THƠ NGHIÊU MINH
*
Điệp Khúc Giao Mùa
Tháng mấy giao mùa hoa tường vi nở
Em từ đồi cỏ bước xuống vườn trăng
Mùa lúa đòng đòng con đường phượng nở
Tôi đưa em về lối mận trăm năm
Tôi đưa em về nữa phần thế kỷ
Từ đêm trăng đầu mình mới quen nhau
Còn nữa phần sau đường tình trân quí
Hai đứa ra biển gầy mộng kiếp sau
Rồi người đi đâu hoa cũng đi theo
Như cả rừng thu rực dốc đèo
Trên lối cầu ngang về núi thấp
Em áo lụa bay hoa rụng theo!
Người đi đầu hoa cũng đi theo
Dù mưa có ướt tóc thật nhiều
Dù em có khóc như mưa khóc
Trăng sẽ dỗ dành em cũng xiêu!
Tôi thấy được không phải mùa xuân
Mà trong thức trắng hạnh phúc gần
Tửng điều tôi nói, em cũng nói
Cố giữ gìn nhau trọn kiếp trần
Nghiêu Minh*
Điệp Khúc Giao Mùa
Em từ đồi cỏ bước xuống vườn trăng
Mùa lúa đòng đòng con đường phượng nở
Tôi đưa em về lối mận trăm năm
Tôi đưa em về nữa phần thế kỷ
Từ đêm trăng đầu mình mới quen nhau
Còn nữa phần sau đường tình trân quíHai đứa ra biển gầy mộng kiếp sau
Rồi người đi đâu hoa cũng đi theo
Như cả rừng thu rực dốc đèo
Trên lối cầu ngang về núi thấp
Em áo lụa bay hoa rụng theo!
Người đi đầu hoa cũng đi theo
Dù mưa có ướt tóc thật nhiều
Dù em có khóc như mưa khóc
Trăng sẽ dỗ dành em cũng xiêu!
Tôi thấy được không phải mùa xuân
Mà trong thức trắng hạnh phúc gần
Tửng điều tôi nói, em cũng nói
Cố giữ gìn nhau trọn kiếp trần
Nghiêu Minh*
DANIEL BLUMRENTHAL * MỸ ĐƯƠNG ĐẦU VỚI TRUNG QUỐC
Hoa Kỳ dũng cảm đương đầu với sự bắt nạt của Trung Quốc Tác giả: Daniel Blumenthal
Bà
Hillary Clinton đã làm náo nhiệt hồi tuần trước khi bà nói rằng một
giải pháp hòa bình cho việc tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông là “lợi ích quốc gia” của Mỹ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên án lời bình luận đó là sự can thiệp tùy tiện của Mỹ và cố gắng để “quốc tế hóa”
một vấn đề nghiêm trọng trong khu vực. Bất chấp sự phản đối của Bắc
Kinh, sự khéo léo của bà Clinton đánh dấu một bước tiến triển tích cực
của chính phủ Obama về phương pháp tiếp cận châu Á.
Vấn đề đang
tranh cãi là Bắc Kinh đòi phần lớn lãnh thổ trên Biển Đông. Trung
Quốc hành động như người ta đoán trước về một cường quốc đang lên: khi
phát triển mạnh hơn, họ mong muốn thay đổi các quy tắc quốc tế đã
được viết lúc họ còn yếu.
Tuy nhiên, các chuyên gia chính sách
đối ngoại đã dành nhiều thời gian để bảo đảm với người châu Á và người
Mỹ rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ là một ngoại lệ, ít hỗn loạn
hơn sự trỗi dậy của Hoa Kỳ, Đức hay Nhật Bản. Quan điểm đó cổ vũ cho
chính sách “bảo đảm chiến lược” ác liệt của Tổng thống Obama trong năm
đầu nhiệm kỳ của ông, trong đó Washington bảo đảm với Bắc Kinh rằng
Mỹ sẽ không tranh giành tình trạng trỗi dậy trở thành cường quốc của
Trung Quốc. Trung Quốc ngửi mùi yếu kém [của Mỹ] và đứng dậy đánh
cược, tuyên bố Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” và xác định nó là lãnh hải của Trung Quốc.
Bây
giờ là ý kiến của bà Clinton và hành động của Bộ trưởng Quốc phòng
Robert Gates để khôi phục lại các mối quan hệ quân sự với Indonesia
trong chuyến đi châu Á hồi tuần trước, cho thấy rõ rằng đội ngũ Obama
hiểu sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải là ngoại lệ trong lịch sử.
Thương hiệu mới của họ về chủ nghĩa hiện thực nguyên tắc đặc trưng do
các biện pháp nhằm cân bằng quyền lực ngày càng gia tăng của Trung Quốc
và đẩy mạnh tham gia với các đồng minh và đối tác, [tham gia] tất cả
nhưng không bỏ mặc các giá trị của Mỹ.
Cụ thể trên Biển Đông,
Hoa Kỳ muốn tự do đi lại, tự do đi vào các vùng biển chung, và tôn
trọng luật pháp quốc tế. Tuần trước tại Hà Nội, bà Clinton đề nghị để
giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua phương tiện đa phương thay vì
song phương. Trong khi đó, bà thể hiện trong cuộc họp với Hiệp hội
các nước Đông Nam Á (ASEAN), Mỹ sẽ nắm lấy các đối tác, những nước
cùng chia sẻ mục đích trong việc kiểm tra sức mạnh của Trung Quốc,
nhưng cũng sẽ không tránh xa khi bị chỉ trích vi phạm nhân quyền. Ví
dụ, bà Clinton đã nói rõ rằng Hoa Kỳ sẽ chỉ trích sự tàn bạo của chế
độ Miến Điện, mặc dù một số nước thành viên Asean ngần ngại trong việc
chỉ trích.
Có hai lý do tại sao một giải pháp đa phương cho vấn
đề Biển Đông làm Bắc Kinh khó chịu. Lý do thứ nhất, việc sách nhiễu
định kỳ các tàu hải quân Mỹ và mở rộng việc đòi chủ quyền hàng hải
chứng minh rằng Trung Quốc không tôn trọng các tiêu chuẩn ứng xử trên
biển đã được chấp nhận rộng rãi. Trung Quốc giữ quan điểm toàn bộ Biển
Ðông là lãnh hải của họ, là tin mới đối với Philippines, Malaysia,
Việt Nam và Đài Loan, những nước đều đòi chủ quyền lãnh thổ ở đó.
Trung Quốc cũng đang cố gắng để ngăn chặn các hoạt động quân sự hợp
pháp của Hoa Kỳ trên biển.
Thứ hai, Trung Quốc cố giữ cho tranh
chấp với các nước Đông Nam Á song phương. [Bởi vì sẽ] dễ dàng hơn để
bắt nạt và phớt lờ những nước đòi chủ quyền khác đối với các đảo san
hô vòng, đường hàng hải và các nguồn tài nguyên thiên nhiên với từng
nước một. Chỉ riêng hai lý do trên, Việt Nam, Malaysia, Philippines và
Đài Loan không thể đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình một cách hiệu
quả. Các nước nói trên cùng với nhau, cộng thêm sự hậu thuẫn của Mỹ,
thì họ có thể.
Đó là lý do tại sao bà Clinton được chào đón,
điều đáng lẽ đã xảy ra từ lâu. Nhiệm vụ của Hoa Kỳ là bảo vệ các
nguyên tắc ứng xử đã được thiết lập và mong Trung Quốc tuân theo. Hơn
nữa, Washington đang chấm dứt chiến lược chia để trị của Trung Quốc ở
Đông Nam Á.
Bắc Kinh có khả năng thực hiện đòi chủ quyền lãnh
thổ không hợp lý và bành trướng, và họ đã bắt đầu làm điều đó ở bên
ngoài và bên trong Biển Hoa Đông. Không có chỗ cho sự mơ hồ khi nói
đến lợi ích của Mỹ trong việc tự do đi lại trên vùng biển quốc tế.
Trong
khi đó, sự nối kết của bà Clinton về an ninh Đông Nam Á với các giá
trị tự do rất là chính đáng. Các nước Đông Nam Á muốn Trung Quốc tuân
theo các quy tắc quốc tế và minh bạch hơn về các hoạt động trên biển.
Điều đó sẽ chỉ xảy ra nếu Trung Quốc trở thành một xã hội tôn trọng
pháp luật và cởi mở hơn. Và Mỹ không thể kêu gọi Trung Quốc cư xử có
trách nhiệm trong khi cho phép Miến Điện tàn bạo hoặc để cho Việt Nam
lạm dụng [quyền lực] mà không nói tới.
Không có điều nào nói
rằng bà Clinton đã thật sự giải quyết vấn đề. Trung Quốc sẽ gây áp lực
rất lớn lên các nước Asean để tôn trọng việc đòi chủ quyền của Trung
Quốc. Bắc Kinh sẽ lập luận rằng trong khi Trung Quốc thường trực ở
châu Á, sự chú ý của Mỹ chỉ là nhất thời. Đây là một luận cứ thuyết
phục, nhưng là điều có thể bị bác bỏ.
Trình tự đầu tiên là đặt
quân đội Mỹ đằng sau các nỗ lực ngoại giao. Lầu Năm Góc nên đưa ra một
kế hoạch cân bằng tương xứng với việc gia tăng sự hiện diện quân sự
của Trung Quốc trong khu vực. Mọi người đều biết quân đội Mỹ suy yếu ở
Thái Bình Dương. Đã đến lúc nói thật và tìm kiếm được hỗ trợ từ Quốc
hội và công chúng Mỹ về phí tổn và sự cần thiết trong việc bảo đảm sự
ổn định ở châu Á.
Thứ hai, Hoa Kỳ nên tiếp cận khu vực một cách
đa phương bằng cách lập một sứ quán quan hệ đối tác khu vực châu Á ở
một thủ đô liên minh giống như chúng ta có ở Brussels với Liên minh
châu Âu. Washington nên yêu cầu bạn bè của mình để làm như vậy và lập
các tổ chức ngoại giao mới với cán bộ ngoại giao và sĩ quan quân đội để
đối phó với các vấn đề an ninh châu Á rộng lớn. Mỹ không cần phải
thành lập tập hợp chính thức các đồng minh quốc phòng giống như liên
minh NATO, nhưng đã đến lúc xây dựng mạng lưới các đồng minh hợp tác
chặt chẽ ở châu Á.
Bà Clinton cho thấy sự giao thiệp ngoại giao
khéo léo và sáng tạo trong chuyến thăm Việt Nam. Washington nên tiếp
tục cái đà này bằng các bước thể hiện sự cam kết tôn trọng của mình đối
với an ninh khu vực. Phản ứng hiếu chiến của Trung Quốc đối với chính
sách “bảo đảm chiến lược” dạy cho chính phủ rằng Bắc Kinh
tôn trọng quyền lực trên hết. Thay vì trấn an Trung Quốc hiếu chiến,
chúng ta nên trấn an những người bạn châu Á của chúng ta bằng cách xây
dựng các thể chế cần thiết để thực hiện các chính sách mới của bà
Ngoại trưởng.
Ông Blumenthal đã làm việc
trong Cơ quan An ninh Quốc tế của Bộ Quốc phòng từ năm 2002-2004, là
thành viên thường trực tại American Enterprise Institute, Washington,
DC.
Ngoc Thu dich
PHẬT GIÁO VNTN *LỄ ĐẠI TƯỜNG CỐ TĂNG THỐNG HUYỀN QUANG
*
Hàng
trăm chư Tôn đức giáo phẩm thuộc Hội đồng Lưỡng Viện, Ban Đại diện các
tỉnh thành, Huynh trưởng GĐPT và Phật tử tháp tùng Đại lão Hòa thượng
Thích Quảng Độ ra Bình Định tham dự lễ Đại tường Đức cố Tăng thống
Thích Huyền Quang – Văn phòng II Viện Hóa Đạo tổ chức lễ Đại tường tại
chùa Bảo Phước, thành phố San Jose, Hoa Kỳ
2010-07-16 | | PTTPGQT
PARIS,
ngày 16.7.2010 (PTTPGQT) - Đúng vào ngày mồng 3 tháng 6 âm lịch, tức
14.7.2010, lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã
được cử hành trọng thể tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, tức
ngày húy nhật hai năm Ngài viên tịch.
