu là « vi
hiến ». Về mặt an ninh, nhật báo cánh tả Libération đả kích các biện
pháp do chính phủ đề nghị như ấn định các tiêu chuẩn mới cho việc
truất quyền công dân, án tù giam dành cho cha mẹ trẻ vị thành niên phạm
tội…là quá đáng, quá thiên hữu. Tờ báo cộng sản L’Humanité nhấn mạnh «
Nền cộng hòa bị tổng thống đe dọa » và cho rằng chính phủ đang lấn
sang mảnh đất của phe cực hữu, còn tờ báo cánh hữu Le Figaro nhận xét «
Phe hữu tiến công, phe tả phẫn nộ ».
Sự kiện Albi thuộc vùng
Tarn của Pháp, thành phố công giáo thời Trung cổ được xây bằng gạch
nung, có diện tích khoảng hai chục hecta, vừa được Unesco công nhận là
di sản văn hóa thế giới (cùng với 15 di sản khác, trong đó có Hoàng
thành Thăng Long của Việt Nam) được hầu hết các báo đưa tin. Một tin
vui khác nữa là thành công của đoàn vận động viên Pháp trong giải vô
địch điền kinh châu Âu mới đây.
*
Quay
lại Trung Quốc, nhật báo Le Monde viết về Hàn Hàn, một blogger nổi
tiếng mới 28 tuổi, chủ nhân một blog được xem là nhiều người đọc nhất
thế giới, với lượng truy cập cho tới nay lên đến 400 triệu. Trong cuộc
bình chọn qua mạng về các nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới do tạp
chí Time tổ chức vào cuối tháng tư, anh được các fan đẩy lên hàng thứ
hai.
Không chỉ là nhà văn, Hàn Hàn còn là ca sĩ và tay đua xe có
hạng, được các cô gái và các nhà ly khai rất hâm mộ. Cho dù là ngôi
sao nhạc pop, đôi khi blog của anh cũng bị kiểm duyệt. Hàn Hàn đã phát
biểu trong một cuộc hội thảo ở một trường đại học : « Bạn có biết tại
sao Trung Quốc không thể trở thành một cường quốc văn hóa hay không ?
Bởi vì chúng ta phải bắt đầu mỗi bài diễn văn bằng câu « Các đồng chí
lãnh đạo kính mến », mà các vị lãnh đạo ấy chẳng có văn hóa gì cả và
họ cũng cảnh giác với văn hóa, kiểm duyệt và kiểm soát văn hóa ». Về
các vụ tự tử ở hãng Foxconn, anh viết : « Vì sao các chính khách của
chúng ta có thể diễu hành ngẩng cao đầu trên trường quốc tế ? Đó là
nhờ mỗi người trong các bạn, những lao động giá rẻ mạt. Chủ nghĩa xã
hội theo kiểu Trung Quốc của chúng ta có là chủ nghĩa tư bản kiểu
phong kiến hay không, điều đó không quan trọng các bạn trẻ ạ, bạn
không có giải pháp nào khác. Cũng thật đáng tiếc khi bầu máu nóng
trong tim ta phải vung vãi trên mặt đường nhựa… ».
Nhìn sang
nước láng giềng với Việt Nam là Lào, nhật báo công giáo La Croix có
bài viết mang tựa đề « Hiệp ước Oslo về bom chùm đã mang lại niềm hy
vọng cho Lào ».
Đặc phái viên của La Croix tại Vientiane và
Phonsavan cho biết, Lào là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất của loại bom
này. Từ năm 1964 đến 1973, Mỹ đã thả 270 triệu bom chùm xuống nước
Lào, và vùng đông bắc lãnh nhiều bom nhất. Không quân Hoa Kỳ vừa tấn
công lực lượng cách mạng Lào, vừa muốn cắt đường tiếp tế của Bắc Việt
cho bộ đội xâm nhập vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.
Người
ta ước lượng khoảng một phần ba số bom này chưa nổ, chúng trông giống
những quả banh tennis với đủ màu sắc hấp dẫn, và một phần tư số nạn
nhân của bom chùm tại Lào là trẻ em, đa số là các bé trai. Cho dù
lượng tai nạn có giảm, nhưng hàng năm vẫn có khoảng 300 người dẫm phải
bom mìn.
Khi ký kết hiệp ước Oslo, Lào hy vọng sẽ nhận được
viện trợ nhiều hơn cho việc tháo gỡ bom mìn và giúp đỡ các nạn nhân.
Theo một nhà tư vấn, từ năm 93 Washington đã việc trợ cho Lào 40 triệu
đô la để làm các công tác trên, nhưng thời chiến tranh, trong suốt 9
năm Mỹ đã chi 17 triệu đô la mỗi ngày để oanh tạc nước này.
Hải quân Trung Quốc tập trận trên Biển Đông cuối tháng 6/2010
© AFP/ Park Yeong-Dae
Tác
giả nhận xét, sau khi ông Obama đăng quang vào đầu năm 2009, một vị
tổng thống Mỹ đậm chất « Á châu » nhất từ trước đến nay, nhiều nhà phân
tích của Washington cho rằng, thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 sẽ chứng
kiến một thế giới lưỡng cực Mỹ - Trung, được gọi là Chinamerica. Được
dựa trên một lý thuyết thuần kinh tế, quan niệm này đang vỡ vụn qua
thực tại ở châu Á.
Đối với nước Mỹ, có hai vấn đề. Một là cần phải thừa nhận sức mạnh kinh tế tài chính ngày càng tăng của Trung Quốc, và như vậy phải chấp nhận G20 là một diễn đàn của các vấn đề toàn cầu, nâng cao vai trò của Trung Quốc tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Mặt khác, phải để cho Bắc Kinh đóng vai trò lãnh đạo chính trị tại vùng Viễn Đông – khu vực đang là đầu tàu của nền kinh tế thế giới, và Hoa Kỳ đang có các đồng minh thân thiết. Nhưng vào tháng bảy vừa qua, chính quyền ông Obama đã phát ra các tín hiệu cho thấy Mỹ không có ý định ngó lơ tình hình khu vực này.
Bài báo nêu ra vụ tàu Cheonan của Hàn Quốc, đồng minh của Mỹ từ thập niên 50, bị ngư lôi Bắc Triều Tiên bắn chìm làm 46 thủy thủ thiệt mạng. Tuy các nhà lãnh đạo Bắc Kinh vẫn coi chế độ Bình Nhưỡng là một chế độ « hơi điên khùng », nhưng vẫn không muốn khuyên giải, cho dù Bắc Kinh dư sức gây áp lực. Cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn vừa qua là một thông điệp cứng rắn gởi đến Bình Nhưỡng. Lập tức Bắc Triều Tiên đe dọa sẽ đáp trả « bọn đế quốc » bằng vũ khí hạt nhân. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giữ thái độ bình tĩnh, thậm chí dửng dưng trước lời đe dọa này. Nhưng ngược lại, sự phản kháng của Trung Quốc tuy lời lẽ ít hiếu chiến hơn, nhưng phía Mỹ lại coi là nghiêm trọng hơn.
Do còn nể mặt Bắc Kinh, nên cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn chỉ diễn ra ở vùng biển Nhật Bản, tránh vùng biển Hoàng Hải gần lãnh hải Trung Quốc. Nhưng các tuyên bố công khai đầy ngạo mạn của Bắc Kinh đã khiến Washington trở nên cứng rắn hơn. Hải quân Hoa Kỳ vừa loan báo là sẽ tiến hành một cuộc tập trận trên biển thứ hai, và lần này sẽ ngay tại hải phận quốc tế Hoàng Hải.
Tác giả cũng nhận định, từ nhiều tháng qua Washington đã sử dụng một chính sách ngoại giao khá tế nhị, nhằm kìm hãm tham vọng bá chủ của Trung Quốc tại vùng biển Đông Nam Á, nơi giao thương phân nửa trọng tải hàng hóa giao dịch của thế giới. Đối với Hoa Kỳ, các đòi hỏi về lãnh hải của Trung Quốc là không thể nào chấp nhận được, và Hoàng Hải cũng như Biển Đông không phải là Tây Tạng !
Le Figaro nhắc lại sự kiện Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đích thân tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN vừa qua. Và trước đoàn đại biểu Việt Nam không giấu được vẻ hài lòng, bà Clinton đã tuyên bố không có quốc gia nào được tự cho mình sở hữu đặc khu kinh tế trên biển, lấy cớ nhằm kiểm soát quân sự các hòn đảo san hô không người ở là Hoàng Sa và Trường Sa.
Tờ báo nói thêm, năm 1974 Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam và năm 1988 đã dùng vũ lực chiếm các bãi đá ngầm tại quần đảo Trường Sa, đánh chìm các tàu Việt Nam. Trận hải chiến này đã làm quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ cộng sản « anh em » bị băng giá trong suốt ba năm. Theo Le Figaro, bên cạnh quyền đánh cá ở vùng biển giàu hải sản này, quan trọng nhất vẫn là nguồn dầu hỏa vốn được các nhà địa chất Mỹ phát hiện vào năm 1968.
Le Figaro cũng chú ý đến chi tiết, bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì, quá tức giận vì bài phát biểu của bà Hillary Clinton, đã bỏ ra khỏi phòng họp cả tiếng đồng hồ. Khi quay lại, ông ta đã hùng hồn lên án Hoa Kỳ xúi giục các nước chống lại Trung Quốc, chế diễu « chế độ xã hội chủ nghĩa » của Việt Nam, và nhìn thẳng vào mặt người đồng nhiệm Singapore khi tuyên bố : « Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và đây là một thực tế ».
Còn thứ ba tuần rồi, ông Đổng Vân Hổ, thứ trưởng Thông tin Trung Quốc đã tuyên bố với báo Le Figaro là người Mỹ chẳng việc gì phải can dự vào các tranh chấp lãnh hải trong một khu vực chẳng phải thuộc về họ, nơi họ đã gây chiến trước đây, và mọi vấn đề sẽ được giải quyết một cách hòa bình « giữa những người châu Á với nhau ».
Tác giả nhắc lại rằng, trong thập niên 30 người Nhật cũng đã từng hùng biện là người da trắng chẳng nên can dự vào châu Á, nơi sẽ xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng, và kết quả ra sao thì ai cũng rõ.
Sự kiện Albi thuộc vùng Tarn của Pháp, thành phố công giáo thời Trung cổ được xây bằng gạch nung, có diện tích khoảng hai chục hecta, vừa được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới (cùng với 15 di sản khác, trong đó có Hoàng thành Thăng Long của Việt Nam) được hầu hết các báo đưa tin. Một tin vui khác nữa là thành công của đoàn vận động viên Pháp trong giải vô địch điền kinh châu Âu mới đây.
Không chỉ là nhà văn, Hàn Hàn còn là ca sĩ và tay đua xe có hạng, được các cô gái và các nhà ly khai rất hâm mộ. Cho dù là ngôi sao nhạc pop, đôi khi blog của anh cũng bị kiểm duyệt. Hàn Hàn đã phát biểu trong một cuộc hội thảo ở một trường đại học : « Bạn có biết tại sao Trung Quốc không thể trở thành một cường quốc văn hóa hay không ? Bởi vì chúng ta phải bắt đầu mỗi bài diễn văn bằng câu « Các đồng chí lãnh đạo kính mến », mà các vị lãnh đạo ấy chẳng có văn hóa gì cả và họ cũng cảnh giác với văn hóa, kiểm duyệt và kiểm soát văn hóa ». Về các vụ tự tử ở hãng Foxconn, anh viết : « Vì sao các chính khách của chúng ta có thể diễu hành ngẩng cao đầu trên trường quốc tế ? Đó là nhờ mỗi người trong các bạn, những lao động giá rẻ mạt. Chủ nghĩa xã hội theo kiểu Trung Quốc của chúng ta có là chủ nghĩa tư bản kiểu phong kiến hay không, điều đó không quan trọng các bạn trẻ ạ, bạn không có giải pháp nào khác. Cũng thật đáng tiếc khi bầu máu nóng trong tim ta phải vung vãi trên mặt đường nhựa… ».
Nhìn sang nước láng giềng với Việt Nam là Lào, nhật báo công giáo La Croix có bài viết mang tựa đề « Hiệp ước Oslo về bom chùm đã mang lại niềm hy vọng cho Lào ».
Đặc phái viên của La Croix tại Vientiane và Phonsavan cho biết, Lào là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất của loại bom này. Từ năm 1964 đến 1973, Mỹ đã thả 270 triệu bom chùm xuống nước Lào, và vùng đông bắc lãnh nhiều bom nhất. Không quân Hoa Kỳ vừa tấn công lực lượng cách mạng Lào, vừa muốn cắt đường tiếp tế của Bắc Việt cho bộ đội xâm nhập vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.
Người ta ước lượng khoảng một phần ba số bom này chưa nổ, chúng trông giống những quả banh tennis với đủ màu sắc hấp dẫn, và một phần tư số nạn nhân của bom chùm tại Lào là trẻ em, đa số là các bé trai. Cho dù lượng tai nạn có giảm, nhưng hàng năm vẫn có khoảng 300 người dẫm phải bom mìn.
Khi ký kết hiệp ước Oslo, Lào hy vọng sẽ nhận được viện trợ nhiều hơn cho việc tháo gỡ bom mìn và giúp đỡ các nạn nhân. Theo một nhà tư vấn, từ năm 93 Washington đã việc trợ cho Lào 40 triệu đô la để làm các công tác trên, nhưng thời chiến tranh, trong suốt 9 năm Mỹ đã chi 17 triệu đô la mỗi ngày để oanh tạc nước này.
Đối với nước Mỹ, có hai vấn đề. Một là cần phải thừa nhận sức mạnh kinh tế tài chính ngày càng tăng của Trung Quốc, và như vậy phải chấp nhận G20 là một diễn đàn của các vấn đề toàn cầu, nâng cao vai trò của Trung Quốc tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Mặt khác, phải để cho Bắc Kinh đóng vai trò lãnh đạo chính trị tại vùng Viễn Đông – khu vực đang là đầu tàu của nền kinh tế thế giới, và Hoa Kỳ đang có các đồng minh thân thiết. Nhưng vào tháng bảy vừa qua, chính quyền ông Obama đã phát ra các tín hiệu cho thấy Mỹ không có ý định ngó lơ tình hình khu vực này.
Bài báo nêu ra vụ tàu Cheonan của Hàn Quốc, đồng minh của Mỹ từ thập niên 50, bị ngư lôi Bắc Triều Tiên bắn chìm làm 46 thủy thủ thiệt mạng. Tuy các nhà lãnh đạo Bắc Kinh vẫn coi chế độ Bình Nhưỡng là một chế độ « hơi điên khùng », nhưng vẫn không muốn khuyên giải, cho dù Bắc Kinh dư sức gây áp lực. Cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn vừa qua là một thông điệp cứng rắn gởi đến Bình Nhưỡng. Lập tức Bắc Triều Tiên đe dọa sẽ đáp trả « bọn đế quốc » bằng vũ khí hạt nhân. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giữ thái độ bình tĩnh, thậm chí dửng dưng trước lời đe dọa này. Nhưng ngược lại, sự phản kháng của Trung Quốc tuy lời lẽ ít hiếu chiến hơn, nhưng phía Mỹ lại coi là nghiêm trọng hơn.
Do còn nể mặt Bắc Kinh, nên cuộc tập trận chung Mỹ - Hàn chỉ diễn ra ở vùng biển Nhật Bản, tránh vùng biển Hoàng Hải gần lãnh hải Trung Quốc. Nhưng các tuyên bố công khai đầy ngạo mạn của Bắc Kinh đã khiến Washington trở nên cứng rắn hơn. Hải quân Hoa Kỳ vừa loan báo là sẽ tiến hành một cuộc tập trận trên biển thứ hai, và lần này sẽ ngay tại hải phận quốc tế Hoàng Hải.
Tác giả cũng nhận định, từ nhiều tháng qua Washington đã sử dụng một chính sách ngoại giao khá tế nhị, nhằm kìm hãm tham vọng bá chủ của Trung Quốc tại vùng biển Đông Nam Á, nơi giao thương phân nửa trọng tải hàng hóa giao dịch của thế giới. Đối với Hoa Kỳ, các đòi hỏi về lãnh hải của Trung Quốc là không thể nào chấp nhận được, và Hoàng Hải cũng như Biển Đông không phải là Tây Tạng !
Le Figaro nhắc lại sự kiện Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đích thân tham dự Diễn đàn khu vực ASEAN vừa qua. Và trước đoàn đại biểu Việt Nam không giấu được vẻ hài lòng, bà Clinton đã tuyên bố không có quốc gia nào được tự cho mình sở hữu đặc khu kinh tế trên biển, lấy cớ nhằm kiểm soát quân sự các hòn đảo san hô không người ở là Hoàng Sa và Trường Sa.
Tờ báo nói thêm, năm 1974 Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa của miền Nam Việt Nam và năm 1988 đã dùng vũ lực chiếm các bãi đá ngầm tại quần đảo Trường Sa, đánh chìm các tàu Việt Nam. Trận hải chiến này đã làm quan hệ ngoại giao giữa hai chính phủ cộng sản « anh em » bị băng giá trong suốt ba năm. Theo Le Figaro, bên cạnh quyền đánh cá ở vùng biển giàu hải sản này, quan trọng nhất vẫn là nguồn dầu hỏa vốn được các nhà địa chất Mỹ phát hiện vào năm 1968.
Le Figaro cũng chú ý đến chi tiết, bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì, quá tức giận vì bài phát biểu của bà Hillary Clinton, đã bỏ ra khỏi phòng họp cả tiếng đồng hồ. Khi quay lại, ông ta đã hùng hồn lên án Hoa Kỳ xúi giục các nước chống lại Trung Quốc, chế diễu « chế độ xã hội chủ nghĩa » của Việt Nam, và nhìn thẳng vào mặt người đồng nhiệm Singapore khi tuyên bố : « Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và đây là một thực tế ».
Còn thứ ba tuần rồi, ông Đổng Vân Hổ, thứ trưởng Thông tin Trung Quốc đã tuyên bố với báo Le Figaro là người Mỹ chẳng việc gì phải can dự vào các tranh chấp lãnh hải trong một khu vực chẳng phải thuộc về họ, nơi họ đã gây chiến trước đây, và mọi vấn đề sẽ được giải quyết một cách hòa bình « giữa những người châu Á với nhau ».
Tác giả nhắc lại rằng, trong thập niên 30 người Nhật cũng đã từng hùng biện là người da trắng chẳng nên can dự vào châu Á, nơi sẽ xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng, và kết quả ra sao thì ai cũng rõ.
*
Các báo
Pháp hôm nay chú ý nhiều đến tình hình nội bộ. Le Monde hoan nghênh
quyết định của Hội đồng Bảo hiến, xem các điều khoản chủ yếu trong đạo
luật quy định các thủ tục hình sự liên quan đến việc câu lưu là « vi
hiến ». Về mặt an ninh, nhật báo cánh tả Libération đả kích các biện
pháp do chính phủ đề nghị như ấn định các tiêu chuẩn mới cho việc
truất quyền công dân, án tù giam dành cho cha mẹ trẻ vị thành niên phạm
tội…là quá đáng, quá thiên hữu. Tờ báo cộng sản L’Humanité nhấn mạnh «
Nền cộng hòa bị tổng thống đe dọa » và cho rằng chính phủ đang lấn
sang mảnh đất của phe cực hữu, còn tờ báo cánh hữu Le Figaro nhận xét «
Phe hữu tiến công, phe tả phẫn nộ ».Sự kiện Albi thuộc vùng Tarn của Pháp, thành phố công giáo thời Trung cổ được xây bằng gạch nung, có diện tích khoảng hai chục hecta, vừa được Unesco công nhận là di sản văn hóa thế giới (cùng với 15 di sản khác, trong đó có Hoàng thành Thăng Long của Việt Nam) được hầu hết các báo đưa tin. Một tin vui khác nữa là thành công của đoàn vận động viên Pháp trong giải vô địch điền kinh châu Âu mới đây.
*
Quay
lại Trung Quốc, nhật báo Le Monde viết về Hàn Hàn, một blogger nổi
tiếng mới 28 tuổi, chủ nhân một blog được xem là nhiều người đọc nhất
thế giới, với lượng truy cập cho tới nay lên đến 400 triệu. Trong cuộc
bình chọn qua mạng về các nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới do tạp
chí Time tổ chức vào cuối tháng tư, anh được các fan đẩy lên hàng thứ
hai.Không chỉ là nhà văn, Hàn Hàn còn là ca sĩ và tay đua xe có hạng, được các cô gái và các nhà ly khai rất hâm mộ. Cho dù là ngôi sao nhạc pop, đôi khi blog của anh cũng bị kiểm duyệt. Hàn Hàn đã phát biểu trong một cuộc hội thảo ở một trường đại học : « Bạn có biết tại sao Trung Quốc không thể trở thành một cường quốc văn hóa hay không ? Bởi vì chúng ta phải bắt đầu mỗi bài diễn văn bằng câu « Các đồng chí lãnh đạo kính mến », mà các vị lãnh đạo ấy chẳng có văn hóa gì cả và họ cũng cảnh giác với văn hóa, kiểm duyệt và kiểm soát văn hóa ». Về các vụ tự tử ở hãng Foxconn, anh viết : « Vì sao các chính khách của chúng ta có thể diễu hành ngẩng cao đầu trên trường quốc tế ? Đó là nhờ mỗi người trong các bạn, những lao động giá rẻ mạt. Chủ nghĩa xã hội theo kiểu Trung Quốc của chúng ta có là chủ nghĩa tư bản kiểu phong kiến hay không, điều đó không quan trọng các bạn trẻ ạ, bạn không có giải pháp nào khác. Cũng thật đáng tiếc khi bầu máu nóng trong tim ta phải vung vãi trên mặt đường nhựa… ».
Nhìn sang nước láng giềng với Việt Nam là Lào, nhật báo công giáo La Croix có bài viết mang tựa đề « Hiệp ước Oslo về bom chùm đã mang lại niềm hy vọng cho Lào ».
Đặc phái viên của La Croix tại Vientiane và Phonsavan cho biết, Lào là nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất của loại bom này. Từ năm 1964 đến 1973, Mỹ đã thả 270 triệu bom chùm xuống nước Lào, và vùng đông bắc lãnh nhiều bom nhất. Không quân Hoa Kỳ vừa tấn công lực lượng cách mạng Lào, vừa muốn cắt đường tiếp tế của Bắc Việt cho bộ đội xâm nhập vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.
Người ta ước lượng khoảng một phần ba số bom này chưa nổ, chúng trông giống những quả banh tennis với đủ màu sắc hấp dẫn, và một phần tư số nạn nhân của bom chùm tại Lào là trẻ em, đa số là các bé trai. Cho dù lượng tai nạn có giảm, nhưng hàng năm vẫn có khoảng 300 người dẫm phải bom mìn.
Khi ký kết hiệp ước Oslo, Lào hy vọng sẽ nhận được viện trợ nhiều hơn cho việc tháo gỡ bom mìn và giúp đỡ các nạn nhân. Theo một nhà tư vấn, từ năm 93 Washington đã việc trợ cho Lào 40 triệu đô la để làm các công tác trên, nhưng thời chiến tranh, trong suốt 9 năm Mỹ đã chi 17 triệu đô la mỗi ngày để oanh tạc nước này.
RFI * PHỎNG VẤN DƯƠNG DANH DY
Thứ năm 29 Tháng Bẩy 2010
Không nên coi nhẹ phái diều hâu tại Trung Quốc - Dương Danh Dy
Hàng không mẫu hạm Trung Quốc (DR) Đức Tâm
Trong
những ngày vừa qua, Trung Quốc đã có phản ứng
gay gắt trước lời kêu gọi của Hiệp hội Đông
Nam Á – ASEAN - và Hoa Kỳ cần phải tôn trọng
quyền tự do thông thương đường biển và trên
không tại vùng Biển Đông. Bắc Kinh phản đối quốc
tế hóa và chủ trương giải quyết vấn đề Biển Đông trong
khuôn khổ song phương. Giới
phân tích cho rằng chính sách bành trướng bá
quyền của Trung Quốc tại Biển Đông đã thúc đẩy
ASEAN phải có lập truờng chung và hợp tác với
Mỹ để đối phó. Cũng chính những ý đồ của
Trung Quốc muốn kiểm soát, khống chế Biển Đông, hạn chế
các hoạt động quân sự của Mỹ ở vùng biển quốc tế đã buộc
Hoa Kỳ phải quan tâm trở lại khu vực này.
Đằng
sau những tuyên bố mạnh mẽ như vậy, Bắc Kinh
có thể phản ứng tới mức độ nào ? Theo ông
Dương Danh Dy, chuyên gia về Trung Quốc, thì
không nên coi nhẹ phái hiếu chiến tại Trung
Quốc. Khi nói đến vai trò quan trọng của Hoa Kỳ trong hồ
sơ Biển Đông, ông nêu ra hai suy nghĩ : thứ nhất là một
số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, tỏ ra
thận trọng về thái độ của Mỹ đối với Trung
Quốc. Vấn đề thứ hai là dường như người Mỹ
chưa thực sự hiểu được giới lãnh đạo Trung
Quốc. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn chuyên gia Dương Danh Dy.
RFI
: Xin chào chuyên gia Dương Danh Dy, tại Hội
nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 43 cũng như
trên Diễn đàn an ninh khu vực ARF vừa được tổ
chức trong tuần trước tại Hà Nội, các nước Đông
Nam Á và Hoa Kỳ đều khẳng định quyền tự do
thông thương trên biển và trên không tại vùng
Biển Đông. Thậm chí, ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary
Clinton còn nhấn mạnh là việc giải quyết các tranh chấp
về chủ quyền tại Biển Đông có vai trò then chốt trong
việc bảo đảm ổn định trong khu vực. Phải chăng lần
này, do thái độ hung hăng của Trung Quốc tại
khu vực Biển Đông đã buộc cả ASEAN và Mỹ phải
lên tiếng và bày tỏ thái độ ?
Chuyên gia Dương Danh Dy
: Tôi nghĩ, câu hỏi đã nói rõ phần nào rồi.
Nhưng tôi xin nói thêm. Thái độ của Trung Quốc
đối với Biển Đông bắt đầu chuyển biến từ tháng hai,
tháng ba năm 2009 đã có những biến chuyển xấu, như
chuyện họ thành lập đoàn tàu ngư chính đi tuần tra hải
đảo, xua đuổi ngư dân các nước, đâm vỡ tàu các
nước.
Nhưng bắt đầu từ tháng ba năm 2010, có
một số sự kiện mà tôi nhắc lại đây để các độc
giả, thính giả của RFI và các bạn khác ở trên
thế giới biết rằng ngày mồng một tháng ba năm
2010, luật bảo vệ hải đảo nước CHND Trung Hoa
chính thức được thực thi. Phân cục Biển Đông
cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, cục Hải dương và
nghề cá tỉnh Quảng Đông đã quy hoạch bảo vệ tỉnh Quảng
Đông đã hoàn thành bản thảo đầu tiên và báo cáo lên
trên, trong đó có việc công khai đấu thầu quyền sử
dụng một hai hòn đảo không có người ở thuộc
tỉnh này.
Tôi đã cảnh báo tin này.
Nhưng hình như dư luận thế giới không chú ý
tin này lắm. Và gần đây tỉnh Hải Nam cũng đề xuất
vấn đề trên, Quảng Đông không liên quan đến Biển Đông
nhưng Hải Nam thì động chạm trực tiếp tới các nước có
liên quan rồi.
Cũng trong tháng ba, Trung Quốc
đã ngầm nói với James Steinberg (thứ trưởng
Ngọai giao Mỹ) rằng Trung Quốc đặt Biển Đông
là khu vực lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Lúc
đó, họ chỉ nói ngầm thôi. Nhưng đến ngày
13/07/2010, Tần Cương, người phát ngôn bộ Ngoại
giao Trung Quốc mới đưa ra định nghĩa rõ ràng : Chủ
quyền, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích phát triển
quốc gia đều thuộc lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Trước
đây, Trung Quốc chỉ quy định Đài Loan, Tây
Tạng, Tân Cương là lợi ích cốt lõi của họ. Và
bây giờ Biển Đông đã được nhà cầm quyền Trung
Quốc tuyên bố cũng thuộc phạm vi trên.
Đây
là lần đầu tiên, Biển Đông được Bắc Kinh chính
thức coi là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Cần
phải thấy, từ ngữ « cốt lõi » ẩn chứa hàm nghĩa khi lợi
ích này bị xâm phạm thì Trung Quốc sẽ dùng vũ lực để bảo
vệ. Rõ ràng là Trung Quốc đã và đang có sự
chuẩn bị ráo riết về các mặt cho công việc
này.
Cho nên trước thái độ hung
hăng, ngang ngược, bá quyền của Trung Quốc như
vậy ở Biển Đông, tất nhiên, các nước ASEAN và cả người
Mỹ nữa phải có một sự nhìn nhận lại và thấy rằng không
thể không tìm cách, không có biện pháp để đối phó
với ý đồ bành trướng, bá quyền
đó.
RFI : Cách nay vài
ngày, Trung Quốc đã có phản ứng về những đề nghị của
ASEAN và của Mỹ cần phải tiến hành đàm phán
và giải quyết hòa bình và cần phải tôn trọng
quyền tự do thông thương đường biển, trên
không ở khu vực Biển Đông. Trung Quốc phản đối
việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Anh nhận
định thế nào về phản ứng của Trung Quốc, liệu Trung
Quốc dám dùng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình hay
không ?
Chuyên gia Dương Danh Dy
: Tôi xin nói thẳng rằng người Trung Quốc đã
sẵn sàng. Trong một bài viết cách đây cũng khá
lâu, tôi đã cung cấp thông tin là 92% dân mạng Trung
Quốc đồng ý dùng vũ lực để giải quyết những tranh chấp ở
Biển Đông. Lúc đó, dân mạng có khoảng 380 triệu.
Hiện nay là 420 triệu. 90% của 400 triệu tức
là có khoảng 360 triệu dân mạng Trung Quốc sẵn
sàng. Dân mạng Trung Quốc, theo tôi, phần
đông là những người trẻ, có tri thức, có hiểu
biết mà họ còn quan niệm như vậy.
Gần đây, ông
Lương Quang Liệt, bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, trong
một buổi phát biểu nội bộ, đã nói rằng chúng ta phải
sẵn sàng cả hai tay. Cả hòa bình, cả chiến
tranh và tay nào cũng phải cứng. Cho nên,
chuyện Trung Quốc dùng vũ lực ở Biển Đông
không phải là chuyện có thể mà khả năng chắc
chắn có thể xẩy ra nếu như tham vọng bành trướng và bá
quyền của Trung Quốc ở Biển Đông không bị ngăn
chặn.
Quay lại Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển
Đông mà ASEAN ký với CHND Trung Hoa năm 2002,
tôi phải nói thẳng là những người lãnh đạo
ASEAN lúc đó đã có cái nhìn khá xa về âm mưu
của Trung Quốc ở Biển Đông. Cho nên, trong
điều 5 có viết là các bên cam kết tự kiềm chế,
không tiến hành các hoạt động làm phức tạp và gia
tăng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định, v.v.
kể cả không tiến hành các hoạt động đưa người đến sinh
sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm,
dải đá ngầm và những cấu trúc khác hiện chưa
có người sinh sống.
Như vậy, ngay
từ năm 2002, người ta đã dự tính đến chuyện
này và đến năm 2010, cái điều mà Tuyên bố ứng
xử đã đề phòng, e ngại, thì bây giờ xẩy ra. Trung Quốc
công khai tuyên bố là họ sẽ bán đấu thầu quyền sử dụng
những đảo không có người ở tại Biển
Đông.
RFI : Đứng trước
phản ứng dữ dội và quyết liệt của Trung Quốc liên quan
đến vấn đề Biển Đông, theo anh nhận định thì
Mỹ sẽ có thái độ ra sao ?
Chuyên gia Dương Danh Dy
: Vừa rồi, người ta cứ nói là ASEAN đoàn kết,
rồi Mỹ trở lại. Nói rất nhiều về chuyện này.
Theo tôi, đúng là nội bộ ASEAN là một khối đoàn kết
thống nhất và càng ngày càng đoàn kết thống nhất hơn.
Nhưng một trong những nguyên nhân đẩy mạnh sự đoàn kết
và thông cảm trong nội bộ khối ASEAN chính là do
tác nhân Trung Quốc. Việc Mỹ quay trở lại
Biển Đông, tuyên bố mạnh mẽ hơn về Biển Đông
là chính do người Trung Quốc gây ra, chứ không
phải do ai cả.
Ngày 07/07 vừa rồi,
tôi dự hội thảo Việt-Mỹ nhân dịp 15 năm hai bên thiết
lập quan hệ ngoại giao, ông Đại sứ của Mỹ tại Việt Nam
tuyên bố thái độ rất là mập mờ, nước đôi về Biển
Đông. So với những tuyên bố của ngoại trưởng
Mỹ bà Hillary Clinton trong cuộc họp với các
ngoại trưởng ASEAN thì khác hẳn. Rõ ràng là Mỹ
đã tiến một bước rất dài trong vấn đề này.
Theo
tôi, ngoài những nguyên nhân lợi ích của Mỹ
sẽ bị động chạm nếu Trung Quốc tiến hành những
việc mà họ đã tuyên bố ở Biển Đông, thì mọi việc do
chính Trung Quốc gây ra. Nếu Trung Quốc không có tuyên
bố, không có hành động như vậy, tôi nói thẳng, chưa
chắc là Mỹ có sự quay trở lại và đã có những
tuyên bố mạnh mẽ như vậy.
RFI : Xem
xét sự ràng buộc về quyền lợi giữa Mỹ và
Trung Quốc, nhìn về quá khứ, anh có nghĩ rằng
một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, vẫn
có thể có hoài nghi về thái độ của Mỹ đối với
Trung Quốc ?
Chuyên gia Dương Danh Dy
: Là người có quá trình theo dõi quan hệ
Trung-Mỹ từ những năm 50 và đặc biệt là từ khi
hai nước bình thường hóa quan hệ đến nay, tôi thấy
quan hệ Trung-Mỹ có nhiều vấn đề phải nghiên cứu. Nhìn
vào quan hệ Trung-Mỹ, đối với người Việt Nam cũng như
với một số nước khác trong ASEAN, như Philippines
chẳng hạn, thì đúng là còn những nghi hoặc,
còn chưa tin người Mỹ.
Tôi xin nói thật,
người Mỹ tính toán rất sòng phẳng, rất tàn
nhẫn. Khi thấy không có lợi là lập tức họ cắt
cầu, không còn tình, còn nghĩa gì cả.
Mặc dù
không muốn khơi lại chuyện cũ, tôi vẫn xin đưa ra thí
dụ. Khi thấy tình hình Nam Việt Nam không xong, sẽ
thất bại, thì người Mỹ sẵn sàng từ bỏ mọi cam
kết.
Tháng giêng năm 1974, họ bật đèn xanh
cho người Trung Quốc xâm chiếm, lấy nốt nửa
Hoàng Sa của Việt Nam, từ tay chính quyền Sài
Gòn, cũng là do Mỹ bực tức, hậm hực trước thất
bại ở Việt Nam.
Tháng giêng năm 1979, ông Đặng Tiểu
Bình sang thăm Mỹ, gặp tổng thống Carter đã nói rõ là sẽ
đánh Việt Nam. Tổng thống Mỹ lúc đó không dám
phản đối, không dám can thiệp, thậm chí còn
giữ im ý đồ đó, không cho thế giới biết. Những
việc này làm cho người Việt Nam không tin.
Đối
với Philippines, hiện nay, Mỹ vẫn coi là đồng
minh. Mọi người đều biết trước đây, căn cứ quân
sự của Mỹ đóng tại Philippines, v.v.
Cho nên, tôi cho
rằng nếu Trung Quốc cho Mỹ một lợi ích gì đó, lớn hơn
Biển Đông thì chắc chắn là người Mỹ không từ chối
và lúc đó, người ta cũng sẽ bỏ Biển Đông. Chỉ
có điều là hiện nay, Biển Đông có lợi ích quá
lớn mà Trung Quốc, theo tôi tính, thì không
thể có gì tương xứng để cho Mỹ cả.
Mặt khác, nói cho công bằng, khi người Mỹ đã thấy ra vấn đề thì họ làm, họ sửa.
RFI : Đặt
giả thuyết Mỹ có thái độ kiên quyết trong
việc bảo vệ quyền tự do thông thương ở vùng Biển
Đông và Mỹ muốn đối phó với Trung Quốc. Vậy theo anh, Mỹ
có thể làm được hay không. Sở dĩ tôi nêu vấn đề này, bởi
vì trong một bài phân tích gần đây, anh có
nhấn mạnh đến một việc : Mỹ không hiểu Trung
Quốc. Là một chuyên gia nghiên cứu từ nhiều
năm nay về Trung Quốc, xin anh giải thích rõ
hơn điểm này ?
Chuyên gia Dương Danh Dy
: Tôi phải nói thêm một điều trước khi trả
lời câu hỏi này. Tại Hội nghị ở Hà Nội, ngoại trưởng
Dương Khiết Trì không trả lời gay gắt lắm đâu. Báo chí
chính thức, mạng chính thức của Trung Quốc cũng không
phản đối gay gắt lắm đâu. Nhưng mấy hôm gần
đây, tôi vào mạng và thấy, từ ông Dương Khiết
Trì cho đến tất cả các báo chính thức, Hoàn
Cầu thời báo, báo Nhân Dân, các báo mạng quân
sự của Trung Quốc, đều phê phán Mỹ trở lại
Biển Đông, phê phán Việt Nam lợi dụng danh nghĩa chủ
tịch ASEAN để lôi kéo Mỹ trở lại Đông Nam Á v.v.
Biển
Đông là lợi ích sống còn của Mỹ, rất thiết thân
cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Biển Đông mà
phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc hay Biển
Đông có chiến tranh, có nổi sóng, thì Mỹ không
yên. Cho nên, chúng tôi tin vào sự trở lại
của nước Mỹ. Nhưng, ngoài lợi ích mà Trung Quốc
có thể cho Mỹ, lớn hơn cả Biển Đông, thì tôi còn ngại
một điểm nữa. Tức là người Mỹ, các nhà nghiên cứu, hoạch
định chính sách của Mỹ nghiên cứu về Trung Quốc
chưa sâu và chưa thấy hết, xin lỗi là tôi phải
dùng cái chữ âm mưu, thủ đoạn, những sách
lược trong chính sách ngoại giao của Trung
Quốc.
Tôi muốn đưa một ví dụ về kinh
tế. Khi người Mỹ thấy rằng giá của đồng nhân dân tệ
không đúng với thực tế, cho nên Trung Quốc rất có lợi,
thì mỗi lần bị ép, Trung Quốc chỉ nhích lên, tăng lên
một tí. Thế là làm cho các nhà hoạch định chính
sách Mỹ hả hê : À hóa ra Trung Quốc cũng
nhượng bộ mình đây. Nhưng thực ra, giá trị vừa
rồi họ nâng giá là 0,43%, trong khi đó, ông
Obama nói là đồng Nhân dân tệ phải nâng lên
20% thì mới đúng giá trị thực của nó. Hay là
khi thặng dư mậu dịch của Trung Quốc đối với Mỹ quá cao.
Mỹ phàn nàn, thì lập tức họ đặt một đơn hàng một vài tỷ
đô la về máy bay Boeing thế là Mỹ hài lòng, cho
rằng Trung Quốc nhượng bộ. Nhưng thực ra,
Trung Quốc vẫn giữ phần lợi về họ.
Còn
trong việc đánh giá Trung Quốc, trong bài góp
ý với ông (Joseph) Nye, tôi xin mạn phép nói
lại. Ông Nye có nói rằng muốn hạn chế Trung Quốc thì
phải làm cho Trung Quốc thấy cái giá mà họ phải trả là
đắt. Nhưng tôi đã nói lại rằng với người Mỹ, với chúng
ta, ai cũng nghĩ sinh mạng là cái giá đắt
nhất. Người Mỹ khi hy sinh đến 50 000 ở Việt
Nam là thấy ớn rồi. Hơn 10 000 ở Afghanistan
là thấy ớn rồi. Nhưng người Trung Quốc thì từ
ông Mao Trạch Đông, cho đến ông Đặng Tiểu Bình và
cho đến ông Trì Hạo Điền bây giờ, người ta sẵn sàng hy
sinh một nửa dân Trung Quốc. Người ta không sợ. Một nửa
dân Trung Quốc thời Mao Trạch Đông là 300 triệu
người. Thời ông Đặng Tiểu Bình là 500 triệu
người. Thời ông Trì Hạo Điền hiện nay là 700
triệu người. Cho nên người Mỹ đánh giá Trung
Quốc không đúng.
Có mấy vị giáo sư rất
nổi tiếng mà tôi không tiện nêu tên, hy vọng rằng với
những số sinh viên đi học ở Mỹ, ở Tây Âu về thì sẽ cải
thiện được tình hình dân chủ ở Trung Quốc. Tôi đã
chỉ ra rằng, 30 năm mở cửa của Trung Quốc, thì
những người tốt nghiệp đầu tiên đã có 25 năm,
tức là một phần tư thế kỷ công tác ở Trung
Quốc. Liệu đã có ai vào được Bộ Chính trị
(Đảng cộng sản Trung Quốc) trong số những người này
chưa ? Liệu có ai vào Trung ương chưa ? Liệu có ai làm
được bộ trưởng chưa ? Có thay đổi được không khí dân chủ
ở Trung Quốc hay không ?
Tôi xin nói
thật. Dân Trung Quốc rất tốt, rất anh hùng,
rất vĩ đại. Nhiều người đối xử rất khảng khái,
vô tư, anh hùng, trượng nghĩa. Tôi ở Trung
Quốc nhiều năm, tôi biết. Nhưng tôi có cảm giác,
đã là người lãnh đạo của Trung Quốc thì có thể nói là
99,9% trong số họ luôn luôn đại diện cho lợi ích nước
lớn. Bây giờ đương là lúc Trung Quốc dấu mình chờ
thời. Họ rút kinh nghiệm cái thời Mỹ và Liên
Xô đấu tranh với nhau về hệ tư tưởng, chính
trị thì thành phe thành khối, quân sự thì
thành Vacxava, thành NATO, v.v. Cứ đối nhau
chan chát. Cuối cùng, Liên Xô thua Mỹ. Cho nên bây giờ,
họ không dại gì đối đầu trực diện với Mỹ. Những cái nào
họ thấy chưa đủ lực, chưa đủ sức, chưa hợp thời cơ
để đấu Mỹ thì họ vui lòng khuất phục, họ cam
chịu.
Nhưng tôi tin rằng cái thời kỳ đó
không còn dài nữa. Bởi vì ngay trong nội bộ
người Trung Quốc, chúng ta đã thấy những
khuynh hướng hiếu chiến rất rõ. Cuốn « Người Trung
Quốc có thể nói không », xuất bản cuối thế kỷ trước, và
gần đây nhất là cuốn « Người Trung Quốc không vui » cũng
đều cho thấy tư tưởng bá quyền.
Tôi
xin nói thêm, bài của thượng tướng Trì Hạo
Điền, nguyên bộ trưởng bộ Quốc phòng Trung
Quốc viết gần đây mà tôi đã giới thiệu, tôi đã
dịch ra tiếng Việt, để cho thấy rằng phái diều hâu,
phái chủ chiến ở Trung Quốc rất mạnh. Cho nên tôi thực
lòng mà nói với các bạn Mỹ là đừng ảo tưởng đối với một
số người lãnh đạo Trung Quốc.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100729-khong-nen-coi-nhe-phai-dieu-hau-tai-trung-quoc
Thứ năm 29 Tháng Bẩy 2010
Không nên coi nhẹ phái diều hâu tại Trung Quốc - Dương Danh Dy
Đằng sau những tuyên bố mạnh mẽ như vậy, Bắc Kinh có thể phản ứng tới mức độ nào ? Theo ông Dương Danh Dy, chuyên gia về Trung Quốc, thì không nên coi nhẹ phái hiếu chiến tại Trung Quốc. Khi nói đến vai trò quan trọng của Hoa Kỳ trong hồ sơ Biển Đông, ông nêu ra hai suy nghĩ : thứ nhất là một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, tỏ ra thận trọng về thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc. Vấn đề thứ hai là dường như người Mỹ chưa thực sự hiểu được giới lãnh đạo Trung Quốc. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn chuyên gia Dương Danh Dy.
RFI : Xin chào chuyên gia Dương Danh Dy, tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 43 cũng như trên Diễn đàn an ninh khu vực ARF vừa được tổ chức trong tuần trước tại Hà Nội, các nước Đông Nam Á và Hoa Kỳ đều khẳng định quyền tự do thông thương trên biển và trên không tại vùng Biển Đông. Thậm chí, ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Clinton còn nhấn mạnh là việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền tại Biển Đông có vai trò then chốt trong việc bảo đảm ổn định trong khu vực. Phải chăng lần này, do thái độ hung hăng của Trung Quốc tại khu vực Biển Đông đã buộc cả ASEAN và Mỹ phải lên tiếng và bày tỏ thái độ ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Tôi nghĩ, câu hỏi đã nói rõ phần nào rồi. Nhưng tôi xin nói thêm. Thái độ của Trung Quốc đối với Biển Đông bắt đầu chuyển biến từ tháng hai, tháng ba năm 2009 đã có những biến chuyển xấu, như chuyện họ thành lập đoàn tàu ngư chính đi tuần tra hải đảo, xua đuổi ngư dân các nước, đâm vỡ tàu các nước.
Nhưng bắt đầu từ tháng ba năm 2010, có một số sự kiện mà tôi nhắc lại đây để các độc giả, thính giả của RFI và các bạn khác ở trên thế giới biết rằng ngày mồng một tháng ba năm 2010, luật bảo vệ hải đảo nước CHND Trung Hoa chính thức được thực thi. Phân cục Biển Đông cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, cục Hải dương và nghề cá tỉnh Quảng Đông đã quy hoạch bảo vệ tỉnh Quảng Đông đã hoàn thành bản thảo đầu tiên và báo cáo lên trên, trong đó có việc công khai đấu thầu quyền sử dụng một hai hòn đảo không có người ở thuộc tỉnh này.
Tôi đã cảnh báo tin này. Nhưng hình như dư luận thế giới không chú ý tin này lắm. Và gần đây tỉnh Hải Nam cũng đề xuất vấn đề trên, Quảng Đông không liên quan đến Biển Đông nhưng Hải Nam thì động chạm trực tiếp tới các nước có liên quan rồi.
Cũng trong tháng ba, Trung Quốc đã ngầm nói với James Steinberg (thứ trưởng Ngọai giao Mỹ) rằng Trung Quốc đặt Biển Đông là khu vực lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Lúc đó, họ chỉ nói ngầm thôi. Nhưng đến ngày 13/07/2010, Tần Cương, người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc mới đưa ra định nghĩa rõ ràng : Chủ quyền, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích phát triển quốc gia đều thuộc lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Trước đây, Trung Quốc chỉ quy định Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương là lợi ích cốt lõi của họ. Và bây giờ Biển Đông đã được nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cũng thuộc phạm vi trên.
Đây là lần đầu tiên, Biển Đông được Bắc Kinh chính thức coi là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Cần phải thấy, từ ngữ « cốt lõi » ẩn chứa hàm nghĩa khi lợi ích này bị xâm phạm thì Trung Quốc sẽ dùng vũ lực để bảo vệ. Rõ ràng là Trung Quốc đã và đang có sự chuẩn bị ráo riết về các mặt cho công việc này.
Cho nên trước thái độ hung hăng, ngang ngược, bá quyền của Trung Quốc như vậy ở Biển Đông, tất nhiên, các nước ASEAN và cả người Mỹ nữa phải có một sự nhìn nhận lại và thấy rằng không thể không tìm cách, không có biện pháp để đối phó với ý đồ bành trướng, bá quyền đó.
RFI : Cách nay vài ngày, Trung Quốc đã có phản ứng về những đề nghị của ASEAN và của Mỹ cần phải tiến hành đàm phán và giải quyết hòa bình và cần phải tôn trọng quyền tự do thông thương đường biển, trên không ở khu vực Biển Đông. Trung Quốc phản đối việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Anh nhận định thế nào về phản ứng của Trung Quốc, liệu Trung Quốc dám dùng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình hay không ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Tôi xin nói thẳng rằng người Trung Quốc đã sẵn sàng. Trong một bài viết cách đây cũng khá lâu, tôi đã cung cấp thông tin là 92% dân mạng Trung Quốc đồng ý dùng vũ lực để giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông. Lúc đó, dân mạng có khoảng 380 triệu. Hiện nay là 420 triệu. 90% của 400 triệu tức là có khoảng 360 triệu dân mạng Trung Quốc sẵn sàng. Dân mạng Trung Quốc, theo tôi, phần đông là những người trẻ, có tri thức, có hiểu biết mà họ còn quan niệm như vậy.
Gần đây, ông Lương Quang Liệt, bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, trong một buổi phát biểu nội bộ, đã nói rằng chúng ta phải sẵn sàng cả hai tay. Cả hòa bình, cả chiến tranh và tay nào cũng phải cứng. Cho nên, chuyện Trung Quốc dùng vũ lực ở Biển Đông không phải là chuyện có thể mà khả năng chắc chắn có thể xẩy ra nếu như tham vọng bành trướng và bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông không bị ngăn chặn.
Quay lại Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông mà ASEAN ký với CHND Trung Hoa năm 2002, tôi phải nói thẳng là những người lãnh đạo ASEAN lúc đó đã có cái nhìn khá xa về âm mưu của Trung Quốc ở Biển Đông. Cho nên, trong điều 5 có viết là các bên cam kết tự kiềm chế, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp và gia tăng tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định, v.v. kể cả không tiến hành các hoạt động đưa người đến sinh sống trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm, dải đá ngầm và những cấu trúc khác hiện chưa có người sinh sống.
Như vậy, ngay từ năm 2002, người ta đã dự tính đến chuyện này và đến năm 2010, cái điều mà Tuyên bố ứng xử đã đề phòng, e ngại, thì bây giờ xẩy ra. Trung Quốc công khai tuyên bố là họ sẽ bán đấu thầu quyền sử dụng những đảo không có người ở tại Biển Đông.
RFI : Đứng trước phản ứng dữ dội và quyết liệt của Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông, theo anh nhận định thì Mỹ sẽ có thái độ ra sao ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Vừa rồi, người ta cứ nói là ASEAN đoàn kết, rồi Mỹ trở lại. Nói rất nhiều về chuyện này. Theo tôi, đúng là nội bộ ASEAN là một khối đoàn kết thống nhất và càng ngày càng đoàn kết thống nhất hơn. Nhưng một trong những nguyên nhân đẩy mạnh sự đoàn kết và thông cảm trong nội bộ khối ASEAN chính là do tác nhân Trung Quốc. Việc Mỹ quay trở lại Biển Đông, tuyên bố mạnh mẽ hơn về Biển Đông là chính do người Trung Quốc gây ra, chứ không phải do ai cả.
Ngày 07/07 vừa rồi, tôi dự hội thảo Việt-Mỹ nhân dịp 15 năm hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao, ông Đại sứ của Mỹ tại Việt Nam tuyên bố thái độ rất là mập mờ, nước đôi về Biển Đông. So với những tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ bà Hillary Clinton trong cuộc họp với các ngoại trưởng ASEAN thì khác hẳn. Rõ ràng là Mỹ đã tiến một bước rất dài trong vấn đề này.
Theo tôi, ngoài những nguyên nhân lợi ích của Mỹ sẽ bị động chạm nếu Trung Quốc tiến hành những việc mà họ đã tuyên bố ở Biển Đông, thì mọi việc do chính Trung Quốc gây ra. Nếu Trung Quốc không có tuyên bố, không có hành động như vậy, tôi nói thẳng, chưa chắc là Mỹ có sự quay trở lại và đã có những tuyên bố mạnh mẽ như vậy.
RFI : Xem xét sự ràng buộc về quyền lợi giữa Mỹ và Trung Quốc, nhìn về quá khứ, anh có nghĩ rằng một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam, vẫn có thể có hoài nghi về thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Là người có quá trình theo dõi quan hệ Trung-Mỹ từ những năm 50 và đặc biệt là từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ đến nay, tôi thấy quan hệ Trung-Mỹ có nhiều vấn đề phải nghiên cứu. Nhìn vào quan hệ Trung-Mỹ, đối với người Việt Nam cũng như với một số nước khác trong ASEAN, như Philippines chẳng hạn, thì đúng là còn những nghi hoặc, còn chưa tin người Mỹ.
Tôi xin nói thật, người Mỹ tính toán rất sòng phẳng, rất tàn nhẫn. Khi thấy không có lợi là lập tức họ cắt cầu, không còn tình, còn nghĩa gì cả.