Hàng trăm chư Tôn đức giáo phẩm thuộc Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng
Thống và Viện Hóa Đạo), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ban Đại
diện các tỉnh thành, Huynh trưởng đại diện Gia Đình Phật tử, và Phật tử
đã tháp tùng Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vân tập về Tu viện
Nguyên Thiều tham dự lễ Đại tường cùng khánh thành ngôi Bảo Tháp Đức cố
Tăng Thống vừa xây xong.
Ngoại trừ một số địa phương gặp khó khăn, ngăn trở không về được, nhưng
các tỉnh Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Trị và Saigon
đều có mặt đông đủ.
Qua một bức thư hai trang viết ngày 9.7.2010, số tham chiếu 95/CV-UBND,
bà Trịnh Thị Loan, Chủ tịch UBND quân Phú Nhuận, hồi đáp văn thư Đại
lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông báo
lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang cùng chuyến đi của
Ngài ra Bình Định (xem Thông cáo báo chí ngày 28.6.2010 trên Trang nhà
Quê Mẹ). Bà Loan viết rằng “việc ông cho rằng thời gian qua mất quyền
tự do đi lại, không được phép tiếp xúc với phật tử, người nước ngoài
đến thăm ông cũng bị sách nhiễu đánh đập… là hoàn toàn bịa đặt, vu
khống” (sic).
Riêng việc thông báo ngày giờ chuyến đi của Đại lão Hòa thượng Thích
Quảng Độ cùng chư Tôn đức Hội đồng Lưỡng Viện ra Bình Định, bà Loan đáp
rằng : “Việc ông đi Bình Định dự lễ giỗ Hòa thượng Thích Huyền Quang
là việc bình thường. Tuy nhiên, nếu ông có hành vi lợi dụng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do dân chủ để hoạt động vi phạm pháp
luật, thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật”.
Công luận thế giới cùng tâm tư người Phật tử Việt Nam trong và ngoài
nước suốt 35 năm qua là một minh chứng cho thấy Đức cố Đệ tam Tăng Thống
Thích Đôn Hậu, rồi Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão
Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo
Thích Quảng Độ cùng chư tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất chẳng làm gì khác hơn việc sử dụng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, quyền tự do dân chủ được bảo đảm trong “Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị” mà Nhà nước cộng sản Việt Nam tham gia
ký kết tại LHQ năm 1982.
Thế nhưng hàng lãnh đạo Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất vẫn không thoát khỏi nạn thảm sát, như trường
hợp cố Hòa thượng Thích Thiện Minh tháng 10.1078, thảm nạn tù tội, lưu
đày và quản chế hàng chục năm ròng - như trường hợp điển hình của Đức
cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ !
2010-07-16 | | PTTPGQT
PARIS, ngày 16.7.2010 (PTTPGQT) - Đúng vào ngày mồng 3 tháng 6 âm lịch, tức 14.7.2010, lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang đã được cử hành trọng thể tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định, tức ngày húy nhật hai năm Ngài viên tịch.
Hàng trăm chư Tôn đức giáo phẩm thuộc Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo), Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ban Đại diện các tỉnh thành, Huynh trưởng đại diện Gia Đình Phật tử, và Phật tử đã tháp tùng Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vân tập về Tu viện Nguyên Thiều tham dự lễ Đại tường cùng khánh thành ngôi Bảo Tháp Đức cố Tăng Thống vừa xây xong.
Ngoại trừ một số địa phương gặp khó khăn, ngăn trở không về được, nhưng các tỉnh Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Trị và Saigon đều có mặt đông đủ.
Qua một bức thư hai trang viết ngày 9.7.2010, số tham chiếu 95/CV-UBND, bà Trịnh Thị Loan, Chủ tịch UBND quân Phú Nhuận, hồi đáp văn thư Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thông báo lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang cùng chuyến đi của Ngài ra Bình Định (xem Thông cáo báo chí ngày 28.6.2010 trên Trang nhà Quê Mẹ). Bà Loan viết rằng “việc ông cho rằng thời gian qua mất quyền tự do đi lại, không được phép tiếp xúc với phật tử, người nước ngoài đến thăm ông cũng bị sách nhiễu đánh đập… là hoàn toàn bịa đặt, vu khống” (sic).
Riêng việc thông báo ngày giờ chuyến đi của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cùng chư Tôn đức Hội đồng Lưỡng Viện ra Bình Định, bà Loan đáp rằng : “Việc ông đi Bình Định dự lễ giỗ Hòa thượng Thích Huyền Quang là việc bình thường. Tuy nhiên, nếu ông có hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do dân chủ để hoạt động vi phạm pháp luật, thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật”.
Công luận thế giới cùng tâm tư người Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước suốt 35 năm qua là một minh chứng cho thấy Đức cố Đệ tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, rồi Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ cùng chư tôn giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất chẳng làm gì khác hơn việc sử dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do dân chủ được bảo đảm trong “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà Nhà nước cộng sản Việt Nam tham gia ký kết tại LHQ năm 1982.
Thế nhưng hàng lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất vẫn không thoát khỏi nạn thảm sát, như trường hợp cố Hòa thượng Thích Thiện Minh tháng 10.1078, thảm nạn tù tội, lưu đày và quản chế hàng chục năm ròng - như trường hợp điển hình của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ !
Bình phong bia trước Bảo Tháp Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang
Bảo Tháp Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang trong khuôn viên Tu viện Nguyền Thiều
Từ trái qua phải hàng đầu, HT Thích Thiện Hạnh, HT Thích Quảng Độ, HT Thích Như Đạt dâng hương trước Giác linh Đức cố Tăng thống
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ dâng hương trước Bảo tháp Đức cố Tăng thống
Chư Tăng nhiễu quanh Bảo Tháp
Chư Tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện tiến về Chánh điện Tu viện Nguyên Thiều làm lễ Đại tường
Chư Tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện trên đường ra Bảo tháp Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang
Trong
bức thư hồi đáp dẫn thượng, bà Chủ tịch Trịnh Thị Loan, vẫn tiếp tục
luận điệu xưa sao nay vậy của nhà cầm quyền Hà Nội để giải thích hàng
chục năm tù đày, quản chế của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ là “tội
phá hoại chính sách đoàn kết” và “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội”. Hệt như án kết cho tất
cả các nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền và dân chủ trước Tòa án CHXHCNVN
mấy chục năm qua.
Nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước văn minh trong thế giới tự
hỏi mãi vẫn không có lời đáp : Trong một đất nước vắng bong tình “đoàn
kết” dân tộc, và các “quyền tự do dân chủ” như tại CHXHCNVN ngày nay,
thì Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ lấy đâu các thứ quốc cấm ấy để
“lợi dụng” ?!
Ở hải
ngoại, Văn phòng II Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất, sẽ tổ chức lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang
trong hai ngày thứ bảy và chủ nhật 17, 18.7.2010 cuối tuần này tại :
Chùa Bảo Phước
270 Senter Road
Thành phố San Jose, miền Bắc bang California 95111
Hoa Kỳ - Điện thoại (408) 365-1228
Chương trình lễ Đại tường được thông báo như sau :
Thứ Bảy ngày 17 tháng 7 năm 2010
10:00AM : Thuyết pháp (Đại lão Hoà Thượng Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác)
12:00AM : Thọ Trai
Bình phong bia trước Bảo Tháp Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang
Bảo Tháp Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang trong khuôn viên Tu viện Nguyền Thiều
Từ trái qua phải hàng đầu, HT Thích Thiện Hạnh, HT Thích Quảng Độ, HT Thích Như Đạt dâng hương trước Giác linh Đức cố Tăng thống
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ dâng hương trước Bảo tháp Đức cố Tăng thống
Chư Tăng nhiễu quanh Bảo Tháp
Chư Tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện tiến về Chánh điện Tu viện Nguyên Thiều làm lễ Đại tường
Chư Tôn Giáo phẩm Hội đồng Lưỡng Viện trên đường ra Bảo tháp Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang
PHẬT GIÁO VNTN *LỄ ĐẠI TƯỜNG CỐ TĂNG THỐNG HUYỀN QUANG
PHẬT GIÁO VNTN *LỄ ĐẠI TƯỜNG HÒA THƯỢNG HUYỀN QUANG
Văn
phòng II Viện Hóa Đạo tổ chức trọng thể Lễ Đại tường Đức cố Tăng
thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước, Miền Huyền Quang, ở thành
phố San Jose, Hoa Kỳ
PARIS,
ngày 31.7.2010 (PTTPGQT) - Để giúp cho sự phát triển Phật sự Miền
Huyền Quang vùng Bắc California, Hoa Kỳ, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có trụ sở ở Chùa Điều Ngự,
miền Nam California, đã lấy quyết định tổ chức Lễ Đại Tường của
Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước ở
thành phố San Jose trong hai ngày 17 và 18.7.2010.
Trên hai
nghìn chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử đã vân tập về Chùa Bảo Phước
dự lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang.
Linh đài Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang
Chùa
Bảo Pháp mà chúng tôi đến thăm hai năm trước không còn là chủa Bảo
Pháp hôm nay. Từ một ngôi chùa nhỏ bé, chật hẹp, nay đã tậu thêm
vạc đất rộng cạnh chùa, nơi dựng lên một hội trường có thể chứa
hàng nghìn người tham dự. Lễ đài chưng ảnh lớn Đức cố Tăng thống,
hương hoa, trầm, đèn trang nghiêm với biểu từ : “Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang : Một Đời Vì Đạo Vì Dân”.
Từ xa phấp phới hàng trăm lá cờ ngũ sắc Phật giáo và cờ vàng ba
sọc đỏ, với tiếng nhạc êm đềm đầy tình tự quê hương. Gặp Thượng tọa
trụ trì Thích Viên Dung, Đạo hữu Võ Văn Ái từ Paris qua tham dự đã
nói lên lời tán dương công đức Thượng tọa rằng : Thật là Chân
không sinh Diệu hữu !
Chư Tôn đức lãnh đạo Văn phòng II Viện
Hóa Đạo đã từ khắp nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ vân tập về dự lễ. Nhiều
Khuôn hội Cư sĩ các tiểu bang khác cũng có mặt như Đoàn Cư sĩ chùa
Điều Ngự từ miền Nam California kéo lên đông đảo.
Nhiều biểu ngữ treo ở hội trường nhắc lại lời của Đức cố Tăng thống nhắn nhủ khi Ngài còn sinh tiền : “Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ - Chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo” ; “Tôi là người đi không đường, sống không nhà, chết không mồ, tù không tội” ; và lời ước nguyện của Phật tử hải ngoại : “Tưởng
nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là kế thừa Ngài phục hồi
quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN, đem lại nhân quyền và dân chủ
cho Việt Nam”.
Chương trình lễ Đại tường kéo
dài trong hai ngày. Ngày thứ bảy 17.7 khởi sự lễ Đại tường với bốn
tiết mục : hai thời thuyết pháp của Đức Phó Tăng thống kiêm Chủ
tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo Thích Hộ Giác, và Đại lão Hòa thượng
Thích Chánh Lạc Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Phó Chủ tịch
GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Ra mắt sách “Một đời vì Dạo vì Dân : Đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang”
do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan giới thiệu, và chấm dứt với tiết
mục Cảm niệm về công hạnh hoằng hóa của Đức cố Tăng thống Thích
Huyền Quang qua những chia sẻ của chư Tăng Ni, Phật tử từng sống hay
làm việc với Ngài.
Lễ Đài Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước, thành phố San Jose, California, Hoa Kỳ
Hội trường đón tiếp chư Tăng Ni, Phật tử tham dự lễ Đại tường
Qua
ngày chủ nhật 18.7, Đại lễ chính thức cử hành qua hai nghi thức Nam
tông và Bắc tông. Sau đấy Thượng tọa Thích Viên Dung thay mặt Ban
tổ chức đọc Diễn văn khai mạc, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác đọc
bài tôn vinh công hạnh Ngài, Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc
đọc lời Ai văn tưởng nguyện của Văn phòng II Viện Hóa Đạo, và kết
thúc với ba lời phát biểu của Nhà văn Ỷ Lan, người đệ tử ngoại quốc
duy nhất của Ngài, Giáo sư Võ Văn Ái và Bình luận gia Lý Đại
Nguyên nói về cuộc đời tận tụy của Đức cố Tăng thống đối với Đạo và
với Dân tộc.
Trên 2000 chư Tăng Ni, Phật tử tham dự lễ Đại tường
Lễ
Đại tường kết thúc với cuộc Hội luận về cuộc đời của Đức cố Tăng
thống Thích Huyền Quang do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan trình bày.