Mặc dù không muốn khơi lại chuyện cũ, tôi vẫn xin đưa ra thí dụ. Khi thấy tình hình Nam Việt Nam không xong, sẽ thất bại, thì người Mỹ sẵn sàng từ bỏ mọi cam kết.
Tháng giêng năm 1974, họ bật đèn xanh cho người Trung Quốc xâm chiếm, lấy nốt nửa Hoàng Sa của Việt Nam, từ tay chính quyền Sài Gòn, cũng là do Mỹ bực tức, hậm hực trước thất bại ở Việt Nam.
Tháng giêng năm 1979, ông Đặng Tiểu Bình sang thăm Mỹ, gặp tổng thống Carter đã nói rõ là sẽ đánh Việt Nam. Tổng thống Mỹ lúc đó không dám phản đối, không dám can thiệp, thậm chí còn giữ im ý đồ đó, không cho thế giới biết. Những việc này làm cho người Việt Nam không tin.
Đối với Philippines, hiện nay, Mỹ vẫn coi là đồng minh. Mọi người đều biết trước đây, căn cứ quân sự của Mỹ đóng tại Philippines, v.v.
Cho nên, tôi cho rằng nếu Trung Quốc cho Mỹ một lợi ích gì đó, lớn hơn Biển Đông thì chắc chắn là người Mỹ không từ chối và lúc đó, người ta cũng sẽ bỏ Biển Đông. Chỉ có điều là hiện nay, Biển Đông có lợi ích quá lớn mà Trung Quốc, theo tôi tính, thì không thể có gì tương xứng để cho Mỹ cả.
Mặt khác, nói cho công bằng, khi người Mỹ đã thấy ra vấn đề thì họ làm, họ sửa.
RFI : Đặt giả thuyết Mỹ có thái độ kiên quyết trong việc bảo vệ quyền tự do thông thương ở vùng Biển Đông và Mỹ muốn đối phó với Trung Quốc. Vậy theo anh, Mỹ có thể làm được hay không. Sở dĩ tôi nêu vấn đề này, bởi vì trong một bài phân tích gần đây, anh có nhấn mạnh đến một việc : Mỹ không hiểu Trung Quốc. Là một chuyên gia nghiên cứu từ nhiều năm nay về Trung Quốc, xin anh giải thích rõ hơn điểm này ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Tôi phải nói thêm một điều trước khi trả lời câu hỏi này. Tại Hội nghị ở Hà Nội, ngoại trưởng Dương Khiết Trì không trả lời gay gắt lắm đâu. Báo chí chính thức, mạng chính thức của Trung Quốc cũng không phản đối gay gắt lắm đâu. Nhưng mấy hôm gần đây, tôi vào mạng và thấy, từ ông Dương Khiết Trì cho đến tất cả các báo chính thức, Hoàn Cầu thời báo, báo Nhân Dân, các báo mạng quân sự của Trung Quốc, đều phê phán Mỹ trở lại Biển Đông, phê phán Việt Nam lợi dụng danh nghĩa chủ tịch ASEAN để lôi kéo Mỹ trở lại Đông Nam Á v.v.
Biển Đông là lợi ích sống còn của Mỹ, rất thiết thân cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Biển Đông mà phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc hay Biển Đông có chiến tranh, có nổi sóng, thì Mỹ không yên. Cho nên, chúng tôi tin vào sự trở lại của nước Mỹ. Nhưng, ngoài lợi ích mà Trung Quốc có thể cho Mỹ, lớn hơn cả Biển Đông, thì tôi còn ngại một điểm nữa. Tức là người Mỹ, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách của Mỹ nghiên cứu về Trung Quốc chưa sâu và chưa thấy hết, xin lỗi là tôi phải dùng cái chữ âm mưu, thủ đoạn, những sách lược trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc.
Tôi muốn đưa một ví dụ về kinh tế. Khi người Mỹ thấy rằng giá của đồng nhân dân tệ không đúng với thực tế, cho nên Trung Quốc rất có lợi, thì mỗi lần bị ép, Trung Quốc chỉ nhích lên, tăng lên một tí. Thế là làm cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ hả hê : À hóa ra Trung Quốc cũng nhượng bộ mình đây. Nhưng thực ra, giá trị vừa rồi họ nâng giá là 0,43%, trong khi đó, ông Obama nói là đồng Nhân dân tệ phải nâng lên 20% thì mới đúng giá trị thực của nó. Hay là khi thặng dư mậu dịch của Trung Quốc đối với Mỹ quá cao. Mỹ phàn nàn, thì lập tức họ đặt một đơn hàng một vài tỷ đô la về máy bay Boeing thế là Mỹ hài lòng, cho rằng Trung Quốc nhượng bộ. Nhưng thực ra, Trung Quốc vẫn giữ phần lợi về họ.
Còn trong việc đánh giá Trung Quốc, trong bài góp ý với ông (Joseph) Nye, tôi xin mạn phép nói lại. Ông Nye có nói rằng muốn hạn chế Trung Quốc thì phải làm cho Trung Quốc thấy cái giá mà họ phải trả là đắt. Nhưng tôi đã nói lại rằng với người Mỹ, với chúng ta, ai cũng nghĩ sinh mạng là cái giá đắt nhất. Người Mỹ khi hy sinh đến 50 000 ở Việt Nam là thấy ớn rồi. Hơn 10 000 ở Afghanistan là thấy ớn rồi. Nhưng người Trung Quốc thì từ ông Mao Trạch Đông, cho đến ông Đặng Tiểu Bình và cho đến ông Trì Hạo Điền bây giờ, người ta sẵn sàng hy sinh một nửa dân Trung Quốc. Người ta không sợ. Một nửa dân Trung Quốc thời Mao Trạch Đông là 300 triệu người. Thời ông Đặng Tiểu Bình là 500 triệu người. Thời ông Trì Hạo Điền hiện nay là 700 triệu người. Cho nên người Mỹ đánh giá Trung Quốc không đúng.
Có mấy vị giáo sư rất nổi tiếng mà tôi không tiện nêu tên, hy vọng rằng với những số sinh viên đi học ở Mỹ, ở Tây Âu về thì sẽ cải thiện được tình hình dân chủ ở Trung Quốc. Tôi đã chỉ ra rằng, 30 năm mở cửa của Trung Quốc, thì những người tốt nghiệp đầu tiên đã có 25 năm, tức là một phần tư thế kỷ công tác ở Trung Quốc. Liệu đã có ai vào được Bộ Chính trị (Đảng cộng sản Trung Quốc) trong số những người này chưa ? Liệu có ai vào Trung ương chưa ? Liệu có ai làm được bộ trưởng chưa ? Có thay đổi được không khí dân chủ ở Trung Quốc hay không ?
Tôi xin nói thật. Dân Trung Quốc rất tốt, rất anh hùng, rất vĩ đại. Nhiều người đối xử rất khảng khái, vô tư, anh hùng, trượng nghĩa. Tôi ở Trung Quốc nhiều năm, tôi biết. Nhưng tôi có cảm giác, đã là người lãnh đạo của Trung Quốc thì có thể nói là 99,9% trong số họ luôn luôn đại diện cho lợi ích nước lớn. Bây giờ đương là lúc Trung Quốc dấu mình chờ thời. Họ rút kinh nghiệm cái thời Mỹ và Liên Xô đấu tranh với nhau về hệ tư tưởng, chính trị thì thành phe thành khối, quân sự thì thành Vacxava, thành NATO, v.v. Cứ đối nhau chan chát. Cuối cùng, Liên Xô thua Mỹ. Cho nên bây giờ, họ không dại gì đối đầu trực diện với Mỹ. Những cái nào họ thấy chưa đủ lực, chưa đủ sức, chưa hợp thời cơ để đấu Mỹ thì họ vui lòng khuất phục, họ cam chịu.
Nhưng tôi tin rằng cái thời kỳ đó không còn dài nữa. Bởi vì ngay trong nội bộ người Trung Quốc, chúng ta đã thấy những khuynh hướng hiếu chiến rất rõ. Cuốn « Người Trung Quốc có thể nói không », xuất bản cuối thế kỷ trước, và gần đây nhất là cuốn « Người Trung Quốc không vui » cũng đều cho thấy tư tưởng bá quyền.
Tôi xin nói thêm, bài của thượng tướng Trì Hạo Điền, nguyên bộ trưởng bộ Quốc phòng Trung Quốc viết gần đây mà tôi đã giới thiệu, tôi đã dịch ra tiếng Việt, để cho thấy rằng phái diều hâu, phái chủ chiến ở Trung Quốc rất mạnh. Cho nên tôi thực lòng mà nói với các bạn Mỹ là đừng ảo tưởng đối với một số người lãnh đạo Trung Quốc.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100729-khong-nen-coi-nhe-phai-dieu-hau-tai-trung-quoc
TRẦN QUỐC BẢO * TÌNH NON NƯỚC CỦA TẢN ĐÀ
TÌNH NON NƯỚC CỦA TẢN ĐÀ
Trần Quốc Bảo
(Bài
nói chuyện của nhà văn Trần Quốc Bảo, Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Miền
Đông Hoa Kỳ, tại Hội Cao Niên Vùng Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, ngày 4 tháng
10 năm 2003).
Người cùng thời với Tản Đà, cũng như lớp hậu
sinh, đã đề cập đến ông khá nhiều, qua những: Thi Văn Tuyển Tập, Phê
Bình Văn Học, bình giảng, luận văn, cũng như trong các buổi văn đàm
v.v..., những phẩm bình gạn lọc của một một nền văn học suốt chiều dài
thế kỷ đã xác định giá trị tuyệt vời của thi ca Tản Đà, đứng hàng
đầu, lớp các nhà thơ tiền bán thế kỷ 20 và luôn cả nhiều thập niên sau
nữa.
Sách báo viết về Tản Đà, bàn đến những áng thơ xuất thần
của tiên sinh, những nét đặc thù như: cái say, cái sầu, cái mộng và
đặc biệt là cái ngông của tiên sinh; có học giả phân tích cặn kẻ về
bút pháp trong thơ văn Tản Đà, về nghệ thuật ca trù và sự tài tình
dịch thuật thơ từ Hán tự qua tiếng Việt. Lại có vị đề cập tới cái lý
tưởng cao vời, suốt đời tiên sinh đeo đuổi mà cho đến ngày lìa đời vẫn
chưa thực hiện được như lòng mong ước, đó là tiên sinh muốn đề xuất,
quảng bá và phổ động triết thuyết Thiên Lương cho bàn dân thiên hạ,
tựa như việc truyền bá tư tưởng hiền nhân quân tử và thuyết Trung Dung
của đức Khổng Tử vậy.
- Vâng, đã có nhiều nhận xét đa dạng sâu
sắc về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, nhưng dường như ít ai để ý tới một
điểm đặc biệt là lòng yêu quê hương, Tổ quốc của Tản Đà, đã được dàn
trải thật nhiều, thật rõ ràng, nếu không nói là tràn ngập đến lộ liễu
trong thơ của tiên sinh.
Bài viết này không đi vào lãnh vực
luận văn hay bình thơ, mà chỉ hạn chế, trong khuôn khổ đề tài: "Minh
chứng về Tình Non Nước rất sâu đậm trong thơ Tản Đà".
Tại sao
không nói thẳng, nói trắng ra là lòng ái quốc, hay tình yêu Tổ quốc,
Quê hương, mà lại rằng "Tình Non Nước của Tản Đà", có gì phải che dấu
tránh né chăng? - Vâng, có như vậy! Xem lại tiểu sử Tản Đà, chúng ta
thấy niên biểu thời ấy ở vào giai đoạn đầu lúc nước ta bị Pháp cai trị,
thời điểm bây giờ mà in lên báo trương, hoặc nhỏ to xì xầm đến lòng
ái quốc, đảng cách mệnh, hay phong trào khởi nghĩa v.v... là điều cấm
kỵ, gông cùm tù ngục, tai họa lù lù ngay sau gáy.
Xin mở lại
đôi dòng sử u buồn trăm năm trước. Nước Pháp khởi sự cuộc viễn chinh
xâm lăng Việt Nam kể từ năm 1858 (Mậu Ngọ, năm Tự Đức thứ 11). Chín
năm sau (1867) toàn bộ đất Nam kỳ trở thành thuộc địa của Pháp và 17
năm kế tiếp, ngày mồng 6 tháng 6 năm 1884, triều đình Huế ký Hòa Ước
Giáp Thân (quen gọi là Hòa Ước Patenôtre) công nhận quyền Pháp bảo hộ
trên toàn cõi Việt Nam.
Nước ta rơi vào vòng nô lệ bốn năm thì
Nguyễn Khắc Hiếu ra đời, ông sinh năm Mậu Tý (1888) tại làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, cách Hà Nội 44 cây số về hướng
Tây Bắc. Quê hương ông, phong cảnh đẹp hùng vĩ, phía đông nam huyện
Bất Bạt có núi Ba Vi, tức là Tản Viên cao 1280 thước, ta có câu ca
dao: "Nhất cao là núi Tản Viên, thanh nhàn vô sự là tiên trên trần."
(Tản Viên trông xa như hình cánh phụng, nên còn gọi là Phương Hoàng
Sơn), sông Đà (còn gọi là Hắc Giang) bao bọc suốt dãy bình nguyên phía
tây Bất Bạt từ bắc xuống nam làm ranh giới thiên nhiên ngăn cách với
tỉnh Phú Thọ. Lòng yêu quê hương nảy sinh trong lòng Nguyễn Khắc Hiếu
ngay từ khởi sự cầm bút. Ông lấy bút hiệu là Tản Đà hẳn là ý muốn gắn
liền thân thế sự nghiệp vào lòng quê hương vậy.
... Văn chương thời nôm na,
Thú chơi có sơn hà.
Ba Vì ở trước mặt,
Hắc Giang bên cạnh nhà: Tản Đà.
(Tự Thuật)
... Mạch nước sông Đà tim róc rách,
Ngàn năm non Tản mắt lơ mơ.
(Ngày Xuân Rượu Với Thơ).
... Sông Đà núi Tản đúc nên ai,
Trần thế xưa nay được mấy người,
Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc,
Thanh cao phô trắng một cành mai.
(Thơ Tự Vịnh).
... Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông,
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.
Sông Đà núi Tản ai hun đúc,
Bút Thánh câu Thần sớm vãi vung.
(Tự Trào).
Một
tâm hồn nặng lòng với quê cha đất tổ, một bút thơ tài hoa như Tản Đà,
mà thoạt sinh ra đã là dân mất nước, ông chào đời với tiếng khóc quê
hương, nỗi niềm sầu muộn ấy đeo đẳng suốt cả cuộc đời thì việc đem tâm
sự gởi vào thơ, ắt là chuyện đương nhiên. Lại nữa chúng ta biết, Tản
Đà sinh nhằm buổi giao thời, cuối thế kỷ 19, qua thế kỷ 20, lúc mà ách
nô lệ ngoại bang vừa chụp xuống đầu dân tộc ta, lại cũng là lúc nền
phong hóa cũ của dân ta tiếp cận với nền văn minh Tây phương, chữ Quốc
ngữ được dùng cấp kỳ thay thế chữ Nôm và chữ Nho:
Mười mấy năm trời ngọn bút lông,
Thảnh thơi chẳng bợn chút hơi đồng.
Bây giờ anh đổi lông ra sắt,
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Sự
kiện tống cự nghinh tân, thay cũ đổi mới, thuở ấy cũng tác động không
ít vào nỗi sầu vọng cổ hoài hương của Tản Đà. Hơn nữa cùng trong thế
hệ Tản Đà, sinh trước hoặc sau một vài thập niên, có những trang anh
hùng kiệt sĩ, như Phan Bội Châu (1867), Nguyễn Thượng Hiền (1868),
Phan Chu Trinh (1872), Huỳnh Thúc Kháng (1875), Nguyễn Đình Chiểu
(1898), Nguyễn Thái Học, Trương Vĩnh Ký, Ngô Đình Diệm (1901), Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam (1907)... Tấm lòng yêu nước thương dân của các
nhà chí sĩ đó như một chất xúc tác ngấm ngầm nhưng cực kỳ mạnh mẽ lan
tràn trong tâm hồn người dân Việt vong quốc thời bấy giờ. Cao điểm của
sự kiện này là vụ Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp chém tại Yên
Báí ngày 17 tháng 7 năm 1930 (chín năm sau, Tản Đà qua đời ngày 17
tháng 6 năm 1939 tại Hà Nội).
Thi sĩ Quách Tấn, sanh năm 1910,
trẻ tuổi hơn Tản Đà một giáp, khi in tập thơ: "Một Tấm Lòng" (1939) đã
được Tản Đà đề tựa, có viết một đoản văn hồi ký nói về Tản Đà, đăng
trong tạp chí Tân Văn xuất bản tại Saigon năm 1971. Ông kể rằng:
"Năm
1927, Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập, lấy Dân tộc, Dân quyền, Dân
sinh làm chủ nghĩa; lấy Độc lập, Dân chủ, Phú cường làm phương châm.
Tuy còn đương trong vòng bí mật, nhưng uy danh của vị lãnh tụ, hùng
tâm, hùng khí của các cấp chỉ huy, lòng nhiệt thành và đức hy sinh cao
cả của đa số đồng chí, đã làm cho bọn cường quyền vừa sợ vừa kính,
hàng sĩ phu yêu nước quy tâm.
Để gây ảnh hưởng sâu rộng, Đảng
quyết định dùng báo chí làm cơ quan tranh đấu và tuyên truyền. Quyết
định ra nhằm lúc An Nam Tạp Chí tạm đình bản vì thiếu hụt tài chánh.
Ban Chấp Hành Trung Ương bèn ủy quyền cho lãnh tụ Nguyễn Thái Học đến
thương lượng cùng Tản Đà tiên sinh.
Tản Đà tiên sinh là một nhà thơ yêu Tổ quốc như yêu văn chương và lập chí đem văn chương đền ơn Tổ quốc từ lúc còn trẻ:
Này vẫn bác Tản Đà ngày trước,
Thuở xuân xanh thề ước non sông.
Trải bao xuân, hạ, thu, đông,
Càng phơ tóc bạc cho lòng càng son.
(Xuân Cảm năm Ất Hợi)
Lòng
tiên sinh luôn ấp ủ giấc mộng "Bồi lại bức dư đồ Việt Nam" mà "buổi
trước ông cha mua để lại, ngày nay con cháu lấy làm chơi". (Vịnh Bức Dư
Đồ Rách).
Cho nên khi gặp lãnh tụ Nguyễn Thái Học, tiên sinh mừng khôn xiết nỗi mừng:
Rồng Tiên cùng họ từ xưa,
Ba mươi năm mới bây giờ gặp nhau.
(Chơi Huế)
Trong
các tài liệu về Tản Đà, chỉ duy có bài của Quách Tấn nhắc đến sự kiện
đó, chúng ta không đánh giá sự khả tính của chuyện ấy, nhưng từ đó
chúng ta mở rộng thêm nhận xét về những ẩn ý chất chứa trong thơ ái
quốc của Tản Đà. Xin hãy đọc bài thơ bất hủ "Vịnh Bức Dư Đồ Rách":
Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông, núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ,
Thong thả rồi ta sẽ liệu bồi.
Ở
vào khởi điểm của cuộc mất nước, toàn dân cúi đầu nhận chịu ách nô
lệ, bài thơ trên đây của Tản Đà, nghĩa đen mộc mạc chỉ là nỗi lòng cảm
động khi đứng nhìn tấm bản đồ bị rách nát, nhưng ý tại ngôn ngoại,
cái tâm sự ẩn dụ trong thơ lồ lộ quá rõ rệt, từng câu, từng chữ, là
tiếng thở than vong quốc thật não nùng ai oán, là lời thống thiết nhắn
gọi lớp sĩ phư hãy đứng lên cứu nguy Tổ qúôc, hãy ra tay tài bồi mảnh
giang sơn gấm vóc của Tổ tiên đang bị nạn ngoại xâm.
Lời kêu
gọi thúc bách "Hãy mau tô bồi hàn gắn lại bức dư đồ Việt Nam rách nát
tả tơi", chẳng phải chỉ gióng lên một lần rồi thôi, mà cứ mỗi khi
thuận câu, hợp vần, Tản Đà lại nhắc tới, nhắc lui:
... Tri âm ai đó mau hồ giấy,
Kẻo đến dư đồ lại tả tơi!
(Lo Thời Khí).
... Biết bao ra Bắc vào Nam,
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng!
(Xuân Tứ).
... Dư đồ còn đó chưa phai,
Còn non, còn nước, còn người nước non.
(Qua Cầu Hàm Rồng Cảm Tác).
... Đừng quên Đông Pháp người tri kỷ,
Riêng nhớ An Nam bức địa đồ.
(Gởi Tòa Soạn Đông Pháp Thời Báo).
... Bức dư đồ rách không bồi,
Báo "An Nam" nghỉ biết đời nào ra.
(Cười Bác Mai Lâm).
Có bài thơ nhắc đi nhắc lại "Bức Dư Đồ" đến hai lần:
... Khóc ai riêng cũng mừng cho,
An Nam Tạp Chí dư đồ còn đây.
... Hơn nhau một bức dư dồ,
Khí thiêng sông núi hộ phù nước non.
(An Nam Tạp Chí Ra Lần Thứ Năm).
Còn
nhiều nữa, nhưng nội những câu thơ lược trích trên đây cũng đủ giải
tỏ tấm lòng ái quốc nhiệt tình của nhà thơ núi Tản sông Đà, và qua đó
tiên sinh đã gửi đến quốc dân một thông điệp khá rõ ràng.
Dùng
biểu tượng "Bức Dư Đồ Rách" để nói về Tổ quốc suy vong, sông núi bị kẻ
xâm lăng cai trị; đó là "viết" phải "lách", phải tránh né để thoát
khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt của nhà cầm quyền, nhất là để che mắt bọn mật
thám Pháp và bè lũ tay sai. Cũng vậy, thay vì khơi động "Lòng Ái
Quốc", Tản Đà đã viết bài thơ "Thề Non Nước":
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng trông.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ, chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã dầy tuyết sương.
Trời tây ngã bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước hãy còn thề xưa.
Non cao đã biết hay chưa,
Nước đi ra biển, lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước chưa nguôi lời thề.
Lời
thề non nước là lời thề trước bàn thờ Tổ quốc, mà trong tình huống Tổ
quốc lâm nguy thì thế hứa điều gì? Tiên sinh không nói ra, nhưng
không nói mà ai cũng đều biết cả. Bút thơ Tản Đà tuyệt diệu là ở chỗ
đó. Trong bài "Xuân Cảm", tiên sinh hạ bút:
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son.
Bút
sắt mài lòng son mà viết câu thề, thì đó là "huyết thệ", thề bằng máu
và tất nhiên là lời thề sắt son, trung thành nguyện đem cả hai vai
gánh vác sơn hà. Nhưng tiếc rằng khi đất nước ở vào thế cùng vận bí
nên cái chí cả, mộng lớn của Tản Đà đã chẳng thành tựu được. Tiên sinh
xót xa thố lộ can tràng:
- Năm nay tuổi đã bốn mươi hai,
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai.
Khắp bốn phương trời không thước đất,
Địa cầu những muốn ghé hai vai.
- Năm nay tuổi đã bốn mươi ba,
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ta.
Lo nước, lo nhà, lo thế giới,
Còn lo thêm nợ, nghĩ chưa ra.
(Tân Xuân - Khai bút)
Đọc những câu tâm sự trên ta thấy khác nào nỗi lòng của Đặng Dung qua bài "Thuật Hoài":
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.
Đào Hữu Dương dịch:
Tuổi già lận đận nối tình đời,
Vô tận vần xoay khoảnh đất trời.
Ti tiện gặp thời nên chẳng khá,
Anh hùng lỡ bước hận nhiều thôi.
Vác non phò chúa trên vai nặng,
Gột giáp qua mây mặt nước trôi.
Thù nước chưa xong đầu sớm bạc,
Dưới trăng mài kiếm mấy thu rồi.
Sầu
vong quốc phải chăng là mối sầu vạn cổ? Tản Đà cho rằng mình sinh bất
phùng thời, nỗi buồn vì thân thế quẫn bách, cô đơn cộng với niềm đau
nhục của quê hương đất nước, ông bi phẩn thốt lên:
Biết bao ra Bắc vào Nam,
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng.
Văn chương chút nghĩa đèo bòng,
Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao!!!
(Xuân Tứ).
Cuối cùng tiên sinh cam nhận số phận hẩm hiu, đành thúc thủ trong thất bại cay đắng:
... Quản chi sông rộng doành khơi,
Buồm không thuận gió ai ơi cũng đành!
(Thư của người nhà quê).
Cả
cuộc đời của Tản Đà, dù mê đắm trong văn thơ chữ nghĩa, dù say sưa
túy lý càn khôn, dù ngông nghênh xem mục hạ vô nhân, coi trời bằng
vung, nhưng trên hết cả, chói lọi hơn hết cả vẫn là Tình Non Nước, là
tấm lòng ái quốc chân thành, trung kiên, thẳng băng mực tầu, của một
sĩ phu.
Lời tâm huyết sau đây là những giọt nước mắt nhỏ xuống trang thơ, được coi như câu trối trăn tuyệt mệnh của tiên sinh:
Tấm riêng, riêng những thẹn thùng,
Giữa đường buông dứt gánh tình như không.
Gập tờ giấy niêm phong hạt lệ,
Nhờ cánh tem bay đệ cung mây.
Ái ân thôi có ngần này,
Thề nguyền non nước đợi ngày tái sinh.
oo00oo
Kính
thưa quý vị, Vũ Ngọc Phan trong Nhà Văn Hiện Đại đã kết luận phê bình
về Tản Đà như sau: "Thơ của ông giản dị, trong sáng, lại diễn tả tâm
hồn Việt Nam đủ mọi vẻ, mọi mầu; nên thơ ông quyết nhiên sẽ là thơ bất
hủ, và có lẽ trên thi đàn gần đây, ông đứng vào bậc nhất". Vũ Ngọc
Phan nhận xét rất đúng nhưng dường như vẫn thiếu sót khi không đề cập
đến tấm lòng yêu nước thiết tha của Tản Đà chất chứa đầy ấp trong khối
thi ca đồ sộ ông để lại cho hậu thế.
Về phần chúng ta, hôm nay
ngồi nơi đây, dành chút thời gian trong cuộc sống đầy bận bịu, mở lại
trang thơ Tản Đà "Vịnh Bức Dư Đồ Rách", và ngâm nga đôi câu "Thề Non
Nước", bỗng thấy sao mà hợp tình hợp cảnh quá! Dường như chúng ta đang
sống cùng trong niên biểu với Tản Đà, hoặc giả tiên sinh đang còn cầm
bút làm thơ ở đâu đó quanh ta. Xin thành kính dâng lời tri ân Thi hào
Tiến bối, khoảng một thế kỷ trước đây đã viết lên những lời thơ tâm
sự xót xa cho chính chúng tôi ngày hôm nay.
Xin cám ơn toàn thể quý vị đã tham dự buổi mạn đàm của chúng tôi.
Trần Quốc Bảo
Tài liệu tham khảo:
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim.
- Nhà Văn Hiện Đại, Vũ Ngọc Phan.
- Nước Tôi, Dân Tôi, Đông Tiến.
- Thơ Tuyển Dịch, Đào Hữu Dương.
- Văn Xả 2 (3&4-1990).
- Việt Thi, Trần Trọng Kim.
- Các sách của Tản Đà (Tản Đà Vận Văn, Tản Đà Tùng Văn, Tản Đà Văn Tập I&II)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
THÁI TÚ HẠP * TẢN ĐÀ - SUỐI KHÔ GIÒNG LỆ CHỜ MONG
TẢN ĐÀ - SUỐI KHÔ GIÒNG LỆ CHỜ MONG
THÁI TÚ HẠP
THÁI TÚ HẠP
Khi chúng ta đang còn sống trên xứ sở quê hương, giữa các trào lưu văn học thế giới tràn ngập vào tâm hồn lớp trẻ trí thức hết đợt sóng hiện đại này đến những ý thức mới của văn học và triết học khác, thực sự mấy ai còn nhắc nhở đến Tản Đà, Hồ Biểu Chánh, Phạm Quỳnh, Á Nam Trần Tuấn Khải, Tương Phố, Đông Hồ, Phan Huy Ích, Hồ Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan... Đa số đã chạy đuổi theo những trang sách của Heidegger, Apollinaire, William Saroyan, Henry Miller, Alexis Zorba, Sartre... chắc chắn ảnh hưởng chỗ đứng của các tiên sinh tiền bối thuở Thịnh Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hạo, Lý Thượng Ẩn... lại càng bị đẩy lùi ra "xa lộ" văn học Việt Nam cuối thế kỷ hai mươi.
Trong một sát-na xúc động tình cờ trong đời sống nơi viễn xứ, tôi chợt khám phá nguyên ủy lưu vong của loài rong rêu trên giòng thác cuồn cuộn đổ từ ngọn đỉnh non cao. Chúng tôi cảm thấy khổ đau mỗi khi cố gắng bắt đầu khép kín những nhung nhớ cố hương. Với sức lực của con ngựa già, không vượt nổi qua những chặng đồi núi phong ba của nhân thế, để phóng tới cánh đồng thảo nguyên tương lai. Mùa xuân đến nơi đất khách, nhưng tâm sự người lưu vong vẫn não nề, cái tâm sự mà TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU đã cảm nhận từ hơn năm mươi năm trước như những lời tiên tri:
...Nước Non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện Nước cùng Non
Nước đi chưa lại non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây bóng ngả tà dương...
Tản Đà đã gợi lên sự thực đau lòng đó, nhưng ông vẫn tin rằng trong vận chuyển Ngũ Hành, chu kỳ sinh diệt là lẽ tất nhiên của Tạo Hóa. Nỗi tư duy thần diệu nhất, Tản Đà đã biểu hiện cái tính chất "nước đi ra bể lại mưa về nguồn" kết hợp được triết học Đông Phương và khoa học vật lý Tây Phương: Nước đi ra biển, nhờ nắng bốc thành hơi bay về núi gặp khí lạnh gió thổi tan thành mưa. Cứ thế, từ thế kỷ này qua thế kỷ khác nhịp nhàng vi diệu trong sinh hóa của vũ trụ:
Non xanh tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa
Non đi ra biển lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non nước có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề... (Thề Non Nước)
Đề cập đến công trình văn học đóng góp vào sự nghiệp văn hóa dân tộc Việt Nam của Tản Đà quả thật không nhỏ. Mặc dù Tản Đà xuất hiện giữa thời đại giao mùa của trào lưu văn học cũ và mới. Thời kỳ mà sở học Hán và Nôm đang bị đẩy lùi vào hậu trường sân khấu trong mọi sinh hoạt văn chương nghệ thuật. Hình ảnh của những ông đồ già nuối tiếc một thời vang bóng hiện lên như một bức tranh cô đơn buồn bã tội nghiệp:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ không buồn thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
(Ông Đồ - Vũ Đình Liên)
Tuy nhiên, sự hình thành của giòng văn học Hán - Nôm khi khoa cử ở thời kỳ phục hưng, sự thực không ai có thể phủ nhận những công trình sáng tạo của một số nhà văn nhà thơ Việt Nam với những tác phẩm lừng lẫy cho mãi đến bây giờ chưa chắc có được những tác phẩm nào xứng đáng để thay thế. Như "Đoạn Trường Tân Thanh" của thi hào Nguyễn Du, "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu, "Chinh Phụ Ngâm" của Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn. Những thi tài vượt bật như Hồ Xuân Hương, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trái, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Tú Xương...
Đến khoảng thời gian đầu thế kỷ 20 từ khoảng năm 1913 đến 1917, nền văn học Việt Nam đã bắt đầu ảnh hưởng bởi giòng văn học Tây Phương, từ đó như vết dầu loang tỏa rộng ra khắp nước và tạo thành những trào lưu văn học mạnh mẽ đến năm 1930, lừng lẫy tạo những thành tích đáng kể từ năm 1930 - 1945. Tiêu biểu những lực lượng nòng cốt của trào lưu văn học mới có Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên. Xuân Diệu, Huy Cận... và nhóm Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam được xem là những cây bút tiền phong tiến công vào thành trì, phá vỡ những hủ hóa đầy phong kiến của xã hội cũ. Khi con đê đã phá sập, giòng nước tuôn trào, các tư tưởng tây phương xâm nhập vào lớp trẻ trí thức Việt Nam như Lamartine, La Fontaine, André Maurois, Mallarmé... Có lẽ ngán ngẩm cho thế sự đổi thay đến nỗi Thi sĩ Trần Tế Xương phải than thở một cách chua cay:
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò...
Tản Đà cũng cảm thấy chán nản nhưng không bi quan với khả năng cầu tiến nên ông cũng cố nghe theo lời khuyên đầy cay đắng của Trần Tế Xương theo học sách Âu Tây qua người Hoa dịch, gọi là Tân Thư, để mong kiếm thêm chút vốn liếng Tây học, kiếm gạo nuôi vợ con:
Mười mấy năm trời ngọn bút lông
Thảnh thơi chẳng bợn chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không
...Hôm qua chưa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!
Mặc dù cuộc sống cơ hàn gánh nặng gia đình, vợ con, nhưng Tản Đà luôn luôn giữ tiết tháo một nhà thơ, nhà báo có tư cách, luôn đề cao tinh thần yêu nước. "Trong thời gian vất vả nhất về tài chính là thời gian hơn tám năm ròng rã, Tản Đà xuôi ngược Hà Nội, Nam Định, vào Vinh rồi trở về Hàng Bông để vận động An Nam Tạp Chí một cách tích cực, nhưng chỉ phát hành cầm chừng tạp chí này. Cuối cùng An Nam Tạp Chí bị đóng cửa vĩnh viễn, Tản Đà thác lời Hàn Thuyên: Than ôi! An Nam tạp chí mà đến nỗi phải đình bản, thời còn gì là An Nam!" (Văn Xã, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu). Từ đó Tản Đà như người thất chí mượn rượu tiêu sầu.
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say, đất cũng lăn quay
Trời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười?
...Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng
Tiếc mộng bao nhiêu lại chán đời
Những lúc canh gà ba cốc rượu
Vài khi cánh điệp bốn phương trời
Tìm đâu cho thấy người trong mộng
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?
(Nhớ Mộng)
Đôi khi người đời không biết Tản Đà say rượu, say mộng hay là say thơ? Chính ông cũng không phân biệt cảnh đời, cảnh mộng và cảnh tiên. Mộng và thực lẫn lộn trong đời sống đầy phiền não vì phải tranh đấu miếng cơm manh áo nuôi cái thân xác tạm bợ nơi cõi trần thế. Ông cảm thấy lạc lõng chơ vơ giữa cuộc đời đầy buồn bã thê lương:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nửa rồi
Cung quế có ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng trăng thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tự nhau trông xuống thế gian cười... (Muốn Làm Thằng Cuội)
Không biết cảnh Thiên Thai có thực như câu chuyện Lưu Nguyễn ngày xưa? Hay chỉ là dấu vết giác ngộ quay về của tâm thức sĩ phu? Để nhìn thấy những nguyên thủy không còn nữa, mặc dù lòng thủy chung vẫn trọn đầy trong trí tưởng người đi. Có thiên đàng nào đẹp bằng quê hương. Tâm trạng ray rứt nhớ nhung của Lưu Nguyễn là nỗi niềm tâm sự chung của Tản Đà, tâm sự qua những tư duy ẩn mật, sâu sắc trong mỗi người lưu vong, mơ ước ngày trở lại quê nhà thực sự an bình trong ý nghĩa chân thành thường trực:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa đóng
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
(Tống Biệt)
Tản Đà mang nỗi sầu đi tiếu ngạo khắp cùng đất nước và ngạo nghễ trong cái thú vui bất tận thơ rượu của ông, tính tình khẳng khái ngay thật, đả phá mọi thành kiến hẹp hòi phe phái trong sinh hoạt giao mùa của trào lưu văn học mới - cũ. Ông cố gắng sống thoải mái cho chính sở thích tự nguyện của ông nên nẩy sinh nhiều giai thoại về Tản Đà cũng khá lý thú như thi sĩ Bùi Giáng:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
Có lẽ Tản Đà là nhà văn nhà thơ đầu tiên có sáng kiến vắt óc để mưu cầu phương kế sinh nhai, cho một mình ông thôi đã vất vả lắm, huống hồ phải kiếm gạo nuôi vợ con lại càng vất vả trăm chiều.
...Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ
Rẻ rúng thay là nghệ làm văn!
...Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
...Ra văn mà chẳng ra tiền
Cái nghiệp văn chương nghĩ thật phiền
Văn ế bao giờ cho bán hết
Phen này có nhẽ gánh lên tiên!
Hơn năm mươi năm sau văn chương chữ nghĩa ở đất khách còn não nề thê thảm hơn. Lớp đàn em "nặng nợ tơ tằm, cái nghiệp văn chương nó đuổi đeo", ở hải ngoại "vắt óc moi tim" cho ra những giòng văn, những vần thơ, nhưng hàng sách càng ngày càng ế ẩm và đang trên đà báo động lâm nguy. Chỉ còn lác đác ở thế hệ gọi là "nghiệp dĩ" liên hệ đến những yêu thích thơ văn tiền chiến và hậu chiến miền Nam từ trong nước, là họa may còn nhắc nhở đến những tên tuổi Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Phan Khôi, Tự Lực Văn Đoàn với Nhất Linh, Thạch Lam... và thỉnh thoảng những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn... như một vọng âm hiếm hoi trong đời sống chạy đuổi theo bánh xe quay của guồng máy thực dụng. Cái tâm sự đau buồn của Tản Đà khi ông đã chọn gởi gấm vào lối ngõ Đường Thi như những lời than thở cuối cùng:
Hạc vàng ai cỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hộ - Tản Đà dịch)
Không những riêng Tản Đà mà cả chúng ta cũng đang mang tâm sự não nề buồn thảm không kém như ông ngày xưa. Có lẽ Tản Đà chỉ bước đến cửa Khổng - Lão, mà chưa bước vào Thiền Môn để quán triệt cái đạo lý vi diệu Sắc Sắc Không Không. Tản Đà sẽ thanh thản biết chừng nào, khi đến rong chơi cõi trần gian và khi cuộc vui đã mãn, thanh thản ra đi như một đám mây trắng bay qua giữa bầu trời Như Huyễn.
Tản Đà tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm Mậu Tí 1888 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê hương ông là dải bình nguyên sông Đà, chạy dài tới chân núi Tản Viên, nên ông lấy tên núi Tản ghép với sông Đà làm bút hiệu. Phụ thân Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, đỗ cử nhân, làm quan lên tới chức án sát. Mẫu thân ông, Lưu Thị Hiền (có sách ghi là Khiêm), cũng là người có học, có tài ứng đối, làm thơ. Xuất thân con nhà cử nghiệp, Tản Đà sau khi học vỡ lòng chữ Nho ở Nam Định, sống và học với người anh cả là Nguyễn Tái Tích. Ông anh lúc ấy đã đậu phó bảng, làm đốc học ở Sơn Tây, Vĩnh Yên rồi đổi ra Hà Nội.
Riêng phần Tản Đà học hành lận đận, chỉ đỗ kỳ hạch ấm sinh dành cho con quan. ông trượt luôn hai khóa Kỷ Dậu (1909) và Nhâm Tí (1912) chán nản bỏ luôn khóa Ất Mão, chuyển sang học chữ quốc ngữ và bắt đầu viết Giấc Mộng Con. Năm 1913 Tản Đà được Trịnh Xuân Nham, giáo thụ trường Hậu Bổ đề bạt cho Nguyễn Văn Vĩnh, ông có các bài tiểu luận đăng khá đều trên Đông Dương Tạp Chí và bắt đầu được chú ý. Từ cuối năm 1925, ông ra An Nam Tạp Chí. Tờ báo đóng cửa ba lần, tục bản hai lần, tới 1933 mới đóng cửa luôn. Trong khoảng thời gian An Nam Tạp Chí đình bản, thi sĩ Tản Đà vào Sài Gòn viết cho Đông Pháp Thời Báo của Diệp Văn Kỳ (1927) nhưng nửa chừng bỏ trở ra Bắt tục bản An Nam Tạp Chí (1927).
Từ cuối năm 1932, ông đóng cửa vĩnh viễn tờ An Nam Tạp Chí (Nguyễn Văn Vĩnh cũng ra tờ An Nam Tạp Chí khác trong cùng năm này). Vốn đã sống trong cảnh túng thiếu, Tản Đà càng lúc càng quẫn bách hơn. Có lúc ông về Bạch Mai (gần Hà Nội) mở lớp dạy chữ Nho. Có lúc ông quay về Hà Đông, đăng quảng cáo trên vài tờ báo: "Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Có lúc ông phải mở cả phòng đoán số Hà Lạc để kiếm sống (1938). Tản Đà mất vì bệnh gan, ngày 17.6.1939 tại nhà riêng, số 71 ngã tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám con. Di thể tiên sinh được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.
http://chimviet.free.fr/tacpham1/thanhlng/thll054a.htm
NHỮNG MỐI TÌNH CỦA TẢN ĐÀ
Trang nhật ký cách đây 100 năm…
Thi sĩ Tản Đà
Cuộc
đời tài hoa và đào hoa của thi sĩ Tản Đà còn chưa được tư liệu, sách
vở phản ánh hết. Lần thăm nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương, người con
trai trưởng của Tản Đà, hiện đang ở tại Phú Thọ dịp gần đây, tôi được
ông cung cấp thêm nhiều tư liệu liên quan đến cuộc đời thi sĩ, chủ yếu
là những mối tình thời trai trẻ của thi nhân.
Ông
Xương bảo bố tôi tài hoa và... đào hoa lắm. Thi trượt trường Nam trở
về, ông mang theo mối tình cô gái thành Nam, thiết tha và hồn nhiên
trong sáng quá chừng.
Ông Xương cho tôi xem những trang
nhật ký viết tay của Tản Đà viết cách nay đúng 100 năm kể về những
mối tình tuổi trẻ. Tập nhật ký viết bằng bút mực, tả về những mối tình
thơ dại của chàng học trò Nguyễn Khắc Hiếu với những tiểu thư gặp ở
nơi trọ học và ứng thí hồi ở Nam Định. Cái con người đa tình đa cảm ấy
đã cùng lúc phải lòng hai thiếu nữ. Mà người con gái nào trong ba chị
em ấy cũng đều mến chàng. Nhưng chàng chỉ cảm mến hai người em.
“Cô
M. Dáp mới 13 tuổi nhưng đã rất si tình, trưa và tối thường đến.
Người con ông chủ nhân mới 14 tuổi cũng nhan sắc mà ăn nói hơi có vẻ
đanh. Còn người con gái nhớn đầy đặn mà trắng, tính nết trung hậu, ăn
mặc thời theo lối quê. Trong một giấc mộng ấy liền - đứt mê man, ly
hợp không thường...” - cụ Tản Đà ngày đó thổ lộ tình yêu trên giấy như
thế.
Cuốn nhật ký tình yêu của người thi sĩ trẻ đã đưa
ta về một trời mộng xưa, khi tình yêu trai gái còn chưa nhuốm màu
hiện đại. Đoạn tả cảnh chiều cuối năm chàng được nàng hái lá thơm về
đun nước cho tắm. Tắm xong hai người ra vườn hái hoa và thả hồn mơ
mộng giữa khung cảnh lãng mạn thanh bình: “Khách địa tha hương, giai
nhân tài tử, đầu xanh mây biếc, người trắng hoa hồng. Trời Nam ai vẽ
bức Thiên Thai mà mỗi bên bớt đi một...”. Câu chuyện gợi nhớ Lưu
Nguyễn xưa vào chốn Thiên Thai lấy hai tiên nữ, nhưng bây giờ chàng
thư sinh Khắc Hiếu chỉ còn một cô Ất bên mình.
Cuốn
nhật ký cũng kể lại những kỷ niệm như chơi bài đẹt mũi. Rồi rủ nhau đi
xem chèo. Kể chuyện lưu luyến tiễn anh khóa trẻ lên tàu ngược Hà
Nội... Những câu chuyện trong nhật ký cho biết ông là người nhiều hệ
lụy với tình yêu.
Phát hiện tình cờ
Tập
nhật ký đến tay người con trai trưởng Nguyễn Khắc Xương cũng thật tình
cờ, khác nào có sự sắp đặt của ai đó. Ông Nguyễn Khắc Xương kể, lúc
tôi về thành Nam chơi với bà bác thì bỗng đâu có cụ bà chừng tám chục
tuổi sang bảo tôi: Ông là con trưởng cụ Tản Đà phải không? Nếu phải thì
ông sang ngay gặp ông nhà tôi.
Ngỡ có chuyện gì, tôi liền
sang. Thì ra đấy là ông Ngô Quý Chức, cháu ruột cụ Ngô Ngọc Trực. ông
Chức từng làm thư ký toà soạn báo Tiểu thuyết thứ Bảy. Ông cụ đưa cho
tôi tập giấy đã cũ. Cuốn sổ chi chít nét chữ quốc ngữ viết tay, bảo:
Tôi trả lại anh tập nhật ký của cụ Tản Đà. May cho anh là vì tôi sắp
đi rồi... gặp được anh là tôi mãn nguyện.
Hai tập nhật
ký Tản Đà ông Trực đưa tôi nói là của Tản Đà viết từ năm ngoài hai
mươi tuổi, tức là cách đây đã 100 năm. Tôi thật lấy làm bàng hoàng vì
còn có người yêu quý thi sĩ mà giữ cho cả những bút tích ngày cũ. Mà
hơn thế, đây là những trang viết đầu tiên thời Tản Đà bắt đầu học viết
chữ quốc ngữ... Nét chữ thật đẹp và nắn nót nhưng còn nhiều lỗi chính
tả quá. Một nhà Nho từng dự kỳ khoa bảng cuối mùa ở thành Nam giờ
xoay sang Tây học và lần đầu viết chữ quốc ngữ. Do đó tập nhật ký
không chỉ quý bởi tư liệu về thi nhân mà còn có giá trị lịch sử nhất
định.
Theo ông Nguyễn Khắc Xương thì đây là kỷ niệm tình
yêu đầu tiên trong văn đàn Việt Nam được viết ra giấy trắng mực đen,
trước cả Thế Lữ, Xuân Diệu...
Tản Đà và những “khối tình”
Nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương kể: Một dạo tôi sang Vũ Di thuộc phủ Vĩnh
Tường xưa chơi như để tìm lại bước chân phong trần thi sĩ hồi đầu thế
kỷ trước. Một cụ bà chừng 82-83 tuổi gặp tôi rất mừng. Cụ bà thuật lại
mối tình Phủ Vĩnh của nhà thơ... Dạo ấy cậu ấm Hiếu (Tản Đà) ở với
ông anh là Giáo Thụ tại Vĩnh Tường, cạnh nhà tri phủ. Cách nhau chỉ
một cái cầu ao... nên mới có chuyện ông dan díu với cô gái con tri
phủ. Đêm trăng gió mát, cô gái ra ao chơi bỗng nhìn thấy bên kia ao
Tản Đà thư sinh đương ngồi học.
Mối tình ấy rồi cũng chả đi đến
đâu. Có lẽ vì thế chúng ta mới có những thi phẩm tình yêu đầu thế kỷ
của người. Hãy đọc lại bài Ngày Xuân tương tư in trên An Nam tạp chí
năm 1932 của Tản Đà: Ngàn dặm dám quên tình lúc ấy/ Trăm năm còn nhớ
chuyện ngày xưa/ Tương tư một mối hai người biết/ Ai đọc thơ này đã
biết chưa?
Nhớ rau sắng chùa Hương, mùa Xuân năm 1923 không đi
lên Hương Tích, Hương Sơn, ông làm bài thơ in báo. Đọc báo rồi, nghe
nói sau đó có một nàng đã thân chinh gửi rau sắng về nhà cho thi
nhân...
Đương nói chuyện đời, chuyện tình Tản Đà, ông
Nguyễn Khắc Xương như chợt thấy mình đã bộc bạch quá nhiều về cha
mình. Ông bảo: Tôi đương giữ bản quyền mọi câu chuyện đấy nhé. Viết gì
thì cũng nhớ chú thêm rằng theo nhà Tản Đà học Nguyễn Khắc Xương đấy!
Ông nói thêm: “Khi lấy mẹ tôi rồi, cụ gác lại hết những chuyện tình
cảm ấy. Nhưng qua nghiên cứu, tôi biết cụ vẫn âm thầm nhớ đến hình
bóng cũ. Tản Đà đã sống hết mình cho tình yêu không lụy phong tục lễ
giáo”.
***
Cụng ly cùng con trai cụ Tản Đà - ông Nguyễn Khắc Xương (giữa) và
cháu gái cụ - cô Mai Thoa
Không
được cùng thời để “uống rượu với Tản Đà” như ông Trần Huyền Trân, tôi
xin được cụng ly với ông Nguyễn Khắc Xương trưởng nam của cụ, cùng
cháu gái của cụ là cô Mai Thoa đương làm việc ở Bảo tàng Phú Thọ, xin
dâng nơi cửu tuyền ba vái thi hào tiên sinh nhân 120 năm ngày sinh và
70 năm ngày giỗ cụ...
Tân Linh
Nguồn: TTVH
NGUYỄN THIÊN THỤ * THỰC VÀ MỘNG TRONG TÌNH MẪU TỬ CỦA TẢN ĐÀ
THỰC VÀ MỘNG TRONG TÌNH MẪU TỬ CỦA TẢN ĐÀ
NGUYỄN THIÊN THỤ
NGUYỄN THIÊN THỤ
Khi quan tri phủ Nguyễn Danh Kế đáo nhậm án sát tỉnh Ninh Bình thì
Tản Đà cất tiếng khóc chào đời tại đây. Sang năm sau, thân mẫu Tản Đà
hạ sinh một gái tên là Trang. Trong khoảng mấy năm trời hương lửa đậm
đà, thân mẫu Tản Đà đã hưởng được mọi hạnh phúc trần gian. Nhưng hạnh
phúc này quá ngắn ngủi. Năm 1891, Tản Đà lên ba, quan án lâm bệnh rồi
từ trần. Vì đường sá xa xôi, gia đình không thể đưa linh cửu quan án về
quê, nên phải an táng tại phủ An Khánh, Ninh Bình. Cái chết của người
cha, người chồng, thường báo hiệu một khúc quanh bi thảm của một gia
đình.
Bà chị Tản Đà kể rằng khi làm tri phủ Xuân Trường (1), Nam Định, thân phụ bà thường say mê thú hát ả đào. Yêu nhịp hát câu ca, ông yêu luôn cô đào hàng Thao Nam Định. Nàng rất trẻ đẹp, tuổi độ 20, tên là Nghiêm (2). Lúc bấy giờ Nguyễn Danh Kế tiên sanh đã ngoại bốn mươi, việc tề gia nội trợ đã có bà cả và bà hai vốn là hai chị em ruột. Ngày xưa cổ nhân có tục đa thê cho nên chẳng bao lâu nàng danh ca đã trở thành vị phu nhân của quan phủ, tục danh là bà phủ Ba. Bà giỏi xướng ca, lại rành thi họa. Bà cùng nữ sĩ Nhàn Khanh (3) xướng họa. Khi ở Vân Đình, bà Nhàn Khanh đã gửi bà phủ Ba một bài thơ:
Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng,
Nhắn hỏi cùng ai có nhớ không? Nửa bước xa xa bằng mấy dặm,
Một ngày đằng đẵng ví ba đông.
Giọng thơ tri kỷ say mê mệt,
Ngọn lửa tương tư đốt cháy nồng.
Khắc khoải năm canh lòng luống những,
Thư tình mở mở lại phong phong.
Bà phủ Ba đáp lại:
Đêm qua vơ vẩn chốn thư đường, Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang.
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu,
Năm canh tơ tưởng chốn Đình giang.
Trông trăng bát ngát thương người ngọc,
Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng.
Hai chữ tương tư khôn xiết kể,
Khối tình chi để một ai mang.(4)
Qua thơ xướng hoạ kể trên, chúng ta thấy bà phủ Ba cũng là tay tài hoa. Lại nữa, một vị phu nhân dòng dõi trâm anh thế phiệt như bà Nhàn Khanh lại có thơ xướng họa cùng một phu nhân xuất thân ca kỹ, cũng có thể do giao tình đậm đà giữa quan án và gia đình họ Trịnh, họ Dương mà cũng là do lòng liên tài quá lớn vậy.
Trong mấy năm trời sống với quan án, bà án đã có bốn con, gồm hai trai, hai gái: Nguyễn Mạn , Nguyễn Thị Chính , Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn thị Trang . Khi quan án từ trần, thân mẫu Tản Đả tuổi ngoại ba mươi, bà quyết định sống trọn đời chung thủy với người chồng quá cố. Nhưng theo chị Tản Đà, đươc chừng một năm, bà đột nhiên ra đi, mang theo cô gái út, trở lại xóm Binh Khang. Nghe đâu về sau, bà trở thành bà chủ một nhà hát tại Bắc Ninh.
Tại sao gia đình Tản Đà lại xảy ra tấn bi kịch đó? Một cụ bà người (5) cùng làng với Tản Đà nói rằng do mối bất hòa gia đình. Mất chồng, mất nơi nương tựa, người tiểu thiếp không tài sản, không thế lực kia làm sao chịu được tiếng bấc, tiếng chì của bà vợ cả? Ông Nguyễn Mạnh Bổng, anh vợ của Tản Đà cũng chung ý kiến trên. Ông cho rằng thân mẫu của Tản Đà phải cất bước ra đi “ vì một sự không hòa trong gia đình” (6). Nhưng chị của Tản Đà lại cho rằng gia đình vẫn êm ấm, không hề có việc xích mích. Thân mẫu Tản Đà ra đi vì “ ngựa quen đường cũ”.
Dẫu vì nguyên do nào đi nữa, việc thân mẫu Tản Đà trở lại xóm Bình Khang là một thực tại đã làm Tản Đà đau khổ khôn nguôi. Xã hội Việt Nam vốn coi khinh nghề sênh phách đàn hát vì người ta cho rằng “xướng ca vô loại”. Mặc dầu các sĩ phu thường lấy các đào nương làm hầu thiếp, các nho gia thường kết tội các đào nương, coi đào nương và kỹ nữ là một. Xã hội Việt Nam và luân lý Nho giáo đã lên án thân mẫu Tản Đà. Lại nữa, cái danh giá của gia tộc ông, cha án sát, anh đốc học và ông tổ mấy đời đã từng là Bình chương, Tham tụng, danh giá là thế mà nay mẹ và em lại làm ca kỹ. Việc này là một thực tại đã làm ông đau khổ. Ông Nguyễn Mạnh Bổng đã cho ta biết nỗi đau khổ trong nội tâm Tản Đà:
Đối với việc cụ bà và cô Trang hành động như vậy,Tản Đà tiên sinh lúc còn trẻ tuổi, ở với ông anh cả là Nguyễn Tái Tích ( đỗ phó bảng, làm tri huyện, sau về giáo thụ, thăng đốc học ) vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, lấy làm một sự không chính đáng. Cho nên tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra. Vì tiên sinh là một người đã có cái ý muốn làm “ Á châu Khổng phu tử chi đồ” từ lúc bé, nên phàm cái gì trái với đạo đức Khổng Mạnh, tiên sinh đều cho là một sự không trong sạch cả. (7)
Phan Kế Bính đã mô tả cuộc sống của các đào nương nơi Bình Khang là một nơi “ sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” như Thúy Kiều ở lầu xanh. Ông viết rằng Bình Khang là một nơi vui chơi suồng sã, các quan viên và đào nương “ có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến” và “lấy cách quàng vai bá cổ, kề đùi, kề vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, giăng hoa bỡn cợt làm thích” (8). Không biết thời Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, người ta đi hát ả đào như thế nào, còn thời Pháp thuộc, hát ả đào không còn là một nghệ thuật nữa. Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân đã cho ta những nét phác họa rất trung thực:
Những ngưòi bạn trong trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo không thể chê vào đâu được. Họ đánh trống như đám hỏa đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa ăn. Nhà hát là cái chợ.(9)
Những lời phê bình, mô tả chung chung như thế có lẽ đến tai Tản Đà.Nhưng nặng nề hơn, một vài kẻ đã nêu đích danh gia đình Tản Đà, mẹ và em gái Tản Đà ra để làm đề tài. Người ta vô tình hay cố ý làm vỡ vết thương lòng của Tản Đà như trường hợp phó bảng Trần Tán Bình (1869- 1935 ). Một hôm ông phó bảng họ Trần đi hát gặp cô Trang đã làm một bài hát nói:
Có phải cô Trang em ấm Hiếu?
Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà.
Vì đâu vương lấy nợ tài hoa?
Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc!
Cha án sát, anh thời đốc học, Nền đỉnh chung bỗng chốc hóa truân chiên.
Cất chén quỳnh nhớ bạn đồng niên,
Dục lòng khách bên đèn sa nước mắt.
Nhớ bạn, thấy em như thấy mặt,
Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi.
Đời người đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Hoa xuân em giữ lấy thì!(10)
Vì xót thương má hồng gặp bước truân chuyên hay mai mỉa gia đình người ta mà ông phó bảng viết bài này? Dẫu sao, ông phó bảng đã làm một việc thiếu tế nhị nếu ông đọc bài này cho cô Trang nghe hay phổ biến bài này trong quần chúng!
Thực tại xã hội và luân lý Khổng Mạnh đã làm cho Tản Đà đau khổ, tủi nhục khiến ông oán ghét mẹ. Ngoài ra, yếu tố gia tộc cũng làm cho lòng Tản Đà nát tan. Chính cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm cho Tản Đà đau lòng vì mẹ và em gái sống trong chốn Bình Khang. Chị của Tản Đà đã cho chúng tôi vài chi tiết.
Ngày 17 tháng giêng năm bính thìn, niên hiệu Duy Tân thú mười (20-3-1916 ), ông Nguyễn Tái Tích từ trần. Gia đình phải đem linh cữu từ Hà Nội về quê bằng tàu Bạch Thái Bưởi. Nghe tin ông bảng mất, thân mẫu Tản Đà xuống tàu đưa tiễn. Thấy bóng mẹ, Tản Đà lặng lẽ bỏ lên tàu. Các chị em phải khuyên bà ra về, Tản Đà mới trở lại tàu. Trước khi ông Nguyễn Tái Tích mất, Tản Đà phải cưới vợ cho an lòng anh.
Vợ của Tản Đà là con gái viên tri huyện Nguyễn Mạnh Hướng , quê ở làng Hội Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Đông. Hôn lễ cử hành ngày rằm tháng chạp năm ất mão, niên hiệu Duy Tân thứ chín tức ngày 17-2-1916. Được tin con trai cưới vợ, bà vội vàng về dự lễ cưới với hy vọng tặng cô dậu một món quà, nhưng Tản Đà cương quyết ngăn cản. Tản Đà bảo rằng nếu tân nưong nhận “ người đó “ là mẹ thì coi như hôn sự bất thành. Rốt cuộc, người mẹ bất hạnh kia đành thui thủi ra về trong khi tiếng pháo nổ vang, hai họ nâng ly mừng tân lang và tân nương bách niên giai lão! Cho đến khi mẹ mất tại nhà ông anh là Nguyễn Mạn, tại Thái Nguyên, Tản Đà cũng không lên nhìn mặt mẹ lần cuối. Tản Đà chỉ nhắn người nhà nhờ anh trông nom, lo liệu mọi sự. Lúc này, Tản Đà ngoài ba mươi tuổi.
Bà Nguyễn Triệu Quất con gái Tản Đà cho biết rằng Tản Đà chỉ yêu con trai mà ghét bỏ con gái. Chính Tản Đà cũng nói với mọi người rằng ông yêu con trai, rất con gái. Khi sinh đứa con gái đầu lòng, bà Tản Đà phải đem gửi bên ngoại. Hai cô Nguyễn Triệu Quất và Nguyễn Thúy Ngọc ít khi gần cha. Hễ thấy bóng cha, hai cô phải chạy trốn. Bà Nguyễn Triệu Quất nói rằng sở dĩ Tản Đà ghét con gái vì ngày xưa mẹ và em gái đã làm cho Tản Đà đau đớn, tủi nhục.
Trong cuộc đời, Tản Đà đã xa lánh mẹ, trong tiềm thức ông, khoảng cách này càng rộng lớn hơn. Ông luận về thế đạo, ông trách cứ nhân tâm nghĩa là đã liên tưởng đến mẹ và em, gián tiếp đau khổ, buồn tủi vì mẹ và em gái đã sống trái với luân lý đạo đức. Khi ông luận về chữ trinh, nghĩa là ông cho rằng mẹ và em gái đắm mình trong chốn bùn nhơ, thất trinh, thất tiết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh (11)
Tính hạnh người đàn bà có một cái trọng nhất là chữ trinh; đạo người đàn bà đối với chồng có một cái trọng nhất là chữ trinh. Trinh nghĩa là chính chuyên. Chính thời không gian tà, là giữ tính hạnh của mình cho nhất đức. Chuyên thời không có lòng nào với người khác. Là giữ tình nghĩa với chồng cho nhất tâm. Một chữ trinh của đàn bà, từ xưa đến nay, cả đông lẫn tây, đời nào cũng phải quý, nước nào cũng phải quý, nước nào cũng phải chuộng. Chữ Trinh đáng quý và đáng chuộng thời tự người đàn bà càng nên biết quý chuộng là phải. Ngọc lành đã được giá, nên giữ sao cho sạch vết, khỏi phụ lòng người mua. Trăm năm đà kết nghĩa đá vàng, sông chưa cạn, đá chưa mòn, mà nỡ đem một tấm lòng son, yêu riêng sẻ giấu, thời soi gương thẹn với gương,đeo hoa thẹn với hoa, đứng giăng thẹn với giăng, ngồi đèn thẹn với đèn, đêm nằm thẹn với chăn, ngày ngày đi thẹn với bóng, trong đời người ta có một cái quý nhất mà dứt tình cho đang! Chẳng qua cái ngòi vật dục khêu ở ngoài, ngọn lửa vật dục bốc ở trong làm cho một chút lòng trinh đương đỏ như son mà cháy ra than, tàn ra tro, tan ra khói. Tiếc thay! (12)
Nhiều người viện cớ hoàn cảnh khó khăn mà dấn bước vào bún nhơ. Khi viết Đài Gương, Tản Đà ngầm trách mẹ không vững ý chí mà giữ đạo đức, không phán đấu với hoàn cảnh khó khăn.
Cảnh ngộ một đời người ta, rất là không có thường. Cảnh ngộ không có thường mà đức hạnh giữ được thường thời chỗ đó mới là chỗ hơn người.. . .Đời người mà phải lúc biến thật là không may, nhưng gió cả mới biết cây cứng mềm, thời chữ trinh đến lúc ấy mới càng tỏ. Than ôi, chỉ thắm trăm năm, chưa xe đã dứt, đầu xanh đôi lứa, đương họp mà tan. Dẫu luật lệ của vua chúa chưa buộc người lấy chữ trinh. . . Làm người nên biết nghĩa ngàn thu là quý, đàn bà chỉ có một chút đó có thể sánh được cái trung, cái hiếu, cái anh hùng bên con trai.
Nghĩ sao cho được hơn người, Tiếng thơm để lại muôn đời ngơị khen (13)
Và đây là một trường hợp tương phản làm nổi bật cuộc sống đen tối của thân mẫu và em gái thi sĩ.Trong gia tộc Tản Đà có bà họ Phan về làm dâu, được bốn năm thì chồng chết, bà vẫn thủ tiết theo giáo dục Khổng môn. Tản Đà đã kinh qua hai hình thái đau khổ. Một là gia đình và xã hội đã so sánh mẹ của Tản Đà với tiết phu họ Phan. Hai là chính Tản Đà cũng có sự so sánh. Sự so sánh này là một điều tất yếu như Charles Blondel đã nhận định:
Có những trạng thái cảm kích, mặc dầu ta muốn hay không, được đoàn thể truyền khiến hay suy tiến cho ta.(14)
Trong khi ca tụng bà tiết phụ này, chính là lúc Tản Đà xót xa vì mẹ và em gái đã sống trong dòng nước đục:
Trời Nam sáng vẻ văn minh,
Họ Phan một gái hiển sinh trên đời.
Núi Sài Sơn là nơi quê quán,
Xe hương về họ Nguyễn làm dâu.
Dâu con một đạo chân tu,
Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai.
Chữ cầm sắt, sắc tài ưa đẹp,
Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà, Nhân sinh đệ nhất thực là,
Nhân gian một bóng trăng già soi chung.
Bốn năm chẵn tơ hồng sớm dứt,
Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời,
Đầu xanh riêng lẻ mình ai,
Tuổi xanh thoắt đã ra ngoài bốn mươi.
Duyên đã ngắn, năm dài vô tận,
Bể phù sinh chiếc bách sóng dồi.
May thuê vá mướn lần hồi,
Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu.
Áng son phấn tuyệt mù xa cách, Đạo kiên trinh qưyết gánh lấy mình,
Trăm năm một gối phong trần,
Ngàn năm để khách thoa quần một gương(15)
Tản Đà mất mẹ và em gái. Tản Đà thiếu tình mẫu tử. Tản Đà đã đi tìm một tình mẫu tử khác để thay thế tình mẫu tử đã mất. Tục lệ Việt Nam đặt cho người vợ cả nhiệm vụ trông nom, nuôi nấng con chồng. Các con của bà vợ bé phải gọi bà Cả bằng mẹ. Tản Đà đã nương nhờ vào bà Cả mà sống. Việc này đúng như nhận định của George Dumas:
Các nhu cầu khi tự xã hội hóa, khi điều chỉnh các thỏa mãn của chúng bằng cách tuân theo các phong tục và các định chế nào, tức là bảo vệ và làm dễ dàng chính sự thỏa mãn chúng (16) .
Năm 1922, đương làm chủ bút Hữu Thanh,Tản Đà đã xin từ chức để lui về quê cũphụng dưỡng mẹ già ( bà Cả). Ông đã gửi độc giả bức tâm thư trước khi rời Hữu Thanh:
Tôi có một mẹ già đã ngoại tám mươi tuổi, từ tháng Mai 1921, tôi về làm việc Hữu Thanh, đến rằm tháng 8 An Nam về nhà được một hôm, từ ấy đến nay lại vẫn ở luôn Hà Nội. Nếu tôi muốn đón mẹ tôi về Hà Nội, thời ngại về hai chữ “phong chúc”, nếu cứ như trong tám tháng giời vừa qua đó, thời không yên hai chữ ” thần hồn”. Vì cớ đó nay tôi xin thôi việc Hữu Thanh để về tính theo việc buôn bán cho được it thời giờ bó buộc, cho được it lỗi với luân thường.(17)
Việc Tản Đà từ chức Hữu Thanh là do mâu thuẫn nội bộ của Hội Công Thương Bắc Kỳ, chủ nhân ông của Hữu Thanh tạp chí. Lý do Tản Đà viện dẫn chỉ là đường nét văn hoa, tế nhị để khỏi nói ra thực tế phũ phàng. Dẫu sao, trong tâm Tản Đà, bà mẹ già vẫn có một địa vị khả kính, thay thế cho người mẹ phong trần.
Trong tiểu thuyết Giấc Mộng Con của ông, hình ảnh của mẹ già hiện rõ rệt. Tản Đà gửi thư khuyên vợ phụng dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu:
Quan hà xa cách, thấm thoắt đã hai năm. Độ nọ được thu anh Cả gửi sang, biết mẹ già vẫn thường được an khang, và số tiền gửi về năm ngoái, Hiền Khanh đã nhận lãnh, tôi lấy làm yên lòng. Bóng dâu đã xế ngang đầu, nhờ Hiền Khanh thay chữ mai sau cho, thời người ngoài bể khơi cũng như về đến phần hường vậy.. . . . . . . Thôi, càng nhớ chồng bao nhiêu, càng nên chiếu lấy mẹ già bấy nhiêu. Ngày tháng thoi đưa, không mấy chốc mà đôi ta họp mặt. Mấy lời trân trọng, ngàn dặm nước mây . (18)
Chị Tản Đà cho biết thuở nhỏ, Tản Đà được mẹ già nuôi nấng, thương yêu và Tản Đà đối với bà rất hiếu thảo, thật xứng với cái cái tên Hiếu của Tản Đà. Sau khi đã lập gia đình, Tản Đà vẫn ở với mẹ già để hôm sớm gần gũi. Những khi mẹ già đau ốm, Tản Đà vẫn thường túc trực bên giường bệnh để trông nom, săn sóc. Khi mẹ già mất, năm 1923, một mình Tản Đà lo việc ma chay. Đến ngày giỗ, các anh chị muốn góp phần giỗ, Tản Đà không nhận. Tản Đà muốn một mình gánh vác mọi việc. Tản Đà đã phủ nhận mẹ ruột của mình, và nương tựa vào mẹ già, tức bà Cả. Theo lời cụ huyện, Tản Đà thường nói với mọi người:
“Đời tôi chỉ có một người mẹ, đó là mẹ già”
Tản Đà là người đau khổ. Ông đã mất tình mẫu tử. Hơn nữa, người mẹ đã bỏ ông mà ra đi, gia nhập vào mộït môi trường không lành mạnh, bị luân lý và xã hội khinh miệt. Tản Đà đi tìm một tình mẫu tử khác ở người mẹ già. Dù đó là một biện pháp tốt, cũng chỉ có giá trị bên ngoài. Trái tim thơ ấu của Nguyễn Khắc Hiếu đã tan vỡ, không cách gì hàn gắn lại. Phương pháp nào đi nữa, ông cũng không có một tình mẫu tử đích thực. Cho nên suốt đời ông, ông vẫn đi tìm kiếm, một tình mẫu tử hoàn hảo và băng bó lại vết thướng từ thuở ấu thời. Tản Đà phải tìm kiếm tình mẫu tử trong Thực và trong Mộng. Ông đã mơ mộng một tình mẫu tử đúng như Freud nói “ Mộng là một ước vọng đã được thực hiện” .(19)
Gérard de Nerval nhận định:“ Mộng là cuộc đời thứ hai” (20)
Chính Tản đà đã xây một thế giới Mộng, trong đó mẹ con cùng chung sống trong hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình. Tại sao ông viết Lên Sáu, Lên Tám? Có lẽ mẹ cậu ấm Hiếu đã bỏ ra đi không cậu mới lên bốn, lên năm, cậu quá nhỏ, không hiểu được bất hạnh của mình. Đến khi lên sáu, lên tám, lên mười, cậu Nguyễn Khắc Hiếu mới nhận thức được khía cạnh đau khổ của một đứa con mất mẹ. Do vậy ông viết Lên Sáu, Lên Tám để tạo một thiên đường cho chính mình, và cho hạnh phúc nguyên thủy của tuổi thơ khắp trái đất. Thế giới đó chỉ cần có cha mẹ và con dưới một mái nhà, cùng sống vui vẻ bên nhau:
Ở nhà cùng hai thân, Ra vào quanh dưới chân. Đem lòng một tấc cỏ
Báo đáp cùng ba xuân. Ba xuân như mẹ cha
Tấc cỏ như thân ta,
Nhờ xuân, cỏ xanh tốt,
Có cỏ xuân vui hòa .(21)
Giấc mơ của Tản Đà rất đơn sơ, giản dị, là một hiện thực trong xã hội Việt Nam mấy ngàn năm, hàng triệu trẻ con đã được hưởng thụ. Ôâng mong ước có cha mẹ săn sóc cho con, và con cái cũng biết yêu thương cha mẹ :
Ta nay như cỏ xuân,
Ngày ngày chơi trước sân.
Nghĩ sao trong tấc dạ,
Cho vui lòng hai thân.
Khi vui nào được mấy,
Lo buồn như dễ thấy,
Cha lo con nên thương,
Mẹ buồn con chớ quấyTa nay còn trẻ thơ,
Chưa cho cha mẹ nhờ.
Cha mẹ lúc sai bảo,
Vui vẻ con dạ thưa.(22)
Đạo hiếu rộng như bể,
Thân ta còn nhỏ bé.
Nhớn lên mong về sau,
Trọn hiếu cùng cha mẹ.(23)
Tản Đà mơ ước có một người mẹ, hằng ngày tựa cửa trông con đi học về. Đối với Tản Đà đó một hạnh phúc mà ông hằng ước mơ:
Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa,
Mắt trông con đứa đứ về dần.
Xa xa con đã đến gần,
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn,
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà.(24)
Trong thực tế, Tản Đà xa lánh mẹ nhưng mặt khác, trong tiềm thức, không nhiều thì ít, ông đã biện hộ cho me ruột của ông và thông cảm cho bà và em gái. Phần lớn các gia đình thường có những vấn đề, nhất là các gia đình đa thê.Giữa bà cả và các bà thứ thường là một trận chiến liên miên bất tận. Trong gia đình Tản Đà, bà Cả và bà Hai là hai chị em cho nên họ đứng vào một phe. Một mình thân mẫu Tản Đà đứng một phe. Họ ghét thân mẫu Tản Đà vi bà đã chiếm đoạt tình yêu của hai bà. Hơn nữa họ còn oán thân mẫu Tản Đà vì lúc say mê cô đào hàng Thao Nam Định, ông đã phá tán nửa già tài ( theo lời chị Tản Đà). Có lẽ Tản Đà đã kết tội chế độ đa thê ở nước ta đã ra nỗi đau khổ cho thân mẫu Tản Đà.
Phong tục Á Đông lại thêm một điều lám gốc cho phần nhiều cái xấu của phong hóa, tức là « đàn ông có thể lấy nhiều vợ », « Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con » Một câu đó mới đọc lên tưởng như hạnh phúc của một già đình nào, song mà họa loạn của bao nhiêu gia đình thực gây nên ở đó. Đạo hữu ái của anh em đồng mẫu cõi đời cũng đã có, huống chi nữa anh em dị bào. Lại nữa, đồng bào vô học thức, con chồng dì ghẻ, mấy đời bánh đúc có xương. Cho nên đồng bạc trắng, lòng đời đen, cũng là nhẽ thường thiên hạ vậy .(25)
Chính chế độ đa thê đã phá hoại gia đình Tản Đà, đã đưa đến sự ghen tuông, thù hận và tranh chấp giữa bà Cả và thân mẫu Tản Đà khiến bà phải bỏ lại Tản Đà mà ngậm ngùi ra đi vào cuộc đời sương gió !Ngoài ra, bà Cả cũng có trách nhiệm vì bà Cả « thiếu lượng bao dung » :
Gia nhân ly tất khởi ư phụ nhân, nghĩa là trong nhà lìa tan, tất do ở đàn bà mà ra.. . Gần đây, trong xã hội ta, xem ra it có mấy cái gia đình được vui vẻ, cũng là vì bên nội tướng kém ru ? Thứ nhất là cái lượng bao dung của người đàn bà có kém, cho nên trong gia đình của người chồng, anh em chị em khó mà được xum vui cùng nhau .(26)
Ngoài gia đình ngày xưa, xã hội thời Tản Đà cũng đóng góp vào bất hạnh của gia đình Tản Đà và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khoảng cuối thế kỷ 19, quân Pháp đã gây chiến tranh khắp Việt Nam. Khắp nơi, người chết, nhà tan cửa nát. Khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, chiến tranh đã đến miền Bắc. Một số quan lại đầu hàng Pháp, cam tâm làm tay sai cho Pháp thì được no ấm. Trái lại, những người có sĩ khí, bất cộng tác với thực dân thì bị đói khổ. Hàng triệu trí thức thất nghiệp, hàng triệu viên chức sĩ quan và binh lính trở về thôn quê hay sống lây lất ở thành thị. Hàng vạn cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Trần Tế Xương không phải là một sử gia hay xã hội học, song qua mấy câu thơ cay đắng của ông, chúng ta đã thấy rõ thực cảnh xã hội thời bấy giờ:
-Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học chín người thôi !
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy giáo tư lương nhấp nhỏm ngồi. . .
-Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông nghè, ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Trần Tế Xương cũng đã nói rõ bản thân ông và gia đình ông, một trong hàng triệu gia đình bị phá sản, đã xuống tận đáy xã hội:
Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi !
Trong hoàn cảnh đó, một người đàn bà yếu đuối như mẹ Tản Đà làm sao chống chọi nổi sự suy sụp của một thời đại, và của một xã hội ? Sau này, đã già dặn trong đời, và trải qua những cơn khủng hoảng kinh tế, Tản Đà mới nhận thức đưọc bao đắng cay của thực tế. Từ duy lý tưởng, ông chuyển qua duy thực. Ông đã công nhận quan điểm của Mạnh Tử về mối tương quan giữa kinh tế và đạo đức :
Hằng sản cũng không, tâm cũng mất (27)
Ông không phải nhà xã hội nhưng tư tưởng Lão Phật đã chi phối tư tưởng và tình cảm của ông.Trên đàn ngôn luận, ông bênh vực cho vấn đề cơm áo, coi mọi người đều bình đẳng trong cuộc mưu sinh :
Cái thân con người đã phải có ăn, có mặc mới sống được, thời muốn cho được sống, phải có cách làm ra cơm, kiếm ra áo mà nuôi thân. Cách làm ra cơm, kiếm ra áo của người đời, dù lương thiện hay gian phi, dù cao thượng hay đê tiện, trăm đường nghìn lối, thật là khác nhau, nhưng đều là sinh kế, đều phải có mới được sống. Người ta không thể ăn rễ cây để sống thời cũng không thể lấy đạo đức làm sinh nhai .(28)
Tản Đà bây giờ thực sự đạt đến tâm Phật, yêu thương mọi chúng sinh, không phân biệt quý tiện, thiện ác :
Người ông lớn, đứa cu ly,
Nhọc mình, nhọc xác cũng vì cái ăn. Cuộc đời kinh tế khó khăn,
Người đời còn phải nhọc nhắn sớm hôm.
Những người khố rách áo ôm,
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng.
Người thương mại, kẻ canh nông,
Lo tiền, lo thóc năm cùng lại năm.
Ngày ngàyhai buổi đi làm,
Cụ thừa trong sở, ông tham trên tòa.
Người khiêu vũ, kẻ xướng ca,
Cùng là nghề nghiệp con nhà làm ăn.(29)
Như vậy, trong tiềm thức, Tản Đà đã bênh vực nghề nghiệp của mẹ và em gái. Luận bàn về các nghề nghiệp, trong Đài Gương, Tản Đà viết về phụ nữ:
Người con gái lúc sắp bước chân đi lấy chồng: ai cũng tính: một sơi tơ hồng, trăm năm chỉ thắm, đầu xanh đẹp lứa, tóc bạc cùng già. Cảnh ngộ như thế là thường thuận,, thiên hạ được như thế là phần nhiều. Nhưng nếu kìa như ai, không may mà duyên giời có hạn, giữa đường uyên bay, quành cọi sân thu, ngây thơ đôi chút. . ., . Dẫu cho cấy nhiều buôn to, tiền buôn thóc đặt cũng chư ở vững có yên lòng, huống chi nhà rách vách xiêu, chân ngay tay cứng, được bữa sớm không bữa tối. Khó lắm thay!(30)
Vấn đề xã hội này được Tản Đà đề cập đến trong các tác phẩm Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn. Dưới mắt Tản Đà, các ca kỹ đều đáng thương. Vân Anh, nhân vật trong Thề Non Nước vốn con nhà thi lễ, gặp cảnh sa sút, me đau yếu, đành phải dấn thân vào chốn Bình Khang:
Vân Anh một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem , thấy những đám mây bay tán loạn, thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm hoài vô hạn, bị cảnh đó khêu động, nghĩ đến thân thế con người ta nhiều khi hỗn lĩnh thật là quang sáng mà phải những cảnh ngộ ác nghiệt làm cho đến âm u, sầu thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô lại kia, bỗng nghĩ lại thân thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán loạn, bầu trời vô hạn biết đâu chỗ về.(TNN,3)
Vân Anh là hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà ở Bình Khang:
Hồ Gươm sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc ai mà không chơi. Sen tàn lá rách tả tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc thương. Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc, là hương với đời. Tủi thân, sen lại giận đời, Cho chi hương sắc, cho người trọng khinh.(TNN 9)
Tản Đà đã vin vào thuyết tài mệnh tương đố để giải thích về cuộc đời đắng cay của mẹ ruột và em gái:
Nghĩ là thân một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà trụy lạc vào xóm Bình Khang. . . Con tạo đã ghen ai, ghen cho thật quá nhẽ, đã ghét ai, ghét cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “ tài” còn có nên có nữa hay thôi? (TNN, 19).
Lời của một người khách năm xưa gửi cho Vân Anh, khen ngợi Vân Anh
Là một người tuấn tú trong nữ giới, về sự cũng đã có công phu, nếu không phải cảnh ngộ làm hại người thời như công nghiệp Ban Chiêu, tài danh như Tô Huệ, bắc nam dẫu có khác mà xưa nay định cũng không nhường nhau. Vậy mà con tạo ghen tài, không cho cành mai kia được riêng nở trên núi.(TNN,44)
Vân Anh trong Thề Non Nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện Thế Gian chính là mảnh đời của mẹ và em gái Tản Đà. Tản Đà thương xót họ vì họ mang số phận “hồng nhạn bạc mệnh”
Cái kiếp phong trần ngán biết bao,
Xuân lan thu cúc Đông liễu tây đào
Hóa công độc địa làm sao
Mà đem bạc mệnh buộc vào hồng nhan.(31)
Tản Đà thương xót họ vì cuộc đời phiêu bạt, và cô độc như cánh bèo nổi trôi trên mặt nước:
Bồng bềnh mặt nước chân mây,
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa .(32)
Bốn phương non nước quê người,
Chân mây mặt bể, bên giời một ai.
Ngọn trào lên xuống hôm mai,
Sớm khuya ai cũng đầy vơi dạ sầu! (33)
Họ là những kẻ cô đơn, nhất là chuổi ngày tàn, bóng xế:
Bên thì trời, chị em ơi, lận đận bên thì trời.
Non cao, nước chảy, ấy ai người tri âm!
Lúc đêm thanh ngồi dậy cô ôm cầm, Lòng tơ tơ tưởng âm thầm tiếng tơ.
Khúc đàn này vẫn khúc ngày xưa
Mà người đoái khúc bây giờ đâu xa?
Nhớ đầu xanh ( còn ) đương độ mười ba.
Cười giăng bóng xế, thương hoa thu tàn.
Thế mà cái phận hồng nhan !(34)
Lời người kỹ nữ trong Thành Sầu là một bức tranh tả thực cuộc sống và tâm tư đau khổ của các ca kỹ trong đó có mẹ và em gái Tản Đà:
Có lúc sầu mà sầu, nhiều lúc vui mà sầu. Trong lúc vui mà sầu thời thực là thái sầu. Mưa phùn chiều hôm, giăng thanh tiếng dế mà sầu, còn được phát tiết ra ngâm vịnh; nhất là những lúc trong bụng đương nghĩ đến nỗi gia hương, tình cốt nhục, sự thân thế, mà lúc cố khách đến chơi giở câu chuyện hoa nguyệt, thời trong một lúc ấy, bụng nghĩ một nơi, tai nghe đi một chiều; miệng có câu muốn nói không được nói, câu không nói mà phải nói cho nên cũng mặt phấn son, nhời hoa nguyệt, mà ruột tầm đã thắt như ngày ươm tơ. (35)
Phật và Lão cho đời là hư ảo. Sang hèn, giàu nghèo, vinh nhục cuối cùng chỉ là một cơn mộng, và điểm cuối cùng là cát bụi, là nấm cỏ khâu xanh rì, chính lúc này, con người thật sự bình đẳng:
Khắp nhân thế là nơi khổ ải,
Kiếp phù sinh nghĩ lại cũng như ai. (36)
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thúy Ái, Sông Tiền Đường có áy, bến Ô Giang. Gẫm nghìn xưa, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang? Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.(37)
Tuy vậy, kiếp cầm ca vẫn mang khổ ách chung thân, là đệ nhất khổ, đó là cái khổ của đóa hoa tàn tạ và cô độc. Cũng như Nguyễn Du khóc thập loại chúng sinh, Tản Đà đã than khóc cho số phận đào nương:
Nào những ai, Tóc xanh mây cuốn, Má đỏ hoa ghen. Làng chơi duyên đã hết duyên, Khúc sông trẳng gĩãi, con thuyền chơi vơi . . . thuở trước khách hồng nhan, Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen. Phong trần xui gặp bước luân lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.(38)
Những tình cảm, những tư tưởng của Tản Đà trong các tác phẩm có liên hệ đến đào nương như Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn đều có hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà. Các nhà tâm lý học đã chú ý đến vai trò của sự liên tưởng, và họ cho rằng tất cả các ý tưởng xuất hiện trong trí óc ta đều có một dây liên lạc. Chính trong sự liên tưởng, vô thức đã đóng một vai trò quan trọng.
Khi viết về Vân Anh trong Thề Non Nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện Thế Gian là lúc Tản Đà liên tưởng đến mẹ và em gái. Tản Đà thương xót họ chính là Tản Đà thương xót mẹ và em gái vì hồng nhan bạc phận mà phải đày đọa trong chốn phong trần.
Sau khi thân phụ mất, mẹ đem em gái trở lại xóm Bình Khang. Tản Đà lúc bấy giờ còn bé lắm, nới lên tư, lên năm đã mất mẹ, mất em. Tản Đà đau đớn, và tủi nhục. Ông cũng như xã hội, gia đình và luân lý kết tội mẹ đã sống trong chốn bùn nhơ. Và cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm Tản Đà tủi hổ khi thấy mẹ và em gái sống trong bóng đêm của thế giới Bình Khang. Ngoài ra, cái mộng làm nhà đạo đức truyền báø thiên lương, mộng tô bồi bức dư đồ rách đã bị hình ảnh của mẹ và em gái làm mất đi vẻ hào quang và nhiệt tình.
Tình mẫu tử của Tản Đà bị ức chế. Trong thực tế, ông xa lánh mẹ, kết tội me, ông nương náu bà Cả, coi bà như người mẹ đẻ của mình. Nhưng tình mẫu tử đó không phải là tình mẫu tử đích thực. Trong tiềm thức, ông luôn tìm kiếm một tình mẫu tử chân thực. Trong thế giớùi Mộng Mơ của Thơ và Tiểu thuyết, Tản Đà đãï tạo đuợc mối tương quan thân thiết với các đào nương.. Ông bênh vực các đào nương bởi vì đó là cuộc đời, là hình ảnh của mẹ và em gái Tản Đà, những con người tài hoa nhưng bất hạnh.
___
CHÚ THÍCH
(1).Nguyễn Mạnh Bổng cho rằng lúc ấy Nguyễn Danh Kế tiên sinh ngồi tri phủ Lý Nhân (Thân thế và sự nghiệp văn chương của thi sĩ Tản Đà. TDVV I, 1958, 8) (2).Lãng Nhân Phùng Tất Đắc theo tài liệu của thân nhân Trịnh Đình Rư, thì bà phủ Ba tên là Lưu Thị Hiền, quán làng Phù Lưu, phủ Mỹ Đức, Hà Đông. Giai Thoại Làng Nho. Nam Chi. Sai gon, 1966, 696.
(3). Bà Nhàn Khanh là nữ sĩ đương thời, quê ở Vân Đình, Ứng Hoè, Hà Đông, con quan phó đô ngự sử họ Dương ở Vân Đình, em gái quan thượng thư Dương Khuê, và quan Thái tử thiếu bảo Dương Lâm, kết duyên cùng cử nhân Trịnh Đình Kỳ, sinh ra cử nhân Trịnh Đình Rư và Trinh Thúc Hiến. Một số thơ của bà đưọc đăng trong Nam Phong và Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.
(4).Nguyễn Mạnh Bổng, TDVV I, 8
(5). Bà là thân mẫu anh Nguyễn Hổ Dư, sinh viên Đai học Văn khoa Saigon trong khoảng 1965, nhà ở 312 Tôn Đản, Khánh Hội.
(6). Nguyễn Mạnh Bổng. TDVV I.A Châu, Saigon.1958, 10.
(7).Nguyễn Mạnh Bổng. TDVV I.A Châu, Saigon.1958, 10-11.
(8). Phan Kế Bính. Việt Nam Phong Tục. Phong trào văn hóa. Saigon 19760, 354-355.
(9). Nguyễn Tuân, Chiêc Lư Đồng Mắt Cua. Hàn Thuyên, HàNội, 1941, 67
(10). Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Việt Nam Ca Trù Lược Khảo. Saigon. 1962, 449.
(11). Tiết phụ hành.TDVV 2, 56
(12).Đài Gương, 47.
(13).Đài gương. 49.Bà chị Tản Đà kể rằng khi làm tri phủ Xuân Trường (1), Nam Định, thân phụ bà thường say mê thú hát ả đào. Yêu nhịp hát câu ca, ông yêu luôn cô đào hàng Thao Nam Định. Nàng rất trẻ đẹp, tuổi độ 20, tên là Nghiêm (2). Lúc bấy giờ Nguyễn Danh Kế tiên sanh đã ngoại bốn mươi, việc tề gia nội trợ đã có bà cả và bà hai vốn là hai chị em ruột. Ngày xưa cổ nhân có tục đa thê cho nên chẳng bao lâu nàng danh ca đã trở thành vị phu nhân của quan phủ, tục danh là bà phủ Ba. Bà giỏi xướng ca, lại rành thi họa. Bà cùng nữ sĩ Nhàn Khanh (3) xướng họa. Khi ở Vân Đình, bà Nhàn Khanh đã gửi bà phủ Ba một bài thơ:
Ai lên Bất Bạt nhắn nhe cùng,
Nhắn hỏi cùng ai có nhớ không? Nửa bước xa xa bằng mấy dặm,
Một ngày đằng đẵng ví ba đông.
Giọng thơ tri kỷ say mê mệt,
Ngọn lửa tương tư đốt cháy nồng.
Khắc khoải năm canh lòng luống những,
Thư tình mở mở lại phong phong.
Bà phủ Ba đáp lại:
Đêm qua vơ vẩn chốn thư đường, Mong mỏi chung tình chẳng thấy sang.
Sáu khắc mơ màng người hảo hữu,
Năm canh tơ tưởng chốn Đình giang.
Trông trăng bát ngát thương người ngọc,
Thấy nước long lanh nhớ bạn vàng.
Hai chữ tương tư khôn xiết kể,
Khối tình chi để một ai mang.(4)
Qua thơ xướng hoạ kể trên, chúng ta thấy bà phủ Ba cũng là tay tài hoa. Lại nữa, một vị phu nhân dòng dõi trâm anh thế phiệt như bà Nhàn Khanh lại có thơ xướng họa cùng một phu nhân xuất thân ca kỹ, cũng có thể do giao tình đậm đà giữa quan án và gia đình họ Trịnh, họ Dương mà cũng là do lòng liên tài quá lớn vậy.
Trong mấy năm trời sống với quan án, bà án đã có bốn con, gồm hai trai, hai gái: Nguyễn Mạn , Nguyễn Thị Chính , Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn thị Trang . Khi quan án từ trần, thân mẫu Tản Đả tuổi ngoại ba mươi, bà quyết định sống trọn đời chung thủy với người chồng quá cố. Nhưng theo chị Tản Đà, đươc chừng một năm, bà đột nhiên ra đi, mang theo cô gái út, trở lại xóm Binh Khang. Nghe đâu về sau, bà trở thành bà chủ một nhà hát tại Bắc Ninh.
Tại sao gia đình Tản Đà lại xảy ra tấn bi kịch đó? Một cụ bà người (5) cùng làng với Tản Đà nói rằng do mối bất hòa gia đình. Mất chồng, mất nơi nương tựa, người tiểu thiếp không tài sản, không thế lực kia làm sao chịu được tiếng bấc, tiếng chì của bà vợ cả? Ông Nguyễn Mạnh Bổng, anh vợ của Tản Đà cũng chung ý kiến trên. Ông cho rằng thân mẫu của Tản Đà phải cất bước ra đi “ vì một sự không hòa trong gia đình” (6). Nhưng chị của Tản Đà lại cho rằng gia đình vẫn êm ấm, không hề có việc xích mích. Thân mẫu Tản Đà ra đi vì “ ngựa quen đường cũ”.
Dẫu vì nguyên do nào đi nữa, việc thân mẫu Tản Đà trở lại xóm Bình Khang là một thực tại đã làm Tản Đà đau khổ khôn nguôi. Xã hội Việt Nam vốn coi khinh nghề sênh phách đàn hát vì người ta cho rằng “xướng ca vô loại”. Mặc dầu các sĩ phu thường lấy các đào nương làm hầu thiếp, các nho gia thường kết tội các đào nương, coi đào nương và kỹ nữ là một. Xã hội Việt Nam và luân lý Nho giáo đã lên án thân mẫu Tản Đà. Lại nữa, cái danh giá của gia tộc ông, cha án sát, anh đốc học và ông tổ mấy đời đã từng là Bình chương, Tham tụng, danh giá là thế mà nay mẹ và em lại làm ca kỹ. Việc này là một thực tại đã làm ông đau khổ. Ông Nguyễn Mạnh Bổng đã cho ta biết nỗi đau khổ trong nội tâm Tản Đà:
Đối với việc cụ bà và cô Trang hành động như vậy,Tản Đà tiên sinh lúc còn trẻ tuổi, ở với ông anh cả là Nguyễn Tái Tích ( đỗ phó bảng, làm tri huyện, sau về giáo thụ, thăng đốc học ) vốn nung đúc ở trong đạo Khổng Mạnh, lấy làm một sự không chính đáng. Cho nên tâm cảnh tiên sinh lúc nào cũng u uất, đau đớn, buồn rầu, không muốn biết đến, không muốn nói ra. Vì tiên sinh là một người đã có cái ý muốn làm “ Á châu Khổng phu tử chi đồ” từ lúc bé, nên phàm cái gì trái với đạo đức Khổng Mạnh, tiên sinh đều cho là một sự không trong sạch cả. (7)
Phan Kế Bính đã mô tả cuộc sống của các đào nương nơi Bình Khang là một nơi “ sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh” như Thúy Kiều ở lầu xanh. Ông viết rằng Bình Khang là một nơi vui chơi suồng sã, các quan viên và đào nương “ có khi quàng vai bá cổ nhau mà mời, hoặc hôn nhau để tỏ lòng yêu mến” và “lấy cách quàng vai bá cổ, kề đùi, kề vế làm vui, lấy lời ong bướm lả lơi, giăng hoa bỡn cợt làm thích” (8). Không biết thời Chu Mạnh Trinh, Cao Bá Quát, người ta đi hát ả đào như thế nào, còn thời Pháp thuộc, hát ả đào không còn là một nghệ thuật nữa. Trong Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Nguyễn Tuân đã cho ta những nét phác họa rất trung thực:
Những ngưòi bạn trong trường tác hí của tôi, cái đức huyên náo không thể chê vào đâu được. Họ đánh trống như đám hỏa đầu quân băm thịt viên trên cái quầy bếp một hiệu cao lâu Quảng Đông to lớn. Họ nói chuyện tâm sự với nhau mà như hầu sáng hô tiền hàng. Họ vần cô đào, họ chơi hoa như lính đi cắt cỏ ngựa về cho ngựa ăn. Nhà hát là cái chợ.(9)
Những lời phê bình, mô tả chung chung như thế có lẽ đến tai Tản Đà.Nhưng nặng nề hơn, một vài kẻ đã nêu đích danh gia đình Tản Đà, mẹ và em gái Tản Đà ra để làm đề tài. Người ta vô tình hay cố ý làm vỡ vết thương lòng của Tản Đà như trường hợp phó bảng Trần Tán Bình (1869- 1935 ). Một hôm ông phó bảng họ Trần đi hát gặp cô Trang đã làm một bài hát nói:
Có phải cô Trang em ấm Hiếu?
Người xinh xinh yểu điệu dáng con nhà.
Vì đâu vương lấy nợ tài hoa?
Bắt luân lạc, trời già âu cũng độc!
Cha án sát, anh thời đốc học, Nền đỉnh chung bỗng chốc hóa truân chiên.
Cất chén quỳnh nhớ bạn đồng niên,
Dục lòng khách bên đèn sa nước mắt.
Nhớ bạn, thấy em như thấy mặt,
Dừng roi chầu, lặng ngắt một hồi.
Đời người đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi.
Hoa xuân em giữ lấy thì!(10)
Vì xót thương má hồng gặp bước truân chuyên hay mai mỉa gia đình người ta mà ông phó bảng viết bài này? Dẫu sao, ông phó bảng đã làm một việc thiếu tế nhị nếu ông đọc bài này cho cô Trang nghe hay phổ biến bài này trong quần chúng!
Thực tại xã hội và luân lý Khổng Mạnh đã làm cho Tản Đà đau khổ, tủi nhục khiến ông oán ghét mẹ. Ngoài ra, yếu tố gia tộc cũng làm cho lòng Tản Đà nát tan. Chính cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm cho Tản Đà đau lòng vì mẹ và em gái sống trong chốn Bình Khang. Chị của Tản Đà đã cho chúng tôi vài chi tiết.
Ngày 17 tháng giêng năm bính thìn, niên hiệu Duy Tân thú mười (20-3-1916 ), ông Nguyễn Tái Tích từ trần. Gia đình phải đem linh cữu từ Hà Nội về quê bằng tàu Bạch Thái Bưởi. Nghe tin ông bảng mất, thân mẫu Tản Đà xuống tàu đưa tiễn. Thấy bóng mẹ, Tản Đà lặng lẽ bỏ lên tàu. Các chị em phải khuyên bà ra về, Tản Đà mới trở lại tàu. Trước khi ông Nguyễn Tái Tích mất, Tản Đà phải cưới vợ cho an lòng anh.
Vợ của Tản Đà là con gái viên tri huyện Nguyễn Mạnh Hướng , quê ở làng Hội Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Đông. Hôn lễ cử hành ngày rằm tháng chạp năm ất mão, niên hiệu Duy Tân thứ chín tức ngày 17-2-1916. Được tin con trai cưới vợ, bà vội vàng về dự lễ cưới với hy vọng tặng cô dậu một món quà, nhưng Tản Đà cương quyết ngăn cản. Tản Đà bảo rằng nếu tân nưong nhận “ người đó “ là mẹ thì coi như hôn sự bất thành. Rốt cuộc, người mẹ bất hạnh kia đành thui thủi ra về trong khi tiếng pháo nổ vang, hai họ nâng ly mừng tân lang và tân nương bách niên giai lão! Cho đến khi mẹ mất tại nhà ông anh là Nguyễn Mạn, tại Thái Nguyên, Tản Đà cũng không lên nhìn mặt mẹ lần cuối. Tản Đà chỉ nhắn người nhà nhờ anh trông nom, lo liệu mọi sự. Lúc này, Tản Đà ngoài ba mươi tuổi.
Bà Nguyễn Triệu Quất con gái Tản Đà cho biết rằng Tản Đà chỉ yêu con trai mà ghét bỏ con gái. Chính Tản Đà cũng nói với mọi người rằng ông yêu con trai, rất con gái. Khi sinh đứa con gái đầu lòng, bà Tản Đà phải đem gửi bên ngoại. Hai cô Nguyễn Triệu Quất và Nguyễn Thúy Ngọc ít khi gần cha. Hễ thấy bóng cha, hai cô phải chạy trốn. Bà Nguyễn Triệu Quất nói rằng sở dĩ Tản Đà ghét con gái vì ngày xưa mẹ và em gái đã làm cho Tản Đà đau đớn, tủi nhục.
Trong cuộc đời, Tản Đà đã xa lánh mẹ, trong tiềm thức ông, khoảng cách này càng rộng lớn hơn. Ông luận về thế đạo, ông trách cứ nhân tâm nghĩa là đã liên tưởng đến mẹ và em, gián tiếp đau khổ, buồn tủi vì mẹ và em gái đã sống trái với luân lý đạo đức. Khi ông luận về chữ trinh, nghĩa là ông cho rằng mẹ và em gái đắm mình trong chốn bùn nhơ, thất trinh, thất tiết:
Trăm năm trong cõi người ta,
Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh (11)
Tính hạnh người đàn bà có một cái trọng nhất là chữ trinh; đạo người đàn bà đối với chồng có một cái trọng nhất là chữ trinh. Trinh nghĩa là chính chuyên. Chính thời không gian tà, là giữ tính hạnh của mình cho nhất đức. Chuyên thời không có lòng nào với người khác. Là giữ tình nghĩa với chồng cho nhất tâm. Một chữ trinh của đàn bà, từ xưa đến nay, cả đông lẫn tây, đời nào cũng phải quý, nước nào cũng phải quý, nước nào cũng phải chuộng. Chữ Trinh đáng quý và đáng chuộng thời tự người đàn bà càng nên biết quý chuộng là phải. Ngọc lành đã được giá, nên giữ sao cho sạch vết, khỏi phụ lòng người mua. Trăm năm đà kết nghĩa đá vàng, sông chưa cạn, đá chưa mòn, mà nỡ đem một tấm lòng son, yêu riêng sẻ giấu, thời soi gương thẹn với gương,đeo hoa thẹn với hoa, đứng giăng thẹn với giăng, ngồi đèn thẹn với đèn, đêm nằm thẹn với chăn, ngày ngày đi thẹn với bóng, trong đời người ta có một cái quý nhất mà dứt tình cho đang! Chẳng qua cái ngòi vật dục khêu ở ngoài, ngọn lửa vật dục bốc ở trong làm cho một chút lòng trinh đương đỏ như son mà cháy ra than, tàn ra tro, tan ra khói. Tiếc thay! (12)
Nhiều người viện cớ hoàn cảnh khó khăn mà dấn bước vào bún nhơ. Khi viết Đài Gương, Tản Đà ngầm trách mẹ không vững ý chí mà giữ đạo đức, không phán đấu với hoàn cảnh khó khăn.
Cảnh ngộ một đời người ta, rất là không có thường. Cảnh ngộ không có thường mà đức hạnh giữ được thường thời chỗ đó mới là chỗ hơn người.. . .Đời người mà phải lúc biến thật là không may, nhưng gió cả mới biết cây cứng mềm, thời chữ trinh đến lúc ấy mới càng tỏ. Than ôi, chỉ thắm trăm năm, chưa xe đã dứt, đầu xanh đôi lứa, đương họp mà tan. Dẫu luật lệ của vua chúa chưa buộc người lấy chữ trinh. . . Làm người nên biết nghĩa ngàn thu là quý, đàn bà chỉ có một chút đó có thể sánh được cái trung, cái hiếu, cái anh hùng bên con trai.
Nghĩ sao cho được hơn người, Tiếng thơm để lại muôn đời ngơị khen (13)
Và đây là một trường hợp tương phản làm nổi bật cuộc sống đen tối của thân mẫu và em gái thi sĩ.Trong gia tộc Tản Đà có bà họ Phan về làm dâu, được bốn năm thì chồng chết, bà vẫn thủ tiết theo giáo dục Khổng môn. Tản Đà đã kinh qua hai hình thái đau khổ. Một là gia đình và xã hội đã so sánh mẹ của Tản Đà với tiết phu họ Phan. Hai là chính Tản Đà cũng có sự so sánh. Sự so sánh này là một điều tất yếu như Charles Blondel đã nhận định:
Có những trạng thái cảm kích, mặc dầu ta muốn hay không, được đoàn thể truyền khiến hay suy tiến cho ta.(14)
Trong khi ca tụng bà tiết phụ này, chính là lúc Tản Đà xót xa vì mẹ và em gái đã sống trong dòng nước đục:
Trời Nam sáng vẻ văn minh,
Họ Phan một gái hiển sinh trên đời.
Núi Sài Sơn là nơi quê quán,
Xe hương về họ Nguyễn làm dâu.
Dâu con một đạo chân tu,
Áo nâng khuya sớm, canh hầu hôm mai.
Chữ cầm sắt, sắc tài ưa đẹp,
Vẻ trâm anh một nếp đôi nhà, Nhân sinh đệ nhất thực là,
Nhân gian một bóng trăng già soi chung.
Bốn năm chẵn tơ hồng sớm dứt,
Kẻ tri âm lánh khuất cõi đời,
Đầu xanh riêng lẻ mình ai,
Tuổi xanh thoắt đã ra ngoài bốn mươi.
Duyên đã ngắn, năm dài vô tận,
Bể phù sinh chiếc bách sóng dồi.
May thuê vá mướn lần hồi,
Ngày trông lá rụng, đêm ngồi gió thu.
Áng son phấn tuyệt mù xa cách, Đạo kiên trinh qưyết gánh lấy mình,
Trăm năm một gối phong trần,
Ngàn năm để khách thoa quần một gương(15)
Tản Đà mất mẹ và em gái. Tản Đà thiếu tình mẫu tử. Tản Đà đã đi tìm một tình mẫu tử khác để thay thế tình mẫu tử đã mất. Tục lệ Việt Nam đặt cho người vợ cả nhiệm vụ trông nom, nuôi nấng con chồng. Các con của bà vợ bé phải gọi bà Cả bằng mẹ. Tản Đà đã nương nhờ vào bà Cả mà sống. Việc này đúng như nhận định của George Dumas:
Các nhu cầu khi tự xã hội hóa, khi điều chỉnh các thỏa mãn của chúng bằng cách tuân theo các phong tục và các định chế nào, tức là bảo vệ và làm dễ dàng chính sự thỏa mãn chúng (16) .