Cuộc hội luận đã vô cùng hào hứng với sự tham gia phát biểu của
đông đảo thính chúng. Tất cả nhất tề nói lên nỗi thao thức phục vụ
đất nước và chí thành hậu thuẫn GHPGVNTN theo bước chân của Đức cố
Tăng thống Thích Huyền Quang và người thừa kế Ngài là Đại lão Hòa
thượng Thích Quảng Độ.
Trong nỗi buồn khôn nguôi của chư Tăng
Ni, Phật tử, nhưng Lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền
Quang còn đọng lại trong tâm người tham dự lòng sắt son với tiền đồ
của nền Phật giáo dân tộc mà nhờ công đức đại hải của Đức cố Tăng
thống Thích Huuyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Thích Quảng Độ
vững tay chèo lái suốt 35 năm vượt bao giông bão, đưa con thuyền
Giáo hội đến chân trời tươi sáng.
Đức Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác ban Đạo từ tôn vinh công hạnh Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang
Trong Đạo từ của Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác tôn vinh công hạnh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang có đoạn ngài phát biểu rằng :
“Từ
thuở tuổi hãy còn rất trẻ bất kể chướng duyên, một mình rày đây
mai đó, Đức Đệ tứ Tăng Thống đã trao cho mình những hành trang cần
thiết như một khẳng định mà qua đó những bậc đồng học hết sức nể
vì. Chẳng những chuyên ròng về mặt đa văn túc trí mà Ngài còn nỗ
lực hành toàn về hạnh thượng cầu hạ hóa. Nhứt là đời sống vạn hạnh
thanh tịnh của một Trưởng tử Như Lai.
“Kính thưa
chư liệt vị. Cuộc đời Đức Đệ tứ Tăng Thống gắn liền với lịch sử đất
nước, đạo Phật, con người. Ngài đã để lại những dấu ấn đầy ấn
tượng trên từng giai kỳ thịnh suy của lịch sử. Nhất là những giai
đoạn nghiệt ngã quốc nạn và pháp nạn. Đạo phong trác tuyệt của Đức
Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang là chuẩn mực tiêu biểu của lý
tưởng Bồ Tát hạnh trong những hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước,
đứng trước vực thẳm của giống nòi, nhất là trước nạn ngoại xâm từ
phương Bắc. Dẫu thân cô thế yếu Ngài vẫn không ngừng tuyên dương
Công bình và Lẽ phải. Đặc biệt là quyền sống của Con Người. Ngài
kêu gọi sự từ bỏ tham vọng thấp hèn và đề xuất những lối đi như là
những Giải pháp thay thế thù ứng toàn diện. Đời sống phạm hạnh của
Ngài từ đó là một bài học vô giá và càng tỏa sáng hơn thì phạm hạnh
vô giá ấy được đồng hành cùng Bồ Tát hạnh.
“Chúng
con xin cúi đầu đãnh lễ tri ân công hạnh hoằng hóa sâu dày của Ngài
và nguyện tiếp tục con đường mà Ngài đã đi và hoàn tất những di ngôn
Ngài để lại.
“Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tôn tứ thập
nhất thế khai sơn Tu viện Nguyên Thiều Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN
thượng Huyền hạ Quang Đại lão Hòa thượng Giác linh tác đại chứng
minh”.
Trong bài Diễn văn khai mạc Đại lễ của Trưởng ban Tổ chức, Thượng tọa Thích Viên Dung,
Trụ trì chùa Bảo Phước mà cũng là Chánh Đại diện Miền Huyền Quang,
bao gồm vùng Bắc California, cũng tuyên dương công đức có một
không hai :
“Thời gian biến đổi, sự thế vô thường, nhưng
sự quy tịch của Ngài là một mất mát to lớn, không những đối với
Phật giáo đồ mà còn đối với cả Dân tộc Việt Nam. Quả thật như vậy !
Lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam, Ngài là một trong những cao
tăng thạc đức, một bậc Long Tượng thiền môn phi thường, nhập trần,
xuất thế, hạnh nguyện lực Đại Trí, Đại Hùng, Đại Bi Tâm. Trong 89
năm trụ thế, phần lớn cuộc đời Ngài, phải chống đỡ những ngửa
nghiêng của ý thức hệ Cộng Sản đè nặng, làm điêu linh và băng hoại
cả Dân tộc. Trong 71 năm Pháp Lạp, gánh vác con thuyền Giáo Hội
vượt ba đào bởi những chông chênh của thời thế nhiễu nhương, dân
tình thống khổ. Ngài đã tiếp nối mạng mạch truyền thừa lâu dài nhất,
kỳ vĩ nhất, nghiệt ngã nhất, gai góc nhất, của ba đời Tăng Thống
để lại : Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết,
Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên, Đại Lão Hoà
Thượng Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, để tiếp tục viết nên trang
sử GHPGVNTN vẫn còn dang dở…
Thượng tọa Thích Viên Dung, Trưởng ban Tổ chức đọc Diễn văn khai mạc
“Kính
thưa quý liệt vị. Không dang dở sao được, suốt cuộc đời Ngài luôn
đấu tranh đòi hỏi Tự Do cho tôn giáo, Dân Chủ cho đất nước, từ
tháng 4 năm 1977, bạo quyền Hà Nội đã giam Ngài trong ngục tù Phan
Đăng Lưu, Sài Gòn, sau đó chuyển ra quản chế tại chùa Hội Phước,
Quảng Ngãi. Mãi đến năm 1995, tuy bạo quyền Hà Nội không đem Ngài
ra xét xử, nhưng lại chuyển Ngài đến chùa Phước Quang, huyện Nghĩa
Hành, Quảng Ngãi, một nơi xa xôi, hẻo lánh, trước mặt chùa có bót
công an canh giữ, gay gắt và cẩn mật hơn. Không dang dở sao được,
như Ngài đã tuyên bố : “Cuộc đời tôi : Sống không nhà, tu không
chùa, đi không đường, tù không tội, chết không mồ. Cuộc đời tôi, ở
trong nhà tù nhỏ, khác gì nhà tù lớn. Đất nước không có Tự Do, làm
sao tôi có Tự Do ? Dân tộc không có Dân Chủ, làm sao tôi có tiếng
nói Nhân Quyền ? Biên cương, lãnh thổ, vùng biển, vùng trời, bị
cưỡng đoạt. Sỉ nhục Tổ tiên, làm sao tôi không sỉ nhục ? Cả lịch sử
5000 năm. Dân tộc luôn tương ái, tương thân, đồng cam cọng khổ,
trên mãnh đất của Quê Cha Đất Mẹ, chứ chưa đành đoạn biệt xứ, lưu
vong đến hàng triệu người, thì làm sao tôi không đau trong nổi đau
thống thiết ấy ?...”
“Trong suốt thời gian bị cầm tù
và quản chế, Ngài đã ra nhiều tuyên cáo, đấu tranh trực diện với
bạo quyền Hà Nội, với mục đích “ Giải trừ Quốc Nạn và Pháp Nạn”,
đòi hỏi Tự Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân tộc. Ngài đã từng
tuyên bố trước công luận Quốc tế :
- “ Chánh Pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ”
- “Chúng sinh không thể an lạc, nơi áp bức đói nghèo”.
“Kính
thưa quý liệt vị. Ngài đã quy tịch, trong lúc trang sử của Dân Tộc
vẫn còn nhiều hoen ố bởi bạo quyền Cộng Sản. Cuộc đấu tranh đòi Tự
Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân Tộc của Ngài cũng như của Giáo
Hội PGVNTN đang tiếp diễn cho đến ngày thành công. Chúng ta toàn
thể Tăng Ni, Tín đồ từ quốc nội, đến hải ngoại, thành tâm truy tán,
kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích
Huyền Quang, ghi đậm dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn người dân Việt.
Hạnh Bi nguyện một bậc Đại Thượng sĩ của Ngài là tấm gương bất
tuyệt trong công hạnh Thượng cầu Phật đạo, Hạ hoá chúng sinh.
“Tưởng
nhớ Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang là nổ lực, thừa kế Ngài
phục hoạt GHPGVNTN và đem lại Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam”.
Thời thuyêt pháp của Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc sáng ngày thứ bảy 17.7.2010
Trong phần quan khách phát biểu, Nhà văn Ỷ Lan,
người nước Anh là đệ tử ngoại quốc duy nhất của Đức cố Tăng thống
Thích Huyền Quang được Ban Tổ chức mời phát biểu. Chị đã nói lên
ảnh hưởng quốc tế lớn rộng của Ngài như sau :
“Ỷ Lan vốn
là người thích nói nhiều khi có dịp nói tiếng Việt. Nhưng hôm nay
trong sân chùa Bảo Phước, trong lễ Đại tường cho Bổn sư của Ỷ Lan, Ỷ
Lan không đủ lời nói lên sự xúc động của mình. Xúc động để nói về
vị Bổn sư mà mình chưa hề được gặp. Nhưng không có một ngày nào,
trong hơn ba mươi năm đấu tranh cho tự do tín ngưỡng và nhân quyền
tại Việt Nam, mà Ỷ Lan không nghĩ đến Ngài. Ngài là một người bất
khuất (vỗ tay), Ngài là người mà uy đức không chỉ bao trùm
khắp nước Việt Nam mà còn lan xa trên khắp năm châu. Chính vì vậy
uy danh của Thầy đã đến xứ Sương mù của Ỷ Lan bên Anh, khiến Ỷ Lan
muốn theo gót Ngài, muốn noi gương Ngài để đóng góp một cái gì cho
đất nước và đạo pháp tại Việt Nam (vỗ tay). Thật sự, Ỷ Lan
chưa hề được gặp Ngài. Khi mơ ước trở thành Phật tử, Ỷ Lan mơ ước
sẽ về trong một ngôi chùa ở làng quê Việt Nam để xin quy y. Nhưng
cuộc đấu tranh còn dài, chắc ngày đó còn xa, cho nên Ỷ Lan lấy hết
can đảm viết một bức thư cho Ngài Huyền Quang là người mình ngưỡng
phục suốt bao nhiêu năm qua. Ngài lúc đó bị quản chế, suốt đời bị
quản chế, tù đày. Bức thư của Ỷ Lan mất một năm trời không thấy hồi
âm. Ỷ Lan nghĩ chắc không thể nào một bậc Cao tăng như Ngài lại nghĩ
tới một người yếu hèn như mình để chấp nhận : Một người ngoại
quốc, Một người phụ nữ, Một người cư sĩ ! Cả ba cái chắc chắn là
Ngài sẽ không nhận (vỗ tay).
“Nhưng một năm sau, nghĩa
là thư Ỷ Lan mất 6 tháng đi và thư Ngài hồi âm mất 6 tháng để trở
về. Một ngày nào đó đang ngồi trong văn phòng Phòng Thông tin Phật
giáo Quốc tế ở Paris, Ỷ Lan nhận được một phái Quy y to tướng có
chữ ký của Hòa thượng Huyền Quang. Vô cùng xúc động (vỗ tay).
Từ bữa đó, ngày nào Ỷ Lan cũng phục vụ cho Thầy. Bởi vì như quý
biết, một người bị quản chế nơi đất nước Việt Nam, khi không có áp
lực quốc tế thì chính quyền rất có thể dập tắt tiếng nói của Ngài,
còn làm hại Ngài. Cho nên anh Ái và Ỷ Lan ở Phòng Thông tin Phật
giáo Quốc tế không có ngày nào không vận động quốc tế, dịch những
tài liệu, làm sao cho ánh sáng bên ngoài soi tới con người Ngài.
“Ỷ Lan rất phục Ngài vì Ngài khổ suốt đời ở một nơi gọi là khỉ ho cò gáy, không có ai xung quanh (vỗ tay). Đồn
công an trước chùa, mùa lũ lụt ở Quảng Ngãi chắc quý vị cũng biết
có khi Ngài phải lên trên bàn ngồi ngủ vì nước lụt vào chùa. Rất
khổ sở. Nhưng không một lời than, không bao giờ Ngài nghĩ rằng mình
phải rời bỏ lý tưởng đổi lấy đời sung sướng hơn. Cách phát biểu
của Ngài rất đặc biệt, Ngài nói ngắn gọn. Ỷ Lan nhớ một lần đọc bản
tin của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tường thuật buổi gặp gỡ giữa Đại
sứ Mỹ Raymond Burghart và Hòa thượng Thích Huyền Quang nơi bị quản
chế. Đại sứ Burghart hỏi Ngài Huyền Quang “Vì sao GHPGVNTN làm chính trị vậy ?” Hòa thượng đáp rất ngắn gọn, nhưng như đinh đóng cột, Hòa thượng nói : Xin
Đại sứ nói với Nhà Nước bởi vì Nhà nước xen lấn vào vấn đề tôn
giáo. Khi nào Nhà Nước thôi xen lấn vào vấn đề tôn giáo thì chúng
tôi không còn nói vấn đề chính trị nữa (vỗ tay). Đó là tất cả vấn đề của Việt Nam ngày nay.