Năm 1922, đương làm chủ bút Hữu Thanh,Tản Đà đã xin từ chức để lui về quê cũphụng dưỡng mẹ già ( bà Cả). Ông đã gửi độc giả bức tâm thư trước khi rời Hữu Thanh:
Tôi có một mẹ già đã ngoại tám mươi tuổi, từ tháng Mai 1921, tôi về làm việc Hữu Thanh, đến rằm tháng 8 An Nam về nhà được một hôm, từ ấy đến nay lại vẫn ở luôn Hà Nội. Nếu tôi muốn đón mẹ tôi về Hà Nội, thời ngại về hai chữ “phong chúc”, nếu cứ như trong tám tháng giời vừa qua đó, thời không yên hai chữ ” thần hồn”. Vì cớ đó nay tôi xin thôi việc Hữu Thanh để về tính theo việc buôn bán cho được it thời giờ bó buộc, cho được it lỗi với luân thường.(17)
Việc Tản Đà từ chức Hữu Thanh là do mâu thuẫn nội bộ của Hội Công Thương Bắc Kỳ, chủ nhân ông của Hữu Thanh tạp chí. Lý do Tản Đà viện dẫn chỉ là đường nét văn hoa, tế nhị để khỏi nói ra thực tế phũ phàng. Dẫu sao, trong tâm Tản Đà, bà mẹ già vẫn có một địa vị khả kính, thay thế cho người mẹ phong trần.
Trong tiểu thuyết Giấc Mộng Con của ông, hình ảnh của mẹ già hiện rõ rệt. Tản Đà gửi thư khuyên vợ phụng dưỡng mẹ già cho tròn đạo hiếu:
Quan hà xa cách, thấm thoắt đã hai năm. Độ nọ được thu anh Cả gửi sang, biết mẹ già vẫn thường được an khang, và số tiền gửi về năm ngoái, Hiền Khanh đã nhận lãnh, tôi lấy làm yên lòng. Bóng dâu đã xế ngang đầu, nhờ Hiền Khanh thay chữ mai sau cho, thời người ngoài bể khơi cũng như về đến phần hường vậy.. . . . . . . Thôi, càng nhớ chồng bao nhiêu, càng nên chiếu lấy mẹ già bấy nhiêu. Ngày tháng thoi đưa, không mấy chốc mà đôi ta họp mặt. Mấy lời trân trọng, ngàn dặm nước mây . (18)
Chị Tản Đà cho biết thuở nhỏ, Tản Đà được mẹ già nuôi nấng, thương yêu và Tản Đà đối với bà rất hiếu thảo, thật xứng với cái cái tên Hiếu của Tản Đà. Sau khi đã lập gia đình, Tản Đà vẫn ở với mẹ già để hôm sớm gần gũi. Những khi mẹ già đau ốm, Tản Đà vẫn thường túc trực bên giường bệnh để trông nom, săn sóc. Khi mẹ già mất, năm 1923, một mình Tản Đà lo việc ma chay. Đến ngày giỗ, các anh chị muốn góp phần giỗ, Tản Đà không nhận. Tản Đà muốn một mình gánh vác mọi việc. Tản Đà đã phủ nhận mẹ ruột của mình, và nương tựa vào mẹ già, tức bà Cả. Theo lời cụ huyện, Tản Đà thường nói với mọi người:
“Đời tôi chỉ có một người mẹ, đó là mẹ già”
Tản Đà là người đau khổ. Ông đã mất tình mẫu tử. Hơn nữa, người mẹ đã bỏ ông mà ra đi, gia nhập vào mộït môi trường không lành mạnh, bị luân lý và xã hội khinh miệt. Tản Đà đi tìm một tình mẫu tử khác ở người mẹ già. Dù đó là một biện pháp tốt, cũng chỉ có giá trị bên ngoài. Trái tim thơ ấu của Nguyễn Khắc Hiếu đã tan vỡ, không cách gì hàn gắn lại. Phương pháp nào đi nữa, ông cũng không có một tình mẫu tử đích thực. Cho nên suốt đời ông, ông vẫn đi tìm kiếm, một tình mẫu tử hoàn hảo và băng bó lại vết thướng từ thuở ấu thời. Tản Đà phải tìm kiếm tình mẫu tử trong Thực và trong Mộng. Ông đã mơ mộng một tình mẫu tử đúng như Freud nói “ Mộng là một ước vọng đã được thực hiện” .(19)
Gérard de Nerval nhận định:“ Mộng là cuộc đời thứ hai” (20)
Chính Tản đà đã xây một thế giới Mộng, trong đó mẹ con cùng chung sống trong hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình. Tại sao ông viết Lên Sáu, Lên Tám? Có lẽ mẹ cậu ấm Hiếu đã bỏ ra đi không cậu mới lên bốn, lên năm, cậu quá nhỏ, không hiểu được bất hạnh của mình. Đến khi lên sáu, lên tám, lên mười, cậu Nguyễn Khắc Hiếu mới nhận thức được khía cạnh đau khổ của một đứa con mất mẹ. Do vậy ông viết Lên Sáu, Lên Tám để tạo một thiên đường cho chính mình, và cho hạnh phúc nguyên thủy của tuổi thơ khắp trái đất. Thế giới đó chỉ cần có cha mẹ và con dưới một mái nhà, cùng sống vui vẻ bên nhau:
Ở nhà cùng hai thân, Ra vào quanh dưới chân. Đem lòng một tấc cỏ
Báo đáp cùng ba xuân. Ba xuân như mẹ cha
Tấc cỏ như thân ta,
Nhờ xuân, cỏ xanh tốt,
Có cỏ xuân vui hòa .(21)
Giấc mơ của Tản Đà rất đơn sơ, giản dị, là một hiện thực trong xã hội Việt Nam mấy ngàn năm, hàng triệu trẻ con đã được hưởng thụ. Ôâng mong ước có cha mẹ săn sóc cho con, và con cái cũng biết yêu thương cha mẹ :
Ta nay như cỏ xuân,
Ngày ngày chơi trước sân.
Nghĩ sao trong tấc dạ,
Cho vui lòng hai thân.
Khi vui nào được mấy,
Lo buồn như dễ thấy,
Cha lo con nên thương,
Mẹ buồn con chớ quấyTa nay còn trẻ thơ,
Chưa cho cha mẹ nhờ.
Cha mẹ lúc sai bảo,
Vui vẻ con dạ thưa.(22)
Đạo hiếu rộng như bể,
Thân ta còn nhỏ bé.
Nhớn lên mong về sau,
Trọn hiếu cùng cha mẹ.(23)
Tản Đà mơ ước có một người mẹ, hằng ngày tựa cửa trông con đi học về. Đối với Tản Đà đó một hạnh phúc mà ông hằng ước mơ:
Tan buổi học, mẹ ngồi tựa cửa,
Mắt trông con đứa đứ về dần.
Xa xa con đã đến gần,
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn,
Chồng chồng, vợ vợ, con con một nhà.(24)
Trong thực tế, Tản Đà xa lánh mẹ nhưng mặt khác, trong tiềm thức, không nhiều thì ít, ông đã biện hộ cho me ruột của ông và thông cảm cho bà và em gái. Phần lớn các gia đình thường có những vấn đề, nhất là các gia đình đa thê.Giữa bà cả và các bà thứ thường là một trận chiến liên miên bất tận. Trong gia đình Tản Đà, bà Cả và bà Hai là hai chị em cho nên họ đứng vào một phe. Một mình thân mẫu Tản Đà đứng một phe. Họ ghét thân mẫu Tản Đà vi bà đã chiếm đoạt tình yêu của hai bà. Hơn nữa họ còn oán thân mẫu Tản Đà vì lúc say mê cô đào hàng Thao Nam Định, ông đã phá tán nửa già tài ( theo lời chị Tản Đà). Có lẽ Tản Đà đã kết tội chế độ đa thê ở nước ta đã ra nỗi đau khổ cho thân mẫu Tản Đà.
Phong tục Á Đông lại thêm một điều lám gốc cho phần nhiều cái xấu của phong hóa, tức là « đàn ông có thể lấy nhiều vợ », « Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con » Một câu đó mới đọc lên tưởng như hạnh phúc của một già đình nào, song mà họa loạn của bao nhiêu gia đình thực gây nên ở đó. Đạo hữu ái của anh em đồng mẫu cõi đời cũng đã có, huống chi nữa anh em dị bào. Lại nữa, đồng bào vô học thức, con chồng dì ghẻ, mấy đời bánh đúc có xương. Cho nên đồng bạc trắng, lòng đời đen, cũng là nhẽ thường thiên hạ vậy .(25)
Chính chế độ đa thê đã phá hoại gia đình Tản Đà, đã đưa đến sự ghen tuông, thù hận và tranh chấp giữa bà Cả và thân mẫu Tản Đà khiến bà phải bỏ lại Tản Đà mà ngậm ngùi ra đi vào cuộc đời sương gió !Ngoài ra, bà Cả cũng có trách nhiệm vì bà Cả « thiếu lượng bao dung » :
Gia nhân ly tất khởi ư phụ nhân, nghĩa là trong nhà lìa tan, tất do ở đàn bà mà ra.. . Gần đây, trong xã hội ta, xem ra it có mấy cái gia đình được vui vẻ, cũng là vì bên nội tướng kém ru ? Thứ nhất là cái lượng bao dung của người đàn bà có kém, cho nên trong gia đình của người chồng, anh em chị em khó mà được xum vui cùng nhau .(26)
Ngoài gia đình ngày xưa, xã hội thời Tản Đà cũng đóng góp vào bất hạnh của gia đình Tản Đà và xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Khoảng cuối thế kỷ 19, quân Pháp đã gây chiến tranh khắp Việt Nam. Khắp nơi, người chết, nhà tan cửa nát. Khi quân Pháp chiếm thành Hà Nội, chiến tranh đã đến miền Bắc. Một số quan lại đầu hàng Pháp, cam tâm làm tay sai cho Pháp thì được no ấm. Trái lại, những người có sĩ khí, bất cộng tác với thực dân thì bị đói khổ. Hàng triệu trí thức thất nghiệp, hàng triệu viên chức sĩ quan và binh lính trở về thôn quê hay sống lây lất ở thành thị. Hàng vạn cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Trần Tế Xương không phải là một sử gia hay xã hội học, song qua mấy câu thơ cay đắng của ông, chúng ta đã thấy rõ thực cảnh xã hội thời bấy giờ:
-Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học chín người thôi !
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy giáo tư lương nhấp nhỏm ngồi. . .
-Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông nghè, ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Trần Tế Xương cũng đã nói rõ bản thân ông và gia đình ông, một trong hàng triệu gia đình bị phá sản, đã xuống tận đáy xã hội:
Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi !
Trong hoàn cảnh đó, một người đàn bà yếu đuối như mẹ Tản Đà làm sao chống chọi nổi sự suy sụp của một thời đại, và của một xã hội ? Sau này, đã già dặn trong đời, và trải qua những cơn khủng hoảng kinh tế, Tản Đà mới nhận thức đưọc bao đắng cay của thực tế. Từ duy lý tưởng, ông chuyển qua duy thực. Ông đã công nhận quan điểm của Mạnh Tử về mối tương quan giữa kinh tế và đạo đức :
Hằng sản cũng không, tâm cũng mất (27)
Ông không phải nhà xã hội nhưng tư tưởng Lão Phật đã chi phối tư tưởng và tình cảm của ông.Trên đàn ngôn luận, ông bênh vực cho vấn đề cơm áo, coi mọi người đều bình đẳng trong cuộc mưu sinh :
Cái thân con người đã phải có ăn, có mặc mới sống được, thời muốn cho được sống, phải có cách làm ra cơm, kiếm ra áo mà nuôi thân. Cách làm ra cơm, kiếm ra áo của người đời, dù lương thiện hay gian phi, dù cao thượng hay đê tiện, trăm đường nghìn lối, thật là khác nhau, nhưng đều là sinh kế, đều phải có mới được sống. Người ta không thể ăn rễ cây để sống thời cũng không thể lấy đạo đức làm sinh nhai .(28)
Tản Đà bây giờ thực sự đạt đến tâm Phật, yêu thương mọi chúng sinh, không phân biệt quý tiện, thiện ác :
Người ông lớn, đứa cu ly,
Nhọc mình, nhọc xác cũng vì cái ăn. Cuộc đời kinh tế khó khăn,
Người đời còn phải nhọc nhắn sớm hôm.
Những người khố rách áo ôm,
Mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng.
Người thương mại, kẻ canh nông,
Lo tiền, lo thóc năm cùng lại năm.
Ngày ngàyhai buổi đi làm,
Cụ thừa trong sở, ông tham trên tòa.
Người khiêu vũ, kẻ xướng ca,
Cùng là nghề nghiệp con nhà làm ăn.(29)
Như vậy, trong tiềm thức, Tản Đà đã bênh vực nghề nghiệp của mẹ và em gái. Luận bàn về các nghề nghiệp, trong Đài Gương, Tản Đà viết về phụ nữ:
Người con gái lúc sắp bước chân đi lấy chồng: ai cũng tính: một sơi tơ hồng, trăm năm chỉ thắm, đầu xanh đẹp lứa, tóc bạc cùng già. Cảnh ngộ như thế là thường thuận,, thiên hạ được như thế là phần nhiều. Nhưng nếu kìa như ai, không may mà duyên giời có hạn, giữa đường uyên bay, quành cọi sân thu, ngây thơ đôi chút. . ., . Dẫu cho cấy nhiều buôn to, tiền buôn thóc đặt cũng chư ở vững có yên lòng, huống chi nhà rách vách xiêu, chân ngay tay cứng, được bữa sớm không bữa tối. Khó lắm thay!(30)
Vấn đề xã hội này được Tản Đà đề cập đến trong các tác phẩm Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn. Dưới mắt Tản Đà, các ca kỹ đều đáng thương. Vân Anh, nhân vật trong Thề Non Nước vốn con nhà thi lễ, gặp cảnh sa sút, me đau yếu, đành phải dấn thân vào chốn Bình Khang:
Vân Anh một mình đứng giữa sân, nhìn lên giăng mà xem , thấy những đám mây bay tán loạn, thường che mờ cả mặt giăng. Cái cảm hoài vô hạn, bị cảnh đó khêu động, nghĩ đến thân thế con người ta nhiều khi hỗn lĩnh thật là quang sáng mà phải những cảnh ngộ ác nghiệt làm cho đến âm u, sầu thảm khác gì mặt giăng vốn trong sáng mà có khi phải luồn những đám mây vô lại kia, bỗng nghĩ lại thân thế của người ta có khi thật như đám mây bay tán loạn, bầu trời vô hạn biết đâu chỗ về.(TNN,3)
Vân Anh là hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà ở Bình Khang:
Hồ Gươm sen mới ra hoa, Cả hương, cả sắc ai mà không chơi. Sen tàn lá rách tả tơi, Quanh hồ lai vãng ai người tiếc thương. Nước hồ sen đứng soi gương, Còn đâu là sắc, là hương với đời. Tủi thân, sen lại giận đời, Cho chi hương sắc, cho người trọng khinh.(TNN 9)
Tản Đà đã vin vào thuyết tài mệnh tương đố để giải thích về cuộc đời đắng cay của mẹ ruột và em gái:
Nghĩ là thân một người con gái có nhan sắc, có tài hoa, có học vấn, vì cửa nhà sa sút mà trụy lạc vào xóm Bình Khang. . . Con tạo đã ghen ai, ghen cho thật quá nhẽ, đã ghét ai, ghét cho thật đủ đường. Nào ai là những kẻ có tài, nghĩ chữ “ tài” còn có nên có nữa hay thôi? (TNN, 19).
Lời của một người khách năm xưa gửi cho Vân Anh, khen ngợi Vân Anh
Là một người tuấn tú trong nữ giới, về sự cũng đã có công phu, nếu không phải cảnh ngộ làm hại người thời như công nghiệp Ban Chiêu, tài danh như Tô Huệ, bắc nam dẫu có khác mà xưa nay định cũng không nhường nhau. Vậy mà con tạo ghen tài, không cho cành mai kia được riêng nở trên núi.(TNN,44)
Vân Anh trong Thề Non Nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện Thế Gian chính là mảnh đời của mẹ và em gái Tản Đà. Tản Đà thương xót họ vì họ mang số phận “hồng nhạn bạc mệnh”
Cái kiếp phong trần ngán biết bao,
Xuân lan thu cúc Đông liễu tây đào
Hóa công độc địa làm sao
Mà đem bạc mệnh buộc vào hồng nhan.(31)
Tản Đà thương xót họ vì cuộc đời phiêu bạt, và cô độc như cánh bèo nổi trôi trên mặt nước:
Bồng bềnh mặt nước chân mây,
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa .(32)
Bốn phương non nước quê người,
Chân mây mặt bể, bên giời một ai.
Ngọn trào lên xuống hôm mai,
Sớm khuya ai cũng đầy vơi dạ sầu! (33)
Họ là những kẻ cô đơn, nhất là chuổi ngày tàn, bóng xế:
Bên thì trời, chị em ơi, lận đận bên thì trời.
Non cao, nước chảy, ấy ai người tri âm!
Lúc đêm thanh ngồi dậy cô ôm cầm, Lòng tơ tơ tưởng âm thầm tiếng tơ.
Khúc đàn này vẫn khúc ngày xưa
Mà người đoái khúc bây giờ đâu xa?
Nhớ đầu xanh ( còn ) đương độ mười ba.
Cười giăng bóng xế, thương hoa thu tàn.
Thế mà cái phận hồng nhan !(34)
Lời người kỹ nữ trong Thành Sầu là một bức tranh tả thực cuộc sống và tâm tư đau khổ của các ca kỹ trong đó có mẹ và em gái Tản Đà:
Có lúc sầu mà sầu, nhiều lúc vui mà sầu. Trong lúc vui mà sầu thời thực là thái sầu. Mưa phùn chiều hôm, giăng thanh tiếng dế mà sầu, còn được phát tiết ra ngâm vịnh; nhất là những lúc trong bụng đương nghĩ đến nỗi gia hương, tình cốt nhục, sự thân thế, mà lúc cố khách đến chơi giở câu chuyện hoa nguyệt, thời trong một lúc ấy, bụng nghĩ một nơi, tai nghe đi một chiều; miệng có câu muốn nói không được nói, câu không nói mà phải nói cho nên cũng mặt phấn son, nhời hoa nguyệt, mà ruột tầm đã thắt như ngày ươm tơ. (35)
Phật và Lão cho đời là hư ảo. Sang hèn, giàu nghèo, vinh nhục cuối cùng chỉ là một cơn mộng, và điểm cuối cùng là cát bụi, là nấm cỏ khâu xanh rì, chính lúc này, con người thật sự bình đẳng:
Khắp nhân thế là nơi khổ ải,
Kiếp phù sinh nghĩ lại cũng như ai. (36)
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thúy Ái, Sông Tiền Đường có áy, bến Ô Giang. Gẫm nghìn xưa, ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang? Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.(37)
Tuy vậy, kiếp cầm ca vẫn mang khổ ách chung thân, là đệ nhất khổ, đó là cái khổ của đóa hoa tàn tạ và cô độc. Cũng như Nguyễn Du khóc thập loại chúng sinh, Tản Đà đã than khóc cho số phận đào nương:
Nào những ai, Tóc xanh mây cuốn, Má đỏ hoa ghen. Làng chơi duyên đã hết duyên, Khúc sông trẳng gĩãi, con thuyền chơi vơi . . . thuở trước khách hồng nhan, Sắc sảo khôn ngoan trời đất ghen. Phong trần xui gặp bước luân lạc, Đầu xanh theo một chuyến xuân tàn.(38)
Những tình cảm, những tư tưởng của Tản Đà trong các tác phẩm có liên hệ đến đào nương như Thề Non Nước, Trần Ai Tri Kỷ, Kiếp Phong Trần và phần Bình Khang Ca Phả trong Tản Đà Vận Văn đều có hình ảnh mẹ và em gái Tản Đà. Các nhà tâm lý học đã chú ý đến vai trò của sự liên tưởng, và họ cho rằng tất cả các ý tưởng xuất hiện trong trí óc ta đều có một dây liên lạc. Chính trong sự liên tưởng, vô thức đã đóng một vai trò quan trọng.
Khi viết về Vân Anh trong Thề Non Nước, Đào Liễu, Cúc, Lan trong Truyện Thế Gian là lúc Tản Đà liên tưởng đến mẹ và em gái. Tản Đà thương xót họ chính là Tản Đà thương xót mẹ và em gái vì hồng nhan bạc phận mà phải đày đọa trong chốn phong trần.
Sau khi thân phụ mất, mẹ đem em gái trở lại xóm Bình Khang. Tản Đà lúc bấy giờ còn bé lắm, nới lên tư, lên năm đã mất mẹ, mất em. Tản Đà đau đớn, và tủi nhục. Ông cũng như xã hội, gia đình và luân lý kết tội mẹ đã sống trong chốn bùn nhơ. Và cái quá khứ huy hoàng của gia tộc đã làm Tản Đà tủi hổ khi thấy mẹ và em gái sống trong bóng đêm của thế giới Bình Khang. Ngoài ra, cái mộng làm nhà đạo đức truyền báø thiên lương, mộng tô bồi bức dư đồ rách đã bị hình ảnh của mẹ và em gái làm mất đi vẻ hào quang và nhiệt tình.
Tình mẫu tử của Tản Đà bị ức chế. Trong thực tế, ông xa lánh mẹ, kết tội me, ông nương náu bà Cả, coi bà như người mẹ đẻ của mình. Nhưng tình mẫu tử đó không phải là tình mẫu tử đích thực. Trong tiềm thức, ông luôn tìm kiếm một tình mẫu tử chân thực. Trong thế giớùi Mộng Mơ của Thơ và Tiểu thuyết, Tản Đà đãï tạo đuợc mối tương quan thân thiết với các đào nương.. Ông bênh vực các đào nương bởi vì đó là cuộc đời, là hình ảnh của mẹ và em gái Tản Đà, những con người tài hoa nhưng bất hạnh.
___
CHÚ THÍCH
(1).Nguyễn Mạnh Bổng cho rằng lúc ấy Nguyễn Danh Kế tiên sinh ngồi tri phủ Lý Nhân (Thân thế và sự nghiệp văn chương của thi sĩ Tản Đà. TDVV I, 1958, 8) (2).Lãng Nhân Phùng Tất Đắc theo tài liệu của thân nhân Trịnh Đình Rư, thì bà phủ Ba tên là Lưu Thị Hiền, quán làng Phù Lưu, phủ Mỹ Đức, Hà Đông. Giai Thoại Làng Nho. Nam Chi. Sai gon, 1966, 696.
(3). Bà Nhàn Khanh là nữ sĩ đương thời, quê ở Vân Đình, Ứng Hoè, Hà Đông, con quan phó đô ngự sử họ Dương ở Vân Đình, em gái quan thượng thư Dương Khuê, và quan Thái tử thiếu bảo Dương Lâm, kết duyên cùng cử nhân Trịnh Đình Kỳ, sinh ra cử nhân Trịnh Đình Rư và Trinh Thúc Hiến. Một số thơ của bà đưọc đăng trong Nam Phong và Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.
(4).Nguyễn Mạnh Bổng, TDVV I, 8
(5). Bà là thân mẫu anh Nguyễn Hổ Dư, sinh viên Đai học Văn khoa Saigon trong khoảng 1965, nhà ở 312 Tôn Đản, Khánh Hội.
(6). Nguyễn Mạnh Bổng. TDVV I.A Châu, Saigon.1958, 10.
(7).Nguyễn Mạnh Bổng. TDVV I.A Châu, Saigon.1958, 10-11.
(8). Phan Kế Bính. Việt Nam Phong Tục. Phong trào văn hóa. Saigon 19760, 354-355.
(9). Nguyễn Tuân, Chiêc Lư Đồng Mắt Cua. Hàn Thuyên, HàNội, 1941, 67
(10). Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Việt Nam Ca Trù Lược Khảo. Saigon. 1962, 449.
(11). Tiết phụ hành.TDVV 2, 56
(12).Đài Gương, 47.
(14) Charles Blondel. Introduction à la Psychologies.
(15). Tiết phụ hành.TDVV 2, 56-58.
(16).George Dumas. La vie effective. PUF, 1948. Nguyễn Hữu Trọng dịch. 407.
(17). Tản Đà.Từ chức. Hữu Thanh.số 12, 15-1=1922, 140.
(18). GMC , 23-24.
(19). Le rêve est un desir réalisé (Simund Freud. Désire et rêve, par Marie Bonaparte. 5édition. Gallimard, 1935, 110.
(20). Le rêve est une second vie ( Gérard de Nerval. Le Rêve et la vie. Collection Marpon et Cie. Paris, 1921, 245.
(21). Lên Tám, 11.
(22). Lên Tám, 11.
(23). Lên Tám, 12
(24). Cảnh vui của nhà nghèo. TDVV 2, 64.
(25).Tản Đà. Cuộc chiến tranh chống đỡ cho phong tục năm quý dậu. ANTC 9, 1-3-1933, 2.
(26). Tản Đà. Sự quan hệ của người đàn bà Á Đông đối với gia đình của người chồng. ANTC 21, 1-4-1931,
(27).Hủ nho lo việc đời TDVV 2, 8
(28). Tản Đà. Hai nguyên chất sự sinh hoạt của xã hội. HT,5, 1-10-1921, 267.
(29).Đời lắm việc.TDVV I,137
(30).Đài Gương, 23.
(31).TNN,44
(32). Kiếp Phong Trần, 59.
(33). Cánh bèo. TDVV 1, 5.
(34). GMC ,33
(35).GMC, 36-37
(36). GMC, 35.
(37). Cánh bèo.TDVV 1, 51.
(38).Đời đáng chán.TDVV 1, 58.
*
Trích Nguyễn Thiên Thụ. Tản Đà, Thực và Mộng. Lửa Thiêng, Saigon, 1974.
TRƯƠNG TỬU * UỐNG RƯỢU VỚI TẢN ĐÀ
Trương Tửu
Uống rượu với Tản Đà
(Phê bình và định giá một thi sĩ đại biểu cuối cùng của thơ cũ Việt Nam)
Lời dẫn của người sưu tầm: ......
Uống
rượu với Tản Ðà có lẽ là cuốn sách về Tản Ðà ra mắt sớm nhất, ngay
khi nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu còn tại thế. Không ít cuốn sách và bài
viết ngay sau đó có nhắc đến cuốn sách này của Trương Tửu, nhưng trong
khoảng năm chục năm trở lại đây, hầu như không thấy ai còn nhắc tới
hoặc trích dẫn cuốn này (ví dụ lần in gần đây cuốn sách của Văn Tâm:
Tản Ðà khối mâu thuẫn lớn, Nxb. Văn nghệ TP.HCM, 2003). Có thể xem
cuốn này của Trương Tửu cũng như cuốn Thi sĩ Tản Ðà (1939) của Lê
Thanh như những tài liệu đã bị mất....
Rất mừng là trong số những tư liệu mà Thư viện quốc gia Pháp tặng bản chụp (microfilm) cho thư viện quốc gia Việt Nam gần đây có cuốn sách mỏng này của Trương Tửu.
Cuốn sách ra đời ngay hồi đầu năm 1939; đây là loại sách mỏng, nằm trong một tủ sách xuất bản 12 cuốn/năm của Ðại Ðồng thư xã, - cơ quan mà tác giả chính của các ấn phẩm đồng thời là giám đốc: Trương Tửu. Trên bìa cuốn này, có thể đọc thấy những quảng cáo cho các cuốn sách mỏng khác của ông: Vấn đề thơ mới, Những thí nghiệm của ngòi bút tôi, v.v.
Sự đánh giá và lý giải về tác gia Tản Ðà trong cuốn sách mỏng này của Trương Tửu cố nhiên vị tất đã nên xem là thoả đáng. Ðiều tôi, người sưu tầm, muốn đưa lại cho bạn đọc và giới nghiên cứu không phải là một cách nhìn “chuẩn mực” hay “mẫu mực” nào mà chỉ là văn bản một công trình phê bình tác gia Tản Ðà của Trương Tửu, một văn bản đã bị mất lâu nay và chỉ vừa mới tìm lại được. Ít nhất, bạn có thể đồng ý với tôi: đây là một văn bản hiếm và quý.
Lại Nguyên Ân
Tặng cô hàng tạp hoá vô danh ở phố Hàng Bồ, Hà Nội
Rất mừng là trong số những tư liệu mà Thư viện quốc gia Pháp tặng bản chụp (microfilm) cho thư viện quốc gia Việt Nam gần đây có cuốn sách mỏng này của Trương Tửu.
Cuốn sách ra đời ngay hồi đầu năm 1939; đây là loại sách mỏng, nằm trong một tủ sách xuất bản 12 cuốn/năm của Ðại Ðồng thư xã, - cơ quan mà tác giả chính của các ấn phẩm đồng thời là giám đốc: Trương Tửu. Trên bìa cuốn này, có thể đọc thấy những quảng cáo cho các cuốn sách mỏng khác của ông: Vấn đề thơ mới, Những thí nghiệm của ngòi bút tôi, v.v.
Sự đánh giá và lý giải về tác gia Tản Ðà trong cuốn sách mỏng này của Trương Tửu cố nhiên vị tất đã nên xem là thoả đáng. Ðiều tôi, người sưu tầm, muốn đưa lại cho bạn đọc và giới nghiên cứu không phải là một cách nhìn “chuẩn mực” hay “mẫu mực” nào mà chỉ là văn bản một công trình phê bình tác gia Tản Ðà của Trương Tửu, một văn bản đã bị mất lâu nay và chỉ vừa mới tìm lại được. Ít nhất, bạn có thể đồng ý với tôi: đây là một văn bản hiếm và quý.
Lại Nguyên Ân
Tặng cô hàng tạp hoá vô danh ở phố Hàng Bồ, Hà Nội
I. Bữa rượu tam đỉnh
Thi sĩ rót rượu mời chúng tôi:
“Thứ rượu này có ngâm đan sâm và đương quy, uống đậm giọng mà lại không hại sức khoẻ. Hai ông cứ uống thật say, không rức đầu chóng mặt gì đâu mà ngại.”
Chúng tôi chưa kịp đáp lời, cụ đã lại nói tiếp:
“Ðể hôm nay, tôi sào nấu lấy các thức ăn, hai ông xem. Tôi làm bếp có phần lại giỏi hơn làm văn… (cười và quay lại gọi gia nhân) Này, anh nhỏ! Anh đặt cái hoả lò nhỏ lên bàn này tôi… Ðược rồi! Anh đặt luôn cái soong chả dê này lên trên cái hoả lò nhỡ kia, cho thêm tí mỡ vào… Ðược rồi! Bây giờ anh nhóm lửa cái hoả lò to kia lên để nấu canh, húp cho rã rượu… (cười và quay về chúng tôi ) Kìa! Hai ông sơi rượu tự nhiên đi… Ðấy, ăn trên lửa có phải ngon không? (cười to) Một bữa rượu, ba cái hoả lò! Sang thật! Ngày xưa vua chúa dùng ngũ đỉnh, hôm nay ta dùng tam đỉnh, chứ thua gì!
Thi sĩ chấm hết câu pha trò ngông ấy bằng một chuỗi cười lớn, nở nang, ròn tan. Tiếng cười đủ tố giác một tâm hồn cao quý, thẳng thắn và chân thành. Bao nhiêu tình yêu đời tha thiết, cụ đem phổ hoang phí cả vào tiếng cười ấm áp…
Ðáp lại thịnh tình của chủ nhân, bạn tôi, ông Nguyễn Ðình Lạp, nghiêng mình thưa:
“Chúng tôi được hầu rượu cụ hôm nay thật lấy làm hân hạnh và vui vẻ lắm.”
Tôi tiếp lời bạn, thân mật hơn:
“Chúng tôi không ngờ rằng nhà thơ tài hoa của núi Tản sông Ðà lại nấu nướng thức ăn có nghệ thuật đến thế.”
Một nụ cười đắc ý nở kín đáo trên môi thi sĩ:
“Ấy tôi cũng đang tính cho xuất bản một quyển sách dạy nấu ăn lấy tên là Tản Ðà thực phẩm. Trong sách dạy cách chế biến các món ăn thế nào cho người rất ít tiền cũng có thể ăn ngon được. Còn những người giàu sang thì mặc họ! Mình cần chú trọng vào người nghèo hơn…”
Tôi tán thành:
“Xin vâng, cụ nghĩ thế rất phải. Cụ nên cho xuất bản sách ấy chóng ngày nào hay ngày ấy. Chính chúng tôi đây cũng chờ quyển sách đó để nhờ nó mà có thể sành thêm một chút trong sự nếm. Và không khéo chúng tôi sẽ thành những tay đầu bếp giỏi cả cũng nên.”
Cụ cười vang. Chúng tôi cũng cười. Tiếng cười làm nóng cả không khí ảm đạm của gian nhà vắng vẻ. [1] Cụ lại rót một tuần rượu nữa mời chúng tôi. Chén tạc chén thù, cụ thuật cho chúng tôi nghe những quãng đời phong trần đã nếm trải. Giọng nói của thi sĩ khi trầm hùng, khi lâm ly làm sống hẳn lại cả một thời dĩ vãng. Nhờ những câu chuyện tâm sự ấy, chúng tôi hiểu thêm thi sĩ và cũng yêu thêm một người có công lớn với văn chương Việt Nam hiện tại.
Câu chuyện tâm tình, dần dần chuyển sang địa hạt triết lý. Sau khi thuật lại một vài mẩu đời luân lạc, thi sĩ nói như để kết luận:
“Ở đời, tôi tưởng nên biết thưởng thức mỗi thứ một chút và cốt nhất là phải thưởng thức cho sành, nhất là cái ăn cái uống. Hai ông tính, người ta sống được bao năm? Chẳng tiêu pha cuộc đời cho mãn ý, lúc chết hai tay buông xuôi, hối tiếc cũng bằng thừa. Tuổi xuân của con người mấy lúc mà tàn? Tôi cứ xem như tôi đây vừa dạo nào còn là một thư sinh mà bây giờ đầu đã bạc cả rồi!”
Lời nói chứa đầy một tiếc nhớ mênh mang. Trong cặp mắt mơ mộng của thi sĩ lởn vởn hình bóng xa mù của những năm tháng không bao giờ trở lại nữa… Tự nhiên, tôi thấy bị xâm chiếm bởi những viễn ảnh buồn tênh của tiêu vong. Tiệc rượu lạnh hẳn đi!
Bỗng từ dưới đường cái vẳng lên một âm nhạc vô cùng ai oán. Chúng tôi giật mình, mở cửa kính, nghé mình nom xuống.
Một đám ma!
Tiếng kèn trống, tiếng hồ, nhị, tiếng khóc than làm náo động cả hai bên phố xá. Tiết trời cuối đông cũng hình như ngậm một sầu hoài tang tóc…
Ðám ma đi khỏi, ba chúng tôi lại quay vào bàn rượu, mỗi người băn khoăn theo một xúc cảm riêng.
Thi sĩ thở dài nhẹ nhàng:
“Chết thế là hết! Chúng mình rồi cũng chỉ đến thế thôi! »
Rồi cụ vội hâm nóng gian phòng bằng tiếng cười thân thiết:
«Sống ngày nào, ta hẵng nếm hương vị của đời ngày ấy đã. Chăng ăn chẳng uống, lúc chết như người xấu số kia có đem theo được gì đâu? Kìa, mời hai ông sơi rượu đi! Giá ta được một tảng thịt lợn quay vừa mới khiêng qua mà đánh chén thì thú nhỉ! Hai ông! Ta cạn chén!»
Trong câu bông lơn vô tình, thi sĩ để lộ một bản tính ưa hỷ lạc đến cực điểm. Tôi tưởng thi sĩ sắp hô lớn như anh chàng Pantagruel của Rabelais: “Hỷ lạc muôn năm! Rượu muôn năm!”
Nhưng không.
Thi sĩ là người của phương Ðông trầm nghị.
Cụ yêu hỷ lạc, yêu sống, yêu rượu có lẽ tha thiết hơn anh chàng Pantagruel. Nhưng cụ yêu có nghệ thuật. Yêu đằm thắm mà không rầm rĩ, nồng nàn mà không thô kệch. Yêu với tất cả khiếu kiểm soát minh mẫn của thiên lương.
Thi sĩ Tản Ðà yêu đời, yêu hỷ lạc, yêu rượu theo kiểu một tín đồ sáng suốt của Epicure. Cụ là người bằng giác quan nhưng cũng là người bằng khối óc. Hai cái đó bổ túc nhau, sát hạch nhau, điều khiển nhau, gây thành một thăng bằng về sinh lực, riêng biệt của người épicurien. Các bạn đọc sẽ thấy, ở những trang tiếp theo đây, thơ Tản Ðà chỉ là tiếng nói thông thái và trác luyện của con người épicurien ấy.
Thi sĩ Tản Ðà sinh tại Nam Ðịnh, phố Hàng Thao, ngày hai mươi bảy tháng Tư năm Thành Thái nguyên niên (1889), tính đến nay cụ vừa chẵn 50 tuổi. Người cụ đã yếu, đầu đã bạc và hói.
Cụ vốn dòng dõi quyền quý, hấp thụ nền Nho giáo từ bé. Như lời cụ thuật lại, tổ tiên xưa kia vẫn làm quan dưới triều Lê. Cập đến lúc nhà Nguyễn thế chân triều Lê, các ngài thề với nhau quyết không bao giờ chịu ra làm quan nữa. Ðến đời thân sinh của thi sĩ, lời thề ấy bị phụ. Vì gia đình bần bách, thân sinh cụ, - Nguyễn Danh Kế tiên sinh, - phải đi đánh quay đất để nuôi mẹ già.
Nghĩ khổ cực quá, tiên sinh đành lỗi ước với tổ tiên, ra thi và chịu ấn phong của Nguyễn triều. Tiên sinh làm đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý. Tục truyền văn án tiên sinh hay lắm. Những lý lẽ tiên sinh dùng để gỡ tội cho bị cáo nhân bao giờ cũng đanh thép, nhiều lần vua Tự Ðức đã phải khen. Muốn chứng thực tài văn án của tiên sinh, tôi tưởng không gì bằng thuật lại ở đây một vụ truy tố ly kỳ xảy ra dưới triều Tự Ðức, mà trong đó tiên sinh đóng vai Ngự sử.
Nguyên hồi ấy, trong cung vua Tự Ðức có nuôi một con hạc rất đẹp. Vua yêu nó lắm, đã phong tước Vương cho nó. Ở cổ hạc lủng lẳng một cái bài ngà. Một buổi chiều kia, hạc ta ngất nghểu ngao du ra ngoài cửa thành và bị cắn chết bởi một con chó của người chủ quán bán hàng cơm gần đấy. Tức thời , chủ quán bị bắt giam và truy tố. Tiên sinh, ở địa vị Ngự sử, làm trạng sư cãi cho bị cáo nhân. Bản cãi rất hùng hồn và nhiễm một tính cách trào phúng rất sâu sắc. Trong đó có bốn câu dưới đây lý thú nhất:
Hạc hữu kim bài
Khuyển bất thức tự
Súc vật tương thương
Hà phương nhân sự
(Dịch nghĩa: Con hạc có đeo kim bài thật, nhưng con chó không biết chữ. Ðó là việc loài vật hại lẫn nhau. Việc chi đến người bị tội?)
Vua Tự Ðức mến phục tài tiên sinh liền truyền tha bổng người chủ quán. [2]
Thuật lại câu chuyện trên đây, tôi chỉ cốt đánh dấu vào thơ Tản Ðà một di truyền. Nó sẽ cắt nghĩa tại sao thi sĩ hay luận đến triết học, hay bàn đến nhân sự. Nó sẽ giúp ta hiểu Nho cốt của thơ Tản Ðà. Nó sẽ định giá những mộng nhớn mộng con, tình to tình nhỏ của nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu.
Ta đã có thể nhận thấy ở thi sĩ Tản Ðà: 1) một bản tính épicurien; 2) một di truyền Nho cốt. Với hai yếu tố tinh thần ấy, một người có thể thành được chân thi sĩ không? Cụ Tản Ðà là thi sĩ ở độ mực nào?
Quyển phê bình nhỏ này viết ra để trả lời minh bạch hai câu hỏi đó.
II. Cô hàng tạp hoáNăm mười chín tuổi, cậu ấm Hiếu theo ông anh về Hà Nội tòng học tại trường Quy thức phố Gia Ngư. Hồi ấy “ở phố Hàng Bồ số nhà hơn hai mươi về dãy bên lẻ có một người con gái ngồi bán hàng tạp hoá, không biết có phải là tuyệt sắc hay không mà tự con mắt mình khi bấy giờ thì như ngoài người ấy không có ai là con gái ”. [3]
Vốn giống tài hoa, thư sinh cảm thấy ở giai nhân một trái tim đồng điệu. Trong tâm hồn tứ thư ngũ kinh của người thiếu niên thế phiệt ấy tình yêu lẳng lơ nắn một phím đờn. Theo tiếng huyền ân ái, thơ bắt đầu len vào cuộc đời hoa mộng của cậu học trò ngoan ngoãn. Từ đấy, “mỗi buổi chiều tan học ở phố Gia Ngư về phố Hàng Nón, trừ phi giời mưa gió, thường tất phải đi quanh qua phố Hàng Bồ”. [4]
Bạn đọc chớ vội cười! Trong lối đào nguyên ai chẳng thế? Khoé mắt thân tình, nụ cười giăng gió vốn từ ngàn xưa vẫn là abc của nghệ thuật yêu đương. Rồi sớm mận tối đào, rồi trăng thề quạt ước… Kẻ thư sinh khắc khoải vẫn mong diễn lại lớp trò đầu của tích chàng Kim ả Thuý.
“Tấm lòng ao ước ngỏ cùng một người anh em bạn học đồng canh. Người bạn đi nói giúp việc mối. Cứ bên nhà người con gái thời việc có nhẽ xong; bên nhà mình thời ông anh chỉ bảo một câu rằng: Nhà ta nghèo như thế lấy đâu được song mã mà cưới?” [5]
Tình duyên đành gác một bên, cậu ấm thất vọng theo ông anh về phủ Vĩnh Tường, quyết chuyên tâm vào sự học, những mong tiền đồ khoa cử sẽ đem lại cho mình cảnh “võng anh đi trước võng nàng theo sau”.
Ðằng đẵng bốn năm trời, trong trái tim đau khách si tình vẫn ấp ủ hình bóng ưu tư của cô hàng tạp hoá.
“Ðến lúc thi hỏng luôn hai khoá mà ý trung nhân xuất giá thời đời đáng chán hay không đáng chán cũng chẳng đợi cất chén quỳnh mà hỏi bạn tri âm”. [6]
Thất vọng thành tuyệt vọng. Tiếng đàn ân ái chuyển sang điệu u hoài. Khách tài hoa ôm một tiếc hận nặng nề, nghìn thu không cởi được.
Một tiếng thở dài não nuột từ thâm tâm thư sinh vẳng ra: “Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!” Ngân rền trong tịch mịch của đêm thu, nó báo hiệu Khối tình con trong sổ văn chương Viêt Nam hiện đại, nó khai ngày sinh của thi sĩ Tản Ðà.
Rồi, những đêm giăng hiu quạnh, thi sĩ để bay trên mặt giấy những vần thơ ai oán:
Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnh
Ðòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ…
Kìa con én trắng đâu đâu lại
Giục cái thoi vàng chóng chóng qua
Buồn quấn mành trông trông chẳng thấy…
Bèo nước hợp tan người mỗi nẻo
Cậy ai mà nhắn một đôi câu…
Một vừng trăng khuất đi mà đứng
Một lá mành treo quấn lại buông
Ngồi hết đêm suông suông chẳng hết
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông….
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Vì ai cho tớ cứ lênh đênh
Nặng lắm ai ơi một gánh tình! [7]
Toàn những lời thất vọng, trách móc, thở than! Trong thơ ta gặp cả một linh hồn tê tái. Ta muốn ơn cô hàng tạp hoá phố Hàng Bồ, nàng Elvire của thi sĩ Tản Ðà. Nhờ cô, ta được ngâm bao nhiêu vần thơ trác tuyệt chan chứa một hận tình thắc mắc. Trong suốt dọc đời thi sĩ, tế Chiêu Quân ở chùa Non Tiên hay khóc Thuý Kiều bạc mệnh, thương nhớ người tình nhân không quen biết hay mơ tưởng đến cố hữu Chu Kiều Oanh, - những đề hứng buồn và đẹp ấy đều bắt nguồn trong giấc mộng phù hoa thứ nhất của cậu học trò mười chín tuổi. Thi sĩ có đa tình là chỉ đa tình với kỷ niệm ái ân đầu tiên ấy. Bao nhiêu năm chìm nổi cũng không xoá nhoà được hình ảnh thân yêu của người hồng phấn nữ phố Hàng Bồ.
Lich sử văn học đã chứng thực nhiều lần mối quan hệ mật thiết của tình yêu đầu tiên đối với nhà văn, nhất là nhà thơ. Khi nhà thơ mới lớn, trái tim và khối óc đang trắng phau, một cái gì lăn qua là in dấu vết lại không tài nào gột sạch. Huống hồ lại là vết yêu đương! Một bóng giai nhân, lúc đó, có thể định đoạt được cả một kiếp người.
Ở đây tôi chỉ đơn cử một chứng cứ văn chương để làm sáng điều tôi vừa ký nhận. Một chứng cứ rất thú vị chưa từng thấy trong thi giới ta. Tôi muốn nói cái tình duyên đầu tiên của thi sĩ Baudelaire. Năm ấy thi sĩ mười tám tuổi và thường cùng một người bạn, Privat d’ Anglemont, lui tới một tửu lâu hạ cấp phố La Harpe (Paris). Ở chốn này thi sĩ được biết một gái đĩ người Do Thái tên là Sarah. Về đức hạnh kỹ nữ, thi sĩ đã tả rất chua chát trong một câu: “Nàng đã bán rẻ linh hồn để mua một đôi giày”. Các nhà văn học sử cận đại đều đồng ý cho người gái đĩ Do Thái ấy là nguồn cảm hứng của tập thơ tuyệt tác Fleurs du Mal.
Ta hẵng nghe thi sĩ nói về cuộc đi lại ghê sợ ấy:
Elle louche, et l’effet de ce regard étrange
Qu’ ombragent des cils noirs plus longs que ceux d’ un ange
Est tel que tous les yeux pour qui l’ on s’ est damné
Ne valent pour moi son oeil juif et cerné.
Elle n’ a que vingt ans; la gorge deja basse
Pend de chaque côté comme une calebasse
Et pourtant me tratnant chaque nuit sur son corps
Ainsi qu’un nouveau né, je la telle et la mords.
Et bien qu’elle n’ait pas souvent même une obole
Pour se frotter la chair et pour s’ oindre l’épaule
Je la leche en silence, avec plus de ferveur
Que Madeleine en feu les deux pieds du Sauveur.
Dịch nghĩa:
Mắt nàng lác, và mãnh lực của cái nhìn kỳ quái ấy,
Cái nhìn bị ẩn dưới bóng những lông mi đen dài hơn mi của thiên thần,
Hiệu nghiệm đến nỗi khiến tôi thấy rằng tất cả những cặp mắt đẹp đã làm đắm người đời
Ðều không giá trị bằng con mắt Do Thái thâm quầng của nàng.
Nàng mới có hai mươi tuổi, mà đôi vú đã trễ xuống
Treo lủng lẳng ở hai bên ngực như hai quả bầu
Thế mà đêm nào tôi cũng rẫy rụa trên thân hình nàng
Như một đứa trẻ mới đẻ, tôi bú và cắn nàng.
Và tuy rằng thường thường nàng chẳng có đến một đồng xu
Ðể tắm gội xác thịt và tẩm dầu đôi vai
Tôi cũng cứ âm thầm liếm thân thể nàng, say mê hơn cả
Nữ thánh Madeleine nhiệt tình quỳ liếm đôi bàn chân của đấng Cứu Thế.
Kết cục, chàng thanh niên thi sĩ hư hỏng ấy bị nàng truyền cho bệnh hoa liễu. Trong một cuốn sách nói về thân thế và sự nghiệp Baudelaire, nhà phê bình John Charpentier thuật đến đoạn này, có viết: “Tính cách ghê tởm của tấn thảm kịch đó ảnh hưởng quyết định đến số kiếp thi nhân. Từ đó, Baudelaire cứ tưởng vâng theo những bản tính thân thích khi đắm mình trong cuộc truy hoan… Ðeo nặng trên lương tâm cái tội gốc, chàng cứ lăn lóc suốt đời trong truỵ lạc…”, [8] và “Baudelaire đã viết: Văn minh không phải ở điện khí, cũng không phải ở hơi nước… mà chính ở chỗ làm giảm bớt dấu tích của tội gốc trong lòng người. Coi đó Baudelaire tin ở tội lỗi.” [9]
Tin tưởng này là nền tảng luân lý của tâm hồn Baudelaire. Nó cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi sĩ. Tập thơ bị người đời kết án, Les Fleurs du Mal, chỉ là biểu thị mỹ thuật của tin tưởng ấy. Cũng bởi cô gái đĩ Do Thái đã đi qua khoảng đời niên thiếu của nhà thi hào bất hủ…
Trái hẳn Baudelaire, thi sĩ Tản Ðà đã gặp một giai nhân hiền hậu. Cậu học trò trường Quy thức, lúc thầm yêu trộm nhớ cô hàng tạp hoá phố Hàng Bồ, đã làm gì có quan niệm về tình ái.
Chàng chỉ yêu trong mộng tưởng. Chung quanh người đẹp, chàng thêu dệt bao nhiêu ảo ảnh. Ðó là một tình yêu tinh thần. Tình yêu của một nhà nho! Rồi khi tình yêu, vì cảnh đời ngang ngửa, không kết quả được thành hôn nhân, thư sinh liền mang nặng trong tâm hồn hình ảnh người yêu với tất cả ảo tưởng đẹp đẽ của nó. Suốt đời, thi sĩ Tản Ðà chỉ thờ phụng tình yêu và người yêu ấy. Nhờ hai bảo vật này, tâm hồn nho của nhà thơ thêm nhu nhuyễn và đa cảm. Phát hiện tuyệt đối của trạng thái tâm lý đó là bài khóc tế Chiêu Quân ở chùa Non Tiên.
Giời Nam thằng kiết là tôi
Chùa tiên đất khách khóc người bên Ngô
Tôi với cô, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây
Trong bài tế, thi sĩ để lộ một tâm hồn đa cảm vô cùng tế nhị. Thương người bạc mệnh vùi xương ngàn năm ở đất Hồ, thi sĩ cất tiếng ai điếu số kiếp buồn tênh của con người hồng phấn:
Ô hô Chiêu Quân
Phương cốt hữu tận
U khảm vô kỳ
Minh nguyệt độc cử
âm vân không thuỳ
dịch nghĩa:
Ô hô nàng Chiêu Quân
Nắm xương thơm của nàng có thể mất
Mà mối hận u uất của nàng không có thời hạn nào
Chỉ có trăng sáng soi thấu
Thì lại bị mây đen che khuất [10]
Mấy câu này đủ nói dài về tính chất lãng mạn của thi sĩ Tản Ðà, một tâm hồn dễ xúc động, dễ bị đốt nóng bởi những trạng huống tâm lý của đời tài hoa xấu số. Tản Ðà khóc Chiêu Quân cũng như Nguyễn Du khóc Thuý Kiều, Chu Mạnh Trinh khóc Nguyễn Du. Cùng giống đa tình, các bậc thi nhân ấy đã giảng dạy cho người đời một yêu thương mênh mông và tha thiết, một yêu thương vô tận, không bờ bến, không địa giới.
Ở điểm này, thi sĩ Tản Ðà là nối tiếp tinh thần của thơ ca Việt Nam cố hữu. Trường thơ lãng mạn hiện đại của các ông Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Vỹ,… nhận Tản Ðà là người khởi xướng cũng chỉ là công bằng và hợp lý.
Tình yêu đã đánh thức Nàng Thơ trong tâm hồn thi sĩ. Thất vọng lại gieo thêm vào một cung điệu não nùng. Trong mười năm hơn, giữa những gió lốc bụi mù của thế kỷ, Nàng Thơ ấy đã gẩy réo rắt cung điệu ấy trong cảnh hoang tàn của bao nhiêu cõi lòng hiu quạnh…
Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!...
[1]Chúng tôi uống rượu ở trên gác căn nhà số 417 tại Bạch Mai, chỗ cụ Tản Ðà mở phòng xem số Hà Lạc và dạy Hán văn. (Tất cả các chú thích ở đây đều là nguyên chú của Trương Tửu.)
[2]Chuyện này và mấy câu thơ ấy, chính cụ Tản Ðà thuật lại với chúng tôi.
[3]Trích trong tập Giấc mộng lớn của Tản Ðà.
[4]Như trên
[5]Như trên
[6]Như trên
[7]Trích trong tập Khối tình con xuất bản năm 1918.
[8]Beaudelaire par John Charpentier. Editions Jules Tallandier
[9]Như trên.
[10]Bài tế này làm bằng Hán văn. Ðã có bản dịch của Ông Huyện Nẻ Xuyên Nguyễn Thiện Kế. Mấy câu trích ở trang bên là của Ông Huyện Nguyễn. Riêng mấy câu này tôi thấy ở bản dịch lời quốc văn không đạt hết nguyên ý Hán văn, nên tôi không trích ra đây. Và tôi tạm dịch xuôi nghĩa để lý hội được chu đáo nguyên ý của tác giả.