“Hôm
nay trong khung cảnh đứng trước mặt quý vị ở đây, Ỷ Lan rất xúc
động. Thời Ngài còn sống, Ỷ Lan đã hứa với Ngài Ỷ Lan sẽ về vấn an
Ngài tại Bình Định. Nhưng Ỷ Lan đã thất hứa. Ỷ Lan chỉ có chút an ủi
là những cuộc vận động của mình làm cho Ngài bớt khổ trong những
năm cuối cùng của đời Ngài, nhờ áp lực quốc tế. Nhưng vì đã thất
hứa, thì hôm nay trước di ảnh Giác linh Ngài và trước tất cả đồng
bào có mặt hôm nay, Ỷ Lan hứa sẽ làm hết mình để kế thừa Ngài đi
theo con đường của Ngài cho Tự do, Nhân quyền và phục hoạt quyền
sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN” (vỗ tay rất lâu).
Trong phần phát biểu của mình, Giáo sư Võ Văn Ái
nhắc tới định nghĩa của pháp lý và vị trí lịch sử và dân tộc của
GHPGVNTN do chính Đức cố Tăng thống phát ngôn trước linh đài Đức cố
Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ năm 1992 :
“Nếu
từ kinh Pháp Hoa mà Bồ tát Quảng Đức bước ra làm nên hành động
Việt năm 1963, thì từ khổ nạn 68 năm Việt Nam, Đại lão Hòa thượng
Thích Huyền Quang mở ra con đường giác ngộ và siêu bạo lực cho nền
văn hiến mới Việt Nam.
“Khi bước vào hội
trường này chúng tôi thấy rất nhiều biểu ngữ. Biểu ngữ nào cũng giá
trị, tuy nhiên có một biểu ngữ đúng với tâm trạng của chúng ta hôm
nay nhân dự lễ Đại tường của Ngài. Đó là câu viết “Tưởng nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là thừa kế Ngài phục hoạt GHPGVNTN và đem lại nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam”.
Chúng tôi thấy câu này rất ý nghĩa. Bởi vì chúng ta tưởng nhớ
không chỉ nhớ thương trong lòng mà phải nhớ thương bằng hành động.
Hành động tiếp nối con đường mà Ngài đã chịu khổ nạn suốt trên ba
mươi năm qua. Đức cố Đệ tứ Tăng Thống là gương mẫu cho chúng ta
thấy rằng, một con người ý thức có thể lật đổ một bạo quyền. Ngài
với hai bàn tay trắng, cùng với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
đã đứng lên suốt 35 năm qua, đối diện với ba triệu bộ đội, đối diện
với trên một triệu công an, cảnh sát. Đặc biệt đối diện với một
chính sách thù địch tôn giáo. Nhờ vậy ngày hôm nay, GHPGVNTN vẫn
tồn tại trong nước cũng như ngoài nước. Đây là ví dụ hùng hồn Ngài
để lại cho chúng ta.
“Một câu nói thâm thúy khi ông
Thứ trưởng Công an Trần Tư đến gặp Ngài ở Bình Định than trách tại
sao Giáo hội chống đối Nhà nước Cộng sản, Ngài trả lời nhẹ nhàng :
Chính quyền nào cũng nói là muôn năm, nhưng không có chính quyền
nào tồn tại muôn năm. Còn Phật giáo không nói muôn năm nhưng ba
nghìn năm rồi Phật giáo vẫn tồn tại trên trái đất.
“Tôi
xin phép quý vị đọc một đôi lời của Đức cố Tăng Thống Thích Huyền
Quang giải thích thế nào là pháp lý ? thế nào là GHPGVNTN ? Ngài
phát biểu hôm Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa
Linh Mụ Huế năm 1992. Ngài từ Quảng Ngãi ra thọ tang. Trước linh
đài Đức Đệ tam Tăng thống, Ngài phát biểu một bài dài nhiều ý
nghĩa. Nhưng tôi chỉ xin trích đọc lại hai đoạn ngắn để chúng ta
thấy rõ ý chí của Ngài, quan niệm của Ngài đối với vấn đề pháp lý
cộng sản. Bởi vì hiện tại GHPGVNTN không có quyền sinh hoạt pháp lý
tại Việt Nam. Đối với Ngài pháp lý chỉ là một mảnh giấy, rồi Ngài
cũng định nghĩa thế nào là GHPGVNTN mà trong chúng ta hôm nay có
người đã đoạn tình quên lãng. Xin hãy lắng lòng nghe lại lời phát
biểu của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang sau đây :
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Biến
cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 xẩy tới. Chiến tranh chấm dứt. Hòa
thượng cũng như chúng tôi trong Hội đồng Lưỡng Viện tưởng rằng Giáo
hội sẽ được bước vào thời bình, để tiếp tục thi hành Phật sự. Không
ngờ chướng ngại và trở lực khác lại manh nha.
“Chướng
ngại ấy là sự kiện một“Giáo hội Nhà nước” ra đời tại Chùa Quán Sứ ở
Hà Nội, do chính quyền dựng lên vào đầu năm 1981. Tôi xin nói lại,
là do chính quyền dựng lên, chứ không phải do Tăng Ni suy cử. Vì
vậy mà mười mấy năm qua, Tăng Ni và Phật tử âm thầm chịu đựng sự áp
bức.
“Làm sao cho Giáo hội tồn tại, như một hùng niệm tới máu xương và tù tội của các Thánh Tăng và Phật tử tử đạo ?
“Vì
sao Giáo hội Hà Nội mới ra đời lại có pháp lý, còn Giáo hội Ấn
Quang, tức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), không
được pháp lý bảo vệ ? Xin lập lại, là tại sao Giáo hội Hà Nội do
chính quyền lập ra lại đầy quyền hành, thế lực, và có “pháp lý” ?
Trong khi Giáo hội Ấn Quang, một Giáo hội truyền thống dựng lên từ
xương máu, khổ đau và tâm thành của bao nhiêu thế hệ Phật giáo, thì
lại bị phủ nhận ? Điều cần biết là cho đến nay, chưa có một nghị
định, sắc luật nào khai tử Giáo hội Ấn Quang. Thế thì, chỉ nói trên
mặt xã hội và thế tục mà thôi, pháp lý của Giáo hội Ấn Quang vẫn y
nhiên tồn tại.
“Có người sẽ hỏi tại sao
mười mấy năm qua chúng ta không còn được thi hành Phật sự như ý
nguyện ? Câu hỏi rất đúng, rất cần, rất thiết tha, bắt tòan thể
Phật tử chúng ta phải suy nghĩ. Lại có người dễ dãi cho rằng, chúng
ta đang thiếu những người lãnh đạo. Tôi khẳng dịnh ngay : điều đó
không đúng. Và cũng xin thưa ngay : chư vị lãnh đạo Phật giáo, những
người đã hy sinh đóng góp xây dựng Giáo hội Ấn Quang còn nhiều
lắm. Họ có mặt khắp nơi, ở trong nước cũng đông, mà ở hải ngọai cũng
đông. Cho nên, GHPGVNTN của chúng ta không dễ dẹp bỏ đi trong một
ngày, một tháng, một vài năm. Không ai có quyền tự thị muốn dẹp bỏ,
muốn đóng cửa lúc nào cũng được.
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Tôi
còn đây, Quảng Độ còn đó, hàng Giáo phẩm ở trong nước, ở ngòai
nước cũng còn đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục hướng dẫn Hội đồng Lưỡng
Viện, tiếp tục điều hành bình thường Phật sự Giáo hội cho đến khi
GHPGVNTN được tự do họat động như ngày nào trước 1975. Xin Giác linh
Hòa thượng gia hộ cho chúng tôi, cho Tăng Ni, cho Phật tử vững
bước tiến theo Giáo hội, vững lòng tin tưởng vào pháp mệnh trường
cửu của một Giáo hội truyền thống.
“Giáo
hội truyền thống là gì ? Là một Giáo hội của Tăng Ni, Phật tử, do
chư vị Trưởng lão đại tăng, cao tăng, danh tăng lập thành. Chứ
không do một thế lực thế tục nào lập ra, bất chấp mọi ý lực của tập
thể Tăng Ni Phật tử. Bởi thế, tòan thể Tăng Ni, Phật tử đã dựng xây
Giáo hội, sống với Giáo hội, chia ngọt sẻ bùi với Giáo hội, chết
chóc, tù đày cùng Giáo hội, vẫn bất khuất tiến lên dưới sự lãnh đạo
của Giáo hội. Không ai có thể phát ngôn bừa bãi rằng GHPGVNTN ta
không có pháp lý.
“Pháp lý là gì ? Ở đây và
hiện nay, pháp lý chỉ là mảnh giấy được viết và cấp phát cho một tổ
chức tân lập để hỗ trợ những mục tiêu riêng tư, cục bộ, phi Phật
giáo. Trái lại, Giáo hội ta có mặt trên dải đất này đã 2000 năm rồi.
Đinh, Lê, Lý, Trần đã chấp nhận Phật giáo. Các triều đại kế tiếp
cũng chấp nhận Phật giáo. Do đó, mà những khẩu hiệu như thế này đã
vang lên ở Đại hội bất thường của GHPGVNTN sau năm 1975 tại Hội
trường Ấn Quang ở Saigon, tôi xin lập lại :
- Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm dựng Văn mở Đạo trên dải đất Việt Nam này !
- Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng già, trẻ, lớn, bé !
- Cơ sở của Giáo hội là nông thôn, thành thị, cao nguyên và hải đảo !
“Đó là cơ sở vững chắc muôn năm. Đó là pháp lý, địa vị có sở của Giáo hội.
“Pháp lý thế tục có thể ban ra và có thể thu lại. Lẽ nào Giáo hội lại cúi đầu chịu mãi sự săn đầm đó ? Cho nên, không thể nhìn Giáo hội Phật giáo theo pháp lý giấy, mà phải nhìn thấy Giáo hội qua lịch sử đạo lý và vinh quang của dân tộc. Cái đó mới là pháp lý. Nói rõ hơn, pháp lý ấy là Chính Pháp.
“Các vị nghe rõ không ạ ? Tôi lập lại : Pháp
lý của Giáo hội Phật giáo là Chính pháp của 2000 năm lịch sử đạo
lý và văn hiến trên đường mở nước và dựng nước. Cơ sở của Giáo hội
Phật giáo là nông thôn, thành thị, núi rừng và hải đảo dưới ánh hào
quang của Trí Tuệ và Từ Bi. Địa vị của Giáo hội Phật giáo là 80%
dân chúng, già, trẻ, lớn, bé. Không còn nghi ngờ gì nữa về nền pháp lý có truyền thồng lịch sử ấy của GHPGVNTN”.
Quầy sách “Một Đời Vì Đạo Vì Dân : Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang”
Dân
biểu Quốc hội Hoa Kỳ Joseph Cao trong buổi Hội luận về cuộc đời
Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang, ảnh bên trái Nhà văn Ỷ Lan,
bên phải ông Võ Văn Ái
Phần phát biểu của Bình luận gia Lý Đại Nguyên,
ông đề cao sự tiên phong của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang
dẫn đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức và độc tài Cộng san, khiến
cho sau đó những nhà cộng sản ly khai bước theo nhập cuộc.
Đặc biệt ở phần Hội luận kết thúc lễ Đại tường, Dân biểu Joseph Cao,
người dân biểu gốc Việt duy nhất tại Quốc hội Hoa Kỳ, đã đến tôn
vinh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang. Nhân dịp này, Dân biểu
khẳng định vai trò của mình đối với Cộng đồng Người Việt hải ngoại
cũng như đối với cố quốc Việt Nam :
“Cách đây khoảng chừng
một năm rưởi tôi có được gặp Đức Dalai Lama ở trên Hoa Thịnh Đốn.
Đức Dalai Lama có nhắc tôi một chuyện, là nếu trong những lúc tôi
nói chuyện, thông báo hay làm việc ở Quốc hội thì ông khuyên tôi
tính cách chuyên môn qua tư cách mình là người Mỹ gốc Việt. Tại vì
chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiểu được tình trạng Cộng đồng
Việt Nam của chúng ta. Chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiều
được những đau khổ, những sự Cộng đồng chúng ta phải trải qua trong
hơn 35 năm qua. Và nói chung một người Mỹ gốc Việt đứng lên nói về
sự xẩy ra ở trên nước Việt Nam [với tính cách] chuyên môn là sẽ
được nhiều hiệu quả, mạnh hơn là một người không phải gốc Việt Nam.
“Nói
chung, trong 18 tháng qua tôi cũng thấy như vậy. Mỗi lần những
người tôi làm việc chung trong Quốc hội lúc nào liên hệ tới Việt Nam
họ tới gặp tôi nói chuyện và hỏi ý kiến. Tại họ nghĩ rằng có một
người Việt hiểu được tình trạng nước Việt. Và trong 18 tháng qua tôi
rất hãnh diện, mặc dù tôi đại diện cho địa hạt Louisana, tôi cũng
rất hãnh diện đã là một tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên nước
Mỹ, cùng với tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên thế giới liên hệ
tới vấn đề tự do tôn giáo, tự do nhân quyền ở trên nước Việt Nam.
Trong 18 tháng qua tôi đã làm việc rất là… nói là không ngủ thì
không đúng, nhưng nhiều thời gian lâu dài liên hệ tới những Đạo luật
và những chuyện xẩy ra trên đất nước Việt Nam. Nói chung có hai
Đạo luật tôi đang muốn thông qua tại Quốc hội ; thứ nhất là việc gọi
là Việt Nam Denocracy Promotion Act (Đạo luật Thăng tiến Dân chủ
Việt Nam), thứ hai là về Vietnam Sanction Act (Đạo luật về việc chế
tài Việt Nam). Hai cái đó nếu Quốc hội thông qua sẽ ép Việt Nam
theo đường lối của chúng ta ước ao trong hơn ba mươi năm qua. Đó là
làm sao xây dựng được một xã hội Việt Nam mà dân chúng có tự do
tôn giáo, tự do nhân quyền.
“Tôi thấy qua sự tiếp
xúc của mọi người trong cộng đồng, dù là Cộng giáo, Phật giáo hay
là Hòa Hảo, mọi người chúng ta dù khác biệt về đức tin, khác biệt về
ý nghĩ, về đời sống, nhưng tôi thấy mọi người đồng ý một điểm, đó
là làm sao chúng ta có thể thành lập, thứ nhất một Cộng
đồng Việt Nam rất mạnh trên nước Mỹ, thứ hai là làm sao mang tới sự
tự do ở trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
*
Văn phòng II Viện Hóa Đạo tổ chức trọng thể Lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước, Miền Huyền Quang, ở thành phố San Jose, Hoa Kỳ
PARIS,
ngày 31.7.2010 (PTTPGQT) - Để giúp cho sự phát triển Phật sự Miền
Huyền Quang vùng Bắc California, Hoa Kỳ, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có trụ sở ở Chùa Điều Ngự,
miền Nam California, đã lấy quyết định tổ chức Lễ Đại Tường của
Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước ở
thành phố San Jose trong hai ngày 17 và 18.7.2010.
Trên hai nghìn chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử đã vân tập về Chùa Bảo Phước dự lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang.
Chùa Bảo Pháp mà chúng tôi đến thăm hai năm trước không còn là chủa Bảo Pháp hôm nay. Từ một ngôi chùa nhỏ bé, chật hẹp, nay đã tậu thêm vạc đất rộng cạnh chùa, nơi dựng lên một hội trường có thể chứa hàng nghìn người tham dự. Lễ đài chưng ảnh lớn Đức cố Tăng thống, hương hoa, trầm, đèn trang nghiêm với biểu từ : “Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang : Một Đời Vì Đạo Vì Dân”. Từ xa phấp phới hàng trăm lá cờ ngũ sắc Phật giáo và cờ vàng ba sọc đỏ, với tiếng nhạc êm đềm đầy tình tự quê hương. Gặp Thượng tọa trụ trì Thích Viên Dung, Đạo hữu Võ Văn Ái từ Paris qua tham dự đã nói lên lời tán dương công đức Thượng tọa rằng : Thật là Chân không sinh Diệu hữu !
Chư Tôn đức lãnh đạo Văn phòng II Viện Hóa Đạo đã từ khắp nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ vân tập về dự lễ. Nhiều Khuôn hội Cư sĩ các tiểu bang khác cũng có mặt như Đoàn Cư sĩ chùa Điều Ngự từ miền Nam California kéo lên đông đảo.
Nhiều biểu ngữ treo ở hội trường nhắc lại lời của Đức cố Tăng thống nhắn nhủ khi Ngài còn sinh tiền : “Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ - Chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo” ; “Tôi là người đi không đường, sống không nhà, chết không mồ, tù không tội” ; và lời ước nguyện của Phật tử hải ngoại : “Tưởng nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là kế thừa Ngài phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN, đem lại nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam”.
Chương trình lễ Đại tường kéo dài trong hai ngày. Ngày thứ bảy 17.7 khởi sự lễ Đại tường với bốn tiết mục : hai thời thuyết pháp của Đức Phó Tăng thống kiêm Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo Thích Hộ Giác, và Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Phó Chủ tịch GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Ra mắt sách “Một đời vì Dạo vì Dân : Đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang” do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan giới thiệu, và chấm dứt với tiết mục Cảm niệm về công hạnh hoằng hóa của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang qua những chia sẻ của chư Tăng Ni, Phật tử từng sống hay làm việc với Ngài.
Qua ngày chủ nhật 18.7, Đại lễ chính thức cử hành qua hai nghi thức Nam tông và Bắc tông. Sau đấy Thượng tọa Thích Viên Dung thay mặt Ban tổ chức đọc Diễn văn khai mạc, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác đọc bài tôn vinh công hạnh Ngài, Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc đọc lời Ai văn tưởng nguyện của Văn phòng II Viện Hóa Đạo, và kết thúc với ba lời phát biểu của Nhà văn Ỷ Lan, người đệ tử ngoại quốc duy nhất của Ngài, Giáo sư Võ Văn Ái và Bình luận gia Lý Đại Nguyên nói về cuộc đời tận tụy của Đức cố Tăng thống đối với Đạo và với Dân tộc.
Lễ Đại tường kết thúc với cuộc Hội luận về cuộc đời của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan trình bày. Cuộc hội luận đã vô cùng hào hứng với sự tham gia phát biểu của đông đảo thính chúng. Tất cả nhất tề nói lên nỗi thao thức phục vụ đất nước và chí thành hậu thuẫn GHPGVNTN theo bước chân của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và người thừa kế Ngài là Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Trong nỗi buồn khôn nguôi của chư Tăng Ni, Phật tử, nhưng Lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang còn đọng lại trong tâm người tham dự lòng sắt son với tiền đồ của nền Phật giáo dân tộc mà nhờ công đức đại hải của Đức cố Tăng thống Thích Huuyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Thích Quảng Độ vững tay chèo lái suốt 35 năm vượt bao giông bão, đưa con thuyền Giáo hội đến chân trời tươi sáng.
Trong Đạo từ của Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác tôn vinh công hạnh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang có đoạn ngài phát biểu rằng :
“Từ thuở tuổi hãy còn rất trẻ bất kể chướng duyên, một mình rày đây mai đó, Đức Đệ tứ Tăng Thống đã trao cho mình những hành trang cần thiết như một khẳng định mà qua đó những bậc đồng học hết sức nể vì. Chẳng những chuyên ròng về mặt đa văn túc trí mà Ngài còn nỗ lực hành toàn về hạnh thượng cầu hạ hóa. Nhứt là đời sống vạn hạnh thanh tịnh của một Trưởng tử Như Lai.
“Kính thưa chư liệt vị. Cuộc đời Đức Đệ tứ Tăng Thống gắn liền với lịch sử đất nước, đạo Phật, con người. Ngài đã để lại những dấu ấn đầy ấn tượng trên từng giai kỳ thịnh suy của lịch sử. Nhất là những giai đoạn nghiệt ngã quốc nạn và pháp nạn. Đạo phong trác tuyệt của Đức Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang là chuẩn mực tiêu biểu của lý tưởng Bồ Tát hạnh trong những hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước, đứng trước vực thẳm của giống nòi, nhất là trước nạn ngoại xâm từ phương Bắc. Dẫu thân cô thế yếu Ngài vẫn không ngừng tuyên dương Công bình và Lẽ phải. Đặc biệt là quyền sống của Con Người. Ngài kêu gọi sự từ bỏ tham vọng thấp hèn và đề xuất những lối đi như là những Giải pháp thay thế thù ứng toàn diện. Đời sống phạm hạnh của Ngài từ đó là một bài học vô giá và càng tỏa sáng hơn thì phạm hạnh vô giá ấy được đồng hành cùng Bồ Tát hạnh.
“Chúng con xin cúi đầu đãnh lễ tri ân công hạnh hoằng hóa sâu dày của Ngài và nguyện tiếp tục con đường mà Ngài đã đi và hoàn tất những di ngôn Ngài để lại.
“Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tôn tứ thập nhất thế khai sơn Tu viện Nguyên Thiều Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN thượng Huyền hạ Quang Đại lão Hòa thượng Giác linh tác đại chứng minh”.
Trong bài Diễn văn khai mạc Đại lễ của Trưởng ban Tổ chức, Thượng tọa Thích Viên Dung, Trụ trì chùa Bảo Phước mà cũng là Chánh Đại diện Miền Huyền Quang, bao gồm vùng Bắc California, cũng tuyên dương công đức có một không hai :
“Thời gian biến đổi, sự thế vô thường, nhưng sự quy tịch của Ngài là một mất mát to lớn, không những đối với Phật giáo đồ mà còn đối với cả Dân tộc Việt Nam. Quả thật như vậy ! Lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam, Ngài là một trong những cao tăng thạc đức, một bậc Long Tượng thiền môn phi thường, nhập trần, xuất thế, hạnh nguyện lực Đại Trí, Đại Hùng, Đại Bi Tâm. Trong 89 năm trụ thế, phần lớn cuộc đời Ngài, phải chống đỡ những ngửa nghiêng của ý thức hệ Cộng Sản đè nặng, làm điêu linh và băng hoại cả Dân tộc. Trong 71 năm Pháp Lạp, gánh vác con thuyền Giáo Hội vượt ba đào bởi những chông chênh của thời thế nhiễu nhương, dân tình thống khổ. Ngài đã tiếp nối mạng mạch truyền thừa lâu dài nhất, kỳ vĩ nhất, nghiệt ngã nhất, gai góc nhất, của ba đời Tăng Thống để lại : Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên, Đại Lão Hoà Thượng Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, để tiếp tục viết nên trang sử GHPGVNTN vẫn còn dang dở…
“Kính thưa quý liệt vị. Không dang dở sao được, suốt cuộc đời Ngài luôn đấu tranh đòi hỏi Tự Do cho tôn giáo, Dân Chủ cho đất nước, từ tháng 4 năm 1977, bạo quyền Hà Nội đã giam Ngài trong ngục tù Phan Đăng Lưu, Sài Gòn, sau đó chuyển ra quản chế tại chùa Hội Phước, Quảng Ngãi. Mãi đến năm 1995, tuy bạo quyền Hà Nội không đem Ngài ra xét xử, nhưng lại chuyển Ngài đến chùa Phước Quang, huyện Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, một nơi xa xôi, hẻo lánh, trước mặt chùa có bót công an canh giữ, gay gắt và cẩn mật hơn. Không dang dở sao được, như Ngài đã tuyên bố : “Cuộc đời tôi : Sống không nhà, tu không chùa, đi không đường, tù không tội, chết không mồ. Cuộc đời tôi, ở trong nhà tù nhỏ, khác gì nhà tù lớn. Đất nước không có Tự Do, làm sao tôi có Tự Do ? Dân tộc không có Dân Chủ, làm sao tôi có tiếng nói Nhân Quyền ? Biên cương, lãnh thổ, vùng biển, vùng trời, bị cưỡng đoạt. Sỉ nhục Tổ tiên, làm sao tôi không sỉ nhục ? Cả lịch sử 5000 năm. Dân tộc luôn tương ái, tương thân, đồng cam cọng khổ, trên mãnh đất của Quê Cha Đất Mẹ, chứ chưa đành đoạn biệt xứ, lưu vong đến hàng triệu người, thì làm sao tôi không đau trong nổi đau thống thiết ấy ?...”