III. Tớ còn chơi!
“Sau lúc tế nàng Chiêu Quân (1913), từ giã các bạn Non Tiên, lại xuôi về nam với quan huyện Nẻ Xuyên… Hết xuân sang hạ, ở Nam Ðịnh về Sơn Tây rồi vào ở tại ấp Cổ Ðằng. Trong giấc phù sinh lại sinh xuất có một đoạn rất ly kỳ quái ảo. Ấp Cổ Ðằng địa phận về hạt huyện Tùng Thiện; từ tỉnh lỵ Sơn Tây vào ấp chừng độ 14 cây số, đất sỏi đường đồi… Mình từ khi ở ấp, bốn bề phong cảnh phải đâu như Hàng Nón Hàng Bồ, gió hót giăng treo, rừng reo suối chảy. Cái bụng chán đời đến cực điểm, quyết mong tịch cốc để từ trần. Tiếc không nhớ là bắt đầu từ hôm nào thôi sự ăn cơm, chỉ khát không chịu được thời còn phải uống nước. Ba hôm như thế, sầu khổ không thể chịu được nữa, thời lại phải uống rượu. Rượu uống cũng uống suông, mà uống đến thật say.
Nguyên đã ba hôm không ăn, trong bụng hư không lại một phen say rượu mê ly, thành ra từ đấy về sau khác hẳn từ đấy về trước. Bụng không biết no không biết đói; người không biết vui không biết buồn; chỉ cứ mỗi ngày một bữa rượu, hoặc uống suông hoặc ăn một đĩa rau dưa nhỏ con, xong rồi đem chõng ra nằm ở dưới cây ngọc lan, nghe những con chim kêu trên cành cây hoặc là xem những đám mây đi trên giời, con chim bay trên không xem kết cục đến đâu là hết …” [1]
Ta tưởng vừa được đọc một đoạn nhật ký của tín đồ Trang Lão lấy yếm thế làm chủ nghĩa, lấy vô vi làm thái độ, lấy ẩn dật làm trạng thái sinh hoạt.
Ðâu phải thế.
“Ở Cổ Ðằng ba tháng rồi theo mệnh lệnh gia đình phải về trên quê ở. Từ khi về ở quê, đương ăn rau đổi ra ăn thịt.
Mỗi ngày cũng chỉ có một bữa ăn, hoặc là cái thủ heo hoặc con gà con vịt, hoặc con cá, tất toàn thể đặt trong mâm với con dao đĩa muối; rượu thì uống hũ không uống chai. Bữa ăn cũng rất vô thường; nếu về đêm có khi thắp hai mươi tám ngọn nến gọi là nhị thập bát tú, thắp bảy ngọn nến gọi là thất tinh đàn. Bữa ăn nếu về phần ngày thời sau khi ăn xong tất phải có con dao thanh quắm đi chém phạt ít nhiều cành cây như không thế thời không thấy thú sướng…
Lại như những con gà con vịt nếu không được tự tay mình cắt tiết thời ăn không thấy ngon… Ở nhà quê cũng vừa đúng ba tháng rồi lại phải theo mệnh lệnh gia đình sang phủ Vĩnh Tường để ăn cơm. Trước khi ăn cơm phải học tập ăn cháo. Một người đàn bà có quen biết là con gái quan Tri phủ ở đó có nhắn: ông ấm đã biết ăn cơm chưa?” [2]
Mấy lời tự thuật này phải của một tín đồ Epicure, tôn thờ khoái lạc. Chính tư tưởng tôn thờ khoái lạc này, phần lớn, đã xua đuổi trạng thái chán đời ra khỏi tâm hồn thi sĩ Tản Ðà.
Nó đem vào cuộc sinh hoạt của ông ấm Hiếu một số lượng vô tư lự rất cần thiết cho việc hưởng thụ khoái lạc. Nó được kết tinh rõ rệt nhất trong bài Còn chơi của nhà épicurien Nguyễn Khắc Hiếu. Và luôn luôn nó làm giường cột luân lý cho đời thi sĩ.
Tư tưởng épicurien ấy, ở Tản Ðà, phát lộ ra trong ba tâm lý: 1) Sợ già; 2) Sợ chết; 3) Khát sống.
Bởi sợ già nên tiếc xuân. Bởi sợ chết nên khát sống, mà sự sống lại vô tận, nên phải đem rất nhiều nghệ thuật vào cách sống. Mục đích là hưởng được rất nhiều khoái lạc trong một thời gian rất ngắn, - đời người.
“Người có tình, xuân không có tình. Mình tiếc xuân, xuân tiếc chi mình; mình thương xuân, xuân chẳng thương mình, thời mình thương tiếc mình nên hơn tiếc xuân.
Xuân kia sáu bảy mươi lần
Của giời tham được độ ngần ấy thôi
Chơi hoang mất nửa đi rồi
Ngẩn ngơ ngồi nghĩ thân đời mà lo
Trông gương luống đã thẹn thò
Một mai tóc bạc vai gù mới dơ
Thương thay! Xuân chẳng đợi chờ
Tiếc thay xưa những hững hờ với xuân
Trăm nghìn gửi lạy đông quân
Hãy khoan khoan tới hãy dần dần lui
Lượng xuân xin chớ hẹp hòi [3]
Tình yêu đời thật là tha thiết, thật là đắm đuối! Nó được thi sĩ hàm dưỡng trong tâm hồn rất phong phú, ca tụng trong thơ ca rất đằm thắm, ứng dụng vào thuật sống rất ham mê. Nhưng ở Tản Ðà, nó khuynh về vật chất nhiều hơn về tinh thần. Ăn ngon, uống rượu ngon, nghe nhiều, trông nhiều, đi nhiều, nói nhiều, cười nhiều…, hưởng thú hương phấn nhiều, tất cả Tản Ðà ở chữ nhiều ấy, hoặc nói đúng hơn, ở chỗ nỗ lực đi đến cái nhiều ấy. Nhưng đây là cái “nhiều” có tổ chức, có mỹ thuật, phức tạp mà chẳng bộn bề, chồng chất mà không hỗn độn.
Ta hẵng nghe thi sĩ épicurien bàn về sự ăn ngon:
“Ðồ ăn không ngon thời không ngon, giờ ăn không ngon thời không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon thời không ngon, không được người cùng ăn cho ngon thời không ngon… ăn mà có lo nghĩ sao cho ngon? Có tức giận sao cho ngon? Có sợ hãi sao cho ngon? Có thương tủi sao cho ngon? Có hổ thẹn sao cho ngon?”
Ta lại nghe thi sĩ luận về văn chương:
“Văn chương có giống như mâm gỏi. Ðĩa cá lạng, đĩa dấm ngọt thời người thường dễ ăn, còn miếng mắt miếng xương phải đợi con nhà gỏi.
Văn chương có giống như thịt chim. Sào, thuôn, nướng chả thì dễ chín, hấp cách thuỷ lửa không đến mà nhừ hơn.”
Thật là duy vật hết chỗ nói!
Thêm vào những lời ấy, vài câu thơ nữa:
Thế sự nhất phù vân chi cảnh
Những ai mê ai tỉnh đã ai ai?
Khéo vô đoan khóc hão lại thương hoài
Thú trần giới có ăn chơi là bực nhất…
ta sẽ có chân dung trăm phần trăm của người épicurien.
Tớ còn chơi! Ðời chưa chán tớ tớ còn chơi !… Ðó là điệp khúc thân yêu của nhà thơ duy vật ấy! Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… hẳn được hả hê có một người tiếp tục như thi sĩ Tản Ðà.
Ðã yêu cái sống vật chất đến say sưa, đã bận óc mưu toan cách sống cho được hưởng nhiều khoái lạc, tất nhiên không bao giờ tâm hồn bay bổng lên những từng tinh thần cao thẳm. Bởi vậy, thơ Tản Ðà thiếu cánh. Nó không phải là con hạc lượn khúc trên đám mây. Nó là con sơn ca nhảy nhót trên cành. Nó không là con chim bằng cưỡi gió vượt trùng dương. Nó là con sẻ tinh khôn biết tìm đến những vựa thóc thơm ngon. Nó nhiều cảm giác hơn cảm tình, nhiều cảm tình hơn tư tưởng. Nó thiếu nghị lực, thiếu thần bí.
Ðối với Tản Ðà cái quan trọng là sự sống, - một biển cảm giác; thơ ca chỉ là những bến vui rải rác men bờ. Tản Ðà không phải là một thi nhân thuần tuý. Tản Ðà chỉ là một khách tài hoa lạc vào thi giới.
III. Ðời đáng chán hay không đáng chán?
Ðời đáng chán hay không đáng chán?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm…
Ai là bạn tri âm của con người tài hoa ấy? Nàng Chu Kiều Oanh trong Giấc mộng con hay kỹ nữ Vân Anh trong Thề non nước?
Không!
Bạn tri âm của thi sĩ Tản Ðà chính là nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu.
Ðời đáng chán biết thôi là đủ
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm
Nên chăng? Nghĩ lại kẻo nhầm.
“Nên chăng?” Thi sĩ trả lời: Nên!; nhà nho trả lời: Không! Nhà nho đã thắng. Thắng rất dễ dàng vì thi sĩ, ngoài một vài phút quá chán chường, cũng phản đối tư tưởng chán đời. Thi sĩ là một người épicurien.
Có điều khác là thi sĩ yêu đời để chơi và hưởng thụ khoái lạc; còn nhà nho yêu đời để phụng sự đạo thánh hiền. Trong mỗi nho sĩ đều có một hoài bão kinh bang tế thế. Trong đầu óc nho sĩ Nguyễn Khắc Hiếu thì cái cái mộng Y Doãn, Chu Công lại càng quả quyết lắm.
“Khoảng năm mười một mười hai tuổi, học ông anh ở nhà, có câu đối ra rằng:
Nhiếp hồ đại quốc chi gian
đối: Ngật như cự nhân chi chí.” [4]
Cậu học trò mười một, mười hai tuổi mà khẩu khí đã hùng thế, tất phải dùng cuộc đời vào việc đẩy xe Khổng Khâu đi hành đạo. Chẳng may đã không được mặc áo xanh, lại để mất người hồng phấn, cậu học trò nho ấy đành xếp mộng Y, Chu một nơi, trốn vào ấp Cổ Ðằng làm anh chàng yếm thế.
Chợt đến “sang đầu năm Duy Tân thứ mười, ông anh tạ thế, đến tháng năm năm ấy một người cháu ruột lại từ trần; cái cảnh bi thương trong gia đình hợp với cái cảnh ngộ bần hàn của thân thế, khiến cho kẻ chán đời chẳng được thời lại phải tuỳ thời tuỳ thế mà sinh nhai lối dọc đường ngang ”. [5]
Ðời thực tại đánh tan cái váng chán đời trong tâm hồn nho sĩ và để lộ hẳn ra cái bản chất thực nghiệm di truyền của cậu ấm nhà họ Nguyễn. Sinh nhai lối dọc đường ngang, thi sĩ phải mang thơ văn làm hàng buôn bán.
“Hai phen diễn kịch ở Hà Nội, Hải Phòng, cùng là các thứ sách, truyện Khối tình con, Giấc mộng con, Khối tình chính, phụ, Ðài gương kinh truyện, Lên sáu, Lên tám đều là những công việc làm ăn trong khoảng mấy năm nay vậy. ”
Hoàn cảnh gia đình đã khôi phục tinh thần thực nghiệm trong tâm trí chàng thư sinh nghèo nàn ấy. Phải lăn mình vào cuộc sống để thoả mãn những nhu cầu vật chất của gia đình, chàng không còn thời giờ mà thở than, buồn rầu, mơ mộng nữa. Muốn tranh sống phải thiết thực. Lãng mạn là thất bại. Luật chiến đấu này đã kích thích chàng rất mạnh. Bao nhiêu tính chất thực nghiệm của di truyền, phút chốc chồm dậy đòi quyền giám đốc bấy lâu nay bị Nàng Thơ chiếm đoạt.
Người thanh niên nho sĩ của chúng ta vội đi tìm những món ăn tinh thần mới để đủ sức tự ứng dụng vào hoàn cảnh mới. Chàng tìm đến nhà kinh tế học Anh Cát Lợi Stuart Mill, một tín đồ hăng hái của chủ nghĩa thực dụng (utilitarisme).
“Trong các thứ sách dịch, có một quyển đáng nhớ hơn hết là quyển Quyền giới luận. Quyển sách này nguyên là của người nước Anh là Stuart Mill làm ra, người Tàu là Nghiêm Phục đứng dịch. Xem sách thời tự thấy có ích cho mình về tinh thần tiến thủ. ”
Ở Tản Ðà, nhà nho thực nghiệm đã thắng thi sĩ lãng mạn. Sự chán đời trở thành vô nghĩa lý.
Dần dần, trong công việc làm ăn của nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu phôi thai một hoài bão vốn đã có hạt giống từ lâu, - cái mộng làm Chu Công, Y Doãn. Nho sĩ muốn giúp ích cho xã hội. Tinh thần thực nghiệm nhuộm màu hiền triết.
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong
Ðệ sổ lên trình Thượng Ðế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Ðầy xuống hạ giới về tội ngông”
Trời rằng: “ Không phải là Trời đầy
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay. ”
Nho sĩ đeo lên vai một sứ mệnh. Nhìn quanh ngó quẩn thấy thiên hạ bộn bề, mặt đất thênh thang không bờ bến, chàng lo ngại cho công việc thi hành sứ mệnh của mình. Chàng vội thu hẹp phạm vi hoạt động vào một cõi. Nhân loại thu hẹp trong biên giới quốc gia. Lòng yêu đời biến thành lòng yêu nước.
“Vào chơi đất Trung Kỳ… rộng mắt nhân dân, sơn hải mà nặng lòng chủng tộc giang sơn. Trèo lên đỉnh núi Hoành Sơn mà trông quanh ngoài bể trong non có hơn như phục dưới đèo xanh đọc một thiên luận thuyết tự tôn vậy. ”
Kết quả của những tư tưởng, tâm trạng ấy là một ly dị triệt để giữa nhà nho và thi sĩ trong linh hồn Tản Ðà. Từ đấy về sau, mười mấy năm trời, lúc ta nghe người thanh niên bồng bột ấy diễn thuyết ở hội Trí Tri, lúc ta gặp chàng đứng làm chủ bút tap chí Hữu thanh, lúc ta thấy chàng chủ trương An Nam tạp chí, lúc ta đọc văn chàng trên tờ Ðông Pháp thời báo ở Sài Gòn… Trên vũ đài bút mực, chàng gắng công hoạt động với tất cả tài năng nghị lực của mình. Và chàng sung sướng thấy nguyện vọng được một đôi phần thực hiện.
Tôi viết “một đôi phần”. Tôi nghĩ đến mấy bản dịch thuật Ðại học, Kinh Thi, Ðài gương truyện. Thực ra, trong công cuộc xuất bản sách và báo, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu chỉ gặp toàn thất bại. Từ Bắc vào Nam, rồi lại từ Nam ra Bắc, mấy phen lận đận với nghề cầm bút, nho sĩ tự thấy nhiều điều kiện tinh thần để thành công. Trong thế kỷ có những quy tắc gang thép này, muốn thắng, phải nhanh nhẹn, căn cơ, gian hùng, độc ác, tàn nhẫn. Tóm lại phải có đủ đức tính của một người hoạt động, đủ mưu mô mềm cứng của một kẻ kinh doanh. Nho sĩ của chúng ta thiếu tất cả những điều kiện đó nên thất bại. Chàng có phải là một nhà kinh doanh đâu! Chàng chỉ là một khách tài hoa lạc vào địa hạt thương trường. Chàng cũng chẳng phải là một người hoạt động. Chàng chỉ là một kẻ giang hồ hăm hở ghé bến Y, Chu ít lâu rồi lại xuống tàu, nhổ neo sống nốt kiếp bình bồng.
Nhận lấy sứ mệnh làm sáng thiên lương, nho sĩ Tản Ðà đã làm một việc trên sức mình. Ðó chỉ là ảo mộng của nhà nho. Gặp những lực lượng tàn phá của đời thực tại, ảo mộng ấy vỡ tan như bóng xà phòng trước gió. Sự tan vỡ này ném nho sĩ Tản Ðà từ bên kinh doanh, hoạt động sang trả lại thi ca. Nhưng lần này, thi sĩ réo rắt tiếng cầm với một cung điệu khác. Cung điệu ngông cuồng của một người bất đắc chí. Trong cái ngông này hàm súc một buồn não thê thảm, - cái buồn của những chiều tàn.
Công danh sự nghiệp mặc đời
Bên thời be rượu bên thời bài thơ
Ngông và mộng ở Tản Ðà có hai thứ ngông: cái ngông của nhà nho và cái ngông của thi sĩ. Một cái dùng làm phương châm sinh hoạt, một cái dùng làm đề hứng thơ ca. Một cái ứng dụng vào đời, một cái ứng dụng vào mộng. Hai cái giảng nghĩa lẫn nhau, liên kết với nhau, in vào thơ Tản Ðà một sắc thái đặc biệt.
Trước hết Tản Ðà tiên sinh là một nhà nho. Nhà nho di truyền, vì giáo dục, vì hoàn cảnh gia đình. Nhưng tiên sinh là một nhà nho bất đắc chí, thất bại trong cuộc sống. “Mỗi phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm ”. [6] Tiên sinh thất bại vì thiếu tất cả điều kiện để thành công. Hơn nữa, tiên sinh có tất cả điều kiện để làm hỏng việc.
Tiên sinh đem tài hoa vào doanh nghiệp. Nhưng bởi quá giàu tự ái, tiên sinh vẫn tin rằng mình có tài, chỉ vì không gặp hoàn cảnh thuận tiện nên thất bại. Cái tin ấy là đầu mối của cái ngông. Người ngông, ít nhất, phải tự thấy mình cao hơn đời, giỏi hơn đời. Ngông chỉ là một biến thể của kiêu ngạo. Ngông để mà khinh. Cái ngông này ta đã thấy ở các nhà nho bất đắc chí như Cao Bá Quát, Tú Xương…
Tản Ðà tiên sinh cũng thuộc về loại nho sĩ ấy. Ở con mắt tiên sinh tất cả đều tầm thường. Tiền tài danh vọng đều vô giá trị. Những cái gì người đời ưa chuộng, tiên sinh khinh. Tiên sinh có phải là người đời đâu. Tiên sinh là một trích tiên! Suốt đời, tiên sinh chỉ khao khát có hai điều: gặp tri kỷ và gặp giai nhân.
Tri kỷ không gặp, tiên sinh đành nói chuyện với bóng, với ảnh, với…trời.
Ngồi đây ta nói sự đời
Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi bóng nghe
Cõi đời từ cất tiếng ve
Ðã bên ngọn lửa lập loè có nhau
Tương tri từ ấy về sau
Ðôi ta một bước cùng nhau chẳng dời
Bóng nghe bóng cũng gật đầu
Người đâu cũng giống đa tình
Ngỡ là ai lại là mình với ta
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình sao một mà hai?
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng tinh như sương
Ðầm như mưa sa lạnh như tuyết
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì
Người ở phương nao ta chưa biết?”
Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu về địa cầu
Sông Ðà núi Tản nước Việt Nam”
Giai nhân không gặp, tiên sinh tạo ra một cô tình nhân không quen biết, một kỹ nữ tài hoa (Vân Anh)
Câu tri kỷ cùng ai tri kỷ
Chuyện chung tình ai kể chung tình
Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh
Mình ơi ta nhớ mà mình quên ta
Rồi một lúc ngẫu hứng, tiên sinh kết tinh tri kỷ và giai nhân vào một người đẹp rất thông minh: nàng Chu Kiều Oanh. Từ đấy về sau tiên sinh chỉ giao thiệp bằng tinh thần với con người mộng tưởng ấy. Ngoài nàng ra, ai cũng nhỏ bé, ai cũng tục tĩu. Mà nàng là ai? Nàng chỉ là tiên sinh vậy. Tinh thần duy ngã độc tôn, ở Tản Ðà, phát triển đến cực độ. Tiên sinh chỉ nhìn thấy mình, chỉ nói đến mình, chỉ ca tụng có mình.
Toàn thể văn nghiệp tiên sinh là một tiểu sử trung thành và đầy đủ.
Vì lẽ đó nên Tản Ðà tiên sinh ngông mà nhận thức được cái ngông của mình. Ngông một cách sáng suốt và thích chí. Lúc theo quan huyện Tam Dương bỏ Vĩnh Yên về Hải Phòng, tiên sinh viết: “Lạ thay! Một kẻ bần nho không có thước đất nào trước sau đem hơn hai nghìn đồng bạc vừa ăn tiêu vừa sang sửa tô điểm khu đồi ở Ðịnh Trung, một khi bỏ đó như không, ở mạn rừng lại trôi về mạn bể. Nhân sinh phù thế, bịt mồm ai, ai dễ nhịn cười chăng? ”
Hình như tiên sinh lấy làm khoái lắm khi thấy thiên hạ cười mình là ngông cuồng, rồ dại. Viết đến đây tôi lại nhớ đến Baudelaire. Bình sinh, thi sĩ chỉ làm toàn những việc, nói toàn những câu ra ngoài lẽ thường. Và mỗi lần như thế, thi sĩ lại hỏi một người có mặt: “ông ngạc nhiên lắm có phải không?” Câu hỏi này mô tả đầy đủ cái sung sướng kỳ quặc của thi sĩ. Làm người khác ngạc nhiên vì mình chẳng phải là mục đích của thi sĩ đó sao?
Với ít suồng sã và trơ tráo hơn, Tản Ðà tiên sinh cũng có tâm lý ấy của thi sĩ Baudelaire. Tâm lý một người ngông có ý thức.
Mỗi lần thất bại, tiên sinh lại ngông thêm một ít. Cái ngông này chính là nguyên nhân của cái thất bại sau. Và đời tiên sinh cứ như thế… Rút cục, ngông thành một triết lý của kẻ chiến bại tự trọng. Hơn nữa, nó thành một bản ngã thứ hai của Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh. Nó là dấu hiệu của tài hoa.
Cái ngông của thi sĩ chỉ là cái ngông của nhà nho, nhìn ở một cạnh khác. Thi sĩ ngông để giải thoát.
Một lần nói chuyện với tiên sinh, tôi có hỏi: “Thưa cụ, trong các bài thơ cụ đã làm, cụ có thể cho biết cụ thích bài nào nhất?” Không suy nghĩ, tiên sinh trả lời ngay: “Tôi thích nhất bài ca làm trong tập Giấc mộng con thứ hai để Tây Thi hát”.
Rồi tiên sinh ngâm, sảng khoái:
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Nước non như vẽ bức tranh tình
Non nước tan tành
Giọt lệ tràn năm canh!
Ðêm năm canh
Lụy năm canh
Nỗi niềm non nước
Ðố ai quên cho đành?
Quên sao đành?
Nhớ sao đành?
Trần hoàn xa cách
Bồng Lai non nước xanh xanh!
Ngâm xong, tiên sinh giải thích: “Ông tính, Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi cất giọng hát mà mình ngồi nghe thì còn gì khoái hơn nữa! Bấy giờ mình cứ tưởng mình chính là Ðường Minh Hoàng trong cung điện đang cùng mỹ nhân thưởng thức điệu Nghê Thường.” Tiên sinh cười lớn, kết luận: “Nghĩ lúc ấy thật cũng sướng cho cái đời văn sĩ của mình!”
Câu chuyện này đủ chứng thực rằng, Tản Ðà thi sĩ chỉ mượn những mộng văn chương để sống cái ngông vô biên ấy của mình và dùng cái ngông vô biên ấy để thoả mãn một nhu cầu giải thoát. Mấy lần mộng, mấy lần lên trời, gửi thư lên cung trăng hỏi chị Hằng làm vợ… Tất cả những hành vi văn chương ấy chỉ là những mộng để tiên sinh vượt khỏi thực tế. Ở thực tế, mình nhỏ thì phải tạo ra mộng đẻ thành nhớn. Thế thôi!
Cho nên, mộng Tản Ðà mặc áo thơ mà thiếu chất thơ. Nó là sản vật của trí tưởng tượng hơn là bản thể của tâm hồn. Trong thai nghén của mộng vẫn có cái ngông của nhà nho thất thế.
Tôi nói nhà nho và tôi dụng tâm nhắc đi nhắc lại danh từ ấy. Vì tôi nhận thấy rằng Tản Ðà tiên sinh là nho sĩ hơn là thi sĩ, là nho sĩ tài hoa hơn là nho sĩ chính thống. Tiên sinh ngông hay mộng cũng vẫn giữ cốt cách nho gia.
Một lần, vào khoảng 1926, Nguyễn Thái Học, nguyên lãnh tụ đảng Việt Nam Quốc Dân, nhờ một người bạn giới thiệu làm quen với tiên sinh. Hồi đó, nhà nho của chúng ta đang nằm ở Vinh, sau lúc An Nam tạp chí đình bản. Nguyễn Thái Học vào thăm tiên sinh mục đích yêu cầu tiên sinh cho tái bản An Nam tạp chí, bao nhiêu tiền, bài vở, ông và các bạn đảm lĩnh hết. Tiên sinh cũng ưng thuận vui vẻ lắm.
Câu chuyện bàn trong tiệc rượu. Lúc chủ và khách ngà ngà say, Nguyễn Thái Học mới ngỏ ý muốn tiên sinh viết sự nhượng quyền biên tập An Nam tạp chí thành giấy tờ dứt khoát. Ðó chỉ là tính cẩn thận trong công việc. Không ngờ vì thế mà tiên sinh hết sức bất bình, bảo Nguyễn Thái Học: “Thế tức là ông không biết tôi. Ông không hiểu thì hợp tác thế nào được ”. Rồi tiên sinh bỏ rượu, ăn cơm, vào nhà trong nằm nghỉ.
Hẳn có người ngạc nhiên về thái độ của tiên sinh đối với khách. Nhưng nếu ta hiểu tiên sinh hơn nữa, ta sẽ thấy rằng hành vi ấy tất nhiên phải có. Ðối với một nhà nho, sự thủ tín là một đức tính không thể thiếu được. Bắt làm giao kèo tức là không tin ở lòng bền vững của nhau. Một nhà nho không nổi giận sao được! Nhưng nếu tiên sinh là nhà nho thuần tuý thì tiên sinh phải giấu cái giận đi rồi tìm cớ mà từ chối sự hợp tác. Như vậy mới phải phép xử thế của người quân tử. Ðằng này bỏ khách không tiếp để lộ cái nộ khí của mình, tiên sinh đã tỏ ra một nhà nho phóng lãng không chịu đóng khung thất tình vào những lễ nghi thông dụng. Tiên sinh là một kẻ tài hoa lạc bước vào sân Trình cửa Khổng.
Ðời và thơ Tản Ðà đặc sắc và có ý nghĩa ở những lạc bước tiền định ấy.
Kết luận
Trong người Tản Ðà có ba yếu tố tinh thần: 1) bản chất épicurien (thờ khoái lạc); 2) di truyền Nho giáo; 3) tập quán lãng mạn.
Tiên sinh hưởng cuộc đời theo chủ não người épicurien, hành động theo hoài bão một nhà nho, xử thế theo cốt cách người lãng mạn. Ba yếu tố ấy kết hợp lại thành cái ngông vô biên của tiên sinh. Rồi suốt cuộc đời, tiên sinh chỉ lấy mộng để sống cái ngông ấy. Nhưng trong mộng và ngông, ta đều nhận được một buồn bã nặng nề. Ðó là cái buồn của những kẻ tài hoa sống trên đời như một khách lữ hành, không tin tưởng, không hy vọng. Ðã coi cuộc thế như một giấc mộng, đã coi sự vật toàn là ảo ảnh, thì còn tin tưởng làm sao được, hy vọng làm sao được?
Ðời và thơ Tản Ðà phù phiếm ngang nhau. Không có gì sâu sắc, không có gì lớn lao, không có gì bay bổng. Nói vậy không phải bảo là đời và thơ tiên sinh không lý thú. Trái lại.Ðể kết luận quyển nghiên cứu nhỏ này, tôi nhắc lại:
Tản Ðà tiên sinh, vì bản chất, vì di truyền, không phải là một thi nhân thuần tuý.
Tiên sinh chỉ là một người thờ khoái lạc, một kẻ tài hoa lạc vào địa hạt thơ ca.
Phát hiện tuyệt đối của cốt cách tài hoa ấy là cái ngông của tiên sinh.
Phạm vi thực hiện được chu đáo cái ngông ấy là cõi mộng văn chương.
Thơ Tản Ðà chỉ là biểu thị lỗi lạc của những trạng thái tâm lý phức tạp ấy.
Ðọc tới đây, các bạn hẳn đã hiểu rõ tâm hồn Tản Ðà tiên sinh. Các bạn cũng đã thấy địa vị tiên sinh trong văn học sử hiện đại. Chỉ có một điều tôi chưa đem bàn luận cùng các bạn là nghệ thuật làm thơ của tiên sinh. Tôi hẹn các bạn đến một quyển sách khác.
Viết trong tháng Janvier 1939
Ðại đồng thi xã xuất bản, Hà Nội, 1939.
[1]Trích trong Giấc mộng lớn của Tản Ðà.
[2]Như trên
[3]Trích trong quyển Khối tình con, bản phụ.
[4]Trích trong quyển Giấc mộng lớn
[5] Như trên
[6] Như trên
KIỀU THU HOẠCH * TẢN ĐÀ
Tản Đà - Người mở đầu thơ Việt Nam hiện đại
--- Kiều Thu Hoạch ---
Tản Đà
- Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) - người làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba
Vì, Hà Tây) - được coi là nhà thơ, nhà văn, nhà báo tiêu biểu trên
văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20. Với những bài thơ có tư tưởng cách
tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó, Tản Đà là người mở đầu cho
thơ Việt Nam hiện đại. Ông có thơ ngông, thơ buồn, thơ say, thơ lãng
mạn... nhưng tất thảy đều thể hiện tấm lòng yêu nước thương nòi. Tản Đà
cũng là người đóng vai trò khai sáng và tiên phong trong văn xuôi
nghệ thuật.
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê
Thượng, nay thuộc xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Ông sinh năm
1889, mất năm 1939. (1)
Cha ông là Nguyễn Danh Kế, đậu cử nhân
thời Tự Đức, được bổ tri huyện, tri phủ, rồi án sát, nên ông được "tập
ấm", thường gọi là Ấm Hiếu. Mẹ ông là một đào nương nổi tiếng tài sắc ở
phố Hàng Thao, Nam Thành, lấy lẽ thứ ba ông Nguyễn Danh Kế và Ấm Hiếu
là con thứ tư, mà cũng là con út của bà.
Năm Ấm Hiếu lên ba
tuổi thì bố mất, sau đó mẹ ông lại trở về nghề cũ. Từ bấy giờ, ông
được người anh cùng cha khác mẹ là Giáo thụ Nguyễn Tài Tích nuôi
dưỡng.
Theo tác phẩm Giấc mộng lớn, một cuốn tự truyện của Tản
Đà, đồng thời là cuốn tự truyện đầu tiên của văn học Việt Nam, thì ông
đã thi hỏng luôn hai khóa ở trường Nam (trường thi Nam Định). Sau lần
hỏng thi khoa Nhâm Tý (1912), ông mới thôi nghề khoa cử. Lúc này, ông
có dịp được đọc các tân thư Trung Quốc dịch của người Thái Tây (2) và
rất ham đọc báo chí Trung Quốc.
Sự nghiệp làm báo của Tản Đà
bắt đầu được khơi gợi từ đây. Chính trong "Giấc mộng lớn", ông đã
viết: "Ngoài sự làm văn thơ, chỉ mê thiết xem các thứ nhật trình Tàu.
Cảnh ngộ vô tình mà cái cơ duyên báo chí sau này cũng phát đoan (3) từ
đấy". Trong thời kỳ này, Tản Đà còn được người anh rể Nguyễn Thiện Kế
dìu dắt vào con đường văn chương. Nguyễn Thiện Kế từng làm tri huyện
Tùng Thiện và Phúc Thọ của xứ Đoài, vốn là một nhà thơ trào phúng nổi
tiếng đương thời, lại là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào
yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ 20, thường làm thơ đả kích táo bạo
bọn quan lại cao cấp, tay sai của thực dân Pháp. Trong "Giấc mộng
lớn", Tản Đà tỏ ra hết sức kính phục tài văn chương của quan huyện
Nguyễn Thiện Kế, gọi ông là đại thi hào, đồng thời cũng ghi nhận ảnh
hưởng của nhà thơ này đối với mình: "Cái sinh nhai quốc văn của mình
có hay hơn mười năm nay, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện -
Nguyễn Thiện Kế, phát đoan, dẫn đạo".
Tác phẩm đầu tiên của Tản
Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở "Đông
Dương tạp chí", năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã
nổi tiếng, đến mức "Đông Dương tạp chí" phải mở riêng một mục là Tản
Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông, và Tòa soạn đã ghi nhận xét
rằng: "Bản quán duyệt qua tập văn ấy, thì thấy ông Nguyễn Khắc Hiếu
cũng là một văn sĩ có biệt tài, có lý tưởng riêng, ngắm cảnh vật một
cách kỳ khôi, lạ thay cho một bậc thiếu niên!".
Và suốt từ đó
cho đến năm 1939 là năm Tản Đà mất, ông đã sáng tác liên tục không mệt
mỏi một khối lượng đồ sộ gồm đủ loại thơ, văn, truyện, ca kịch, các
làn điệu dân ca, từ khúc, diễn ca, dịch văn học cổ điển Trung Quốc như
thơ Đường và Kinh Thi, chú giải Truyện Kiều... Hiện nay, giới khoa
học đã sưu tập được khoảng trên 30 tác phẩm gồm các văn tập, thi tập
của ông như: Khối tình con, Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Còn chơi;
Thơ trên các báo và An Nam tạp chí, Thần tiền, Lên sáu, Lên tám, Tản Đà
tản văn, Tản Đà tùng văn, Truyện thế gian, Nhàn tưởng, Thơ Tản
Đà,v.v.
Điều lạ kỳ là Tản Đà là người học chữ Hán, theo lối học
cử nghiệp, vốn quen thuộc với văn sách, với phú, với lối văn tứ lục,
với thơ luật Đường... thế mà ông viết văn xuôi lại rất hay, rất sắc
sảo, rất nhuần nhuyễn, thuần thục.
Năm 1916, khi tác phẩm "Giấc
mộng con I" ra đời, Dương Bá Trạc đề tựa cho Tản Đà đã phải khen: "Mới
mươi mười lăm năm nay, sĩ phu trong nước mới có cái khuynh hướng về
văn quốc âm, giọng Hàn Thuyên, hồn Đại Việt đã lập lòe một tia lửa
sáng xuất hiện trong văn giới hoàn cầu. Ông Nguyễn Khắc Hiếu, Sơn Tây,
chính là một tay kiện tướng trên trường hàn mặc ấy!". "Giấc mộng con
I" cũng như "Giấc mộng con II" là hai tập du ký tưởng tượng, có thể
coi đây là tiểu thuyết viễn tưởng của Tản Đà. Ở "Giấc mộng con I", Tản
Đà chỉ lấy tư liệu trên báo chí mà tả lại những nơi danh thắng trên
thế giới, như thác nước Niagara ở Canada, đền Taj-Mahal ở ấn Độ, Kim
Tự Tháp ở Ai Cập..., thế mà ông miêu tả sống động, hứng thú y như là
chính mình đã tới chơi những nơi đó thật.
Ở "Giấc mộng con II",
ông kể chuyện cuộc chơi lên thiên đình, gặp các danh nhân lịch sử thế
giới và Việt Nam, như Lư Thoa (J.J.Rousseau), Đông Phương Sóc, Khổng
Tử, Hàn Thuyên, Nguyễn Trãi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi... Qua hai cuộc
viễn du tưởng tượng, tác giả muốn đưa mọi người đến những thế giới lý
tưởng, diệu kỳ, đến với những cảnh sắc tươi đẹp, gặp gỡ những nhân
vật tài hoa. ở đó chỉ có cái đẹp, cái cao thượng, tình yêu thương và
lòng tôn trọng lẫn nhau, khác hẳn cái xã hội xấu xa nơi trần giới. Tác
phẩm vừa có giá trị hiện thực phê phán lại vừa có ý nghĩa lãng mạn,
thể hiện những ước vọng nhân văn của tác giả.
Tản Đà là người
thích mở rộng, và có một trí tưởng tượng rất phong phú, song nhiều khi
mơ mộng, tưởng tượng chỉ là những yếu tố thi pháp trong cá tính sáng
tạo của ông, và điều đó không hề làm giảm giá trị phản ánh hiện thực
xã hội và ý nghĩa phê phán của tác phẩm. Trường hợp tiểu thuyết "Thần
tiền" chẳng hạn, là như vậy. ở đấy, với giọng văn châm biếm hài hước,
tác giả đã mượn lời hai chị em đồng tiền nói với nhau để tố cáo thói
ăn tiền bẩn thỉu của bọn quan lại: "Khi đã vào trong cửa quan, trên
thời quan nha, dưới thời lính tráng, dân sự, mà các ông ấy để mình nằm
trần truồng ra trước công đường. Lúc ấy thẹn phải chết... Ngồi đấy,
rồi thấy quan cũng thét mắng luôn, nhưng về các dân sự chứ không phải
là quát mắng mình, mà mình thỉnh thoảng thấy quan nhìn mình thời nó
như có ý thương yêu lắm!". Cách kể chuyện như vậy thật là hóm hỉnh và
hấp dẫn.
Tuy nhiên, trong nhiều bài văn ngắn, tùy bút, bút ký,
nghị luận, ngọn bút Tản Đà có khi chẳng cần bóng gió mà đả kích trực
diện vào bọn quan lại bất lương, vào tầng lớp trên vô liêm sỉ, đồng
thời tỏ ý bênh vực những người nghèo khổ, lương thiện, ca ngợi lòng
yêu nước, thương nòi. Chẳng hạn trong tạp văn "Thế nào là hạng người
hạ lưu trong xã hội", đăng ở Đông Pháp thời báo năm 1927, Tản Đà viết:
"Nay nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo
đai cân, mề đay kim khánh mà gian tham, xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương,
hút máu mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, hiến vợ con cho người ta
để giữ bền phú quý, như thế có phải là hạng người hạ lưu hay không?".
Hoặc một đoạn khác ông viết: "Nếu trong hạ đẳng xã hội ta mà có những
ai biết thờ cha kính mẹ, yêu nước thương nòi, thời tức là người thượng
lưu vậy". Tác giả lấy đạo đức con người mà không lấy sự giàu nghèo
làm tiêu chuẩn để phân biệt thượng lưu, hạ lưu. Trong xã hội phong
kiến thực dân, đạo đức suy đồi, luân thường đảo ngược, cái ác đang ngự
trị, cái lợi cái danh đang chi phối cuộc sống mà Tản Đà lại công
nhiên viết trên báo như vậy, há chẳng phải là một nhà văn, nhà báo đầy
khí phách, đầy dũng khí? (Chính vì vậy mà bọn quan lại thực dân phong
kiến đã tỏ ra không ưa ông, thường để ý xét nét, rình rập ông; điều
này ông có ghi rõ trong tập Giấc mộng lớn).
Văn xuôi Tản Đà còn
có những thiên tùy bút, bút ký, tiểu phẩm, chan chứa tình cảm nhân đạo
chủ nghĩa, thể hiện sự thông cảm sâu sắc với những nỗi khổ nhục của
đồng bào trong kiếp sống nô lệ, lầm than. Đó chính là loại văn mà Tản
Đà gọi là văn vị đời. Các bài "Cảnh nhà nghèo lấy vợ", "Cảnh túng đi
vay tiền"... là những tác phẩm như vậy.
Nhìn chung, văn xuôi Tản
Đà đã đề cập đến nhiều vấn đề của xã hội đương thời, bằng một lối văn
giàu tính nghệ thuật, hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, có bản lĩnh, bản sắc
riêng.
Có thể thấy rằng đó là thời điểm quốc văn mới phôi thai,
mới bắt đầu, mà lại là văn xuôi nghệ thuật, thì mới thấy hết vai trò
khai sáng và tiên phong của Tản Đà.
Trong lĩnh vực thi ca cũng
vậy, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào
đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí
dẫn đạo của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam
(1941), Hoài Thanh và Hoài Chân trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà
đã viết những lời trân trọng: "... Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ
hơn 20 năm trước, đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo
những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đang sắp sửa". Trước
đó, trong tuần báo Ngày nay (số ra ngày 17-6-1939), Xuân Diệu, một
người say mê thơ Tản Đà từ nhỏ, cũng đã viết: "Tản Đà là người thi sĩ
đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại".
Đương nhiên, Tản Đà
chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Nhưng rõ
ràng, ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng
tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh,
Một phút trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy hoa trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi
(Tống biệt)
Trong
thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ
như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là mới, rất mới!
Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên "một giọng phóng túng riêng" trong phong cách thơ Tản Đà:
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...
(Thú ăn chơi)
Loại
thơ phóng túng của Tản Đà còn nhiều, đọc những bài như thế, có thể
liên tưởng đến giọng thơ Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Song cũng đúng như
các tác giả "Thi nhân Việt Nam" đã nhận xét: "Cái dáng điệu ngang
tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không bao
giờ có vẻ vay mượn". Cái phóng túng, cái ngang tàng ấy chính cũng là
cái ngông mà Tản Đà đã tự nhận:
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng,
Sông Đà núi Tản ai hun đúc,
Bút thánh câu thần sớm vãi vung...
Bởi ông hay quá ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông!
(Tự trào, sau khi hỏng thi ở trường Nam Định, 1912).
Thơ lưng chất nặng, tay buồn rỗi,
Bán áo mà mua giấy viết ngông.
(Dạm bán áo đoạn)
Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông
(Tiễn ông Công lên trời).
Đi
liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực
tầm thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế,
vì cảnh đời:
Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?
(Thơ rượu).
Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.
(Lại say).
Nhưng
bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vẩn
vơ, cái nỗi sầu man mác và cái tình bâng khuâng, những yếu tố muôn đời
của chủ nghĩa lãng mạng, nhưng lại chỉ riêng có ở Tản Đà, và đó là chủ
nghĩa lãng mạng Tản Đà, nếu có thể gọi được như thế!
Mùa thu
là mùa gợi buồn cho thi tứ và cũng là mùa muôn thuở của thi ca lãng
mạng. Nhưng thơ thu của Tản Đà không phải chỉ có buồn mà còn có nhớ,
một nỗi buồn nhớ vơ vẩn, bâng khuâng:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần giới em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơị
(Muốn làm thằng Cuội).
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
(Vô đề)
Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)
Và
đây là một bài thơ thu nổi tiếng mà chính Tản Đà đã chọn để mở đầu
các giờ giảng văn ở trường Hồng Bàng, Hà Nội, bài "Cảm thu", tiễn thu:
Từ vào thu đến nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai...
Tản
Đà ngông, Tản Đà say, Tản Đà buồn, Tản Đà mơ mộng, có lẽ cũng chỉ là
một phần cảm của ông trước buổi giao thời "gió Á mưa Âu", cái thời mà
chỉ thấy:
Luân thường đổ nát, phong hóa suy,
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly...
(Trần ai tri kỷ).
Còn
trong thực tế, Tản Đà không phải là con người thoát ly, nhắm mắt
trước thời cuộc. Thơ ông cũng không hiếm những bài hướng vào hiện thực
xã hội, bộc lộ những tình cảm yêu nước, thương nòi:
Này những ai, này những ai,
Ai có nghe rằng việc thủy tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
Lệ đầy vơi, tình chia phôi,
Bồng bế con thơ bán khắp nơi
Năm hào một đứa trẻ lên sáu,
Cha còn sống đó, con bồ côi
(Khuyên người giúp dân lụt)
Và
nói như Nguyễn Đình Chiểu: "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương".
Tản Đà hay thương dân nên cũng hay ghét bọn tham quan ô lại hại dân, hại
nước:
Cũng phường dối nước quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân giống hại đàn.
Lạnh lẽo hơi sương tòa Tạp chí
Lệ ai giàn giụa với giang san.
(Cảm đề)
Đục nước năm nay cò lại béo,
Bao nhiêu đê vỡ bấy nhiêu tiền
(Nhớ cảnh nước lụt ở bắc).
Tản
Đà rất ghét bọn ăn hối lộ, ông được biết chuyện Tuần phủ Vĩnh Yên là
Đào Trọng Vận nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài đã ăn của đút gần ba
nghìn đồng, ông đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết truyện "Tờ di chúc" để tố
giác vụ này, rồi ông lại viết bài thơ "Cảm đề" cho tiểu thuyết này với
một giọng châm biếm khá sâu cay, chua chát:
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian,
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan...
Là
một người dân mất nước, lo cho vận mệnh của Tổ quốc, lại chịu ảnh
hưởng sâu sắc của những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỷ, Tản Đà
có những vần thơ cảm khái, nói đến các anh hùng dân tộc, nói đến dân
vong quốc, nói đến nòi giống Tiên Rồng... thể hiện tư tưởng yêu nước
một cách kín đáo. Tiêu biểu cho dòng thơ này của Tản Đà là bài "Thề
non nước", một bài thơ đã đi sâu vào lòng người và được lưu truyền
rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân:
Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước không nguôi lời thề
Riêng
ở xứ Đoài, bài thơ này cũng như nhiều bài phong dao của Tản Đà từ lâu
đã trở thành những bài hát ru quen thuộc, như những bài hát dân gian.
Tản
Đà là nhà thơ thân thương của xứ Đoài như ông đã tự khẳng định: "Tôi
là người gì? ở phía Nam Đông Á, ở phía bắc Việt Nam, ở phía tây Bắc Kỳ,
một người làm văn ở tỉnh Sơn Tây vậy!" (Giấc mộng lớn). Nhưng vượt
khỏi "Đà Giang, Tản Lĩnh nước non quê", Tản Đà còn là nhà thơ, nhà
văn, nhà báo tiêu biểu, như ngôi sao khuê rực sáng của văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX, đúng như Nguyễn Tuân đã nhận xét: "Trong chốn Tao
Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ súy; trong Hội tài tình, Tản Đà xứng
đáng ngôi Hội chủ; mà làng văn làng báo xứ này ai dám ngồi chung một
chiếu với Tản Đà?" (4). Và Tản Đà cũng hoàn toàn xứng đáng như đánh
giá của nhà thơ Xuân Diệu trên Tuần báo Ngày nay (17-6-1939) ngay sau
khi Tản Đà qua đời: "Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ
Việt Nam hiện đại".
--------------------------------------------------------------
(1) Năm sinh, năm mất và thơ văn của Tản Đà đều căn cứ theo Tuyển tập Tản Đà, Nxb Văn học, Hà Nội, 1996.
(2) Thái Tây: Chỉ Âu-Mỹ nói chung.
(3) Phát đoan: Bắt đầu.
(4) Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Xương, Sđd, tr.480.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
HẢI NGOẠI PHIẾM ĐÀM
Nhân ngày mất của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 07-06-1939 ) Nhân ngày sinh của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ( 20-4-1889 )
Tản Đà: Văn Chương, Sự nghiệp
Thi sĩ Tản Đà với bài thơ Tống biệt
Nghe những bài CA TRÙ của Tản Đà
Khu lưu niệm Tản Đà được xếp hạng di tích lịch sử
Chuyện vui bên lề cuộc bút chiến thơ mới và thơ cũ
Người tình không quen biết củaTản Đà
Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi
Tản Đà
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 25-5-1889, tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, cạnh sông Đà và cách núi Tản Viên 10 km chim bay. Ông đã mượn tên núi tên sông làm bút danh.
Tản Đà tạ thế tại Hà Nội ngày 7-6-1939. Tản Đà bước vào văn chương ở buổi cũ mới giao thời. Thơ lối cũ không còn đủ chứa tình ý của thời đại. Còn lối mới thì ông phải tự tìm lấy. Bỗng nhiên Tản Đà thành người tự do không bị khuôn khổ nào câu thúc, cả về hình thức lẫn nội dung. Thơ ông lắm lối lắm loại. Khi thì ông phân biệt chúng bằng hình thức: hát nói, hát sẩm, tứ tuyệt, bát cú, yết hậu, lục bát, trường đoản, từ khúc, trường thiên... Khi thì bằng nội dung: tập Kiều, thù tiếp, thơ họa... Phân biệt lắm thứ như thế vì thật sự Tản Đà không quan tâm đến sự phân biệt. Ông làm thơ như chỉ vì mình. Thơ như nói, nói như chơi mà thấm thía nhân tình. Biên độ thơ Tản Đà rất rộng. Dân ca liền với triết học, cổ điển xen cùng lãng mạn, trào phúng trộn với trữ tình.
Tản Đà: Văn Chương, Sự nghiệp
Thi sĩ Tản Đà với bài thơ Tống biệt
Nghe những bài CA TRÙ của Tản Đà
Khu lưu niệm Tản Đà được xếp hạng di tích lịch sử
Chuyện vui bên lề cuộc bút chiến thơ mới và thơ cũ
Người tình không quen biết củaTản Đà
Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi
Tản Đà
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 25-5-1889, tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, cạnh sông Đà và cách núi Tản Viên 10 km chim bay. Ông đã mượn tên núi tên sông làm bút danh.
Tản Đà tạ thế tại Hà Nội ngày 7-6-1939. Tản Đà bước vào văn chương ở buổi cũ mới giao thời. Thơ lối cũ không còn đủ chứa tình ý của thời đại. Còn lối mới thì ông phải tự tìm lấy. Bỗng nhiên Tản Đà thành người tự do không bị khuôn khổ nào câu thúc, cả về hình thức lẫn nội dung. Thơ ông lắm lối lắm loại. Khi thì ông phân biệt chúng bằng hình thức: hát nói, hát sẩm, tứ tuyệt, bát cú, yết hậu, lục bát, trường đoản, từ khúc, trường thiên... Khi thì bằng nội dung: tập Kiều, thù tiếp, thơ họa... Phân biệt lắm thứ như thế vì thật sự Tản Đà không quan tâm đến sự phân biệt. Ông làm thơ như chỉ vì mình. Thơ như nói, nói như chơi mà thấm thía nhân tình. Biên độ thơ Tản Đà rất rộng. Dân ca liền với triết học, cổ điển xen cùng lãng mạn, trào phúng trộn với trữ tình.
Cái
mới rõ nhất ở Tản Đà là sự hồn nhiên,
tự nhiên. Ông làm thơ như hít thở, thấy
thế, cảm nghĩ thế thì viết thế. Tản Đà
phẫn chí về danh phận nhưng lại đắc ý về
tài năng; tài cao phận thấp, chí khí
uất. Thơ ông nói chuyện đời ông, nói việc hàng ngày
của ông. Ông không mỹ lệ hóa đời cũng không thần
bí hóa thơ mà cũng chẳng màu mè vờ vĩnh. Đắc ý thì
nói đắc ý, buồn thì nói buồn. Dám bộc
lộ thật mình trong văn chương ở thời Tản
Đà là bạo lắm. Phạm Quỳnh công kích Tản
Đà: Người ta, phi người cuồng, không ai
dám trần truồng mà đi ngoài phố. Nhà làm
sách cũng vậy, không ai đem thân thế mình mà làm
truyện cho người đời xem. Nhưng chính chỗ ấy là
chỗ Tản Đà đã khai sinh ra chủ nghĩa lãng mạn cho
thơ Việt Nam, trước cả phong trào Thơ Mới.
Bối cảnh xã hội, trình độ dân trí hồi
ấy đã cho phép Tản Đà bộc lộ chính mình,
đã chấp nhận cho "cái không giống ai"
trong phạm trù cá nhân, cá thể tồn tại,
điều mà Nguyễn Trãi, Nguyễn Du chưa có.
Các cụ xưa mới chỉ bộc lộ được từng nét cá thể
khi tỉnh rượu, lúc tàn canh.
Các cụ mới có từng yếu tố lãng mạn chứ
chưa có chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa
lãng mạn lấy cái tôi làm nền tảng, quan
tâm, chăm chút cái tôi. Tản Đà lãng mạn trên cái
tôi ngông. Ngông là một cách đòi quyền tồn tại cá
thể chống mọi khuôn mẫu áp đặt. Ngông là lãng mạn
trong cõi thực. Tản Đà còn lãng mạn ra
ngoài cõi thực. Và đấy lại là chỗ bộc lộ
nhất tinh hoa thơ Tản Đà: Nhớ mộng,
Tống biệt, Nói với bóng, Nói với ảnh...
Đọc văn xuôi Tản Đà càng thấy rõ phẩm chất
lãng mạn của tâm hồn ông.
Hồn
mơ mộng, thơ hiu hắt, tình điệu âm u.