“Trong suốt thời gian bị cầm tù và quản chế, Ngài đã ra nhiều tuyên cáo, đấu tranh trực diện với bạo quyền Hà Nội, với mục đích “ Giải trừ Quốc Nạn và Pháp Nạn”, đòi hỏi Tự Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân tộc. Ngài đã từng tuyên bố trước công luận Quốc tế :
- “ Chánh Pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ”
- “Chúng sinh không thể an lạc, nơi áp bức đói nghèo”.
“Kính thưa quý liệt vị. Ngài đã quy tịch, trong lúc trang sử của Dân Tộc vẫn còn nhiều hoen ố bởi bạo quyền Cộng Sản. Cuộc đấu tranh đòi Tự Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân Tộc của Ngài cũng như của Giáo Hội PGVNTN đang tiếp diễn cho đến ngày thành công. Chúng ta toàn thể Tăng Ni, Tín đồ từ quốc nội, đến hải ngoại, thành tâm truy tán, kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, ghi đậm dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn người dân Việt. Hạnh Bi nguyện một bậc Đại Thượng sĩ của Ngài là tấm gương bất tuyệt trong công hạnh Thượng cầu Phật đạo, Hạ hoá chúng sinh.
“Tưởng nhớ Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang là nổ lực, thừa kế Ngài phục hoạt GHPGVNTN và đem lại Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam”.
Trong phần quan khách phát biểu, Nhà văn Ỷ Lan, người nước Anh là đệ tử ngoại quốc duy nhất của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang được Ban Tổ chức mời phát biểu. Chị đã nói lên ảnh hưởng quốc tế lớn rộng của Ngài như sau :
“Ỷ Lan vốn là người thích nói nhiều khi có dịp nói tiếng Việt. Nhưng hôm nay trong sân chùa Bảo Phước, trong lễ Đại tường cho Bổn sư của Ỷ Lan, Ỷ Lan không đủ lời nói lên sự xúc động của mình. Xúc động để nói về vị Bổn sư mà mình chưa hề được gặp. Nhưng không có một ngày nào, trong hơn ba mươi năm đấu tranh cho tự do tín ngưỡng và nhân quyền tại Việt Nam, mà Ỷ Lan không nghĩ đến Ngài. Ngài là một người bất khuất (vỗ tay), Ngài là người mà uy đức không chỉ bao trùm khắp nước Việt Nam mà còn lan xa trên khắp năm châu. Chính vì vậy uy danh của Thầy đã đến xứ Sương mù của Ỷ Lan bên Anh, khiến Ỷ Lan muốn theo gót Ngài, muốn noi gương Ngài để đóng góp một cái gì cho đất nước và đạo pháp tại Việt Nam (vỗ tay). Thật sự, Ỷ Lan chưa hề được gặp Ngài. Khi mơ ước trở thành Phật tử, Ỷ Lan mơ ước sẽ về trong một ngôi chùa ở làng quê Việt Nam để xin quy y. Nhưng cuộc đấu tranh còn dài, chắc ngày đó còn xa, cho nên Ỷ Lan lấy hết can đảm viết một bức thư cho Ngài Huyền Quang là người mình ngưỡng phục suốt bao nhiêu năm qua. Ngài lúc đó bị quản chế, suốt đời bị quản chế, tù đày. Bức thư của Ỷ Lan mất một năm trời không thấy hồi âm. Ỷ Lan nghĩ chắc không thể nào một bậc Cao tăng như Ngài lại nghĩ tới một người yếu hèn như mình để chấp nhận : Một người ngoại quốc, Một người phụ nữ, Một người cư sĩ ! Cả ba cái chắc chắn là Ngài sẽ không nhận (vỗ tay).
“Nhưng một năm sau, nghĩa là thư Ỷ Lan mất 6 tháng đi và thư Ngài hồi âm mất 6 tháng để trở về. Một ngày nào đó đang ngồi trong văn phòng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris, Ỷ Lan nhận được một phái Quy y to tướng có chữ ký của Hòa thượng Huyền Quang. Vô cùng xúc động (vỗ tay). Từ bữa đó, ngày nào Ỷ Lan cũng phục vụ cho Thầy. Bởi vì như quý biết, một người bị quản chế nơi đất nước Việt Nam, khi không có áp lực quốc tế thì chính quyền rất có thể dập tắt tiếng nói của Ngài, còn làm hại Ngài. Cho nên anh Ái và Ỷ Lan ở Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế không có ngày nào không vận động quốc tế, dịch những tài liệu, làm sao cho ánh sáng bên ngoài soi tới con người Ngài.
“Ỷ Lan rất phục Ngài vì Ngài khổ suốt đời ở một nơi gọi là khỉ ho cò gáy, không có ai xung quanh (vỗ tay). Đồn công an trước chùa, mùa lũ lụt ở Quảng Ngãi chắc quý vị cũng biết có khi Ngài phải lên trên bàn ngồi ngủ vì nước lụt vào chùa. Rất khổ sở. Nhưng không một lời than, không bao giờ Ngài nghĩ rằng mình phải rời bỏ lý tưởng đổi lấy đời sung sướng hơn. Cách phát biểu của Ngài rất đặc biệt, Ngài nói ngắn gọn. Ỷ Lan nhớ một lần đọc bản tin của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tường thuật buổi gặp gỡ giữa Đại sứ Mỹ Raymond Burghart và Hòa thượng Thích Huyền Quang nơi bị quản chế. Đại sứ Burghart hỏi Ngài Huyền Quang “Vì sao GHPGVNTN làm chính trị vậy ?” Hòa thượng đáp rất ngắn gọn, nhưng như đinh đóng cột, Hòa thượng nói : Xin Đại sứ nói với Nhà Nước bởi vì Nhà nước xen lấn vào vấn đề tôn giáo. Khi nào Nhà Nước thôi xen lấn vào vấn đề tôn giáo thì chúng tôi không còn nói vấn đề chính trị nữa (vỗ tay). Đó là tất cả vấn đề của Việt Nam ngày nay.
“Hôm nay trong khung cảnh đứng trước mặt quý vị ở đây, Ỷ Lan rất xúc động. Thời Ngài còn sống, Ỷ Lan đã hứa với Ngài Ỷ Lan sẽ về vấn an Ngài tại Bình Định. Nhưng Ỷ Lan đã thất hứa. Ỷ Lan chỉ có chút an ủi là những cuộc vận động của mình làm cho Ngài bớt khổ trong những năm cuối cùng của đời Ngài, nhờ áp lực quốc tế. Nhưng vì đã thất hứa, thì hôm nay trước di ảnh Giác linh Ngài và trước tất cả đồng bào có mặt hôm nay, Ỷ Lan hứa sẽ làm hết mình để kế thừa Ngài đi theo con đường của Ngài cho Tự do, Nhân quyền và phục hoạt quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN” (vỗ tay rất lâu).
Trong phần phát biểu của mình, Giáo sư Võ Văn Ái nhắc tới định nghĩa của pháp lý và vị trí lịch sử và dân tộc của GHPGVNTN do chính Đức cố Tăng thống phát ngôn trước linh đài Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ năm 1992 :
“Nếu từ kinh Pháp Hoa mà Bồ tát Quảng Đức bước ra làm nên hành động Việt năm 1963, thì từ khổ nạn 68 năm Việt Nam, Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang mở ra con đường giác ngộ và siêu bạo lực cho nền văn hiến mới Việt Nam.
“Khi bước vào hội trường này chúng tôi thấy rất nhiều biểu ngữ. Biểu ngữ nào cũng giá trị, tuy nhiên có một biểu ngữ đúng với tâm trạng của chúng ta hôm nay nhân dự lễ Đại tường của Ngài. Đó là câu viết “Tưởng nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là thừa kế Ngài phục hoạt GHPGVNTN và đem lại nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam”. Chúng tôi thấy câu này rất ý nghĩa. Bởi vì chúng ta tưởng nhớ không chỉ nhớ thương trong lòng mà phải nhớ thương bằng hành động. Hành động tiếp nối con đường mà Ngài đã chịu khổ nạn suốt trên ba mươi năm qua. Đức cố Đệ tứ Tăng Thống là gương mẫu cho chúng ta thấy rằng, một con người ý thức có thể lật đổ một bạo quyền. Ngài với hai bàn tay trắng, cùng với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đã đứng lên suốt 35 năm qua, đối diện với ba triệu bộ đội, đối diện với trên một triệu công an, cảnh sát. Đặc biệt đối diện với một chính sách thù địch tôn giáo. Nhờ vậy ngày hôm nay, GHPGVNTN vẫn tồn tại trong nước cũng như ngoài nước. Đây là ví dụ hùng hồn Ngài để lại cho chúng ta.
“Một câu nói thâm thúy khi ông Thứ trưởng Công an Trần Tư đến gặp Ngài ở Bình Định than trách tại sao Giáo hội chống đối Nhà nước Cộng sản, Ngài trả lời nhẹ nhàng : Chính quyền nào cũng nói là muôn năm, nhưng không có chính quyền nào tồn tại muôn năm. Còn Phật giáo không nói muôn năm nhưng ba nghìn năm rồi Phật giáo vẫn tồn tại trên trái đất.
“Tôi xin phép quý vị đọc một đôi lời của Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang giải thích thế nào là pháp lý ? thế nào là GHPGVNTN ? Ngài phát biểu hôm Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ Huế năm 1992. Ngài từ Quảng Ngãi ra thọ tang. Trước linh đài Đức Đệ tam Tăng thống, Ngài phát biểu một bài dài nhiều ý nghĩa. Nhưng tôi chỉ xin trích đọc lại hai đoạn ngắn để chúng ta thấy rõ ý chí của Ngài, quan niệm của Ngài đối với vấn đề pháp lý cộng sản. Bởi vì hiện tại GHPGVNTN không có quyền sinh hoạt pháp lý tại Việt Nam. Đối với Ngài pháp lý chỉ là một mảnh giấy, rồi Ngài cũng định nghĩa thế nào là GHPGVNTN mà trong chúng ta hôm nay có người đã đoạn tình quên lãng. Xin hãy lắng lòng nghe lại lời phát biểu của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang sau đây :
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 xẩy tới. Chiến tranh chấm dứt. Hòa thượng cũng như chúng tôi trong Hội đồng Lưỡng Viện tưởng rằng Giáo hội sẽ được bước vào thời bình, để tiếp tục thi hành Phật sự. Không ngờ chướng ngại và trở lực khác lại manh nha.
“Chướng ngại ấy là sự kiện một“Giáo hội Nhà nước” ra đời tại Chùa Quán Sứ ở Hà Nội, do chính quyền dựng lên vào đầu năm 1981. Tôi xin nói lại, là do chính quyền dựng lên, chứ không phải do Tăng Ni suy cử. Vì vậy mà mười mấy năm qua, Tăng Ni và Phật tử âm thầm chịu đựng sự áp bức.
“Làm sao cho Giáo hội tồn tại, như một hùng niệm tới máu xương và tù tội của các Thánh Tăng và Phật tử tử đạo ?
“Vì sao Giáo hội Hà Nội mới ra đời lại có pháp lý, còn Giáo hội Ấn Quang, tức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), không được pháp lý bảo vệ ? Xin lập lại, là tại sao Giáo hội Hà Nội do chính quyền lập ra lại đầy quyền hành, thế lực, và có “pháp lý” ? Trong khi Giáo hội Ấn Quang, một Giáo hội truyền thống dựng lên từ xương máu, khổ đau và tâm thành của bao nhiêu thế hệ Phật giáo, thì lại bị phủ nhận ? Điều cần biết là cho đến nay, chưa có một nghị định, sắc luật nào khai tử Giáo hội Ấn Quang. Thế thì, chỉ nói trên mặt xã hội và thế tục mà thôi, pháp lý của Giáo hội Ấn Quang vẫn y nhiên tồn tại.
“Có người sẽ hỏi tại sao mười mấy năm qua chúng ta không còn được thi hành Phật sự như ý nguyện ? Câu hỏi rất đúng, rất cần, rất thiết tha, bắt tòan thể Phật tử chúng ta phải suy nghĩ. Lại có người dễ dãi cho rằng, chúng ta đang thiếu những người lãnh đạo. Tôi khẳng dịnh ngay : điều đó không đúng. Và cũng xin thưa ngay : chư vị lãnh đạo Phật giáo, những người đã hy sinh đóng góp xây dựng Giáo hội Ấn Quang còn nhiều lắm. Họ có mặt khắp nơi, ở trong nước cũng đông, mà ở hải ngọai cũng đông. Cho nên, GHPGVNTN của chúng ta không dễ dẹp bỏ đi trong một ngày, một tháng, một vài năm. Không ai có quyền tự thị muốn dẹp bỏ, muốn đóng cửa lúc nào cũng được.