Cõi u ẩn của lòng người, cao thấp sang
hèn gì, đều dám phơi lên mặt giấy, gợi
thương, gợi buồn, gợi cảm thông. Bài Tống
biệt từ âm điệu đến hình ảnh đều nói được cái
dúng dắng của khách trần lưu luyến động tiên, khát
thèm mộng ảo: Cửa động/Đầu non/ Đường lối cũ/ Ngàn
năm thơ thẩn bóng trăng chơi. Bài Nhớ mộng
mở đầu như một sự giác ngộ Giấc mộng
mười năm đã tỉnh rồi. Nhưng tỉnh lại
thấy không bằng mộng: Nghĩ đời lắm nỗi
không bằng mộng! Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán
đời. Hai câu này còn là cái lãng mạn mực thước của
chủ nghĩa cổ điển. Nó là tổng kết chung của cõi
đời dâu bể. Cái chỗ hé ra nỗi niềm Tản Đà là ở
câu Những lúc canh gà ba cốc rượu và
Mộng cũ, mê đường biết hỏi ai. Tản Đà có
những câu thơ chán đời nhưng trong cốt
lõi, ông là người ham chơi, ham sống:
Trời sinh ra bác Tản Đà/ Quê hương thời có cửa nhà
thời không/ Nửa đời Nam Bắc Tây Đông/ Bạn bè xum
họp vợ chồng biệt ly. Tản Đà chỉ hiện thực khi nào
cái thực đánh rất đau vào cái mộng, đánh
vào tâm trí nhân ái: Năm hào một đứa
trẻ lên sáu. Tiền có năm mà trẻ lên sáu,
ấn tượng con số diễn tả sự rẻ rúng của
phận người năm lụt lội đói kém.
Về
hình thức câu thơ, Tản Đà cũng có nhiều
cách tân lắm. Bên cạnh thơ lối cũ, ông
viết nhiều thơ lối mới. Ông dùng song
song cả mới lẫn cũ, không bài xích hay
bênh vực thứ nào nên người ta cứ nghĩ phải
đến thời Thơ Mới câu thơ Việt Nam mới có cách tân.
Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam coi Tản Đà như
người bắc cầu cho hai thời đại thi ca Việt Nam
là có lý. Nhưng không phải chỉ ở nộûi
dung đâu mà còn ở cả hình thức nghệ
thuật.
VŨ QUẦN PHƯƠNG
.
Thiên cổ đoạn trường kim nhất tục.
Phiếm Đàm tòng thử kế Thừa sai.
http://www.phiem-dam.com/1ATANDA.htm
NGUYỄN THIÊN THỤ * GIÒNG HỌ TẢN ĐÀ
Tổ sáu đời của Tản Đà là Nguyễn Công Thái (1674 - 1748 ), người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội).
Ngài đỗ giải nguyên, và năm ất mùi, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ mười (
1715 ), đời Lê Dụ Tông, Nguyễn Công Thái 32 tuổi, đỗ hội nguyên, và khi
thi đình, đỗ đồng tiến sĩ . Năm đinh vị , niên hiệu Bảo Thái thứ 8
(1727), triều đình mở khoa Đông Các, lấy ba người đỗ, Nguyễn Công Thái
trúng hạng ba. Năm mậu thân, niên hiệu Bảo Thái thứ 9, (1728 ), Nguyễn
Công Thái giữ chức Quốc tử giám Tế Tửu, coi Binh phiên, kiêm Hiệu thư
Đông Các. Năm quý sửu (1733), Nguyễn Công Thái thăng Tả thị lang bộ
Công, Hửu thị lang bộ Hình , sau qua Tả thị lang bộ Lại, được phong
tước Ưng quận công và giữ chức Bồi Tụng. Lúc bầy giờ giặc giã như
Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Hoàng Công Chất nổi khắp nơi. Vua Lê ngồi vì,
quyèn bính nằm trong tay chúa Trịnh. Trịnh Giang tham dâm, tàn ác,
giết Lê đế Duy Phương vác công thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn.
Trịnh Giang chơi bời sinh bệnh tật, phải đào hầm ở dưới đất tránh
tiếng sấm.
Trước tình hình đó, Nguyễn Công Thái đã cùng các quan trong phủ như Nguyễn Quý Cảnh , Vũ Công Tể đã đem binh truất phế Trịnh Giang, lập em của Trịnh Giang là Âân Quốc công Trinh Doanh lên ngôi chúa, tức Minh Đô vương. Chính biến đó xảy ra vào tháng giêng niên hiệu Vĩnh Hựu thứ sáu (1740). Nguyễn Công Thái được chúa Trịnh ban thưởng, phong làm Suy Dực vận công thần cùng Nguyễn Quý Cảnh vào phủ làm tham tụng. Bấy giờ ông đã 57 tuổi, mấy lần giữ thượng thư bộ Lễ. Sau vì Đỗ Thế Giai dèm pha, ông phải ra trấn Thanh Hóa, sau lại về Tham tụng. Rồi Đỗ Thế Giai dèm pha, ông phải đi trấn Sơn Nam, sau được gia hàm thái bảo, xin về hưu. Oâng lại được vời ra làm bậc ngũ lão hầu chúa.Lại làm tham tụng. Vì bất đồng ý kiến với Đỗ Thế Giai, ông về hưu luôn. Ông mất năm 75 tuổi, chúa Trịnh thương tiếc, truy tặng thái phó, đặt thụy Trung Mẫn .
Họ Nguyễn là họ lớn nhất ở Kim Lũ, đời đời khoa bảng xuất thân. Trước Nguyễn Công Thái đã có vài đời cử nhân, làm tri huyện. Nguyễn Công Thái có bảy người con trai. Người con thứ hai đỗ cử nhân làm tri huyện đời Cảnh Hưng, là ông tổ bốn đời của Quan Văn Minh điện Đại học sĩ Ngưyễn Trọng Hợp. Người con thứ sáu của Nguyễn Công Thái là Nguyễn Huy Túc, đỗ hương cống triều Lê, làm Đốc trấn Cao bằng năm Chiêu Thống nguyên niên (1787). Nguyễn Huy Túc đã hết lòng phò tá Chiêu Thống. Khi Vũ Văn Nhậm đem binh ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống thưa với Hoàng Thái hậu:
Con đã nghĩ di, nghĩ lại chỉ có Đốc đồng Cao Bằng Nguyễn Huy Túc là người trung hậu có thể nương cậy được. Vậy xin thánh mẫu tạm lên Cao Bằng
Trong cơn binh lửa, Nguyễn Huy Túc đã phò thái hậu sang Trung Quốc cầu viện. Khi vua Lê Chiêu Thống về, Nguyễn Huy Túc được phong Binh bộ thị lang Đồng Bình chương sự. Khi vua Quang Trung đánh bại quân Thanh, Thái hậu , vua Chiêu Thống và các quan chạy sang Trung Quốc. Ông cả cõng Thái hậu qua cầu biên giới, cầu gãy mà chết trong đám loạn quân. Nguyễn Huy Túc không theo kịp vua, lui về ẩn ở Khê Thượng, không ra cộng tác với tân triều Tây Sơn. Nguyễn Huy Túc là đệ nhất tổ của họ Nguyễn Khê Thượng, Bất Bạt, Son Tây. Con cháu Nguyễn Huy Túc mấy đời an bần lạc đạo, mãi đến đời Thiệu Trị, Tự Đức mới xuất hiện trên khoa hoạn.
Tản Đà vốn thuộc dòng trâm anh, thế phiệt là hậu duệ của Nguyễn Công Thái. Người con thứ sáu của tổ Công Thái là Nguyễn Huy Túc thiên về Sơn Tây là tổ dòng Tản Đà nhưng dòng họ Nguyễn ở Kim Lũ vẫn phát triển. Thuộc dòng thứ hai của tổ Công Thái, đời Nguyễn có Nguyễn Trọng Hợp là một đại thần. Danh thần Nguyễn Trọng Hợp (阮仲合) đời Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, tên thật là Nguyễn Văn Tuyên, hiệu Kim Giang (金江), tên chữ Quế Bình Tử (桂坪子), tự Trọng Hợp, về sau dùng tên tự làm tên chính. Sinh năm Giáp Ngọ (1834), thân phụ của ông là cử nhân Nguyễn Cư quê làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Ông sống từ nhỏ ở quê hương, lớn lên đi học tại Hà Nội, là học trò của tiến sĩ Vũ Tông Phan (1804 - 1862) và tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795-1868) - nhà giáo nổi tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Trước tình hình đó, Nguyễn Công Thái đã cùng các quan trong phủ như Nguyễn Quý Cảnh , Vũ Công Tể đã đem binh truất phế Trịnh Giang, lập em của Trịnh Giang là Âân Quốc công Trinh Doanh lên ngôi chúa, tức Minh Đô vương. Chính biến đó xảy ra vào tháng giêng niên hiệu Vĩnh Hựu thứ sáu (1740). Nguyễn Công Thái được chúa Trịnh ban thưởng, phong làm Suy Dực vận công thần cùng Nguyễn Quý Cảnh vào phủ làm tham tụng. Bấy giờ ông đã 57 tuổi, mấy lần giữ thượng thư bộ Lễ. Sau vì Đỗ Thế Giai dèm pha, ông phải ra trấn Thanh Hóa, sau lại về Tham tụng. Rồi Đỗ Thế Giai dèm pha, ông phải đi trấn Sơn Nam, sau được gia hàm thái bảo, xin về hưu. Oâng lại được vời ra làm bậc ngũ lão hầu chúa.Lại làm tham tụng. Vì bất đồng ý kiến với Đỗ Thế Giai, ông về hưu luôn. Ông mất năm 75 tuổi, chúa Trịnh thương tiếc, truy tặng thái phó, đặt thụy Trung Mẫn .
Họ Nguyễn là họ lớn nhất ở Kim Lũ, đời đời khoa bảng xuất thân. Trước Nguyễn Công Thái đã có vài đời cử nhân, làm tri huyện. Nguyễn Công Thái có bảy người con trai. Người con thứ hai đỗ cử nhân làm tri huyện đời Cảnh Hưng, là ông tổ bốn đời của Quan Văn Minh điện Đại học sĩ Ngưyễn Trọng Hợp. Người con thứ sáu của Nguyễn Công Thái là Nguyễn Huy Túc, đỗ hương cống triều Lê, làm Đốc trấn Cao bằng năm Chiêu Thống nguyên niên (1787). Nguyễn Huy Túc đã hết lòng phò tá Chiêu Thống. Khi Vũ Văn Nhậm đem binh ra diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống thưa với Hoàng Thái hậu:
Con đã nghĩ di, nghĩ lại chỉ có Đốc đồng Cao Bằng Nguyễn Huy Túc là người trung hậu có thể nương cậy được. Vậy xin thánh mẫu tạm lên Cao Bằng
Trong cơn binh lửa, Nguyễn Huy Túc đã phò thái hậu sang Trung Quốc cầu viện. Khi vua Lê Chiêu Thống về, Nguyễn Huy Túc được phong Binh bộ thị lang Đồng Bình chương sự. Khi vua Quang Trung đánh bại quân Thanh, Thái hậu , vua Chiêu Thống và các quan chạy sang Trung Quốc. Ông cả cõng Thái hậu qua cầu biên giới, cầu gãy mà chết trong đám loạn quân. Nguyễn Huy Túc không theo kịp vua, lui về ẩn ở Khê Thượng, không ra cộng tác với tân triều Tây Sơn. Nguyễn Huy Túc là đệ nhất tổ của họ Nguyễn Khê Thượng, Bất Bạt, Son Tây. Con cháu Nguyễn Huy Túc mấy đời an bần lạc đạo, mãi đến đời Thiệu Trị, Tự Đức mới xuất hiện trên khoa hoạn.
Tản Đà vốn thuộc dòng trâm anh, thế phiệt là hậu duệ của Nguyễn Công Thái. Người con thứ sáu của tổ Công Thái là Nguyễn Huy Túc thiên về Sơn Tây là tổ dòng Tản Đà nhưng dòng họ Nguyễn ở Kim Lũ vẫn phát triển. Thuộc dòng thứ hai của tổ Công Thái, đời Nguyễn có Nguyễn Trọng Hợp là một đại thần. Danh thần Nguyễn Trọng Hợp (阮仲合) đời Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, tên thật là Nguyễn Văn Tuyên, hiệu Kim Giang (金江), tên chữ Quế Bình Tử (桂坪子), tự Trọng Hợp, về sau dùng tên tự làm tên chính. Sinh năm Giáp Ngọ (1834), thân phụ của ông là cử nhân Nguyễn Cư quê làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Ông sống từ nhỏ ở quê hương, lớn lên đi học tại Hà Nội, là học trò của tiến sĩ Vũ Tông Phan (1804 - 1862) và tiến sĩ Nguyễn Văn Lý (1795-1868) - nhà giáo nổi tiếng ở Hà Nội lúc bấy giờ.
Năm
Mậu Ngọ (1858), đỗ cử nhân, năm Ất Sửu (1865) đỗ tiến sĩ. Làm quan
trải qua các chức: Tổng đốc Định An và Sơn Hưng Tuyên, Bắc Kỳ Khâm sai
quyền Kinh lược sứ, Thượng thư bộ Lại và bộ Hình, hàm Hiệp biện Đại
học sĩ, rồi làm Phụ chính đại thần đời vua Đồng Khánh, sung Cơ mật
viện đại thần. Ông cũng từng làm Tổng tài Quốc sử quán, kiêm quản các
việc ở Khâm thiên giám, được phong tước Vịnh Trung Tử. Lúc Pháp chiếm
Nam Kỳ, ông được cử đi thương thuyết với Pháp năm 1873.
Nguyễn
Trọng Hợp là nhà tư tưởng đổi mới. Về kinh tế, ông đề nghị nên mở
rộng thông thương trong nước, nhất là ở mạn ngược (trong mật tấu ngày
10-7, năm Tự Đức 32). Học hỏi kỹ thuật phương Tây (Mật sớ, Tự Đức thứ
27), đắp đê, đóng thuyền, mua thóc tích trữ lúc được mùa giá rẻ.... Về
ngoại giao, ông đề nghị mở rộng quan hệ với nước ngoài, gửi sứ bộ đi
các nước (Sớ, Tự Đức thứ 34). Về văn hoá, ông rất quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức, chấn chỉnh nho phong, biên chép sử sách, gia phả. Khi
làm quan Kinh lược sứ Bắc kỳ, ông đã có công xin Triều đình cho được
khắc in bộ Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ là bộ sách có quy mô thuộc
loại đồ sộ nhất và cũng là bộ hội điển lớn nhất trong kho tàng thư
tịch cổ viết bằng chữ Hán của nước ta, gồm 262 quyển, khổ 323x20,
khoảng 8000 tờ, đóng thành 97 cuốn.
Năm 1898 ông xin nghỉ dài
hạn, năm 1902 ông mất, thọ 68 tuổi. Hiện nay tại phường Đại Kim, quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội có nhà thờ và khu lăng mộ của ông. Nhà thờ
và lăng mộ ông được bộ Văn hoá - Thông tin (nay là bộ Văn hoá - Thể
thao - Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử vào ngày 5-9-1994. Đương
thời, Nguyễn Trọng Hợp nổi tiếng là quan thanh liêm, cương trực, nhiều
lần tố cáo và phê phán tệ nạn quan lại tham ô, nhũng nhiễu nhân dân.
Vua Tự Đức cũng phải thừa nhận ông là viên quan có học thức, văn hay,
có tiết tháo, có quyết đoán.
Ngoài ra, Nguyễn Trọng Hợp còn là
một tác giả có tài năng nhiều mặt với nhiều tác phẩm sáng tác và
trước tác về thi ca, văn xuôi và sử học. Các tác phẩm của ông hiện
được lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Tác phẩm
Sử học
Minh Mạng chính yếu
Đại Nam chính biên liệt truyện
Thanh trì Nguyễn Thị thế phả
Bài tựa sách Đại Việt địa dư toàn biên
Văn học
Kim Giang thi tập
Kim Giang văn tập
Tây Tra thi thảo (Nguyễn Thuật đề tựa)
Bài tấu về tình hình khai hoang ở xã Bình Hải
Lý Bài ký bia thần đạo
Phương Đình công Nguyễn Văn Siêu (Phương Đình chí đạo tiên sinh thần đạo bi kí)
Giá viên thi văn toàn tập của Phạm Phú Thứ
Kim Giang Nguyễn tướng công nhật lịch
Kim Giang tướng quốc đại nhân nhật lịch tùy ký
Kim Giang Nguyễn tướng công thi tập
Kim Giang di thảo Dịch chi vi quý tập.
Con trai của Nguyễn Trọng Hợp là
Nguyễn Duy Nhiếp đời Thành Thái, tự Thạch Hữu, hiệu Lan Bính, sinh năm
Quý Hợi (1863), quê làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông nay
thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Năm Tân Mão (1891)
niên hiệu Thành Thái thứ 3, ông đậu cử nhân tại trường Hà Nam; năm này
Hà Nội và Hà Nam thi chung. Ông làm quan tại các tỉnh ở Bắc Kỳ, sau
chuyển về kinh làm việc ở Quốc sử quán.Khi Nguyễn Trọng Hợp về hưu năm
1897, Nguyễn Duy Nhiếp làm Án Sát Sơn Tây.Nguyễn Duy Nhiếp là con rể
Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục, vợ ông là nữ sĩ Cao Ngọc Anh
(1878-1970) tác giả thi tập Khuê sầu thi thảo. Nguyễn Duy Nhiếp mất
năm Giáp Thìn (1904), hưởng dương 41 tuổi.
Người con thứ nhì của Nguyễn Duy Nhiếp là Nguyễn Sĩ Giác ( 1888- 197? ) ,
đỗ tiến sĩ năm 1910, nhưng không ra làm quan, tham gia phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, và Đông Du sau thất bại mà phải trở về Việt Nam,
sau 1954 là giáo sư Hán văn tại Đại học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Sài
gòn..
II. GIA ĐÌNH TẢN ĐÀ (1837-1891)
1.PHỤ MẪU TẢN ĐÀ
Thân
phụ Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, sinh năm đinh dậu (1837 ),đậu cử nhân
đời Tự Đức, đã từng làm tri huyện Nam Sang ( Hà Nam), tri phủ Xuân
Trường, Lý Nhân ( Nam Định). Cuối cùng, giữ án sát Ninh Bình trong hai
năm. Gần ba mươi năm trên hoạn lộ, Nguyễn Danh Kế tiên sinh luôn
sống thanh bạch. Năm tân mão (1891 ), tiên sinh mất, hưởng dương 54
tuổi.
Cụ Danh Kế đã làm ngự sử triều Tự Đức, tính cương trực. Trương Tửu
trong quyển Uống rượu với Tản Đà viết rằng Tản Đà đã kể chuyện về Nguyễn
Danh Kế tiên sinh. Vua Tự Đức có một con hạc nhỏ, được phong tước
vương, bị con chó một ông chủ hàng cơm cắn chết. Vua Tự Đức tức giận,
muốn làm tội chủ quán. Nguyễn Danh Kế tiên sinh làm một bài thơ để can
gián:
Hạc hữu kim bài,
Khuyển bất thức tự.
Súc vật tương thân,
Hà phương nhân sự?
( Hạc đeo kim bài,
Chó không biết chữ.
Súc vật hại nhau
Việc chi đến người?)
Vua nghe hữu lý, tha tội chủ quán.
Tuy
nhiên trong Văn Đàn Bảo Giám II, Trần Trung Viên soạn, Nguyễn Khắc
Hiếu đề tựa là truyện án Cao. Xưa tại Hà Đông có vị quốc cữu hống hách,
nuôi một con hạc, đeo bài đề chữ: “Ai đánh chết phải thường mạng.” Một
hôm bị chó săn cắn chết. Chủ trại xin thường song quốc cữu nhất định
lấy mạng. Việc đến quan án. Quan án thấy việc bất bình, cho vợ con về
kinh. Sau khi tra xét, quan án phê như bài thơ ở trên, rồi thả tất cả.
Quốc cựu đem binh vây bắt, nhưng trong dinh trống vắng. Quan án về kinh
tâu vua. Quốc cữu bị hạ ngục, quan án trở về nhiệm sở (271 ). Đâu là
sự thực? Phải chăng quan án Cao là Nguyễn Danh Kế?
Cụ
Danh Kế có nhiều vợ. Cũng như một số thi nhân và quan lại đời Nguyễn,
cụ Danh Kế thích hát ả đào nên sau lấy một đào nương tên là Lưu Thị
Hiền , cũng có tên là đào Nghiêm, làm vợ thứ. Bà này sinh một trai là
Tản Đà và một con gái tên là Trang. Sau khi cụ Danh Kế mất, bà vợ chính
và thân mẫu Tản Đà có nhiều mâu thuẫn nên bà phải giao Nguyễn Khắc
Hiếu cho bà cả, mà ôm con gái ra đi, trở lại nghề cầm ca.
2.ANH CHỊ EM TẢN ĐÀ
Cụ
Danh Kế có tất cả 14 người con, Tản Đà là con trai út . Riêng thân mẫu
Tản Đà có hai trai, hai gái.Bà huyện cho biết khi ở Ninh Bình, Tản Đà
khi sinh ra giống ông lãnh Hiếu ở cạnh nhà nên đặt tên là Hiếu
Người
con trai thứ hai của cụ Danh Kế là Nguyễn Tái Tích, sinh năm giáp tý
(1864 ), đậu phó bảng khoa ất mùi niên hiệu Thành Thái thứ bảy ( 1895) ,
trước làm tri huyện, rồi giáo thụ, sau thăng đốc học Vĩnh Yên, mất
ngày 17 tháng giêng năm bính thìn, niên hiệu Duy Tân thứ mười
(20-3-1916 ), hưởng dương 52 tuổi . Sau khi cụ Danh Kế mất, mẹ ruột Tản
Đà bỏ đi, cụ Nguyễn Tái Tích đóng vai "quyền huynh thế phụ" nuôi dạy
Tản Đà.
Người con trai của cụ Nguyễn Tái Tích (1) là Nguyễn Mạnh
Phưởng sống ở Sài gòn. Khoảng 1964, tôi đã đến thăm tại Cư xá Hàng Không
đường Công Lý. Lúc bấy giờ ông khoảng 50 tuổi. Nay không rõ gia đình
ông ở đâu.
Tản Đà có một bà chị nữa, tên là Nguyễn Thị Hiền, kết
hôn với cử nhân Nguyễn Thiện Kế, nên người ta thường gọi cụ là bà
huyện. Sau 1954, cả nhà di cư vào Sàigon. Năm 1964, tôi đã vài lần
thăm cụ. Nễ Xuyên Nguyễn Thiện Kế tiên sinh, đỗ cử nhân năm 1888, làm
tri huyện, em Nguyễn Thiện Thuật, có tài thơ trào phúng. Pháp chỉ làm
khó dễ cụ cho nên cụ về hưu sớm chứ Pháp không giết cụ và giam hãm
hại cả gia đình như kiểu cộng sản. Chúng tôi đã thăm bà vào chủ nhật
7-11-1965 tại số 13 Thiệu Trị, Saigon, lúc bấy giờ cụ tuổi ngoại 80.
Sau mậu thân, bà về vùng Tân Định.
Ngoài ra Tản Đà có hai ông anh
là Nguyễn Mạn, Nguyễn Cổn cũng là thi sĩ đồng thời với Tản Đà nhưng it
ai viết về hai ông này. Nguyễn Cổn là anh em cùng cha khác mẹ.
Ông
Nguyễn Mạn là anh em cùng cha mẹ với Tản Đà, do chân ấm sinh ra làm lục
sự thời Pháp thuộc, có lúc làm việc tại Thái Nguyên. Ông là thân phụ
hai nhà thơ Nguyễn Tố và Nguyễn Tuất.
Tản Đà có một người chị cùng
cha mẹ, tên là Nguyễn Thị Chính kết hôn cùng con ông thượng ở Trung Hà,
chồng mất sớm lúc bà 25 tuổi.
Cô Trang sau làm lẽ ông phán Hoè người Thiên chúa giáo ở Phát Diệm, không con, mất ngoài 30 tuổi.
3.CÁC CON CỦA TẢN ĐÀ
1. Bà Nguyễn Triệu Quất.
Trước 1975, bà ở bên kia cầu chữ Y, Sai gòn, gia cảnh bình thường.
2.Bà Nguyễn Thúy Ngọc.Không rõ.
3. Nguyễn Khắc Xương.
Ông
theo Cộng sản từ đầu, làm công an, tính nghệ sĩ cho nên khi tra hỏi
một phụ nữ bị nghi là gián điệp, ông tha cho cô ta. Vì vậy, ông bị kỷ
luật và chuyển ngành. Nếu ông có máu giết người và tâng công, có lẽ bây
giờ ông đã là thiếu tướng, trung tướng công an, chễm chệ ở ghế bộ
chính trị, mặc sức cướp đất, bán nước, buôn dân. Nhưng giòng máu Tản
Đà cương trực và chính nghĩa, không cho ông làm như vậy. Ông đi vào
văn nghệ, biên khảo về Tản Đà và ông thành công trong việc sưu tầm về
Hát xoan, tức là một lối hát, đối đáp giữa nam và nữ như hát ví, hát
trống quân, hát ghẹo, hát ví và hò huê tình.
4. Nguyễn Khắc Phục.
Ông
là người tài hoa, đã đi bộ đội. Trong thập niên 1960, ông cùng một số
văn nghệ sĩ biên khảo về Tản Đà, nhưng không may cho ông và các bạn lúc
ấy miền Nam cũng tổ chức kỷ niệm Tản Đà, và trong học đường và văn
nghệ, người ta đề cao Tản Đà. Các ông văn nô và công an văn nghệ miền
Bắc nhân dịp tâng công. Những gì trong Nam cho là hay thì ngoài Bắc
phải làm ngược lại mới đúng lập trường vô sản chuyên chính, và hợp tính
đảng. Vì vậy mà ông và các bạn ông bị đày ải. Ông tức giận và buồn bực
mà từ bỏ văn nghệ, lui về làm một nông phu.
5. Nguyễn Khắc Đại.
Ông
đi bộ đội. Sau 1975, ông có đến thăm tôi tại Sài gòn. Ông lúc đó còn
trẻ, khoảng 45.-50 .Ông cho biết đơn vị ông được giao việc tiếp thu kho
thuốc tây. Ông bị bọn tham nhũng bắt ông theo chúng. Ông không theo
nên chúng vu ông tội ăn cắp kho hàng. Lúc bấy giờ tôi đau đớn, chán nản
và lo lắng trăm điều nên giữ thái độ im lặng, lắng nghe, không dám nói
năng gì cả, tôi như là một tượng gỗ. Lúc ông về, tôi không dám đưa
tặng bộ Tản Đà của tôi vì sợ trong chế độ cộng sản, mọi sách vở không
do Cộng sản ấn hành đều bị ghép là văn hóa đồi trụy. Chủ nhân quyển
sách và người mang đều có thể gặp tai họa bất kỳ. Mong ông thông cảm
tâm trạng của tôi lúc đó là tâm trạng của một tù nhân đang sống trong
một nhà tù cho nên đã có nhiều thiếu sót trước sự thắm viếng quý báu
của ông, một sứ giả của Tản Đà thi sĩ.
Nói chung, dòng dõi, con
cháu Tản Đà luôn mang hai tính chất là nghệ sĩ và trung trực. Nếu Tản
Đà còn sống, ông cũng khó an toàn vì tính bất khuất của ông.
(xin xem bài Những người con của Tản Đà trong số này)
Nguyễn Thiên Thụ
Ottawa ngày 8-8-2010
____
(1)
Một số tài liệu Hà Nội ghi là Nguyễn Tài Tích. Sách Quốc Triều Đăng
Khoa Lục (bản dịch) ghi là Tái. Ông Nguyễn Mạnh Phưởng cũng nói là Tái.
Các tài liệu trước 1945 cũng ghi là Tái ( dấu sắc).
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
NHIỀU TÁC GIẢ * TẢN ĐÀ CHỐNG THAM NHŨNG
80
năm trước, năm 1927, nhà thơ Tản Đà cho đăng trên An Nam tạp chí số
8/1927 bài thơ" Xem tiểu thuyết “Tờ chúc thư” cảm đề". Có lẽ đây là bài
thơ đầu tiên trong văn chương chữ quốc ngữ trực diện chống tham nhũng
ở nước ta.
Xem tiểu thuyết “Tờ chúc thư” cảm đề
Thật có hay là mắc tiếng oan
Kém năm trăm nữa đủ ba ngàn!
Hơi đồng đã sạch mồm quan lớn
Mặt sắt còn bia miệng thế gian
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân nó dễ làm quan
Đào mà đào được nên đào mãi
Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An.
Đất
Vĩnh An mà Tản Đà nói ở đây là tỉnh Vĩnh Yên. Cái chữ “đào” mà cụ cứ
day đi day lại ở câu 7 là vừa để tả cái động tác đục khoét lì lợm, vừa
để khéo vạch mặt chỉ tên một gã quan chức họ Đào khét tiếng tham
nhũng đương thời: Đó là Tuần phủ Vĩnh Yên.
Đầu
đuôi thế này: Nhân một vụ kiện tranh chấp gia tài, Tuần phủ Vĩnh Yên
lúc đó đã ăn của đút hai ngàn rưởi đồng. Bạn có tưởng tượng nổi hai
ngàn rưởi đồng vào thời đó lớn nhỏ cỡ nào không?
Hãy đọc đoạn sau đây trong cuốn “Giấc mộng con” của Tản Đà: “Một
trăm đồng bạc của ông khách đưa cho tôi hôm ấy, ngày hôm sau đem trả
nợ tiền hành phí đi vay cùng là chi tiêu về hai chỗ nhà thuê ở làng Sa
La, tỉnh Hà Đông, tất cả hết đi 50 đồng, còn 50 đồng để tổ chức báo
quán” (Nhân tiện ghi chú thêm, ông khách đó chỉ là một người bạn
mới quen, do quý trọng tài đức của Tản Đà mà đã hào phóng giúp thi sĩ
một cách vô tư).
Qua sự Tản Đà chi tiêu một trăm
đồng cho một việc lớn là trả nợ và ra báo (chính là tờ An Nam tạp chí)
như vậy cũng đủ cho thấy hai ngàn rưởi đồng là số tiền to đến cỡ nào!
Từ
vụ ăn của đút ghê gớm như thế, Tản Đà đã gợi ý cho Ngô Tiếp viết tiểu
thuyết “Tờ chúc thư” nói về vụ ấy đem xuất bản, rồi lại có thơ như
trên. Có lẽ đây là bài thơ đầu tiên trong văn chương chữ quốc ngữ trực
diện chống tham nhũng ở nước ta. Mà chống rất quyết liệt, rất sâu sắc.
Quyết
liệt vì miêu tả hành vi, diện mạo kẻ tham nhũng rất sinh động lại
vạch mặt chỉ tên hắn đến nơi đến chốn, người đọc biết ngay hắn là
thằng nào, là thằng Đào ấy đấy, mà cũng là cả cái bè lũ chuyên nghề
đào khoét của dân.
Sâu sắc vì chỉ với hai câu thơ
giản dị đầy thương đầy giận, Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng
nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn
quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan.
Cuốn
tiểu thuyết của Ngô Tiếp bây giờ chẳng mấy ai còn nhớ, nhưng những
vần thơ của Tản Đà sau gần 80 năm đọc lại vẫn thấy nóng bỏng tính thời
sự.
Bùi Minh Quốc
http://vietbao.vn/Van-hoa/Nha-tho-Tan-Da-chong-tham-nhung/70101052/181/
KHUYẾT DANH
Người Lao Động -
Nhớ
và nghĩ về nhà thơ vùng núi Tản sông Đà, ta thường có ấn tượng rất
sâu về tính đa dạng của tiếng nói nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông.
Tản
Đà không cần giấu giếm “cái tôi ngông”, “cái tôi hưởng lạc”, song
không ít bài thơ khác đậm chất trữ tình công dân của ông đã chân thành
ca ngợi các anh hùng cứu quốc hoặc trăn trở về bức dư đồ rách nhằm lưu
ý độc giả thực trạng đất nước, qua đó nhắn gởi mọi người không quên
trách nhiệm với dân tộc: Non sông thề với hai vai/ Quyết đem bút sắt mà
mài lòng son/ Dư đồ rách nước non tô lại/ Đồng bào xa trai gái kêu
lên... (Xuân sầu).
Những ý tình tha thiết như thế chứng tỏ thơ Tản Đà đã cắm rễ rất sâu vào hồn dân tộc. Cũng chính từ căn nguyên này, nhà thơ của chúng ta lại có thêm một nguồn cảm hứng lạ: Cảm hứng phê phán.
Với tư cách người viết báo, Tản Đà cộng tác với hàng chục tờ báo có tên tuổi khắp Trung – Nam - Bắc, viết trên nhiều chuyên mục trong suốt hai thập niên. Vì thế, Tản Đà không xa lạ với thời sự của đời thường và ông không ngần ngại chĩa ngòi bút thơ đả kích vào những lối sống, cách hành xử lố lăng, kệch cỡm của các quan lại phong kiến cao cấp lúc đó, như: Từ Đạm - tuần phủ Ninh Bình, Đào Trọng Vận- tuần phủ Vĩnh Yên...
Thế nhưng, nhiều độc giả hơn 80 năm trước đã ngạc nhiên và khâm phục khi đọc Cảm đề, bài thơ rất lạ của Tản Đà đăng trên An Nam tạp chí số 9 năm 1927. Ngạc nhiên về đề tài, về việc tác giả nắm bắt sự việc chính xác từ bản chất và khâm phục vì thái độ dũng cảm quyết liệt của nhà thơ: Thái Bình chưa dứt tiếng kêu oan/ Lại tiếng kêu trời ở Nghệ An/ Một phủ Anh Sơn trong mấy tháng/ Mà tay Phan Tử lấy ba ngàn/ Cũng phường dối nước, quân ăn cắp/ Cũng lũ tàn dân, giống hại đàn/ Lạnh lẽo hơi sương tòa tạp chí/ Lệ ai dàn dụa với giang san.
Cảm đề viết theo thể Đường luật thất ngôn bát cú. Ở đây, không có gì phải băn khoăn về phương diện niêm luật của bài thơ, mọi quy định đã được bảo đảm một cách nhuần nhị, tự nhiên. Đáng chú ý là tình của tác giả và ý của bài thơ.
Hai câu phá đề và thừa đề (1-2), Tản Đà không nói vòng vo mà đề cập trực tiếp nỗi đau khổ của nhân dân. Bà con Thái Bình kêu oan, tiếp luôn dân chúng Nghệ An kêu trời, đều từ tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại. Cặp câu thực (3-4) vẫn một cách nói trực diện, cụ thể như thế: Tản Đà nêu rõ địa chỉ - phủ Anh Sơn, chỉ đích danh kẻ tham nhũng - Phan Tử và mức độ hà lạm của hắn - đút túi ba ngàn (đồng). Cuối những năm 1920, món tiền này to lắm. Giá một tạ gạo chỉ xấp xỉ 2 đồng, tức tên tri phủ Phan Tử đã nuốt gọn 1.500 tạ gạo - số lương thực đủ nuôi hơn 10.000 dân trong một tháng!
Cặp câu luận (5-6) là lời luận tội bi phẫn, quyết liệt của nhà thơ – ủy viên công tố nhân dân. Quyết liệt từ thái độ đến ngôn từ. Sự việc, đối tượng được gọi đúng tên của nó. Và, cảm thấy một cụm từ không đủ cực tả, không thể nói hết sự tức giận chính đáng của mình, ông dùng tới bốn: phường dối nước, quân ăn cắp, lũ tàn dân, giống hại đàn. Thật đích đáng ! Nếu không nắm vững bản chất vấn đề và không có tinh thần dũng cảm, làm sao Tản Đà lại có thể có những vần thơ tố cáo, luận tội nảy lửa như thế?
Cặp câu kết (7-8) tiếp tục làm người đọc sửng sốt. Giọng thơ mềm hẳn đi, 14 chữ như đẫm nước mắt. Nhà thơ từng khiến không ít độc giả tưởng như chỉ nghĩ về lối Thiên Thai, tiên cảnh hóa ra lại gắn bó vô cùng với cuộc sống lầm than đau khổ của đồng bào mình, với quê hương đất nước mình. Một bài thơ, hai giọng điệu, mới nhìn tưởng như ngược nhau nhưng hóa ra rất nhất quán và làm rõ vẻ đẹp của hồn thơ Tản Đà.
Hơn 80 năm qua đi, Cảm đề vẫn đậm chất thời sự. Tinh thần yêu nước thương dân, căm hận đến mức ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm những kẻ tham nhũng đục khoét, bóc lột nhân dân của Tản Đà vẫn đáng cho chúng ta trân trọng.
http://www.baomoi.com/Info/Tan-Da-chong-tham-nhung/152/3866410.epi
Những ý tình tha thiết như thế chứng tỏ thơ Tản Đà đã cắm rễ rất sâu vào hồn dân tộc. Cũng chính từ căn nguyên này, nhà thơ của chúng ta lại có thêm một nguồn cảm hứng lạ: Cảm hứng phê phán.
Với tư cách người viết báo, Tản Đà cộng tác với hàng chục tờ báo có tên tuổi khắp Trung – Nam - Bắc, viết trên nhiều chuyên mục trong suốt hai thập niên. Vì thế, Tản Đà không xa lạ với thời sự của đời thường và ông không ngần ngại chĩa ngòi bút thơ đả kích vào những lối sống, cách hành xử lố lăng, kệch cỡm của các quan lại phong kiến cao cấp lúc đó, như: Từ Đạm - tuần phủ Ninh Bình, Đào Trọng Vận- tuần phủ Vĩnh Yên...
Thế nhưng, nhiều độc giả hơn 80 năm trước đã ngạc nhiên và khâm phục khi đọc Cảm đề, bài thơ rất lạ của Tản Đà đăng trên An Nam tạp chí số 9 năm 1927. Ngạc nhiên về đề tài, về việc tác giả nắm bắt sự việc chính xác từ bản chất và khâm phục vì thái độ dũng cảm quyết liệt của nhà thơ: Thái Bình chưa dứt tiếng kêu oan/ Lại tiếng kêu trời ở Nghệ An/ Một phủ Anh Sơn trong mấy tháng/ Mà tay Phan Tử lấy ba ngàn/ Cũng phường dối nước, quân ăn cắp/ Cũng lũ tàn dân, giống hại đàn/ Lạnh lẽo hơi sương tòa tạp chí/ Lệ ai dàn dụa với giang san.
Cảm đề viết theo thể Đường luật thất ngôn bát cú. Ở đây, không có gì phải băn khoăn về phương diện niêm luật của bài thơ, mọi quy định đã được bảo đảm một cách nhuần nhị, tự nhiên. Đáng chú ý là tình của tác giả và ý của bài thơ.
Hai câu phá đề và thừa đề (1-2), Tản Đà không nói vòng vo mà đề cập trực tiếp nỗi đau khổ của nhân dân. Bà con Thái Bình kêu oan, tiếp luôn dân chúng Nghệ An kêu trời, đều từ tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại. Cặp câu thực (3-4) vẫn một cách nói trực diện, cụ thể như thế: Tản Đà nêu rõ địa chỉ - phủ Anh Sơn, chỉ đích danh kẻ tham nhũng - Phan Tử và mức độ hà lạm của hắn - đút túi ba ngàn (đồng). Cuối những năm 1920, món tiền này to lắm. Giá một tạ gạo chỉ xấp xỉ 2 đồng, tức tên tri phủ Phan Tử đã nuốt gọn 1.500 tạ gạo - số lương thực đủ nuôi hơn 10.000 dân trong một tháng!
Cặp câu luận (5-6) là lời luận tội bi phẫn, quyết liệt của nhà thơ – ủy viên công tố nhân dân. Quyết liệt từ thái độ đến ngôn từ. Sự việc, đối tượng được gọi đúng tên của nó. Và, cảm thấy một cụm từ không đủ cực tả, không thể nói hết sự tức giận chính đáng của mình, ông dùng tới bốn: phường dối nước, quân ăn cắp, lũ tàn dân, giống hại đàn. Thật đích đáng ! Nếu không nắm vững bản chất vấn đề và không có tinh thần dũng cảm, làm sao Tản Đà lại có thể có những vần thơ tố cáo, luận tội nảy lửa như thế?
Cặp câu kết (7-8) tiếp tục làm người đọc sửng sốt. Giọng thơ mềm hẳn đi, 14 chữ như đẫm nước mắt. Nhà thơ từng khiến không ít độc giả tưởng như chỉ nghĩ về lối Thiên Thai, tiên cảnh hóa ra lại gắn bó vô cùng với cuộc sống lầm than đau khổ của đồng bào mình, với quê hương đất nước mình. Một bài thơ, hai giọng điệu, mới nhìn tưởng như ngược nhau nhưng hóa ra rất nhất quán và làm rõ vẻ đẹp của hồn thơ Tản Đà.
Hơn 80 năm qua đi, Cảm đề vẫn đậm chất thời sự. Tinh thần yêu nước thương dân, căm hận đến mức ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm những kẻ tham nhũng đục khoét, bóc lột nhân dân của Tản Đà vẫn đáng cho chúng ta trân trọng.
http://www.baomoi.com/Info/Tan-Da-chong-tham-nhung/152/3866410.epi
Giao Tiên
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho nên chúng nó dễ làm quan
Hai
câu thơ trên, nếu được sáng tác vào thời điểm này, thì sẽ gây nhiều
hệ lụy cho tác giả.! Hai câu thơ mang đầy ý nghĩa phản động, đánh
đúng vào vùng…. nhậy cảm của các vị lãnh đạo chính quyền. Hai câu
này còn đi ngược lại đường lối và chủ trương của Chủ Tịch nhà nước,
vì ý nghĩa chê bai, dè bỉu của nó, trong khi Chủ Tịch nhà nước, thì
lúc nào cũng hớn hở, khuyến khích nhân dân nên tự hào vì: “đi ra
ngoài, mình cũng đâu có thua ai!”
Nếu
Tản Đà còn sống tới hôm nay, thì đã bị công an khám nhà, tịch thu
“ổ cứng” vi tính, và mời đi xe buýt lên công an phường làm việc.
Sau đó, có thể bị ra tòa vì vi phạm điều 79 của Bộ luật hình sự và
có thể bị án từ 5 tới 15 năm tù giam. Tuy nhiên, Tản Đà đã khôn
ngoan, vượt biên sang bên kia thế giới trước đó, nên được….. an toàn.
Hai
câu thơ này được sáng tác đã mấy chục năm nay, và đã được in ra
sách, báo, thế mà người dân VN, đối tượng của 2 câu thơ thì lại chẳng
có ai lên tiếng phản đối cái tính cách phỉ báng của nó. Báo chí
cũng chẳng bình luận, chỉ trích gì 2 câu thơ mang ý đồ phang vào tự
ái dân tộc này. Thông thường, không phản đối, tức là công nhận. Nếu như
vậy, thì dân mình ngu qúa lợn thực hay sao?
Ngược dòng lịch sử, ông Tô Hải, trong bài: “Bỗng dưng nhớ đến 1 người”
đã kể lại một câu chuyện ở Hà Nội, trong thời kỳ toàn quốc kháng
chiến. Thời kỳ mọi người phải thắt lưng buộc bụng, thời kỳ mà quân
đội thì “kaki sợi đúp, mũ úp lông gà” để đánh giặc. Ông Đại
tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng cục quân nhu, Bộ Quốc Phòng, đã tổ chức
cho mình một đám cưới hoành tráng, xa hoa, có rượu tây, thuốc lá
Mỹ, của ngon, vật lạ. Thói đời, trâu buộc ghét trâu ăn, trong lúc mọi
người đang thiếu ăn, thì ông lại phung phí… chơi nổi như vậy, ai mà
không tức? Ông Đại Biểu Quốc Hội, Đoàn Phú Tứ đã đập cốc rượu và nói:
“Trong lúc quân dân ta đang đói khổ, thiếu thốn đủ đường, thì
một sĩ quan cao cấp lại lấy tiền của nhân dân chi tiêu cho đám cưới
mình một cách xa hoa, làm mất uy tín của cách mạng cực kỳ nghiêm
trọng…”. Sau đó, ông đứng dậy bỏ về.
Câu
chuyện tai tiếng này đã đưa ông Trần Dụ Châu bị kết án tử hình với
tội danh: “Đảng viên biến chất, ăn chơi sa đọa, tiêu tiền của công
vào những việc cá nhân, mà điển hình là cái đám cưới rềnh rang…”.
Theo truyền khẩu thời đó thì chính “bác Hồ” ký án lệnh này. Theo ông Tô
Hải, thì đây chỉ là hành động… chơi ngông của ông Trần Dụ Châu,
chứ thực sự, ông Trần Dụ Châu nghèo lắm, gia tài để lại cho vợ chỉ
vỏn vẹn có chiếc đồng hồ Wyler cũ kỹ. Ông Tô Hải cũng nhân đó mà so
sánh tham nhũng khi xưa với tham nhũng thời nay. Ông Trần Dụ Châu
mất mạng chỉ vì một bữa tiệc cưới…. chơi ngông, trong khi ngày nay,
những cán bộ cao cấp từ cấp cục, vụ, thứ trưởng ăn cắp những số tiền
khổng lồ một cách trắng trợn, thì lại vẫn thảnh thơi ăn trên ngồi
trốc thiên hạ!
Nếu
lấy công tâm ra mà suy xét, thì ông Trần Dụ Châu bị xử tội chết
cũng không phải là quá đáng. Làm tới Đại tá mà không biết “ưu thời,
mẫn thế”. Trong lúc mọi người gian khổ, thắt lưng buộc bụng. Đám cưới
thì chỉ làm tập thể, hút thuốc lào, uống chè tươi, ăn kẹo lạc, thì
ông lại chơi ngông không đúng lúc, tạo điều kiện cho dư luận đàm tiếu
và bất mãn. Bị mất mạng chỉ vì một đám cưới… lãng xẹt, tạo cho Bác
Hồ được tiếng là công minh, sáng suốt, và làm con dê tế thần để xoa
dịu dư luận, thì không gọi là ngu, thì gọi là gì đây?
Thời
nay cũng có nhiều chuyện ngu ngơ, khờ khạo, cười ra nước mắt.
Những người dân nghèo vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, quê hương của Bác Hồ,
do bao nhiêu năm mơ tưởng tới những “thế giới đại đồng”, “làm theo
khả năng, hưởng theo nhu cầu” do nhà nước hứa hẹn, nên nhất định
bán nhà, cầm sổ đỏ, trèo đèo, lội suối tới rừng Calais để nhập cảnh
lậu vào thiên đường. Anh Quốc. Niềm hy vọng của họ, là được đi làm
nhà hàng, hoặc trồng cỏ với tiền lương 5,000 bảng Anh mỗi tháng. Vì
giấc mộng đổi đời này, mà họ thành nạn nhân của những vụ cướp bóc,
hãm hiếp suốt dọc đường. Có nhiều người đã mất mạng vì nhảy xe
hàng, hoặc là nạn nhân của các vụ thanh toán đẫm máu với những sắc
tộc khác. Mất mạng vì thiếu suy xét trước một cái bánh vẽ vụng về ,
những lời hứa hẹn hàm hồ, vô lý của bọn buôn người liên kết với
chính quyền CS, thì không ngu sao được?
Không
phải chỉ có thằng dân mới ngu, mà chính quyền cũng… đại ngu. Năm
75, sau khi cưỡng chiếm miền Nam VN, thì những nhân tài, chất sám
còn lại đầy rẫy. Khi ấy, đáng lẽ chính quyền nên áp dụng bài học lịch
sử của tiền nhân: khi chiến thắng vào thành, nhà vua vỗ an trăm họ,
xóa thuế, giảm tô, giúp đỡ để người dân yên tâm làm việc, xây dựng
chính thể mới. Thì chính quyền CS lại làm ngược lại: đánh tư sản, đổi
tiền, đẩy đi kinh tế mới, học tập cải tạo… làm 3 triệu người dân bỏ
nước ra đi. Mấy chục năm sau nhìn lại, thì trong nước chỉ còn toàn
những tiến sĩ… giấy, nên đảng phải tìm cách dụ khị trí thức hải ngoại
về giúp nước.
Chi
phí cho Đại Hội VK tháng 11/2009 là 10 triệu đô la, nhưng Đại Hội
thất bại vì không quy tụ được những nhà khoa học kỹ thuật sáng gía
như mong đợi. Chỉ có những trí thức ấm ớ, như GS Trần Thanh Vân phát
biểu… lộn:” Ai cũng muốn về VN vì cuộc sống tại ngoại quốc vất vả
lắm, đi làm về, phải đi chợ, nấu cơm, rửa chén...” Chắc ông này quên
mất chủ trương của đảng: “Lao động là vinh quang”, mà lại mong về
VN để có Oshin hầu hạ. Nâng bi….hố.! Ngu là cái chắc.
Tuy
nhiên, nếu nói rằng chính quyền CS ngu hơn lợn là không đúng. Vì
ngu thì làm sao lại vo tròn bóp méo được 83 triệu dân? Đúng ra thơ
Tản Đà tân thời phải là:
Chính quyền cộng sản khôn hơn lợn
Mặc tình thao túng đám dân đen.
Giao Tiên
Nguồn: Tâm Thức Việt Nam
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
NHIỀU TÁC GIẢ * NHỮNG NGƯỜI CON TRAI CỦA TẢN ĐÀ
Con trai thi sĩ Tản Đà
Mỗi người một số phận, mỗi người một tính cách nhưng 3 người con của thi sĩ Tản Đà đều mang dòng máu ngông của ông.
Nhà
thơ Tản Đà sinh con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Khắc Xương. Đứa
bé ấy có nốt ruồi son ở đầu vật giống, nhà thơ tin sau này nó sẽ nên
người nếu trời để sống. Nhưng sáu tháng sau đứa bé ấy qua đời. Vì quá
thương tiếc nó nên khi vợ chồng sinh đứa thứ hai, nhà thơ vẫn đặt tên
con là Nguyễn Khắc Xương.
Nguyễn Khắc Xương học tú tài thì kháng
chiến chống Pháp bùng nổ. Ông được nhận vào ngành Công an, công tác ở
Hải Phòng. Do nói tiếng Pháp thành thạo nên ông được cử hỏi cung một
nữ gián điệp. Vì nữ gián điệp mặt hoa da phấn, chân trắng như ngó cần,
thế là Nguyễn Khắc Xương không giữ được vẻ mặt nghiêm khắc nữa, ông
quay ra... tán tỉnh kẻ thù. Về việc này ông bị đồng đội báo cáo với cấp
trên và sau đó ông được điều lên khu X và cho ra vùng tạm chiếm.
Ở
Phú Thọ ông gặp được ông Trần Ngọc Lưu, Trưởng ty Thông tin Tuyên
truyền Phú Thọ kiêm Phó chủ tịch Hội Văn hóa Liên khu X. Ông Lưu là trí
thức, quý hiền tài bèn xin con trai nhà thơ Tản Đà về cơ quan mình.
Giữa cuộc kháng chiến chống Pháp gay go nhưng ông Trần Ngọc Lưu đến ông
Đặng Văn Đăng (Bút Tre) đã thấy trước việc phát huy các giá trị văn
hóa cổ truyền trong việc xây dựng phát triển nền văn hóa mới. Họ đã cử
cán bộ, có ông Nguyễn Khắc Xương cùng với văn nghệ sĩ trung ương như
Anh Thơ, Chu Minh, Nguyễn Đình Nghi… đi điền dã hàng năm trời khắp các
vùng tự do trong tỉnh, cả vùng địch giáp ranh để sưu tầm văn hóa, văn
nghệ dân gian.
Ông Nguyễn Khắc Xương có thời kỳ làm công tác
thư viện, bảo tàng nhưng việc chính vẫn là sưu tầm văn nghệ dân gian.
Vì quen sống tự do cộng thêm chút máu ngông cha truyền, ông đi bạt
chiêng, thỉnh thoảng mới về cơ quan lĩnh trợ cấp, sau này là lĩnh
lương. Ông rất lười họp cơ quan và công đoàn. Vì thủ trưởng nào cũng
“bao che” cho ông nên về sau anh em trong cơ quan cũng chẳng ai thắc
mắc. Nhưng những công trình sưu tầm, nghiên cứu của ông đã góp phần
sáng soi lịch sử văn hóa thời đại Hùng Vương ở trên vùng Đất Tổ.
Những
sáng tác đầu tay của nhà thơ Tản Đà được ra đời ở Phú Thọ, rồi ông
dạy học ở huyện Thanh Sơn. Sau này ông lại làm nhà ở Dốc Láp, Vĩnh
Yên. Vì sợ tiếng tăm và ảnh hưởng của nhà thơ nên viên quan tuần phủ
Vĩnh Yên Đào Trọng Vận đã sai tri huyện Tam Dương cùng hào lý địa
phương đến trục xuất gia đình Tản Đà ra khỏi đất Vĩnh Yên.