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Tôi còn đây, Quảng Độ còn đó, hàng Giáo phẩm ở trong nước, ở ngòai nước cũng còn đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục hướng dẫn Hội đồng Lưỡng Viện, tiếp tục điều hành bình thường Phật sự Giáo hội cho đến khi GHPGVNTN được tự do họat động như ngày nào trước 1975. Xin Giác linh Hòa thượng gia hộ cho chúng tôi, cho Tăng Ni, cho Phật tử vững bước tiến theo Giáo hội, vững lòng tin tưởng vào pháp mệnh trường cửu của một Giáo hội truyền thống.
“Giáo hội truyền thống là gì ? Là một Giáo hội của Tăng Ni, Phật tử, do chư vị Trưởng lão đại tăng, cao tăng, danh tăng lập thành. Chứ không do một thế lực thế tục nào lập ra, bất chấp mọi ý lực của tập thể Tăng Ni Phật tử. Bởi thế, tòan thể Tăng Ni, Phật tử đã dựng xây Giáo hội, sống với Giáo hội, chia ngọt sẻ bùi với Giáo hội, chết chóc, tù đày cùng Giáo hội, vẫn bất khuất tiến lên dưới sự lãnh đạo của Giáo hội. Không ai có thể phát ngôn bừa bãi rằng GHPGVNTN ta không có pháp lý.
“Pháp lý là gì ? Ở đây và hiện nay, pháp lý chỉ là mảnh giấy được viết và cấp phát cho một tổ chức tân lập để hỗ trợ những mục tiêu riêng tư, cục bộ, phi Phật giáo. Trái lại, Giáo hội ta có mặt trên dải đất này đã 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý, Trần đã chấp nhận Phật giáo. Các triều đại kế tiếp cũng chấp nhận Phật giáo. Do đó, mà những khẩu hiệu như thế này đã vang lên ở Đại hội bất thường của GHPGVNTN sau năm 1975 tại Hội trường Ấn Quang ở Saigon, tôi xin lập lại :
- Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm dựng Văn mở Đạo trên dải đất Việt Nam này !
- Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng già, trẻ, lớn, bé !
- Cơ sở của Giáo hội là nông thôn, thành thị, cao nguyên và hải đảo !
“Đó là cơ sở vững chắc muôn năm. Đó là pháp lý, địa vị có sở của Giáo hội.
“Pháp lý thế tục có thể ban ra và có thể thu lại. Lẽ nào Giáo hội lại cúi đầu chịu mãi sự săn đầm đó ? Cho nên, không thể nhìn Giáo hội Phật giáo theo pháp lý giấy, mà phải nhìn thấy Giáo hội qua lịch sử đạo lý và vinh quang của dân tộc. Cái đó mới là pháp lý. Nói rõ hơn, pháp lý ấy là Chính Pháp.
“Các vị nghe rõ không ạ ? Tôi lập lại : Pháp lý của Giáo hội Phật giáo là Chính pháp của 2000 năm lịch sử đạo lý và văn hiến trên đường mở nước và dựng nước. Cơ sở của Giáo hội Phật giáo là nông thôn, thành thị, núi rừng và hải đảo dưới ánh hào quang của Trí Tuệ và Từ Bi. Địa vị của Giáo hội Phật giáo là 80% dân chúng, già, trẻ, lớn, bé. Không còn nghi ngờ gì nữa về nền pháp lý có truyền thồng lịch sử ấy của GHPGVNTN”.
Phần phát biểu của Bình luận gia Lý Đại Nguyên, ông đề cao sự tiên phong của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang dẫn đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức và độc tài Cộng san, khiến cho sau đó những nhà cộng sản ly khai bước theo nhập cuộc.
Đặc biệt ở phần Hội luận kết thúc lễ Đại tường, Dân biểu Joseph Cao, người dân biểu gốc Việt duy nhất tại Quốc hội Hoa Kỳ, đã đến tôn vinh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang. Nhân dịp này, Dân biểu khẳng định vai trò của mình đối với Cộng đồng Người Việt hải ngoại cũng như đối với cố quốc Việt Nam :
“Cách đây khoảng chừng một năm rưởi tôi có được gặp Đức Dalai Lama ở trên Hoa Thịnh Đốn. Đức Dalai Lama có nhắc tôi một chuyện, là nếu trong những lúc tôi nói chuyện, thông báo hay làm việc ở Quốc hội thì ông khuyên tôi tính cách chuyên môn qua tư cách mình là người Mỹ gốc Việt. Tại vì chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiểu được tình trạng Cộng đồng Việt Nam của chúng ta. Chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiều được những đau khổ, những sự Cộng đồng chúng ta phải trải qua trong hơn 35 năm qua. Và nói chung một người Mỹ gốc Việt đứng lên nói về sự xẩy ra ở trên nước Việt Nam [với tính cách] chuyên môn là sẽ được nhiều hiệu quả, mạnh hơn là một người không phải gốc Việt Nam.
“Nói chung, trong 18 tháng qua tôi cũng thấy như vậy. Mỗi lần những người tôi làm việc chung trong Quốc hội lúc nào liên hệ tới Việt Nam họ tới gặp tôi nói chuyện và hỏi ý kiến. Tại họ nghĩ rằng có một người Việt hiểu được tình trạng nước Việt. Và trong 18 tháng qua tôi rất hãnh diện, mặc dù tôi đại diện cho địa hạt Louisana, tôi cũng rất hãnh diện đã là một tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên nước Mỹ, cùng với tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên thế giới liên hệ tới vấn đề tự do tôn giáo, tự do nhân quyền ở trên nước Việt Nam. Trong 18 tháng qua tôi đã làm việc rất là… nói là không ngủ thì không đúng, nhưng nhiều thời gian lâu dài liên hệ tới những Đạo luật và những chuyện xẩy ra trên đất nước Việt Nam. Nói chung có hai Đạo luật tôi đang muốn thông qua tại Quốc hội ; thứ nhất là việc gọi là Việt Nam Denocracy Promotion Act (Đạo luật Thăng tiến Dân chủ Việt Nam), thứ hai là về Vietnam Sanction Act (Đạo luật về việc chế tài Việt Nam). Hai cái đó nếu Quốc hội thông qua sẽ ép Việt Nam theo đường lối của chúng ta ước ao trong hơn ba mươi năm qua. Đó là làm sao xây dựng được một xã hội Việt Nam mà dân chúng có tự do tôn giáo, tự do nhân quyền.
“Tôi thấy qua sự tiếp xúc của mọi người trong cộng đồng, dù là Cộng giáo, Phật giáo hay là Hòa Hảo, mọi người chúng ta dù khác biệt về đức tin, khác biệt về ý nghĩ, về đời sống, nhưng tôi thấy mọi người đồng ý một điểm, đó là làm sao chúng ta có thể thành lập, thứ nhất một Cộng đồng Việt Nam rất mạnh trên nước Mỹ, thứ hai là làm sao mang tới sự tự do ở trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
Trên hai nghìn chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử đã vân tập về Chùa Bảo Phước dự lễ Đại tường Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang.
Linh đài Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang
|
Chùa Bảo Pháp mà chúng tôi đến thăm hai năm trước không còn là chủa Bảo Pháp hôm nay. Từ một ngôi chùa nhỏ bé, chật hẹp, nay đã tậu thêm vạc đất rộng cạnh chùa, nơi dựng lên một hội trường có thể chứa hàng nghìn người tham dự. Lễ đài chưng ảnh lớn Đức cố Tăng thống, hương hoa, trầm, đèn trang nghiêm với biểu từ : “Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang : Một Đời Vì Đạo Vì Dân”. Từ xa phấp phới hàng trăm lá cờ ngũ sắc Phật giáo và cờ vàng ba sọc đỏ, với tiếng nhạc êm đềm đầy tình tự quê hương. Gặp Thượng tọa trụ trì Thích Viên Dung, Đạo hữu Võ Văn Ái từ Paris qua tham dự đã nói lên lời tán dương công đức Thượng tọa rằng : Thật là Chân không sinh Diệu hữu !
Chư Tôn đức lãnh đạo Văn phòng II Viện Hóa Đạo đã từ khắp nơi trên lãnh thổ Hoa Kỳ vân tập về dự lễ. Nhiều Khuôn hội Cư sĩ các tiểu bang khác cũng có mặt như Đoàn Cư sĩ chùa Điều Ngự từ miền Nam California kéo lên đông đảo.
Nhiều biểu ngữ treo ở hội trường nhắc lại lời của Đức cố Tăng thống nhắn nhủ khi Ngài còn sinh tiền : “Chánh pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ - Chúng sinh không thể an lạc nơi áp bức, đói nghèo” ; “Tôi là người đi không đường, sống không nhà, chết không mồ, tù không tội” ; và lời ước nguyện của Phật tử hải ngoại : “Tưởng nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là kế thừa Ngài phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN, đem lại nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam”.
Chương trình lễ Đại tường kéo dài trong hai ngày. Ngày thứ bảy 17.7 khởi sự lễ Đại tường với bốn tiết mục : hai thời thuyết pháp của Đức Phó Tăng thống kiêm Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo Thích Hộ Giác, và Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo kiêm Phó Chủ tịch GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Ra mắt sách “Một đời vì Dạo vì Dân : Đức Cố Tăng thống Thích Huyền Quang” do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan giới thiệu, và chấm dứt với tiết mục Cảm niệm về công hạnh hoằng hóa của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang qua những chia sẻ của chư Tăng Ni, Phật tử từng sống hay làm việc với Ngài.
Lễ Đài Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang tại chùa Bảo Phước, thành phố San Jose, California, Hoa Kỳ
|
Hội trường đón tiếp chư Tăng Ni, Phật tử tham dự lễ Đại tường
|
Qua ngày chủ nhật 18.7, Đại lễ chính thức cử hành qua hai nghi thức Nam tông và Bắc tông. Sau đấy Thượng tọa Thích Viên Dung thay mặt Ban tổ chức đọc Diễn văn khai mạc, Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác đọc bài tôn vinh công hạnh Ngài, Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc đọc lời Ai văn tưởng nguyện của Văn phòng II Viện Hóa Đạo, và kết thúc với ba lời phát biểu của Nhà văn Ỷ Lan, người đệ tử ngoại quốc duy nhất của Ngài, Giáo sư Võ Văn Ái và Bình luận gia Lý Đại Nguyên nói về cuộc đời tận tụy của Đức cố Tăng thống đối với Đạo và với Dân tộc.
Trên 2000 chư Tăng Ni, Phật tử tham dự lễ Đại tường
|
Lễ Đại tường kết thúc với cuộc Hội luận về cuộc đời của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang do hai Đạo hữu Võ Văn Ái và Ỷ Lan trình bày. Cuộc hội luận đã vô cùng hào hứng với sự tham gia phát biểu của đông đảo thính chúng. Tất cả nhất tề nói lên nỗi thao thức phục vụ đất nước và chí thành hậu thuẫn GHPGVNTN theo bước chân của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và người thừa kế Ngài là Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Trong nỗi buồn khôn nguôi của chư Tăng Ni, Phật tử, nhưng Lễ Đại tường Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang còn đọng lại trong tâm người tham dự lòng sắt son với tiền đồ của nền Phật giáo dân tộc mà nhờ công đức đại hải của Đức cố Tăng thống Thích Huuyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Thích Quảng Độ vững tay chèo lái suốt 35 năm vượt bao giông bão, đưa con thuyền Giáo hội đến chân trời tươi sáng.
Đức Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác ban Đạo từ tôn vinh công hạnh Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang
|
Trong Đạo từ của Đức Phó Tăng thống Thích Hộ Giác tôn vinh công hạnh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang có đoạn ngài phát biểu rằng :
“Từ thuở tuổi hãy còn rất trẻ bất kể chướng duyên, một mình rày đây mai đó, Đức Đệ tứ Tăng Thống đã trao cho mình những hành trang cần thiết như một khẳng định mà qua đó những bậc đồng học hết sức nể vì. Chẳng những chuyên ròng về mặt đa văn túc trí mà Ngài còn nỗ lực hành toàn về hạnh thượng cầu hạ hóa. Nhứt là đời sống vạn hạnh thanh tịnh của một Trưởng tử Như Lai.