Vì
nhà thơ Tản Đà từng có những kỷ niệm với Đất Tổ Vĩnh Phú nên Hội Văn
nghệ Vĩnh Phú mới có dịp tổ chức kỷ niệm ngày sinh của nhà thơ. Tới dự
buổi kỷ niệm ấy có anh em văn nghệ sĩ địa phương và các vị lãnh đạo
chủ chốt của tỉnh. Phần giới thiệu thân thế Tản Đà, người ta mời
Nguyễn Khắc Xương là trưởng nam của nhà thơ phát biểu.
Ông
Xương cho biết thời phong kiến thực dân ấy cha ông chúa ghét những hạng
người sống khom lưng. Nhà thơ cấm các con làm ba nghề:
- Phu kéo xe tay.
- Ăn mày.
- Quan lại.
Khi
ông Xương nói đến đây, một anh nhà văn bèn giật áo vỗ mông ra hiệu
cho ông thôi nói kẻo chạm nọc các vị lãnh đạo tỉnh. Nhưng ông Xương
không những không thôi mà còn nhấn mạnh thêm là cha ông còn xếp quan
lại dưới bọn phu xe và ăn mày vì quan lại phải khom lưng nhiều nhất.
Cũng may vì ông “trọc đầu” lại có tuổi nên không bị ai “chấp”.
Còn
Nguyễn Khắc Phục, người con thứ của Tản Đà hồi bé học ở Huế cũng một
thời dọc ngang, không biết sợ ai. Một đêm đưa anh trai Nguyễn Khắc
Xương mới vào thăm đi chơi phố, cậu gào thét ầm ĩ. Cảnh sát bắt cậu
vào đồn. Cậu chỉ tay xuống bàn thét viên đồn trưởng:
- Nước!
Viên đồn trưởng xuống giọng, hỏi:
- Cậu là ai ạ?
Phục bèn vỗ ngực, nói:
- Nguyễn Khắc Phục ở trong dinh quan án.
Biết là người nhà quan án sát đô thành Huế là con rể ông Phạm Quỳnh quan thượng thư, viên đồn trưởng xanh mắt thét cấp dưới:
- Chúng bay mau pha nước mời cậu đi.
Vì
đẹp trai, học giỏi, con nhà thơ Tản Đà nổi tiếng lại ở trong dinh
quan án bữa ăn nào cũng có lính lệ đứng khoanh tay chờ cậu sai bảo,
Nguyễn Khắc Phục được nhiều em tiểu thư xinh đẹp con nhà khuê các ở
kinh đô Huế đem lòng yêu mến. Khi rời Huế ra Hà Nội thăm nhà, chàng
công tử bỏ lại tất, từ vali, catáp, túi xách… Cậu chỉ ôm theo cái cháp
đựng đầy thư tình và kỷ vật của các người yêu.
Khi vào bộ đội
Nguyễn Khắc Phục đã in rất nhiều thơ. Nhà thơ Xuân Diệu đã có những
buổi bình thơ của Chiến Bồng (bút danh của Nguyễn Khắc Phục). Nhưng
giải ngũ ông về quê vợ, sống với hai cô thôn nữ là chị em gái. Ông, từ
một trí thức trở thành chiến binh kiêm thi sĩ để rồi trở thành lão
nông tri điền (nông dân thuần túy) là do ông sống tốt quá, chung thủy
quá, thương người quá và cũng vì ông có dòng máu ngông của người cha
thi sĩ Tản Đà di truyền sang.
Đến người con trai út của Tản Đà
là Nguyễn Khắc Đại thì được bố “bấm số” biết trước là sẽ học hành
thông minh nhất nhà, tài ba nhưng đoạn trường lận đận. Để đời con đỡ
bị “khắc” nhà thơ đã nhờ lý trưởng sở tại chữa trong khai sinh từ
Nguyễn Khắc Đại thành Nguyễn Tất Đại. Lớn lên đi kháng chiến, Nguyễn
Khắc Đại đã không hiểu thâm ý ấy của cha vẫn khai lý lịch theo họ cha
Nguyễn Khắc.
Đầu kháng chiến ông Đại từng hoạt động trong nhóm
kịch ở Khu III cùng với Trần Hoàn và Đào Mộng Long. Ông học thiếu sinh
quân cùng với Phùng Quán. Ông học văn rất giỏi, luôn được thầy sai
chấm bài hộ. Khi Phùng Quán viết “Vượt Côn Đảo” ông cũng viết cuốn
tiểu thuyết về Sầm Sơn đánh Pháp.
Sau hòa bình, nhà xuất bản
Minh Đức mời ông đến ký hợp đồng tái bản thơ Tản Đà. Khi sách ra, Bộ
Văn hóa sẽ long trọng tổ chức kỷ niệm ngày sinh Tản Đà. Nhiều nhà văn
nhà thơ đã viết bài ca ngợi thơ yêu nước của Tản Đà. Nhưng Hà Nội chưa
kịp kỷ niệm Tản Đà thì ở Sài Gòn, Ngô Đình Diệm đã tổ chức kỷ niệm
Tản Đà rất om sòm.
Một số ông ca ngợi Tản Đà nay thấy chính
quyền Sài Gòn ca ngợi Tản Đà lại quay sang viết bài đả kích thơ Tản Đà
thế nọ thế kia. Dịp ấy, một số bạn bè văn sĩ và người thân của ông
Đại lại bị vu oan, thế là ông tức, xé bỏ bản thảo và thề sẽ không bao
giờ dây vào văn chương thơ phú. Sau này ông là một chuyên viên kinh
tế, có tài chuyên môn, thuần túy làm chuyên môn, không dây (và cũng
không được dây) vào chuyện chức sắc của cơ quan. Có lẽ ông nhiễm nặng
nhất máu ngông của cha mình là thi sĩ Tản Đà.
Ảnh: Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương cùng vợ.
Nguồn: Công an Nhân dân
[Trích e_văn]
Người con trai Tản Đà với hát Xoan
Xem tin gốc
Hôm
nay, 15/6, Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) phối hợp với Sở VH, TT&
DL tỉnh Phú Thọ, tổ chức hội thảo về nhà nghiên cứu văn học, văn hóa
dân gian Nguyễn Khắc Xương, tại trụ sở Hội, 160 Lê Quý Đôn, TP Việt
Trì. Chủ tịch Hội - họa sĩ Đỗ Dũng, chủ trì hội thảo.
Nguyễn Khắc Xương
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương sinh ngày 25/10/1922, tại làng Khê
Thượng, Ba Vì, là con trai trưởng của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
(1889 - 1939). Xứ Đoài đã sinh ra bao anh tài, mà dù đi đâu cũng làm
quê hương nức tiếng. Lên Phú Thọ từ 1949, thời kháng Pháp, rồi định cư
gắn bó nơi này, Nguyễn Khắc Xương đã không hổ danh cha, một thi nhân
lớn.
Tôi rất bất ngờ khi ông lão tóc bạc trắng ấy, dù chưa một
lần gặp, đã đến dự cuộc giao lưu, nghe thơ của tôi tại Công ty Hải Hà
Land, chiều 22/3/2010. Cập nhật lớp trẻ, tuổi 88 vẫn lao động mẫn tiệp,
Nguyễn Khắc Xương là một trong những tên tuổi uy danh của giới nghiên
cứu nước nhà.
Nhìn danh mục tác phẩm của Nguyễn Khắc Xương,
thấy rõ ông dành cả cuộc đời mình để làm hai công trình lớn, kéo dài:
nghiên cứu về Tản Đà và truyền thuyết văn hóa dân gian Phú Thọ. Quê
gốc và quê hương thứ hai chảy trong mạch sống của ông.
Qua các
tác phẩm, công trình nghiên cứu, Nguyễn Khắc Xương khẳng định vị thế
của mình là nhà Tản Đà học. Kế thừa di sản tinh thần của cha, ông đã
chủ biên và viết nhiều cuốn sách giá trị về Tản Đà: Tuyển tập Tản Đà
(NXB Văn hóa, 1989), Giai thoại Tản Đà (NXB Văn học, 1990), Tản Đà -
thơ và đời, Tản Đà đời văn (đều ra mắt năm 1995, NXB Văn học và NXB
Văn hóa), Tản Đà trong lòng thời đại (NXB Hội nhà văn, 1997).
Chính
ông là người dày công nghiên cứu và công bố: Truyền thuyết Hùng Vương
(1971); Hát xoan, hát ghẹo Phú Thọ (1979); Tục ngữ ca dao dân ca Phú
Thọ (1994). Trong bài tổng quan kết luận hội thảo, nhà thơ Kim Dũng đã
đánh giá sự nghiệp của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương có 3 nét
chính: là nhà Tản Đà học; nghiên cứu về truyền thuyết Hùng Vương và sự
ra đời nhà nước Văn Lang; học giả sưu tầm hát xoan Phú Thọ. Cống hiến
bền bỉ và đặc biệt nhất của ông, công trình nghiên cứu sưu tầm văn
hóa dân gian hát xoan được sử dụng như một nguồn tài liệu để UBND tỉnh
làm hồ sơ trình lên các cơ quan chức năng để gửi tới UNESCO xét công
nhận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Khắc Xương đã được trao giải thưởng VHNT Hùng Vương đợt 1 (1985) -
giải thưởng cao nhất (5 năm xét một lần) cho sự nghiệp của một tác
giả, Huy chương vì sự nghiệp VHNT Việt Nam. Nơi kinh đô Văn Lang,
thành phố ngã ba sông, trên đất thiêng trung du, người của Xứ Đoài mây
trắng Nguyễn Khắc Xương, đã coi Phú Thọ là quê hương thứ hai và đất
này cũng trân trọng ông như một di sản.
VI THÙY LINH (nhà thơ)
(Toquoc)-
Nguyễn Khắc Xương được giới văn sĩ, trí thức biết đến với một vị trí
đặc biệt: trưởng nam của thi sĩ Tản Đà. Nhưng ông cũng là người làm
rạng danh người cha của mình với những đóng góp không nhỏ trong nghiên
cứu văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa Đất Tổ Phú Thọ và hát
Xoan.Người đặt nền móng cho nghiên cứu hát XoanTrước Nguyễn Khắc Xương
cũng đã có những nghiên cứu về hát Xoan, song chưa có nghiên cứu nào
hệ thống và khoa học mà chỉ là những nghiên cứu nhỏ phục vụ cho một
vài công trình của các tác giả. Khi lập hồ sơ hát Xoan để trình UNESCO
công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhận loại cần được bảo vệ
khẩn cấp, các nhà khoa học không thể không kể đến công lao của Nguyễn
Khắc Xương.
Nguyễn Khắc Xương là con trai của thi sĩ Tản Đà; nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Thọ (được mệnh danh là nhà Phú Thọ học; nhà Tản Đà học xuất sắc) và tuy chưa được công nhận, song ông chính là nhà nghiên cứu hát Xoan một cách đầy đủ, hệ thống và khoa học nhất. Với hơn 40 năm nghiên cứu về hát Xoan, có thể nói, ai muốn tìm hiểu về hát Xoan, không thể không gặp Nguyễn Khắc Xương.Chính từ những nghiên cứu của ông, đặc biệt là cuốn sách “Hát Xoan Phú Thọ” (xuất bản năm 2008) là nền móng và hệ thống khoa học cho Viện Âm nhạc Việt Nam, UBND tỉnh Phú Thọ, Hội Văn nghệ dân gian VN nghiên cứu và lập hồ sơ về hát Xoan.
Nguyễn Khắc Xương là con trai của thi sĩ Tản Đà; nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Thọ (được mệnh danh là nhà Phú Thọ học; nhà Tản Đà học xuất sắc) và tuy chưa được công nhận, song ông chính là nhà nghiên cứu hát Xoan một cách đầy đủ, hệ thống và khoa học nhất. Với hơn 40 năm nghiên cứu về hát Xoan, có thể nói, ai muốn tìm hiểu về hát Xoan, không thể không gặp Nguyễn Khắc Xương.Chính từ những nghiên cứu của ông, đặc biệt là cuốn sách “Hát Xoan Phú Thọ” (xuất bản năm 2008) là nền móng và hệ thống khoa học cho Viện Âm nhạc Việt Nam, UBND tỉnh Phú Thọ, Hội Văn nghệ dân gian VN nghiên cứu và lập hồ sơ về hát Xoan.
Cuốn
sách được các nhà nghiên cứu hát Xoan thừa nhận là công trình duy
nhất nghiên cứu tổng hợp dưới nhiều khía cạnh về hát Xoan và những
khía cạnh có liên quan như tín ngưỡng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực,
ngôn ngữ, lịch sử hát xoan. Nguyễn Khắc Xương đã đi sâu phân tích cho
người đọc hiểu mọi đặc điểm của hát Xoan, không chỉ cái cốt lõi là âm
nhạc đến hình thức diễn xướng của từng quả cách mà cả về mọi tục lệ
của nó như tục giữ cửa đình, tục kết chạ, tục tế lễ, tục phường họ…
Từ năm 1967, Nguyễn Khắc Xương đã nghiên cứu về hát Xoan. Ông kể, những năm 1965- 1966, ông về đầu quân cho Ty văn hóa Phú Thọ, “dưới trướng” của người lãnh đạo có tầm Đặng Văn Đăng (nhà thơ Bút Tre). Năm 67, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh thành lập, ông được giao nhiệm vụ sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Thọ. “Khi về các xã vận động, phát triển hội viên và sưu tầm dân ca, tôi được dự một hai buổi hát Xoan, và tôi nhận thấy, đây là điều mình cần tìm”- ông chia sẻ về những ngày đầu chú ý tới hát Xoan.Say mê hát Xoan, ông cứ lặn lội và “cắm xã” không về cơ quan. Chính việc sống cùng các nghệ nhân già, học hỏi từ họ mà hát Xoan đã “ngấm” vào máu thịt ông.
Cũng nhờ việc “ba cùng” với người dân mà ông đã sưu tầm được văn bản cổ nhất của 14 quả cách hát Xoan bằng văn bản chữ Nôm. Một tâm hồn Xoan tươi trẻNhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương minh mẫn và tinh anh kỳ lạ so với tuổi 88 của mình. Mái tóc bạc trắng bồng bềnh rất nghệ sĩ, gương mặt vẫn lưu giữ nhiều dấu vết cho thấy thời trẻ là đây là một người đàn ông đẹp và hào hoa. Bất ngờ hơn là khi trao đổi với ông, chúng tôi còn phát hiện một tâm hồn nghệ sĩ hài hước, trẻ trung.Thực lòng, khi đến gặp ông, chúng tôi cũng lo. Gặp ông biết nói gì, viết gì? Bởi người viết về ông cũng đã nhiều, mà viết về hát Xoan cũng không ít. Nhưng cứ lan man đủ chuyện, không ngờ cuộc gặp đầu tiên giữa chúng tôi (thế hệ 8x) với ông cụ 88 tuổi lại vui vẻ đến thế.
Từ năm 1967, Nguyễn Khắc Xương đã nghiên cứu về hát Xoan. Ông kể, những năm 1965- 1966, ông về đầu quân cho Ty văn hóa Phú Thọ, “dưới trướng” của người lãnh đạo có tầm Đặng Văn Đăng (nhà thơ Bút Tre). Năm 67, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh thành lập, ông được giao nhiệm vụ sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Thọ. “Khi về các xã vận động, phát triển hội viên và sưu tầm dân ca, tôi được dự một hai buổi hát Xoan, và tôi nhận thấy, đây là điều mình cần tìm”- ông chia sẻ về những ngày đầu chú ý tới hát Xoan.Say mê hát Xoan, ông cứ lặn lội và “cắm xã” không về cơ quan. Chính việc sống cùng các nghệ nhân già, học hỏi từ họ mà hát Xoan đã “ngấm” vào máu thịt ông.
Cũng nhờ việc “ba cùng” với người dân mà ông đã sưu tầm được văn bản cổ nhất của 14 quả cách hát Xoan bằng văn bản chữ Nôm. Một tâm hồn Xoan tươi trẻNhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương minh mẫn và tinh anh kỳ lạ so với tuổi 88 của mình. Mái tóc bạc trắng bồng bềnh rất nghệ sĩ, gương mặt vẫn lưu giữ nhiều dấu vết cho thấy thời trẻ là đây là một người đàn ông đẹp và hào hoa. Bất ngờ hơn là khi trao đổi với ông, chúng tôi còn phát hiện một tâm hồn nghệ sĩ hài hước, trẻ trung.Thực lòng, khi đến gặp ông, chúng tôi cũng lo. Gặp ông biết nói gì, viết gì? Bởi người viết về ông cũng đã nhiều, mà viết về hát Xoan cũng không ít. Nhưng cứ lan man đủ chuyện, không ngờ cuộc gặp đầu tiên giữa chúng tôi (thế hệ 8x) với ông cụ 88 tuổi lại vui vẻ đến thế.
Ông Nguyễn Khắc Xương đã dành hơn 40 năm nghiên cứu về hát Xoan
Ông
kể, trong Xoan, Ghẹo, hát đúm là một hoạt cảnh đối đáp giữa nam và
nữ. Đây cũng là lối hát hấp dẫn nhất, cuốn hút tuổi trẻ nhất cho nên
người ta còn gọi phường Xoan là phường Đúm. Một cô đào trong phường
Đúm đứng ra giữa chiếu, tay cô cầm một “quả đúm” (một miếng vải tròn
lại) đưa mắt nhìn khắp mặt “ đàn anh” trong làng rồi cất cao giọng
hát:-
- Phải đôi phải lứa thì xe,
Đúm tìm cho tới ai the đúm vào
Đúm vào người hỏi làm sao
Em là quả đúm, em vào kết duyên...
Dứt câu hát, cô ném qủa đúm vào một quan viên nào đó.
Nhưng
trước khi ném quả đúm, cô gái đã có những động tác dứ rất uyển
chuyển, làm mọi người hồi hộp không biết quả đúm sẽ vào tay ai. Người
nhận được quả đúm mở ra lấy trầu cau ăn rồi gói miếng trầu cau khác
vào (có khi là một đồng tiền thưởng), trao cho một trai làng hoặc đứng
lên hát đáp một câu đúm, hát xong tung quả đúm trả lại cho cô đào. Cứ
như thế quả đúm bay đi ném lại cùng với những câu hát tình tứ và
tiếng cười tán thưởng của người xem.Hay khi người trai hát:
Anh xin nàng chút huê trong đụn
Người gái hát: Huê trong đụn anh thuận huê gì?
- Huê trong đụn anh thuận huê lúa
- Huê lúa mùa này nó chưa nở!
Để một mai nó nở.
Thiếp lại bẻ cho chàng.
Sợ chàng chẳng yêu.
Sợ chàng chẳng dấu.
Để nụ héo.
Huê hỡi là huê.
Hay
khi bên trai hỏi một câu, nếu bên gái không trả lời được hay muốn bên
trai trả lời thì sẽ hỏi lại câu đó “chàng hỏi thì thiếp lại nhờ chàng
trả lời” và bên trai lại hát trả lời...
Cứ như thế, hát đến
hết đêm mà vẫn không cạn lời.Bởi thế, nên câu chuyện giữa chúng tôi
với ông cũng không dứt. Lan man hết chuyện hát Xoan đến chuyện văn hóa
Phú Thọ… đôi khi, chúng tôi hỏi và ông lại chêm vào một câu Xoan:
“Nàng hỏi vậy nhờ nàng trả nhời”… khiến chủ và khách cười nghiêng
ngả.Nói về hát Xoan, ông hồ hởi: “Trên thế giới không nước nào có ngày
Giỗ Tổ và biểu hiện nghệ thuật của nghi thức giỗ Tổ là hát Xoan. Nghệ
thuật bắt nguồn từ mảnh đất kinh đô đầu tiên của dân tộc nên rất có
giá trị. Có hai phần chính trong hát Xoan, là lễ và hội. Phần lễ
(nghiêm trang, thành kính) cầu chúc cho các Vua Hùng về phù hộ cho
làng chạ; sau lễ là hội (với những trò vui chơi, giải trí) trong đó có
Xoan: ca hát và múa. Hát Xoan cũng là dân ca duy nhất có múa”.
Chia
sẻ về việc nhiều người không hiểu hát Xoan, ông cho hay: “Phải nâng
phần hát giao duyên lên nhiều hơn là thể hiện phần lễ. Lập hồ sơ và
trình diễn thì diễn phần lễ, nhưng để hát Xoan đến được với lòng người
thì nên chú ý phần hội. Cứ nghe những câu hát “Phải đôi phải lứa thì
xe/ Đúm tìm cho thấy áo the đúm vào” (Hát Đúm) hay “Nhỡ mai bên Tấn bên
Tần/ Bây giờ bưng trống mới gần được nhau” (hát trống quân Đức Bác)…
thì sao không mê được?”. “Không chỉ người già mà người trẻ cũng sẽ yêu
hát Xoan nếu những bài ca như thế được phổ biến nhiều hơn”- ông tin
tưởng.
Chia tay ông, chia tay Đất Tổ giữa những ngày tháng Ba
Giỗ Tổ, chúng tôi cũng có một niềm tin như thế. Và trong tâm thức cũng
tin rằng, mấy ngàn năm trước, nơi địa linh ấy đã sinh ra điệu hát độc
nhất vô nhị này, đã nuôi dưỡng được những con người như Nguyễn Khắc
Xương, thì không lẽ gì, không làm sống lại được khúc hát Xoan- khúc
hát mùa xuân.
Bài&ảnh: Hà An
Người thừa kế sự nổi tiếng của Tản Đà
Chủ nhật, 22 Tháng bảy 2007, 10:59 GMT+7
Nguoi thua ke su noi tieng cua Tan Da
Tags:
Tản Đà, Nguyễn Khắc Xương, Nguyễn Hữu Nhàn, Hà Nội, Ngô Quý Tiếp, Tản
Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Thị xã Phú Thọ, sự nổi tiếng, người thừa kế,
người đàn ông, nhà nghiên cứu, nhà thơ, văn hóa, không thể, người ta,
mình
Chuyến công vụ cách đây hơn hai mươi năm, buổi sáng mưa
thu, khi ngang qua thị xã Phú Thọ 100 tuổi, thì sếp Nguyễn Hữu Nhàn
sau khi khụt khịt ngoáy mũi hất hàm hỏi tôi : - Này, mày có thích vào
nhà ông Nguyễn Khắc Thịt không? Con trưởng cụ Tản Đà.
Nguoi thua ke su noi tieng cua Tan Da
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương và vợ
Nửa thế kỷ phục hồi di sản của cha
Tôi
thắc mắc về cái tên nồng mùi thực phẩm ấy thì Nguyễn Hữu Nhàn tưng
tửng, rằng đó chỉ là tếu danh của trưởng nam Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tên
là Nguyễn Khắc Xương, người được thừa kế sự nổi tiếng của bố, nhưng
vẫn tạo lập được danh tiếng riêng bằng thực tài ở lĩnh vực nghiên cứu
văn hóa dân gian.
Ngôi nhà tranh thẫm mưa, vách trát vữa vôi lên
khung tre ken nứa, chìm lỉm giữa màu xanh cây vườn vươn cao. Bao
nhiêu là hoa nhài, hoa huệ, hoa sói, hoa ngâu mọc xen kẽ đâu đó nơi
gốc cây ăn trái lưu niên nơi góc tường nhà bể nước.
Và khá
nhiều cây cà phê chè quả sai như chuỗi hạt. Ngôi nhà nép bên rìa sân
bay quân sự cũ người Pháp đã làm trong chiến tranh Đông Dương, tuy ở
vị trí trũng thấp nhưng trước nhà là hun hút đường băng hoang phế phơ
phơ cỏ may dưới mưa xiên.
- Ông Xương, ông Xương có nhà thì liệu mà ra đón khách văn đến vật nhà ông đây này...- Nguyễn Hữu Nhàn gọi.
Có
tiếng radio. Có tiếng người ho khan. Tiếng bước chân thình thịch. Một
người đàn ông đẹp, mà cái đẹp trời cho ông được đẹp bất kỳ ở độ tuổi
nào. Nhưng là một cái đẹp bị bủa vây vô hình, giới hạn nào đó tôi
không thể gọi ra được. Người đàn ông sơ mi trắng cổ lộn, quần nâu thắt
dải rút cúi xuống thật thấp, hài hước.
- Xin được chào các văn nhân…
Nhanh,
hoạt và cởi mở nhưng Nguyễn Khắc Xương vẫn cứ khiến cho tôi một cảm
giác là một ông giáo cấp III bất đắc chí hay một trưởng phòng văn hóa
thị xã về hưu sớm. Và tôi bỗng áy náy về khoảng lặng trống vắng, xa
cách bên trong con người ông với sự định khuôn của tinh thần. Thì ra
hậu sinh của Tản Đà là thế này đây.
Nguyễn Khắc Xương sốt sắng
dọn xấp bản thảo đang ở công đoạn sửa lỗi trước khi in. Bản thảo về
Tản Đà trên mặt bàn giữa nhà, chiếc kính lúp chèn ngang.
- Các ông dùng cà phê nhé? Trà nhé? Nhà có bánh gai, và cả bánh tai bà nhà tôi trước khi xuôi Hà Nội thăm cháu đã kịp mua về.
Bánh
tai, bánh gai, càphê rồi cả chè tất cả đều được chúng tôi chiếu cố.
Hai người lớn chuyện vãn. Tôi nhìn lên bàn bát hương lưa thưa chân
nhang, nhích cao phía trên bức chân dung Tản Đà vẽ chì than ngả màu.
Thấp hơn một chút, tấm ảnh Nguyễn Tất Hiển liệt sĩ chống Mỹ cháu trai
đích tôn của Tản Đà. Bỗng Nguyễn Khắc Xương kéo tôi ra khỏi những suy
tư vẩn vơ.
Nguoi thua ke su noi tieng cua Tan Da
Nhà thơ Tản Đà thời trẻ
- Thế cái ông trẻ trẻ này làm gì mà xanh mướt thế này?
Nguyễn Khắc Xương quan sát tôi hồi lâu, hỏi tuổi rồi phán xanh rờn như một nhà chiêm tinh bói toán có hạng.
-
Dung khí thoạt thì tươi lâu thì trầm. Sau cũng nổi cơ đồ nhưng kiến
tạo việc lớn không bao giờ một lần mà được. Giỏi kết giao. Được người
hơn tuổi quí mến. Chơi cả với người chỉ rình đập vào đầu mình.
Thân
tự lập thân. Càng ở xa quê xa bố mẹ anh em ruột thịt thì càng tốt.
Ngoài ba mươi tuổi mới ổn định… Ông làm rể tôi thì tốt cho cả ông lẫn
con gái tôi. Nhưng còn cái duyên cái phận ghê gớm lắm…
Là con
của nhà thơ nổi tiếng Tản Đà được dư dả sung sướng về tinh thần là
đương nhiên. Nhưng với áo cơm thì sáng cao lâu tửu quán tối đã nhịn meo
nằm khan. Có những lần hết tiền Tản Đà bảo vợ con đi giật nóng, ra
phố gặp bạn quen rủ đi chơi, Tản Đà đi liền 3 tháng mới về nhà.
Cậu
bé Nguyễn Khắc Xương không ít lần trắng đêm ngồi trông em cho mẹ chịu
tiền xích lô đi đón bố say rượu còng keo ở đâu đó. Lên 9 tuổi Nguyễn
Khắc Xương về ở với ông bác Nguyễn Mạnh Bổng, Tản Đà lúc đó đã lỡ vận
phải mở cửa hàng xem tử vi, mở lớp Hán văn diễn giảng, Quốc văn hàm
thụ.
Những phương thức mưu sinh này đều được Tản Đà cho quảng
cáo trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn đoàn. Năm 1939, Nguyễn Khắc Xương
17 tuổi, Tản Đà mất đêm ngày 7/6 (ngày 20/4 Kỷ Mão) tại nơi thuê trọ
71 đường Cầu Mới, Ngã Tư Sở. Nguyễn Khắc Xương đã nằm bên cái xác lạnh
cứng của Tản Đà. Lúc đó trong nhà còn không đầy 2 kilôgam gạo, mươi
đồng bạc lẻ.
Cho đến bây giờ, cả một đời đã gần xong Nguyễn Khắc
Xương 85 tuổi và Nguyễn Khắc Xương thuở 17 vẫn hằn nguyên cái cảm
giác xác người cha nguội dần, nguội dần và cóng lạnh.
Ông không
thể rời xa cha, mà có muốn rời cũng không thể vì không có chỗ nào
khác. Bởi vì gian buồng trong chật hẹp cũng chỉ một chiếc giường thì
mẹ và 3 em nhỏ đã nằm.
Chiến cuộc đẩy đưa Nguyễn Khắc Xương về
Phú Thọ. Với ý thức tự thân và sự tác động qua lại của những người bạn
vong niên của cha, Nguyễn Khắc Xương đã tính đến công trình tập hợp
biên tập lại toàn bộ tác phẩm và di cảo Tản Đà.
Những năm 1956 -
1958 Nguyễn Khắc Xương về Hà Nội thăm họ hàng, có dịp tìm đến cụ Ngô
Quý Tiếp một thời là thư ký tòa soạn An Nam tạp chí của Tản Đà. Người
thư ký năm xưa lộn lạo thư phòng bụi bặm đưa cho Nguyễn Khắc Xương hai
tập vở viết tay của Tản Đà.
Trong đó Tản Đà ghi rõ đây là
những bài viết do ông mới học quốc ngữ mà viết nên. Quả nhiên Nguyễn
Khắc Xương run run lần đọc thì thấy quá nhiều lỗi chính tả trong mỗi
trang dòng. Nhìn Nguyễn Khắc Xương, cụ Ngô Quý Tiếp trầm giọng:
Nguyễn
Khắc Xương sinh năm 1922 tại Hà Nội, trưởng nam của Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu, nguyên quán Khê Thượng - Ba Vì - Hà Tây. Tú tài toàn phần.
Từng
phụ trách bộ phận Văn nghệ của Đoàn Tuyên truyền xung phong do Nguyễn
Hữu Đang tổ chức, cán bộ Công an tại Hải Phòng, cán bộ Sở Văn hóa -
Thông tin Vĩnh Phú (Phú Thọ), Trưởng phòng Thư viện, Trưởng phòng Bảo
tàng… Sáng lập viên Hội VNDG Vĩnh Phú.
Tác phẩm chính: Tuyển tập
Tản Đà, Ông thần ngông, Tản Đà thơ và đời, Tản Đà, một đời văn, Tản
Đà trong lòng thời đại, Truyền thuyết Hùng Vương, Nữ tướng thời Trưng
Vương… và một số công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian miền đất
Tổ.
- Là trưởng nam của Tiên sinh, thừa kế sự nổi tiếng của Tiên
sinh thì anh phải có trách nhiệm làm cho những thứ này- cụ Tiếp chỉ
vào hai tập vở ố vàng - là thứ cảo thơm này sáng trong trở lại…
Sở
dĩ Ngô Quý Tiếp nói vậy, vì thời kỳ này có một số ý kiến về thơ văn
Tản Đà là thứ phù phiếm hão huyền , ngông ngạo, kêu gọi sự hồi cố
hưởng lạc kiểu phong kiến.
Về nhân cách thì nhận sự bố thí của
Bảo Đại, khen Tây. Nhưng may mắn, giữa lúc lình sình thì có những nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng công khai bày tỏ quan điểm ủng hộ Nguyễn Khắc
Xương nghiên cứu phục hồi những đóng góp có giá trị của Tản Đà cho văn
học Việt.
Hơn ai hết Nguyễn Công Hoan là người sốt sắng thúc
Nguyễn Khắc Xương bắt tay ngay vào việc. Cuộc gặp ở tư gia Nguyễn Công
Hoan có Nguyễn Tuân, Tú Mỡ. Rượu mơ Hương Tích, cốm vòng, chuối tiêu,
lạc rang cả vỏ, làm nhịp cho câu chuyện.
Nguyễn Tuân nâng chén rượu lão mơ xoay xoay tóp mũi hít hương rượu bàn.
-
Chính nhà thơ phải lên tiếng bênh vực nhà thơ trước tiên. Đó là cách
đẹp nhất làm trong sạch và trả lại tiếng thơm cho Tản Đà và cho các
nhà mang danh nhà thơ Việt Nam.
Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ cười khẩy nhay nhay cặp kính thuốc nơi sống mũi.
-
Một người yêu tiếng Việt, khai sáng ra thơ tiếng Việt hiện đại coi cả
đời là một cuộc chơi rong, coi danh tiếng tiền nghìn bạc vạn như gió
thoảng. Một người như thế mà dám bảo người ta nịnh Tây ư ?...
Nguyễn Khắc Xương tìm đến Xuân Diệu. Nhà thơ vung cả hai tay chém chém vào khoảng không trước mặt.
- Người ta nghiên cứu Tản Đà chỉ bằng trí tuệ, nhưng mình với Xương nghiên cứu Tản Đà thì bằng cả tâm hồn và trí tuệ...
Dường
như linh hồn Tản Đà và tâm tình tri ngộ của bạn bè ông giờ cũng là
người thế giới vô ảnh đã truyền cho Nguyễn Khắc Xương một sức bền, một
nhẫn chịu và nhiều khước từ công danh làm trọn vai trò người thừa kế di
sản là sự nổi tiếng.
Gần nửa thế kỷ, Nguyễn Khắc Xương đã hoàn
thành được tâm nguyện của mình, và của những đấng bậc sang trọng
trong văn nghệ nước nhà về việc phục hồi tái bản toàn bộ tác phẩm Tản
Đà gồm 5 tập gần 3.000 trang. Trả lại vị trí xứng đáng của Tản Đà cho
văn học sử...
Tự nhận mình chỉ là ánh sáng que diêm
Bây giờ Nguyễn Khắc Xương đã 85 tuổi, tôi chỉ cần bấm phím điện thoại. Chuông đổ hồi. Roạch.
- A lô, kính chào nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương, trưởng nam của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu kiêm nhà Tản Đà học ạ.
- A, lại ông hả, quí hóa quá, đặt bài hay trả nhuận bút cho tôi đấy?
Lập
tức phía bên kia vui vẻ ngay. Nhưng nếu tôi mà không gọi đủ ba cái
chức danh nổi tiếng kia thì thái độ người nghe sẽ nhạt như nước mía
non.
Tôi tiếp tục ỡm ờ:
- Dạ thưa hôm nay thì có cả hai ạ. Vừa trả nhuận bút vừa kính mời đặt nhà Tản Đà học số nhất Việt Nam một bài cho số Tết ạ.
- Bao nhiêu chữ và trả bao nhiêu tiền…
Tôi
kính cẩn bẩm báo. Không đầy một giây Nguyễn Khắc Xương OK ngay. Nhưng
còn một điều tôi không được quên là phải nói ngày giờ lấy bài, ngày
giờ gửi tiền và yêu cầu ông phải ghi lại vào lịch bàn.
Đúng
hẹn, trước 10 phút tôi đã có mặt trước cửa nhà ông mà đứng. Dẫu ông có
nhìn thấy tha thiết mời vào nhà thì tôi cũng nhất quyết đây đẩy từ
chối. Phải đúng giờ hẹn không thừa không thiếu một phút thì tôi mới
bước vào nhà.
Lúc này thì lại không thể gọi là nhà nghiên cứu
hay nhà Tản Đà học được nữa mà là phải đổi ngay cách xưng hô sao cho
trẻ trung rôm rả.
- Em chào anh, hôm nay thần sắc anh trông thật tươi nhuận. Bộ pijama này màu sắc trông sang trọng quá…
Nguyễn
Khắc Xương hối hả quay vào nhà gọi ời ời bà vợ đã hơi nghễnh ngãng ra
đón khách cùng chồng bằng được. Người đàn bà phúc hậu, tóc cước kẹp
ngang lưng kiểu những năm 50 thế kỷ trước, khẽ khàng bước ra mỉm cười.
Nguyễn Khắc Xương liền ôm lấy vai bà thơm chụt một cái lên gò má nhăn
nheo nhưng vẫn kịp ửng lên màu hồng. Tôi cúi mình thi lễ nghiêm cẩn.
-
Ông xem chúng tôi có đẹp đôi không? - Nguyễn Khắc Xương hỏi vậy nhưng
lại ngướn cổ lên hất hàm - Này, ông có mang xìn đến cho tôi không
đới?
Nắn nắn chiếc phong bì, giơ lên cao nhưng Nguyễn Khắc
Xương nhất quyết không mở ra ngay mà lẹp xẹp lê dép vào buồng văn.
Trên quãng đường không đầy 6 mét ông đã kịp hé miệng phong bì, đã kịp
đếm tiền.
Tiếng tủ kẹt mở nhanh, khép nhanh. Nhưng có điều là
tiền đưa đủ hay đưa thiếu thì ông cũng không để ý. Đếm chỉ để mà đếm
như kiểu thấy tiền vào túi thì đếm chơi. Từ trong buồng ông vọng ra:
- Thế ông sẵn chứng từ để tôi ký cốp chứ nhỉ.
Tôi
không thể gặp Tản Đà, nhưng qua Nguyễn Khắc Xương người con trưởng
của thi nhân thì cũng hình dung được một phần con người Nguyễn Khắc
Hiếu hàng ngày thế nào.
Đểnh đoảng, riết róng, nhưng thoải mái,
luôn luôn đưa ra những yêu cầu này nọ, nhưng chỉ cần có vậy, chỉ cần
người ta đồng ý miệng với mình là không đòi hỏi gì thêm, hay kiểm tra
lại những yêu cầu của mình xem người ta đã thực hiện hay chưa.
Nhận
được bản thảo đúng thời gian của Nguyễn Khắc Xương không có nghĩa là
tôi nhận được những thứ mình cần. Tôi cần phải đọc lại ngay, nếu có gì
không ổn thì còn phải điều chỉnh.
Nếu như điều chỉnh sau thì
sẽ bị Nguyễn Khắc Xương dọa kiện. Nhưng may là ông chưa bao giờ thực
sự kiện vì lý do bài vở bị cắt cúp theo yêu cầu thực tế. Nhưng muốn
đọc ngay tại chỗ thì tôi cũng không được suồng sã đọc mà không xin
phép một cách đặc biệt.
- Liếc qua vài chữ đã biết là chất
lượng bài viết cao ngất ngưởng. Nhưng để lâu mà không thưởng lãm áng
văn chương lồng lộng này thì khó chịu lắm thay. Em xin phép anh ạ.
Nguyễn Khắc Xương liếm môi cười.
- Hừ ông nói hay như tướng tuồng rạp Quảng Lạc, rạp Thắng Ý…
Chẳng
lẽ ông đã thấu tâm can tôi, hay là ông chỉ nhắc đến hay cái tên rạp
hát ngày xưa đã dựng diễn tuồng của Tản Đà soạn vở. Nhưng vẫn còn cách
để có bài viết về Tản Đà không phải dùng đến tiền tươi mà vẫn hiệu
quả.
Tất nhiên là phải mẹo mực với một nửa sự thật. Một là phải
nhờ người gọi điện kiểm tra xem Nguyễn Khắc Xương chắc chắn ở nhà.
Người cần đặt bài phóng xe xông đến với điệu bộ vội vã gấp gáp, gõ cửa
dồn dập. Nguyễn Khắc Xương ra mở cửa thì phải nói liến thoắng…
-
Gay quá, có mấy ông giáo sư tiến sỹ Viện X ở dưới Hà Nội đột ngột ghé
qua. Họ nói rằng muốn tới chào anh một tiếng nhưng không kịp vì bên
tỉnh mời cơm thân mật. Chối không được, họ bèn nhờ tỉnh, tỉnh lại lệnh
cho em đến anh xin một bài viết cho tạp chí Y.
Em cũng định
nhắc đến nhuận bút cho anh, nhưng ngặt nỗi đang ở chỗ long trọng mũ
cao áo dài nên không thể há miệng ra được. Nhuận bút trả sau nhưng sẽ
khá cao… Anh xem thế nào, nếu không ổn để em báo cáo tỉnh…
Người
nói câu ấy làm điệu bộ sẽ quành xe máy đi ngay, vê vê côn nháy nháy
ga làm tàng. Chần chừ. Nguyễn Khắc Xương cũng chần chừ. Nhưng không
qua nửa phút. Vỗ trán đánh tẹt, ông lão kiên quyết đi vào nhà.
- Được, để tôi cho ông cái này bốn trang thôi.
Và cách cuối cùng thì gọi là khổ nhục kế. Người đặt bài ủ rũ ngồi trước cửa nhà, đợi Nguyễn Khắc Xương ra mở cửa thì cầu khẩn.
- Báo cáo anh, chuyến này anh mà không cứu em thì em sẽ bị đuổi việc.
- Vì sao họ đuổi ông. Ông năng lực năng nổ đến thế kia mà…
Liếc quanh, thì thào vẻ xấu hổ.
-
Chẳng giấu gì anh, em mới có một đám sắc nước hương trời không chịu
được, nên đã quên mất là phải đặt bài anh. Em và người đẹp vừa mới đi
biển về đến đây thì nhận được mật báo tình hình. Anh phải cứu em phen
này…
Đang ngáp vắn dài Nguyễn Khắc Xương thủng câu chuyện liền tỏ vẻ lo lắng như chính việc của mình. Lom khom, ông cúi xuống.
-
Nghiêm trọng đến thế kia à. Ừ, cái vụ này không đùa được. Được, tớ sẽ
giải thoát cho cậu tai nạn này. Người ta mà mang nguyên tắc hành
chính ra là ông no đòn rồi. Ngày xưa tôi cũng tam phen tứ phen mắc tội
khi cơ quan. May mà lãnh đạo ngành ta bao giờ cũng biết dùng những
người luôn biết làm việc hiệu quả...
Những ngày đầu ngành Văn
hóa Phú Thọ đã có những người lãnh đạo thực sự có tầm nhìn chiến lược
như ông Trần Văn Liu, Bút Tre Đặng Văn Đăng. Họ để Nguyễn Khắc Xương
tự do lập kế hoạch, tự sưu tầm điền dã khắp các vùng miền trong tỉnh,
không vướng vào ba cái chuyện hành chính.
Không ít lần Văn
phòng Ty Văn hóa Phú Thọ cứ phải bố trí phòng khách tiếp đón những cô
giáo, kỹ sư nông nghiệp, lâm nghiệp tự nhận là có quan hệ với con trai
trưởng nhà thơ Tản Đà và đang bị hậu quả nghiêm trọng. Người ta cho
gọi Nguyễn Khắc Xương đến đối chất.
Nhiều cô vừa nhìn thấy
Nguyễn Khắc Xương đã ôm chầm lấy mà khóc nức nở. Nhưng thực ra chỉ vì
Nguyễn Khắc Xương quá đẹp trai, quá hào hoa, chỉ vì các cô quá mê thơ
Tản Đà...
Nhiều dịp hầu trà Nguyễn Khắc Xương, và tôi thường
phải nghe câu chuyện hay được ông hồi cố nhất, đó chính là cái tai nạn
đầu tiên đời công chức.
- Kể từ lần 1952 mình hỏi cung nghi
can điệp báo của Pháp. Một cô gái tư sản, học thức, sành piano, mê văn
chương, thuộc Tản Đà lẫn Xuân Diệu, Huy Cận. Đáng lẽ căn vặn truy tìm
chứng cứ phạm tội thì mình lại quay sang đàm đạo thơ văn Tản Đà với
cô ta.
Một mỹ nhân mà lại bị hệ tư tưởng làm hố sâu ngăn cách.
Mình bị kiểm điểm là đáng thôi, nhưng từ đó buộc phải dằn lòng, phải
vật lộn với chính mình mà gìn giữ để có được sự trung thành và chung
thủy. Nhưng đôi lúc cuộc đời suýt đẩy mình trượt ngã, thì mình lại nhớ
lại chuyện hỏi cung nọ. Thế là tỉnh táo.
Và, lạ lùng. Không,
không nên cho là lạ lùng mới phải. Tôi đã thấy Nguyễn Khắc Xương ở
tuổi 60, tuổi 70, tuổi 80. Dù ở tuổi nào Nguyễn Khắc Xương vẫn là
người đàn ông đẹp. Trong bất kỳ hội nghị hay đám đông, vây quanh người
đàn ông tóc cước vẫn là những chị những em nhan sắc. Hai bên tự dưng
cứ bị hút lại gần nhau. Chẳng biết họ nói với nhau chuyện gì, nhưng
thi thoảng lại cứ toá lên cười vui. Tỏ ý thán phục thì ông cười buồn.
-
Tôi bây giờ thì nước non gì. Chỉ kéo pháo vào lại kéo pháo ra… Số tôi
nó thế, cũng là ánh sáng nhưng chỉ là ánh sáng của que diêm chứ không
phải hoả diệm sơn như ông cụ tôi. Ông cụ dám cuốc nền phòng khách
gạch men nhập khẩu từ Pháp nhà người trồng rau thơm.
Tôi chỉ
dám cuốc đất vườn nhà trồng sắn khoai. Ông cụ bỏ nhà đi hoang còn có
người biếu tiền rượu, tiền hát cô đầu. Tôi bỏ nhà ba ngày thì vợ tôi
ốm, con tôi đói, cơ quan đuổi việc. Cả một thời dài những kiểu đàn ông
như tôi luôn bị thê tróc tử phọc (vợ trói con buộc) lại còn gạo tem
củi phiếu thì làm được từng ấy đã là may...
Mới đây tôi mang ít
nhuận bút còm của cơ quan trả ông. Vẫn hài hước. Vẫn bắt tôi gọi bằng
anh. Vẫn xa vắng và khuôn định như thuở nào tôi gặp. Vẫn chè sen. Bánh
gai. Bánh tai Phú Thọ gửi xuống.
Vẫn chuyện thế kỷ trước,
không buồn phiền mà cũng không dửng dưng. Đều đều thấm ngấm vào đâu
đó. Hôm đó tôi bỗng bạo dạn hỏi ông, rằng làm con của người nổi tiếng
thì thế nào. Lặng đi, ông vuốt mái tóc bất chợt xõa trước mặt.
-
Cũng tự hào. Đáng tự hào. Nhưng không nên dựa vào danh tiếng cũ để ăn
theo. Có thể vẫn làm mọi cách để làm sáng hơn nữa, vang hơn nữa danh
tiếng có sẵn đó, nhưng mình phải đứng ngoài danh tiếng đó. Tốt nhất là
tìm kiếm được một danh tiếng độc lập. Lớn, bé thì cũng là của mình...
7/2007
Nguyễn Tham Thiện Kế
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
HÀ ĐÌNH NGUYÊN * TẢN ĐÀ THƠ RƯỢU VÀ NGÔNG
Tản Đà - thơ, rượu và ngông
"Trời sinh ra bác Tản Đà"
02/05/2010 23:23
Tản Đà - Ảnh: t.l
Trên bầu trời văn chương Việt, Tản Đà là một ngôi sao lạ thường, nằm riêng biệt, không lẫn vào những tinh tú khác bởi cuộc đời ông là một tài năng khác thường nằm trong một số phận khác thường...
Cái sự tài hoa đó được khẳng định bởi hai nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân. Năm 1941 khi viết cuốn Thi nhân tiền chiến, không phải ngẫu nhiên mà họ đã "thỉnh" anh linh cố thi sĩ Tản Đà vừa qua đời trước đó 2 năm (1939) về mở đầu cho cuốn sách và phong cho ông là chủ súy trên chiếu Tao Đàn:
"Hội Tao Đàn hôm nay đông đủ hầu khắp mặt thi nhân, chúng tôi một lòng thành kính rước anh linh tiên sinh về chứng giám. Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, nhưng ai nấy đều là con đầu lòng của thế kỷ 20. Trên hội Tao Đàn, chỉ tiên sinh là người hai thế kỷ. Tiên sinh sẽ đại biểu cho một lớp người để chứng giám công việc người kế tiếp. Ở địa vị ấy còn ai xứng đáng hơn tiên sinh?
...Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa... với chúng tôi, tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh... Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái vững vàng, cái cốt cách ung dung... Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản một người thời trước... những cảnh éo le thường phô bày ra trước mặt không làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu
...Thôi, Hội Tao đàn đã đến lúc mở. Xin tiên sinh hãy khai hội..." (Cung chiêu anh hồn Tản Đà - Thi nhân Việt Nam).
Và cũng không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Vỹ khi viết cuốn Văn thi sĩ tiền chiến (1970) cũng đã chọn Tản Đà là người "mở hàng". Vậy chân dung thi sĩ Tản Đà ra sao? Hãy nghe ông "tự giới thiệu":
"Trời sinh ra bác Tản Đà/Quê hương thời có, cửa nhà thời không/Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông/Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly/Túi thơ đeo khắp ba kỳ/Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng..." (Thú ăn chơi).
Tuy nhiên để có được một chân dung Tản Đà "cận cảnh" đành phải hình dung ông qua ngòi bút của nhà văn Vũ Bằng với ít nhiều đường nét hý họa: "Tóc ông cắt ngắn kiểu ăng-bốt nửa muối nửa tiêu, không để râu, nói lè nhè mà lại hơi cà lăm, không gầy mà cũng không mập quá, mới trông thì có vẻ khỏe mạnh, cổ ngắn, mắt hơi ngầu đục. Đặc biệt nhất trên khuôn mặt ông là cái mũi dẹt, to, trông như một quả cà tô-mát chưa chín hẳn mà ai đã nghịch ngợm cắm vào giữa hai má khá đầy, trên một cặp môi đỏ mà hơi mỏng so với mặt..." (Tản Đà uống rượu làm cho tôi say đến bây giờ - NXB Văn học, 1970).
Thực ra lúc "phác họa" bức chân dung này thì Tản Đà đã mất trước đó 31 năm. Lúc này, Vũ Bằng đã là nhà văn có đôi chút tiếng tăm, cho nên mới dám "vẽ" bậc thi sĩ tiền bối như thế, chứ khi Vũ Bằng hãy còn là cậu học trò "thò lò mũi xanh" ở Hà Nội thì: "Chiều nào, bất cứ bận việc gì, tôi cũng tà tà đi đến trước cửa nhà Thăng Long, dán mũi vào cửa kính nhìn vào trong để xem ông Tản Đà vừa quạt cái hỏa lò con để trên giường vừa nhắm rượu một mình. Tôi sợ ông như một ông tiên..." (Tản Đà uống rượu làm cho tôi say đến bây giờ).
Nhà văn Nguyễn Vỹ cũng thế, ông kể: "...12 tuổi, tôi đã mê thơ văn của thi sĩ Tản Đà và ao ước được biết ông. Lúc đó ông là "thần tượng" của tôi... Khi học ở Hà Nội năm 1928, tôi không dám đến tìm nhà Thi sĩ (Nguyễn Vỹ viết hoa chữ này - NV). Tôi vẫn yêu cái hình vẽ "gánh văn lên bán chợ Trời" trên các bìa sách của "Tản Đà thư cục", bán rất chạy vào những năm 1925-1930. Tôi cắt hình đó dán lên bàn học của tôi... Một hôm, vào khoảng 1930, đi qua phố Hàng Da, xế nhà ông Phạm Quỳnh, tôi thấy trên tường một căn nhà có treo tấm bảng "An Nam Tạp Chí", tôi liền đánh bạo giả vờ vào mua một quyển Giấc mộng con để thấy mặt Thi sĩ. Tôi bước vào không thấy ai. Sẵn tính tò mò, tôi ngó lên một chiếc bàn kê sát vách, một điếu hút thuốc lào bằng tre, thứ "điếu cày" bình dân, bên cạnh một cái đèn liu riu, vài que đóm bỏ bừa bãi, với một mảnh giấy trắng. Tôi lén dòm trên giấy hai câu thơ viết chữ loằng ngoằng, tôi đọc thật lẹ, và còn nhớ mãi đến bây giờ: "Đi ra rồi lại đi vào/Vẩn vơ chỉ tốn thuốc lào mà thôi!". Tôi nhịn cười không được, bật cười to lên. Bỗng từ trong nhà bước ra một ông mái tóc lâm râm, cúp rẽ một bên, áo lương thâm dài cũ mèm, quần trắng hơi bẩn, mang đôi giày mòn mỏi. Đôi mắt ông sáng quắc, nhìn tôi. Tôi lễ phép chấp hai tay cúi đầu chào, theo kiếu người Bắc: Lạy cụ ạ. Ông gật đầu: Tôi không dám, cậu hỏi gì?... Tôi bỡ ngỡ hỏi thẳng cụ: Thưa cụ, cụ có phải là Thi sĩ Tản Đà không ạ? - Phải. Tôi mừng quá. Nhưng không hiểu sao, đứng trước Nhà Thơ bằng thịt bằng da mà tôi hằng kính phục, tôi bối rối không biết nói gì nữa. Tôi cúi đầu chào từ biệt... Tôi sung sướng và hãnh diện, đã thấy mặt nhà Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tôi khoe cùng các bạn học của tôi..." (Văn thi sĩ tiền chiến).
Không chỉ Vũ Bằng, Nguyễn Vỹ mà cả đến một con người nổi tiếng cương cường, trực ngôn như Phan Khôi cũng bị "ngợp" khi lần đầu tiên đối diện với Tản Đà. Đó là vào năm 1918, trên căn gác của Báo Nam Phong, khi được giới thiệu người trước mặt là Nguyễn Khắc Hiếu thì ngay lập tức Phan Khôi cảm thấy "...như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy! Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm. Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật!..." (Tôi với thi sĩ Tản Đà - Tao Đàn 1939).
Còn đây là chân dung Tản Đà qua ngòi bút của nhà văn Lan Khai: "...Thi sĩ Tản Đà là một người đàn ông đẫy đà, hơi thấp, đầu đội chiếc khăn xếp không che kín mái tóc cắt kiểu bàn chải, mình mặc áo sa bóng. Thi sĩ có một gương mặt nở nang và thường đỏ hồng vì men rượu. Tiên sinh nổi tiếng về rượu cũng như về thơ, tiên sinh lại tự bào chữa trước sự đùa cợt của thế nhân bằng hai câu thơ rất tài tình: "Đất say, đất cũng lăn quay/Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười?". Gương mặt ấy sáng tươi luôn luôn bởi cái miệng môi mỏng lúc nào cũng mủm mỉm cười và bởi đôi mắt cười nhiều hơn miệng... Thi sĩ Tản Đà rất người, thành thử dù ai khó tính đến đâu cũng phải yêu mến..." (Phác họa hình dung và tâm tình thi sĩ Tản Đà -Tao Đàn 1939).
Hà Đình Nguyên
Posted by vanhoa at 8:50 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
NGUYỄN THIÊN THỤ * TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN CỦA TẢN ĐÀ
Posted by vanhoa at 8:50 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
NGUYỄN THIÊN THỤ * TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN CỦA TẢN ĐÀ
I. SƠ LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Cộng sản chủ nghĩa ra đời chính thức với bản Tuyên Ngôn của đảng Cộng Sản do Karl Marx và Engels viết năm 1848.Một số trí thức Nga đã chịu ảnh hưởng của Marx nên đã lập các tổ chức Cộng sản để lật đổ Nga hoàng. Cuộc cướp chính quyền thất bại, sau Trotsky và những người khác đứng lên làm cuộc nổi dậy tháng Mười 1917. Lúc bấy giờ tại Nga có hai đảng Cộng sản, một là Menchevish do Martov lãnh đạo, và một là Bolchevish do Lenin lãnh đạo. Phe Menchevish chủ trương phải xây dựng dân chủ trước, còn Lenin chủ truơng cộng sản chuyên chính. Hai phe tranh đấu với nhau gây nên cuộc nội chiến. Lenin và Stalin dùng thủ đoạn gian ác cho nên đã diệt phe Nga hoàng và phe Menchevish mà lập chế độ cộng sản độc tài tại Nga.
Tại Trung Quốc, người đầu tiên theo chủ thuyết cộng sản là Trần Độc Tú.Trần Độc Tú du học đại học Tokyo, sau tham gia cách mạng tân hơi 1911, rồi ông dạy học ở Đại học Bắc Kinh mà Mao Trạch Đông là học trò của trường ông. Sau 1917, Trần Độc Tú chịu ảnh hưởng cách mạng Nga nên theo chủ trương cộng sản. Ông lập ra đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1921, và được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau ông chống đường lối của Stalin và đệ tam quốc tế mà ngả theo Trotsky nên năm 1925, ông bị Mao cướp quyền. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh gia nhập đệ tam quốc tế năm 1923, và năm 1930, ông theo lệnh Đệ tam quốc tế thống nhất các đảng cộng sản trong nước. Cũng trong lúc này, nhóm đệ tứ quốc tế do Tạ Thu Thâu lãnh đạo đã hoạt động tại Miền Nam từ 1928.
II. TẢN ĐÀ VÀ TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN
Tản Đà sau việc hỏng thi năm 1911, ông ở nhà đọc sách tân thư, cho nên từ lúc này ông đã đọc Marx và các sách triết học Tây phương. Có lẽ từ đây, một đệ tử Nho gia, ông đã thâu thập tư tưởng xã hội và tư tưởng cộng sản.
Thật ra tư tưởng xã hội và tư tưởng Marx vốn là một, và Nho gia và trào lưu xã hội cũng là một.
Chủ nghĩa cộng sản vốn khởi đầu bằng chủ nghĩa xã hội nhân bản. Khổng tử, Plato vốn là những triết gia nhân bản, chủ trương mọi người trong quốc gia sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, không ai nghèo khổ, bất hạnh.( NGUYỄN THIÊN - THỤ * CỘNG SẢN LUẬN)
Chủ nghĩa cộng sản vốn khởi đầu bằng chủ nghĩa xã hội nhân bản. Khổng tử, Plato vốn là những triết gia nhân bản, chủ trương mọi người trong quốc gia sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, không ai nghèo khổ, bất hạnh.( NGUYỄN THIÊN - THỤ * CỘNG SẢN LUẬN)
Nhưng Marx cho rằng mọi đường lối xã hội như thế là sai lầm, là không rốt ráo, chỉ có đường lối cướp của giết người của ông là hay nhất, thực tế nhất. Trong bản Tuyên Ngôn của đảng Cộng sản, ông kết tội tất cả những tư tưởng gia và trào lưu xã hội thời ông và trước đó. Để phân biệt phong trào xã hội với chủ trương của ông nên ông đã mạnh bạo dùng chữ "cộng sản" mặc dầu một đôi khi ông , Engels và Lenin cũng dùng từ " chủ nghĩa xã hội".
Như đã trình bày, Tản Đà cũng cho rằng chủ nghĩa cộng sản cũng là chủ nghĩa xã hội nhân bản cho nên trong bài thơ chúc Tết xuân 1927, trên An Nam tạp chí, ông có câu:
"Trọng nghĩa khinh tài lòng cộng sản."
"Trọng nghĩa khinh tài lòng cộng sản."
Tản Đà là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia và cũng là một tư tưởng gia. Tư tưởng của Tản Đà đã thể hiện trong tác phẩm Giấc Mộng Con. Tác phẩm này có hai quyển:
+Giấc Mộng Con I, 1917
+Giấc Mộng Con II, 1932.
Tác phẩm này còn liên hệ đến bài thơ Hầu trời có lẽ được sáng tác sau 1920 vì có nhắc đến Lên Sáu, Lên Tám.
Ngay trong quyển Giấc Mộng Con I (GMC I), tức là từ 1917, Tản Đà đã có tư tưởng Cộng sản. Tác phẩm này in năm 1917, nghĩa là ông viết trước 1917, và ông đã ôm ấp tư tưởng cộng sản trong lòng trước đó, có lẽ khoảng 1911-1916. Còn quyển GMC II in lần đầu 1932, nhưng trang cuối, Tản Đà ghi ngày 16 Juin 1920. Như vậy là tư tưởng Cộng sản của Tản Đà có trước khi đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921), và trước khi Hồ Chí Minh gia nhập đệ tứ quốc tế (1923).
+Giấc Mộng Con I, 1917
+Giấc Mộng Con II, 1932.
Tác phẩm này còn liên hệ đến bài thơ Hầu trời có lẽ được sáng tác sau 1920 vì có nhắc đến Lên Sáu, Lên Tám.
Ngay trong quyển Giấc Mộng Con I (GMC I), tức là từ 1917, Tản Đà đã có tư tưởng Cộng sản. Tác phẩm này in năm 1917, nghĩa là ông viết trước 1917, và ông đã ôm ấp tư tưởng cộng sản trong lòng trước đó, có lẽ khoảng 1911-1916. Còn quyển GMC II in lần đầu 1932, nhưng trang cuối, Tản Đà ghi ngày 16 Juin 1920. Như vậy là tư tưởng Cộng sản của Tản Đà có trước khi đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921), và trước khi Hồ Chí Minh gia nhập đệ tứ quốc tế (1923).
III.TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN TRONG TÁC PHẨM CỦA TẢN ĐÀ
1. CÙNG ĂN, CÙNG LÀM, BỎ TƯ HỮU
"Cõi đời mới" trong GMC I là một cảnh Đào nguyên thế ngoại, mà cũng là một công xã, công trường, một Hợp Tác xã, trong đó mọi người sống chung, ăn chung, làm chung, tài sản chung, xóa bỏ tư hữu như điều mà Plato và Thomas More đã suy nghĩ.
Việc " làm ăn hàng ngày trong một thôn thời phần khó nhọc, phần vui sướng đều nhau cả.. . . Mỗi năm, các việc mùa màng, hoa quả, than củi, săn bắn. . . . các thôn trưởng liệu xuất dân trong thôn ra làm, trai, gái, già, trẻ, hạng nào đi hạng ấy, tùy sức mà cắt việc. Lại như một đôi khi có việc công trong cù lao như làm nhà học , nhà máy, khai mỏ hay lập thêm thôn nào, các thôn trưởng đều phải xuất hết tráng đinh trong thôn dân lên tại sở Thống trưởng để ứng dịch. Kể đại lược về phần phải khó nhọc độ như thế.Còn cách ăn ở thời giản lắm: Mỗi thôn có một sở bếp và nhà ăn. Đến bữa, trừ hai vợ chồng ông thôn trưởng, còn thời suốt dân trong thôn, trai, gái, già, trẻ, đều đến tại nhà ăn, cũng hạng nào ngồi theo hạng ấy. Cho nên mỗi thôn 15 nóc, chỉ là chỗ đoàn tụ riêng của bố mẹ, vợ chồng, con cái mà không nhà nào có của riêng. (GMC I, tr.62-63)
2. BỎ MUA BÁN, BỎ TIỀN BẠC
Chế độ này chỉ có sản xuất như thời " cộng sản nguyên thủy" mà không có sự trao đổi sản phẩm bởi vì "không có sự mua bán thời không có chợ búa gì" (GMC I, 63). Do đó cũng không có tiền bạc. Tiền bạc trở thành dấu tích của quá khứ nay không còn tồn tại:" bởi có học sách thời biết rằng ở "Cõi đời cũ" có đặt ra một vật gọi là tiền dùng để mua bán. . .(GMC I, 63)
Tư tưởng này cũng giống như quan điểm kinh tế của Mao Trạch Đông cho rằng xã hội cộng sản vật chất thừa mứa, không ai cần tích trữ, tiền bạc trở thành tờ giấy lộn, và ngay cả vàng, bạc, kim cương cũng trở thành vô giá trị, chỉ để dùng lót cầu tiêu!
Tư tưởng này cũng giống như quan điểm kinh tế của Mao Trạch Đông cho rằng xã hội cộng sản vật chất thừa mứa, không ai cần tích trữ, tiền bạc trở thành tờ giấy lộn, và ngay cả vàng, bạc, kim cương cũng trở thành vô giá trị, chỉ để dùng lót cầu tiêu!
Trong GMC II, Tản Đà lại dựng lên một thế giới cộng sản khác. Thế giới cộng sản trong GMC I là một cảnh Đào Nguyên hay Bồng Lai, Phương Trượng ở Bắc Mỹ. Còn thế giới cộng sản trong GMC II là Cõi Trời, là Thiên Đường.
Ở đây toàn là người tốt cả, là chư tiên, là tinh hoa của nhân loại. Họ đã chia ra ba hạng người căn cứ vào đạo hạnh và tài năng: hạng đạo đức, hạng tiết liệt và hạng tài hoa.
Trong khi ở GMC I, con người phải lao động, còn ở GMC II, con người sống thanh nhàn tuy rằng mỗi người đều phải có một việc.
Thế giới cộng sản ở Bắc Mỹ không có chợ búa, mua bán, còn trên Thiên giới có chợ búa.Nhưng cả hai đều không dùng tiền bạc.
Chợ ở đây chính là nơi cung nhu cầu thiết yếu cho chư tiên theo như lời Karl Marx: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" (From each according to his abilities, to each according to his needs -- các tận sở năng, các thủ sở nhu):
Chợ Trời không phải là chỗ để buôn bán, mà ở nơi tiên giới có dùng chi đến tiền. Vậy thời sao? Nguyên sự thể ở Thiên đình, mỗi người một việc- cũng có phần ít người không có việc thời đối với chư tiên có phần kém giá trị - mà các vật cần dùng thời ở chỗ chợ đó là của chung cho khắp cả ai ai. Rượu ai muốn uống, tha hồ uống; hoa ai muốn lấy,tha hồ lấy; quả, ai muốn ăn, tha hồ ăn; sách, ai muốn coi, tha hồ coi. ..(GMC II, 107)
Chợ ở đây chính là nơi cung nhu cầu thiết yếu cho chư tiên theo như lời Karl Marx: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" (From each according to his abilities, to each according to his needs -- các tận sở năng, các thủ sở nhu):
Chợ Trời không phải là chỗ để buôn bán, mà ở nơi tiên giới có dùng chi đến tiền. Vậy thời sao? Nguyên sự thể ở Thiên đình, mỗi người một việc- cũng có phần ít người không có việc thời đối với chư tiên có phần kém giá trị - mà các vật cần dùng thời ở chỗ chợ đó là của chung cho khắp cả ai ai. Rượu ai muốn uống, tha hồ uống; hoa ai muốn lấy,tha hồ lấy; quả, ai muốn ăn, tha hồ ăn; sách, ai muốn coi, tha hồ coi. ..(GMC II, 107)
Thiên Đình không chia ra các bộ viện như ở trần gian mà chia theo các ngành như trong một đại học Bách Khoa hay trường trung học nào là ban Đạo đức, ban Triết học, ban Khoa học, ban Văn Chương. . . (GMC II ,113)
Tản Đà ca tụng các cảnh giới do ông lập ra và đó là niềm ao ước của ông nhằm đi tìm một xã hội lý tưởng cho loài người.
Về xã hội cộng sản ở Bắc Mỹ, ông cho rằng đây là một xã hội có đủ " tự do và độc lập", và là một xã hội hạnh phúc " không có sự thiên tai, không có sự địa biến, không có sự trộm cướp, không có sự án tù, không có sự kiện cáo, không có sự buôn danh bán lợi, không có câu thế thái nhân tình." (GMC I, 64)
Về xã hội cộng sản trên Thiên Đình, ông ca tụng một là tự do (GMC II), hai là phồn vinh no ấm
" thủ nhi bất cấm, dụng chi bất kiệt"! Thật là chí công vô tư. Nghĩ cho cái tư tưởng đại đồng ở hạ giới mà có ngày được thực hiện như thế chăng, thời thật là hạnh phúc cho nhân loại biết bao! (GMC II, 108)
Tản Đà ca tụng các cảnh giới do ông lập ra và đó là niềm ao ước của ông nhằm đi tìm một xã hội lý tưởng cho loài người.
Về xã hội cộng sản ở Bắc Mỹ, ông cho rằng đây là một xã hội có đủ " tự do và độc lập", và là một xã hội hạnh phúc " không có sự thiên tai, không có sự địa biến, không có sự trộm cướp, không có sự án tù, không có sự kiện cáo, không có sự buôn danh bán lợi, không có câu thế thái nhân tình." (GMC I, 64)
Về xã hội cộng sản trên Thiên Đình, ông ca tụng một là tự do (GMC II), hai là phồn vinh no ấm
" thủ nhi bất cấm, dụng chi bất kiệt"! Thật là chí công vô tư. Nghĩ cho cái tư tưởng đại đồng ở hạ giới mà có ngày được thực hiện như thế chăng, thời thật là hạnh phúc cho nhân loại biết bao! (GMC II, 108)
IV. NHẬN ĐỊNH VỀ TƯ TƯỞNG TẢN ĐÀ
Tư tưởng của Tản Đà là tư tưởng xã hội nhân bản như là tư tưởng của Khổng tử, Plato, Thomas More, Thiên Chúa giáo.. . Ngày nay, trong tư bản chủ nghĩa, người ta đang thực hiện đường lối xã hội nhân bản này như Đài Loan, Do Thái, Mỹ, Pháp, Canada, Úc, Thụy Điển, Thụy Sĩ. . . nghĩa là chú trọng đến đời sống dân nghèo. Họ dùng biện pháp ôn hòa để lấp hố sâu giai cấp. Nay ở các nước tư bản, nhà nước cung cấp cho dân chúng một nền giáo dục miễn phí, y tế miễn phí và một nền an sinh xã hội, trong khi cộng sản hô hào tự do, bình đẳng, thịnh vượng nhưng chỉ làm giàu cho giai cấp mới tức giai cấp tư sản đỏ, là loại có quyền thế trong đảng, còn dân nghèo bị cướp đất, đuổi nhà, phải trả học phí và viện phí rất cao.
Tản Đà phạm một số sai lầm như Thomas More và những người khác khi chủ trương sống tập thể, và bãi bỏ tư hữu. Ở trong khuôn khổ một bài báo, tôi xin chỉ trình bày một vài điểm.
(1). Chủ trương bãi bỏ tư hữu và làm ăn tập thể là một sai lầm vì:
+Tư hữu là một quyền thiêng liêng của con người.
+Không có tư hữu, con người sẽ không tích cực lao động. Nay Trung Cộng và một số nước cộng sản đã công nhận quyền tư hữu của con người.
+Làm ăn tập thể tức là cưỡng bách lao động, cả nước phải làm nô lệ cho cộng sản bóc lột, tàn bạo, phi dân chủ.
+Tài sản chung thì một là không ai cai quản, hai là dễ bị một người hay một nhóm người cướp đoạt làm tư hữu. Cộng sản coi ruộng đất là tài sản chung cho nên chúng đã cướp đất của dân, và bán tổ quốc lấy tiền bỏ túi.
+Một khi quyền bính lọt vào tay một người hay một nhóm người sẽ đi đến độc tài, tham nhũng. Stalin, Mao, Hồ đã giết hàng trăm triệu người vì chủ trương sắt máu của cộng sản.
+Tài sản quốc gia lọt vào những kẻ thiếu chuyên môn, thiếu hiểu biết lại nhiều tham vọng như kinh tế lãnh đạo của Lenin, Stalin và bước nhảy vọt của Mao đã làm hàng chục triệu người chết đói.
+Tư hữu là một quyền thiêng liêng của con người.
+Không có tư hữu, con người sẽ không tích cực lao động. Nay Trung Cộng và một số nước cộng sản đã công nhận quyền tư hữu của con người.
+Làm ăn tập thể tức là cưỡng bách lao động, cả nước phải làm nô lệ cho cộng sản bóc lột, tàn bạo, phi dân chủ.
+Tài sản chung thì một là không ai cai quản, hai là dễ bị một người hay một nhóm người cướp đoạt làm tư hữu. Cộng sản coi ruộng đất là tài sản chung cho nên chúng đã cướp đất của dân, và bán tổ quốc lấy tiền bỏ túi.
+Một khi quyền bính lọt vào tay một người hay một nhóm người sẽ đi đến độc tài, tham nhũng. Stalin, Mao, Hồ đã giết hàng trăm triệu người vì chủ trương sắt máu của cộng sản.
+Tài sản quốc gia lọt vào những kẻ thiếu chuyên môn, thiếu hiểu biết lại nhiều tham vọng như kinh tế lãnh đạo của Lenin, Stalin và bước nhảy vọt của Mao đã làm hàng chục triệu người chết đói.
(2). Mua bán và dùng tiền tệ là nguyên tắc chung trong đời sống kinh tế. Một người đánh cá muốn đổi cá lấy gạo, và một anh nông dân cũng muốn đổi gạo lấy thịt do đó mà có sự trao đổi, mua bán trong xã hội. Tiền tệ cũng như lửa, kim loại là những phát minh của nhân loại, làm cho đời sống kinh tế dễ dàng thuận lợi. Không thể quay lại kinh tế thời nguyên thủy.
Tản Đà ở vào thời cộng sản khai sinh nên người ta chưa thấy bộ mặt thật của cộng sản, và những sai lầm ghê gớm của chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, tư tưởng xã hội nhân bản của Tản Đà khác xa đường lối Marx-Lenin và Mao Trạch Đông:
1. Dân chủ và tự do
Xã hội cộng sản Bắc Mỹ là một xã hội hài hòa, gồm các sắc dân , và có việc bầu cử dân chủ trong khi cộng sản bầu cử dối trá, mang danh dân chủ mà phản dân chủ như bầu cử gian lận, quốc hội bù nhìn, quyền của tổng bí thư quá lón, không dân chủ, cha truyền con nối, dân mất tự do. . .
2. Đạo đức
Xã hội thiên đình là một xã hội đạo đức, có văn hóa ( GMC II, 100-108) trong khi cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp, coi trọng công nông, dùng những kẻ vô học thất đức theo đường lối chuyên chính vô sản.
3. Văn minh, thịnh vượng
Thế giới cộng sản tàn bạo, nghèo đói và khoa học kỹ thuật kém trong khi thế giới Bắc Mỹ và Thiên đình khoa học tiến bộ, vật chất đầy đủ (GMC I, 57-60, GMC II, 108).
Tản Đà chỉ là con người thi sĩ mơ mộng. Ông không phải là con người hành động, một kẻ khát máu, tàn ác, trong đầu óc chứa đựng bao mưu sâu độc kế như Stalin, Mao, Hồ. Ông là một nghệ sĩ, một nho gia sống theo nhân nghĩa lễ trí tín cho nên ông khác xa với bọn cộng sản quá khích và mù quáng. Là con người nhân hậu, ông thấy xã hội nhân bản là một con đường tốt đẹp. Tản Đà đã kết hợp tư tưởng Khổng tử ,Plato trong khi xây dựng một thế giới lý tưởng đại đồng cho nhân loại nhưng tư tưởng này khó lòng thực hiện vì đa số nhân dân muốn sống tự do, muốn tự quyết đinh đời sống của mình, không cần ai lãnh đạo, nhất là nhân dân rất sợ bọn sâu bọ nhảy lên làm người và cai trị thế giới bằng cái tâm độc ác, ngu xuẩn và gian dối!
____
Nguyễn Thiên Thụ
Ottawa ngày 9-8-2010
Ottawa ngày 9-8-2010
THAM KHẢO
Tản Đà. Giấc Mộng CON I, II. Hương Sơn, Hà Nội.194?
NGUYỄN THIÊN - THỤ * CỘNG SẢN LUẬN
Posted by vanhoa at 8:48 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
TRẦN HUYỀN TRÂN KHÓC TẢN ĐÀ
Tản Đà. Giấc Mộng CON I, II. Hương Sơn, Hà Nội.194?
NGUYỄN THIÊN - THỤ * CỘNG SẢN LUẬN
Posted by vanhoa at 8:48 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
TRẦN HUYỀN TRÂN KHÓC TẢN ĐÀ
Khóc Tản Đà của Trần Huyền Trân
Gìn Vàng Giữ Ngọc
Gìn Vàng Giữ Ngọc
Cũng vào tháng sáu cách đây 67 năm , 07-06-1939 . Tản Đà , một nhà thơ lớn trong Văn Học Việt Nam tiền bán thế kỷ 20 qua đời tại nhà riêng ở Ngã Tư Sở , Hà Nội , hưởng thọ 51 tuổi . Tản Đà , trong cuộc đời thất bại về mặt tình cảm , vắng bóng trần ai tri kỷ , không thỏa Giấc mộng lớn , Giấc mộng con nhưng thành công rực rỡ về mặt thi ca . Cả hai phái mới cũ đều xưng tụng tài hoa của thi nhân và đều nhận ông là người của phe mình . Hoài Thanh mở đầu tuyển tập Thơ Mới Thi Nhân Việt Nam , đã " Cung chiêu anh hồn Tản Đà " coi ông là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ .
Đặc biệt , Tàn Đà trong cuộc đời ngắn ngủi , đã dùng thơ họp bạn , dùng rượu tiếp bạn và từ Bắc vào Nam , nơi nào ông cũng có kẻ quý mến . Ông đã tự hào :
Nửa đời nam , bắc , tây , đông
Bạn bè xum họp vợ chồng biệt ly
Bạn bè xum họp vợ chồng biệt ly
Nhờ quảng giao , có phong cách trượng phu và rất phóng khoáng , cũng nhờ yêu người nên được người yêu . Khi nhà thơ qua đời , phái trẻ khóc ông , người đồng tuổi cũng khóc ông và ngoài văn giới nhiều người nhỏ lệ vì ông , đúng như ông dự đoán khi viết bài " Còn chơi " :
Trăm năm : Tớ độ thế mà thôi ,
Ức triệu nghìn năm chửa hết đời
Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ , tớ còn chơi .
Ức triệu nghìn năm chửa hết đời
Chắc có một phen đời khóc tớ
Đời chưa khóc tớ , tớ còn chơi .
Những bài thơ tiêu biểu khóc Tản Đà ngay sau khi ông qua đời gồm một bài của Nguyễn Trọng Thuật , một nhà văn lớp cũ và bài khóc Tản Đà của Trần Huyền Trân , một cây bút trẻ của thế hệ 32-45 . Bài của Trần Huyền Trân dưới đây vượt được cái khuôn sáo của loại thơ " thù tạc " nhờ tình thực và ý thực :
KHÓC TẢN ĐÀ
Đêm kia sao rụng trên trời
Cõi trần lạnh lẽo mất người bạn thơ
Nước non này mấy dư đồ
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu?
Lấy gì , trời đổi cho nhau ,
Người sương gió nhuộm mái đầu bấy nay ?
Bao lâu tỉnh tỉnh say say
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !
Chiều nay tám chín phương trời ,
Muôn ngàn người có một người đi qua .
Dở dang này những ngày xưa :
" Người non nước hẹn thế cờ nước non
Khối tình lớn , khối tình con,
Khối tình bóp bẹp vo tròn lại nguyên . "
Lòng thơ lấy rượu làm duyên
Hồn thơ xuôi ngược con thuyền " An Nam "
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .
Mai kia , mốt mốt , kia kia,
Cảnh rầu rĩ cảnh lòng tê tái lòng !
Hôm nao vút cánh chim hồng
Mình khôngh thẹn bóng , bóng không thẹn mình .
Giờ sao lủi thủi gia đình,
Rượu cay càng gửi bất bình càng cay .
Mịt mù Nam , Bắc , Đông , Tây
Đã đầy mộng lớn , đã đầy mộng con !
Còn gì là tấm lòng son !
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .
Rồi ... gió sương trả gió sương
Nét thơ xóa sổ " đoạn trường " ra đi !
Giờ đây ,kẻ ở người về ,
Thương nhau tôi biết lấy gì khóc nhau .
Lệ lòng tôi hết từ lâu ,
Gạn lòng gọi có mươi câu chân tình
Cõi trần lạnh lẽo mất người bạn thơ
Nước non này mấy dư đồ
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu?
Lấy gì , trời đổi cho nhau ,
Người sương gió nhuộm mái đầu bấy nay ?
Bao lâu tỉnh tỉnh say say
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !
Chiều nay tám chín phương trời ,
Muôn ngàn người có một người đi qua .
Dở dang này những ngày xưa :
" Người non nước hẹn thế cờ nước non
Khối tình lớn , khối tình con,
Khối tình bóp bẹp vo tròn lại nguyên . "
Lòng thơ lấy rượu làm duyên
Hồn thơ xuôi ngược con thuyền " An Nam "
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .
Mai kia , mốt mốt , kia kia,
Cảnh rầu rĩ cảnh lòng tê tái lòng !
Hôm nao vút cánh chim hồng
Mình khôngh thẹn bóng , bóng không thẹn mình .
Giờ sao lủi thủi gia đình,
Rượu cay càng gửi bất bình càng cay .
Mịt mù Nam , Bắc , Đông , Tây
Đã đầy mộng lớn , đã đầy mộng con !
Còn gì là tấm lòng son !
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .
Rồi ... gió sương trả gió sương
Nét thơ xóa sổ " đoạn trường " ra đi !
Giờ đây ,kẻ ở người về ,
Thương nhau tôi biết lấy gì khóc nhau .
Lệ lòng tôi hết từ lâu ,
Gạn lòng gọi có mươi câu chân tình
Trần Huyền Trân
(9-6-1939)
(9-6-1939)
TRần Huyền Trân tuy là nhà thơ trẻ ( sinh năm 1913 ) thuộc thế hệ đàn em của Tản Đà ( sinh năm 1889 ) nhưng có nhiều cơ hội tiếp xúc với Tản Đà nhà thơ và rượu và được Tản Đà coi như là bạn vong niên từng có phen cùng nhau đối ẩm :
Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy , vào đau lòng này !
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy , vào đau lòng này !
Trong làng thơ mới , họ Trần không có cơ hội nổi bật như Thế Lữ , Xuân Diệu và Huy Cận , vốn được các tờ Phong Hóa , Ngày Nay hổ trợ . Ông cũng không được nhiều người biết đến như Lưu Trọng Lư của Hà Nội Báo hay Hàn Mặc Tử của văn đàn Bình Định hoặc như các nhà thơ độc lập Vũ Hoàng Chương và Nguyễn Bính . Ông cũng là kẻ bất đắc chí , ra đời trong một nhà thương làm phúc , mồ côi cha từ nhỏ , làm thơ từ tuổi 20 nhưng lận đận trên đường văn bút và cơ hàn trong tuổi xuân xanh . Sợi dây cảm thông đã hình thành giữa nhà thơ trẻ " sinh bất phùng thời " và một nhà thơ " hữu tài , hữu chí " nhưng " vô mệnh " . Tản Đà trong cuối thập niên 30 , tóc đã bạc , sức khỏe mỏi mòn sau bao năm ra Bắc vào Nam muốn mang tài , mang chí của mình vì nhân loại tài bồi " thiên lương " nhưng thất bại , đành phải lui về một xóm quạnh hiu ở ngoại ô Hà thành hoa lệ và chìm đắm trong gánh nặng thê nhi . Cảnh nghèo , sự bất đắc chí , nỗi sầu đời , tính nghệ sĩ và rượu đã nối kết một già một trẻ . Khi Tản Đà qua đời , trong đám người trẻ ngoài Nguyễn Tuân ra , có lẽ chỉ có Trần Huyền Trân gần gũi và cảm thông với ông sâu sắc nhất .
Họ Trần cảm thông được tâm trạng của Tản Đà nhà yêu thơ và được nhiều phen tâm sự cùng với ông .
Tản Đà trong vai trò một nhà Nho chính thống , ý thức được trách nhiệm trước cuộc hưng vong của quốc gia , nhưng trong hoàn cảnh lịch sử , trong điều kiện cá nhân không thành công về mặt khoa cử , ông chỉ còn biết dùng văn chương để tài bối " Bức dư đồ rách " mang thuyết " thiên lương " ra dạy đời và dùng vần điệu bóng gió gợi hồn non nước . Trần Huyền Trân đã hiểu tấc lòng của nhà thơ núi Tản - sông Đà :
Nước non này mấy dư đồ
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu ?
Mà hồn non nước bây giờ tìm đâu ?
Nói đến Tản Đà , cũng như nói đến Lý Bạch của Trung Hoa , là nhắc tới thơ và rượu , chính nhà thơ đã tự hào :
Trăm năm thơ túi , rượu vò ,
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai ?
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai ?
Trần Huyền Trân nhớ Tản Đà không quên những lúc có cơ hội cùng nhà thơ cạn chén hay trong cơn mộng cùng nhà thơ uống rượu :
Bao lâu tỉnh tỉnh say say
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !
Say say tỉnh tỉnh lần này mà thôi !
Chẳng phải chỉ là một nhà Nho mạt vận , mà Tản Đà có bản chất là một nghệ sĩ đa tình , một nhà thơ giàu cảm xúc . Ông từng khiêm tốn lấy tên tác phẩm của mình là Khối tình con nhưng trong đó tình cảm lại dàn trải mênh mông và thắm đượm . Nghệ sĩ thương đời , muốn vì đời nên mới Thề Non Nước và có hoài bão vì nhân sinh mới tìm Trần ai tri kỷ cùng chung sức vì đời , nhưng kết cuộc chỉ xây được Giấc mộng lớn , Giấc mộng con . Trái tim cô đơn và bất bình đã lên tiếng và tạo thành muôn vần châu ngọc .
Trong đời thực Tản Đà đã dốc hết tâm huyết và tài chính , để ra tờ An Nam chí và thất bại nhiều lần , hết đóng cửa lại tục bản cho tới khi không còn khả năng về cả hai mặt tiền bạc và sức lực nữa mới tạm thôi .
Vì thế , khóc Tản Đà , Trần Huyền Trân không quên nhắc tới " con thuyền An Nam " mà Tản Đà đã ra công chèo chống suốt đời những chẳng tới bến bờ này :
Hồn thơ xuôi ngược con thuyền " An Nam "
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .
Não nùng chớp bể mưa ngàn
Thuyền nan hờn sóng thuyền nan trở về .
Sau khi trắng tay vì vỡ nợ và ra báo . Tản Đà trong những năm cuối của cuộc đời sống rất cơ hàn , phải dọn về Ngã Tư Sở , ngoại ô Hà Nội . Trong chén rượu vĩnh biệt viết ngay sau khi thi sĩ tạ thế , Nguyễn Tuân đã kể lại mối ưu tư của Tản Đà vì sinh kế . Trong bữa rượu cuối cùng với Tản Đà tại căn nhà số 71, Cầu Mới , Ngã Tư Sở . Nguyễn Tuân nhớ lại , Tản Đà cho biết có nhận dịch Thơ Đường cho báo Ngày Nay trong các năm 1937 và 1938 nhưng sau đó tình hình chính trị quốc nội và quốc ngoại sôi động , độc giả giảm , tờ Ngày nay gặp khó khăn vì tài chính nên việc dịch thơ Đường gặp trở ngại . Hết việc kiếm ra tiền nhờ văn chương , Tản Đà càng lúng túng vì tài chính như Nguyễn Tuân thuật lại :
" Những bạn năng lui tới thường đã rõ , ông Tản Đà vì sao rời xóm Bạch Mai chạy về vùng Ngã Tư Sở . Mở ngôi hàng xem số tử vi Hà Lạc , không có khách . Mở lớp quốc văn hàm thụ và lớp Hán văn diễn giảng , cũng lại không có học trò nốt . Rốt cuộc đến thiếu tiền nhà , chủ nhà đuổi và lấy hết đồ đạc ."
Mấy tháng sau , Tản Đà nhắm mắt từ giã cõi đời và mang theo khối bất bình xuống tuyền đài như Nguyễn Tuân chứng kiến :
" Lúc tôi vào nhà 71 Cầu Mới , lòng tôi thắt lại . Ông Tản Đà còn hấp hối và đang thở hắt ra . Cứ đều đều , cứ nhẹ như thế cho đến hơi thở cuối cùng . Hai môi mím khít lại, ông Tản Đà có nét mặt dăn dúm của một người chết khó khăn , phải chung thân là một người bất đắc chí , sống đã chẳng được toại lòng ."
Trần Huyền Trân cũng như Nguyễn Tuân đã thấm thía cảnh ngộ Tản Đà buổi cuối đời :
Còn gì là tấm lòng son !
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .
Thân tàn một kiếp , chí tàn bốn phương .
KHóc Tản Đà , Trần Huyền Trân đã viết những lời chí tình từ những cảm xúc thật . Nghệ thuật trữ tình rất cao , luôn luôn đối nghịch những hình ảnh , giữa chí cao và vận bĩ , giữa mộng giang hồ và gánh thê nhi , giữa tài tử và nợ đa cùng , để làm nổi bật bi kịch của một thiên tài . Đây không phải là một bài thơ thương vay khóc mướn mà là nỗi lòng của kẻ tri âm đồng bệnh tương liên .
Posted by vanhoa at 8:47 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
TÁC PHẨM CỦA TẢN ĐÀ
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
TÁC PHẨM CỦA TẢN ĐÀ
Tản Đà lúc trẻ
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn/Anh gánh lên đây bán chợ Trời. (Hầu Trời)
HINH ẢNH CÁC TÁC PHẨM CỦA TẢN ĐÀ
Thơ:
* Khối tình con I (1916)
* Khối tình con II (1916)
* Tản Đà xuân sắc (1918)
* Khối tình con III (1932)
* Khối tình con II (1916)
* Tản Đà xuân sắc (1918)
* Khối tình con III (1932)
Văn:
* Giấc mộng con I (1917)
* Giấc mộng con II (1932)
* Giấc mộng lớn (1932)
* Thề non nước (1922)
* Tản Đà văn tập (1932)
* Giấc mộng con II (1932)
* Giấc mộng lớn (1932)
* Thề non nước (1922)
* Tản Đà văn tập (1932)
Kịch:
* Tây Thi (1922)
* Tống biệt (1922)
* Tống biệt (1922)
Dịch thuật:
* Liêu Trai chí dị (1934)
Nghiên cứu:
* Vương Thúy Kiều chú giải (1938)
TẢN ĐÀ VẬN VĂN
Tản Đà Thư Cục xuất bản lần 1, in làm 3 quyển
-Quyển thứ nhất xuất bản năm 1939.
-Quyển thứ hai xuất bản năm 1940. Mở đầu quyển này có in bài "Thay lời tựa" của bà quả phụ Nguyễn Khắc Hiếu.
-Quyển thứ ba xuất bản năm 1941
TẢN ĐÀ VẬN VĂN
NXB Hương Sơn tái bản lần 1 năm 1945. Bản in này có thêm nhiều bài thơ mà bản in của "Tản Đà thư cục" không có. Bộ này in thành 2 quyển.
NXB Hương Sơn tái bản lần 1 năm 1945. Bản in này có thêm nhiều bài thơ mà bản in của "Tản Đà thư cục" không có. Bộ này in thành 2 quyển.
THỀ NON NƯỚC, 1922
CÒN CHƠI
TẢN ĐÀ XUÂN SẮC
ĐÀI GƯƠNG
Giáo dục phụ nữ
Hương Sơn xuất bản năm 1942
ĐÀI GƯƠNG KINH
GIẤC MỘNG CON THỨ HAI
Nhà in Châu Tịnh - Vinh xuất bản năm 1932
GIẤC MỘNG LỚN
Hương Sơn xuất bản năm 1942
VƯƠNG THÚY KIỀU CHÚ GIẢI TÂN TRUYỆN
Hương Sơn xuất bản 1952
Vương Thuý Kiều chú giải tân truyện, tân dân xuất bản 1942
Bản đồ Thúy Kiều lưu lạc
KHỐI TÌNH CON, 1932
LIÊU TRAI CHÍ DỊ
TẠP CHÍ TAO ĐÀN
số đặc biệt về Tản Đà
CHÉN RƯỢU VĨNH BIỆT - Nguyễn Khắc Xương, Nguyễn Thị Thu, Huy Giao
Sưu tầm các bài viết tưởng niệm Tản Đà. NXB Văn Hóa - Hà Nội xuất bản năm 1989
Sưu tầm các bài viết tưởng niệm Tản Đà. NXB Văn Hóa - Hà Nội xuất bản năm 1989
Posted by vanhoa at 8:47 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
HOÀNG NGỌC LIÊN * TƯỞNG NIỆM MAI LÂM
Tưởng Niệm Cụ Mai Lâm (1915 - 1995)
Một trong những mối duyên tao ngộ dành cho cuộc đời luân lạc, trôi nổi của tôi, là đã hân hạnh được gặp Mai Lâm Đoàn Văn Thăng, người đã khóc Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, lúc Thi Sĩ miền sông Đà núi Tản còn đang khỏe mạnh.
Bài thơ đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy (TTTB) hồi năm 1933, như sau:
Viếng Tản Đà
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà,
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Xa trông mây nước ngậm ngùi,
Tấm lòng thương nhớ, mấy lời viếng thăm.
Nhớ ai vấn vít tơ tằm,
Nước non bao kẻ đồng tâm hẹn hò.
Thơ đầy túi, rượu lưng bồ,
Dẫu nho kiết, cũng danh nho nước nhà.
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Xa trông mây nước ngậm ngùi,
Tấm lòng thương nhớ, mấy lời viếng thăm.
Nhớ ai vấn vít tơ tằm,
Nước non bao kẻ đồng tâm hẹn hò.
Thơ đầy túi, rượu lưng bồ,
Dẫu nho kiết, cũng danh nho nước nhà.
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà,
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Bác với tôị.. Bác với tôi,
Tuy không quen biết, cũng người đồng bang.
Lại thêm cùng mối văn chương,
Chung tình non nước, tơ vương bên lòng.
Bấy lâu tôi những ước mong,
Có phen dun dủi tương phùng hai ta.
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Bác với tôị.. Bác với tôi,
Tuy không quen biết, cũng người đồng bang.
Lại thêm cùng mối văn chương,
Chung tình non nước, tơ vương bên lòng.
Bấy lâu tôi những ước mong,
Có phen dun dủi tương phùng hai ta.
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà,
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Làm chi vội mấy, bác ơi!
Chí cao, nghiệp cả, ai người nối theo?
Thuyền nan ai giữ mái chèo?
Con tàu bản quốc ai liều sóng khơi?
Bức dư đồ rách, ai bồi?
Báo An Nam nghỉ, ai rồi lại ra?
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Làm chi vội mấy, bác ơi!
Chí cao, nghiệp cả, ai người nối theo?
Thuyền nan ai giữ mái chèo?
Con tàu bản quốc ai liều sóng khơi?
Bức dư đồ rách, ai bồi?
Báo An Nam nghỉ, ai rồi lại ra?
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà,
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Than ôi! Còn đất, còn trời,
Còn non, còn nước, đâu người nước non?
Đà dù cạn, Tản dù mòn,
Danh thơm thi sĩ vẫn còn truyền lâu.
Hồn thơ phảng phất nơi đâu?
Chút tình có thấu cho nhau chăng là.
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Than ôi! Còn đất, còn trời,
Còn non, còn nước, đâu người nước non?
Đà dù cạn, Tản dù mòn,
Danh thơm thi sĩ vẫn còn truyền lâu.
Hồn thơ phảng phất nơi đâu?
Chút tình có thấu cho nhau chăng là.
Ôi thôi! hỡi bác Tản Đà,
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời!
Mai Lâm Đoàn Văn Thăng
(Hoàng Mai, Hè 1933)
(Hoàng Mai, Hè 1933)
Khóc lầm, vì 6 năm sau, cu. Tản Đà mới đem thơ lên bán chơ. Trời, nên Cũng trên TTTB, sau đó đăng bài “Cười Ông Mai Lâm” của Tản Đà:
Nực cười cho bác Mai Lâm,
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Suối vàng ai đã vội đâu?
Mà cho ai nhớ ai sầu, hỡi ai!
Tóc tơ vương vít còn dài,
Con tằm còn trả nợ đời chưa xong.
Lửa hương còn chất bên lòng,
Nho tàn còn vẫn trong vòng trăm năm.
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Suối vàng ai đã vội đâu?
Mà cho ai nhớ ai sầu, hỡi ai!
Tóc tơ vương vít còn dài,
Con tằm còn trả nợ đời chưa xong.
Lửa hương còn chất bên lòng,
Nho tàn còn vẫn trong vòng trăm năm.
Nực cười cho bác Mai Lâm,
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Đôi ta đồng quốc, đồng châu,
Lại trong thanh khí tương cầu tương thân.
Gặp nhau rồi cũng có lần,
Cùng nhau còn ở cõi trần trăm năm.
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Đôi ta đồng quốc, đồng châu,
Lại trong thanh khí tương cầu tương thân.
Gặp nhau rồi cũng có lần,
Cùng nhau còn ở cõi trần trăm năm.
Nực cười cho bác Mai Lâm,
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Cõi đời đã lánh xa đâu?
Mà cho ai tiếc, ai sầu, hỡi ai?
Bức dư đồ rách chưa bồi,
Báo An Nam nghỉ, biết đời nào ra?
Hủ nho vô ích nước nhà,
Rượu thơ còn vẫn la cà trăm năm.
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Cõi đời đã lánh xa đâu?
Mà cho ai tiếc, ai sầu, hỡi ai?
Bức dư đồ rách chưa bồi,
Báo An Nam nghỉ, biết đời nào ra?
Hủ nho vô ích nước nhà,
Rượu thơ còn vẫn la cà trăm năm.
Nực cười cho bác Mai Lâm,
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Hồn thơ đã mất đi đâu,
Mà cho ai khóc, ai sầu hỡi ai?
Dưới trên còn đất, còn trời,
Còn non, còn nước, còn người nước non.
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn,
Còn ai Thi sĩ, lại còn Tri âm.
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Hồn thơ đã mất đi đâu,
Mà cho ai khóc, ai sầu hỡi ai?
Dưới trên còn đất, còn trời,
Còn non, còn nước, còn người nước non.
Đà chưa cạn, Tản chưa mòn,
Còn ai Thi sĩ, lại còn Tri âm.
Nực cười cho bác Mai Lâm,
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Thương nhau chi mấy mà lầm khóc nhau?
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Đầu thập niên 50, trong những năm vừa chạy loạn, vừa học thêm ở một tỉnh nhỏ miền châu thổ sông Hồng Hà, tôi có xin được một chân dạy học tại xã Liên Thủy, quận Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Trong số học sinh lớp Nhì, niên khóa 1951-1952, có một cô bé xinh xắn tên là Đoàn Ngọc Kiều Nga. Ít năm sau, khi đã di cư vô Nam, một bữa tình cờ cô bé gặp lại ông thầy cũ ở sân nhà Thờ đường Tôn Đản và mời về nhà chơi. Sở dĩ tôi vui vẻ nhận lời, là vì cô học trò này nói rằng: “ Thầy con nghe con kể lại chuyện đi học ngoài Bắc, đã nhiều lần bảo con tìm địa chỉ thầy để đến thăm, và rất mong được gặp thầy. Nhà con cũng gần đây, xin mời thầy quá bộ đến chơi, nhưng...” Câu nói ngập ngừng, chưa dứt đọan của Kiều Nga làm tôi chú ý. Được tôi hỏi nhưng làm sao, cô bé mới mạnh dạn nói tiếp:
-Ai đến nhà con, trước khi ra về cũng phải họa xong một bài thơ Đường...”
Lúc đó tôi mới 26 tuổi, còn hăng, nên... thử thời vận coi sao, nhân tiện đáp lễ lời hỏi thăm của ... cựu phụ huynh học sinh, bèn lái xe chơ? Kiều Nga về nhà, trên đường Tôn Thất Thuyết, Khánh Hội.
Ngay từ lúc sơ kiến, tôi được biết ông già của Đoàn Ngọc Kiều Nga chính là Mai Lâm Đoàn Văn Thăng, người từng khóc... trật Tản Đà Tiên Sinh trước kia!
Ngày 17 tháng 6 năm 1939, trước Tết Đoan Ngọ năm Ky? Mão 4 ngày, Tản Đà tiên sinh gánh thơ lên bán Chơ. Trời.
Hàng loạt câu đối viếng được gửi tới Ngã Tư Sơ? Hà Nội, nơi Tiên Sinh thất lộc. Tôi chỉ nhớ được hai câu của quý cu. Đồng Sơn và Nguyễn Văn Luận - đều ơ? Nam Định - chánh quán của tôi, do gia phụ ghi lại:
- Nặng “Khối tình con, tài tử giai nhân trời khéo cợt;
- Còn “Thề Non Nước”, văn chương sự nghiệp đất khôn vùi!
(Đồng Sơn, Nam Định)
- Côi Vị ngày nào, chếnh choáng giang sơn ba chén rượu;
- Hà Đồ số hẳn, rỡ ràng sự nghiệp mấy vần thơ.
(Nguyễn Văn Luận, giáo học Nam Định)
Từ năm Tản Đà Tiên Sinh cỡi hạc về trời, cho đến khi tôi được hân hạnh diện kiến cu. Mai Lâm, là 17 năm, nhưng trông Đoàn Tiên Sinh rất tráng kiện lắm. Như vậy, lúc làm thơ xướng họa với nhà thơ sông Đà, núi Tản, ông còn rất trẻ.
Thật là một dịp may, vì nhân cơ hội này, tôi mới biết là cu. Mai Lâm đã gửi đôi câu đối khóc Tản Đà, khi Nguyễn Tiên Sinh thực sự trăm tuổi.
Đây là một đôi câu đối Nôm:
- Bác thật “về” ư? Tiệc Rượu Thần Tiên mong đãi khách;
- Tôi còn ở mãi! Tình Thơ Non Nước vẫn lưu người!
Mai Lâm dùng chữ “thật” chỗ này, thật đắc địa, vì ông đã từng khóc Tản Đà lúc Nguyễn Tiên Sinh chưa về... thật.
Ông cười nói với tôi:
- Thầy giáo đừng khen câu đối nôm của tôi là hay. Hai câu dịch ra chữ Hán của điêu khắc gia Đới Ngạn Quân còn hay hơn nguyên tác nhiều lắm!
Mắt tôi sáng ra:
- Tiên sinh cho nghe đi!
Mai Lâm cầm phấn trắng, viết trên bảng đen, 2 dòng chữ Hán:
- Công quả quy hồ? Tửu Tịch Thần Tiên phương đãi khách!
- Ngã do tại dã! Thi Tình Sơn Thủy vĩnh lưu nhân!
Mãi đến năm 1992, trước khi xuất ngoại, tôi mới tìm được địa chỉ cu. Mai Lâm để đến thăm tiên sinh một lần, có thể là lần chót. Cụ đã già lắm - gần 40 năm rối còn gì -, lại không còn nghe được nữa!
Đoàn Ngọc Kiều Nga, cô học trò nhỏ bé của tôi năm nào, lúc đó đã là bà xã của người bạn thơ văn của tôi: Anh Trần Thúc Vũ, có 3 cháu đã lớn.
Rất may là hôm đó, Kiều Nga cũng đến thăm ông già. Cô “bé” mở cửa, rất ngỡ ngàng, mãi mới nhận ra tôi, vì lúc đó - cũng như bây giờ, hẳn vậy - tôi vừa già, vừa quá xấu, Kiều Nga nhất thời chưa nhận ra ngay.
Cu. Mai Lâm dĩ nghiên cũng không nhận ra tôi. Tôi cầm tay cụ, nghẹn nào:
- Đoàn tiên sinh, tôi đến vấn an tiên sinh đây!
Kiều Nga buồn rầu nói với tôi:
- Hai tai thầy con điếc nặng rồi, không còn nghe được nữa!
Vừa nói, Kiều Nga vừ trao cho tôi cuốn sổ và cây viết vẫn để săAn trên bàn. Cu. Mai Lâm vừa đọc tên tôi là cụ ôm chặt lấy tôi:
- Bác Hoàng! Thầy giáo! Không ngờ còn được gặp lại bác.
Trong buổi sơ kiến năm 1956, cụ đã nói với tôi:
- Chúng ta là những người làm thơ, không cần câu nệ về tuổi tác. Cứ xưng hô bác, tôi với nhau cho thân mật.
Từ đó, cụ luôn gọi tôi là bác Hoàng. Còn tôi, vì trọng cụ là bậc trên, nên vẫn kêu cụ la Đoàn tiên sinh.
Hôm ấy, trong căn nhà của cu. Mai Lâm, cạnh Nhà Thờ của xứ Đạo Hoàng Mai, Gò Vấp - Tôi “bút đàm” với cụ suốt một buổi chiều, khi nhìn ra ngoài thấy trời đã tối, mới đứng lên từ giã cụ. Cụ và con gái tiễn tôi ra phía ngoài. Cụ nắm tay tôi:
- Bác đi bình an, mạnh giỏi! Trước khi lên đường, nhớ ghé thăm cu. Vi Huyền Đắc ở căn nhà cũ tại Ngã Năm Bình Hòa!
Cu. Mai Lâm chưa được biết là cu. Vi đã thất lộc. Nhưng tôi chỉ gật đầu và quay lại nói với Kiều Nga điều này để thưa lại với cụ. Tôi cúi đầu chào cụ, người đã dành cho tôi vinh dự được là bạn vong niên với nhiều hảo cảm.
Mồng 1 tháng 5 âm lịch là ngày giỗ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, tôi là kẻ hậu sinh chẳng có tên tuổi gì đáng kể trong làng thơ, hàng năm vẫn nhớ ngày giỗ cụ. Bởi tôi vẫn nhớ những câu đối kính viếng Cụ, khi Cụ trăm tuổi, trong đó có câu đối của cu. Mai Lâm Đoàn Văn Thăng.
Sau đó, nhiều lần gửi thư về xứ đạo Hoàng Mai, Gò Vấp,để vấn an Cụ nhưng không được hồi âm.
Mãi đến ngày 27 tháng 3 năm 1998, tôi mới tìm được số điên thoại của xứ đạo Hoàng Mai, Gò Vấp để hỏi thăm và được tin cu. Mai Lâm Đoàn Văn Thăng đã thất lộc năm 1995, trong căn nhà mà tôi đã đến thăm.
Cụ để lại những tác phẩm: “Bảy Thánh Vịnh Thống Hối”, “Ngôi Sao Lạ”, “Duyên Thơ” và tập thơ dịch “Sấm Truyền” .
Posted by vanhoa at 8:09 PM No comments:
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0149
No comments:
Post a Comment