“Kính thưa chư liệt vị. Cuộc đời Đức Đệ tứ Tăng Thống gắn liền với lịch sử đất nước, đạo Phật, con người. Ngài đã để lại những dấu ấn đầy ấn tượng trên từng giai kỳ thịnh suy của lịch sử. Nhất là những giai đoạn nghiệt ngã quốc nạn và pháp nạn. Đạo phong trác tuyệt của Đức Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang là chuẩn mực tiêu biểu của lý tưởng Bồ Tát hạnh trong những hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước, đứng trước vực thẳm của giống nòi, nhất là trước nạn ngoại xâm từ phương Bắc. Dẫu thân cô thế yếu Ngài vẫn không ngừng tuyên dương Công bình và Lẽ phải. Đặc biệt là quyền sống của Con Người. Ngài kêu gọi sự từ bỏ tham vọng thấp hèn và đề xuất những lối đi như là những Giải pháp thay thế thù ứng toàn diện. Đời sống phạm hạnh của Ngài từ đó là một bài học vô giá và càng tỏa sáng hơn thì phạm hạnh vô giá ấy được đồng hành cùng Bồ Tát hạnh.
“Chúng con xin cúi đầu đãnh lễ tri ân công hạnh hoằng hóa sâu dày của Ngài và nguyện tiếp tục con đường mà Ngài đã đi và hoàn tất những di ngôn Ngài để lại.
“Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tôn tứ thập nhất thế khai sơn Tu viện Nguyên Thiều Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN thượng Huyền hạ Quang Đại lão Hòa thượng Giác linh tác đại chứng minh”.
Trong bài Diễn văn khai mạc Đại lễ của Trưởng ban Tổ chức, Thượng tọa Thích Viên Dung, Trụ trì chùa Bảo Phước mà cũng là Chánh Đại diện Miền Huyền Quang, bao gồm vùng Bắc California, cũng tuyên dương công đức có một không hai :
“Thời gian biến đổi, sự thế vô thường, nhưng sự quy tịch của Ngài là một mất mát to lớn, không những đối với Phật giáo đồ mà còn đối với cả Dân tộc Việt Nam. Quả thật như vậy ! Lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam, Ngài là một trong những cao tăng thạc đức, một bậc Long Tượng thiền môn phi thường, nhập trần, xuất thế, hạnh nguyện lực Đại Trí, Đại Hùng, Đại Bi Tâm. Trong 89 năm trụ thế, phần lớn cuộc đời Ngài, phải chống đỡ những ngửa nghiêng của ý thức hệ Cộng Sản đè nặng, làm điêu linh và băng hoại cả Dân tộc. Trong 71 năm Pháp Lạp, gánh vác con thuyền Giáo Hội vượt ba đào bởi những chông chênh của thời thế nhiễu nhương, dân tình thống khổ. Ngài đã tiếp nối mạng mạch truyền thừa lâu dài nhất, kỳ vĩ nhất, nghiệt ngã nhất, gai góc nhất, của ba đời Tăng Thống để lại : Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Đại Lão Hoà Thượng Đệ Nhị Tăng Thống Thích Giác Nhiên, Đại Lão Hoà Thượng Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu, để tiếp tục viết nên trang sử GHPGVNTN vẫn còn dang dở…
Thượng tọa Thích Viên Dung, Trưởng ban Tổ chức đọc Diễn văn khai mạc
|
“Kính thưa quý liệt vị. Không dang dở sao được, suốt cuộc đời Ngài luôn đấu tranh đòi hỏi Tự Do cho tôn giáo, Dân Chủ cho đất nước, từ tháng 4 năm 1977, bạo quyền Hà Nội đã giam Ngài trong ngục tù Phan Đăng Lưu, Sài Gòn, sau đó chuyển ra quản chế tại chùa Hội Phước, Quảng Ngãi. Mãi đến năm 1995, tuy bạo quyền Hà Nội không đem Ngài ra xét xử, nhưng lại chuyển Ngài đến chùa Phước Quang, huyện Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, một nơi xa xôi, hẻo lánh, trước mặt chùa có bót công an canh giữ, gay gắt và cẩn mật hơn. Không dang dở sao được, như Ngài đã tuyên bố : “Cuộc đời tôi : Sống không nhà, tu không chùa, đi không đường, tù không tội, chết không mồ. Cuộc đời tôi, ở trong nhà tù nhỏ, khác gì nhà tù lớn. Đất nước không có Tự Do, làm sao tôi có Tự Do ? Dân tộc không có Dân Chủ, làm sao tôi có tiếng nói Nhân Quyền ? Biên cương, lãnh thổ, vùng biển, vùng trời, bị cưỡng đoạt. Sỉ nhục Tổ tiên, làm sao tôi không sỉ nhục ? Cả lịch sử 5000 năm. Dân tộc luôn tương ái, tương thân, đồng cam cọng khổ, trên mãnh đất của Quê Cha Đất Mẹ, chứ chưa đành đoạn biệt xứ, lưu vong đến hàng triệu người, thì làm sao tôi không đau trong nổi đau thống thiết ấy ?...”
“Trong suốt thời gian bị cầm tù và quản chế, Ngài đã ra nhiều tuyên cáo, đấu tranh trực diện với bạo quyền Hà Nội, với mục đích “ Giải trừ Quốc Nạn và Pháp Nạn”, đòi hỏi Tự Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân tộc. Ngài đã từng tuyên bố trước công luận Quốc tế :
- “ Chánh Pháp không thể nở hoa nơi giang sơn nô lệ”
- “Chúng sinh không thể an lạc, nơi áp bức đói nghèo”.
“Kính thưa quý liệt vị. Ngài đã quy tịch, trong lúc trang sử của Dân Tộc vẫn còn nhiều hoen ố bởi bạo quyền Cộng Sản. Cuộc đấu tranh đòi Tự Do tôn giáo và Nhân Quyền cho Dân Tộc của Ngài cũng như của Giáo Hội PGVNTN đang tiếp diễn cho đến ngày thành công. Chúng ta toàn thể Tăng Ni, Tín đồ từ quốc nội, đến hải ngoại, thành tâm truy tán, kính ngưỡng cuộc đời và hành trạng Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, ghi đậm dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn người dân Việt. Hạnh Bi nguyện một bậc Đại Thượng sĩ của Ngài là tấm gương bất tuyệt trong công hạnh Thượng cầu Phật đạo, Hạ hoá chúng sinh.
“Tưởng nhớ Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang là nổ lực, thừa kế Ngài phục hoạt GHPGVNTN và đem lại Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam”.
Thời thuyêt pháp của Đại lão Hòa thượng Thích Chánh Lạc sáng ngày thứ bảy 17.7.2010
|
Trong phần quan khách phát biểu, Nhà văn Ỷ Lan, người nước Anh là đệ tử ngoại quốc duy nhất của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang được Ban Tổ chức mời phát biểu. Chị đã nói lên ảnh hưởng quốc tế lớn rộng của Ngài như sau :
“Ỷ Lan vốn là người thích nói nhiều khi có dịp nói tiếng Việt. Nhưng hôm nay trong sân chùa Bảo Phước, trong lễ Đại tường cho Bổn sư của Ỷ Lan, Ỷ Lan không đủ lời nói lên sự xúc động của mình. Xúc động để nói về vị Bổn sư mà mình chưa hề được gặp. Nhưng không có một ngày nào, trong hơn ba mươi năm đấu tranh cho tự do tín ngưỡng và nhân quyền tại Việt Nam, mà Ỷ Lan không nghĩ đến Ngài. Ngài là một người bất khuất (vỗ tay), Ngài là người mà uy đức không chỉ bao trùm khắp nước Việt Nam mà còn lan xa trên khắp năm châu. Chính vì vậy uy danh của Thầy đã đến xứ Sương mù của Ỷ Lan bên Anh, khiến Ỷ Lan muốn theo gót Ngài, muốn noi gương Ngài để đóng góp một cái gì cho đất nước và đạo pháp tại Việt Nam (vỗ tay). Thật sự, Ỷ Lan chưa hề được gặp Ngài. Khi mơ ước trở thành Phật tử, Ỷ Lan mơ ước sẽ về trong một ngôi chùa ở làng quê Việt Nam để xin quy y. Nhưng cuộc đấu tranh còn dài, chắc ngày đó còn xa, cho nên Ỷ Lan lấy hết can đảm viết một bức thư cho Ngài Huyền Quang là người mình ngưỡng phục suốt bao nhiêu năm qua. Ngài lúc đó bị quản chế, suốt đời bị quản chế, tù đày. Bức thư của Ỷ Lan mất một năm trời không thấy hồi âm. Ỷ Lan nghĩ chắc không thể nào một bậc Cao tăng như Ngài lại nghĩ tới một người yếu hèn như mình để chấp nhận : Một người ngoại quốc, Một người phụ nữ, Một người cư sĩ ! Cả ba cái chắc chắn là Ngài sẽ không nhận (vỗ tay).
“Nhưng một năm sau, nghĩa là thư Ỷ Lan mất 6 tháng đi và thư Ngài hồi âm mất 6 tháng để trở về. Một ngày nào đó đang ngồi trong văn phòng Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris, Ỷ Lan nhận được một phái Quy y to tướng có chữ ký của Hòa thượng Huyền Quang. Vô cùng xúc động (vỗ tay). Từ bữa đó, ngày nào Ỷ Lan cũng phục vụ cho Thầy. Bởi vì như quý biết, một người bị quản chế nơi đất nước Việt Nam, khi không có áp lực quốc tế thì chính quyền rất có thể dập tắt tiếng nói của Ngài, còn làm hại Ngài. Cho nên anh Ái và Ỷ Lan ở Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế không có ngày nào không vận động quốc tế, dịch những tài liệu, làm sao cho ánh sáng bên ngoài soi tới con người Ngài.
“Ỷ Lan rất phục Ngài vì Ngài khổ suốt đời ở một nơi gọi là khỉ ho cò gáy, không có ai xung quanh (vỗ tay). Đồn công an trước chùa, mùa lũ lụt ở Quảng Ngãi chắc quý vị cũng biết có khi Ngài phải lên trên bàn ngồi ngủ vì nước lụt vào chùa. Rất khổ sở. Nhưng không một lời than, không bao giờ Ngài nghĩ rằng mình phải rời bỏ lý tưởng đổi lấy đời sung sướng hơn. Cách phát biểu của Ngài rất đặc biệt, Ngài nói ngắn gọn. Ỷ Lan nhớ một lần đọc bản tin của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội tường thuật buổi gặp gỡ giữa Đại sứ Mỹ Raymond Burghart và Hòa thượng Thích Huyền Quang nơi bị quản chế. Đại sứ Burghart hỏi Ngài Huyền Quang “Vì sao GHPGVNTN làm chính trị vậy ?” Hòa thượng đáp rất ngắn gọn, nhưng như đinh đóng cột, Hòa thượng nói : Xin Đại sứ nói với Nhà Nước bởi vì Nhà nước xen lấn vào vấn đề tôn giáo. Khi nào Nhà Nước thôi xen lấn vào vấn đề tôn giáo thì chúng tôi không còn nói vấn đề chính trị nữa (vỗ tay). Đó là tất cả vấn đề của Việt Nam ngày nay.
“Hôm nay trong khung cảnh đứng trước mặt quý vị ở đây, Ỷ Lan rất xúc động. Thời Ngài còn sống, Ỷ Lan đã hứa với Ngài Ỷ Lan sẽ về vấn an Ngài tại Bình Định. Nhưng Ỷ Lan đã thất hứa. Ỷ Lan chỉ có chút an ủi là những cuộc vận động của mình làm cho Ngài bớt khổ trong những năm cuối cùng của đời Ngài, nhờ áp lực quốc tế. Nhưng vì đã thất hứa, thì hôm nay trước di ảnh Giác linh Ngài và trước tất cả đồng bào có mặt hôm nay, Ỷ Lan hứa sẽ làm hết mình để kế thừa Ngài đi theo con đường của Ngài cho Tự do, Nhân quyền và phục hoạt quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN” (vỗ tay rất lâu).
Trong phần phát biểu của mình, Giáo sư Võ Văn Ái nhắc tới định nghĩa của pháp lý và vị trí lịch sử và dân tộc của GHPGVNTN do chính Đức cố Tăng thống phát ngôn trước linh đài Đức cố Đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu tại chùa Linh Mụ năm 1992 :
“Nếu từ kinh Pháp Hoa mà Bồ tát Quảng Đức bước ra làm nên hành động Việt năm 1963, thì từ khổ nạn 68 năm Việt Nam, Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang mở ra con đường giác ngộ và siêu bạo lực cho nền văn hiến mới Việt Nam.
“Khi bước vào hội trường này chúng tôi thấy rất nhiều biểu ngữ. Biểu ngữ nào cũng giá trị, tuy nhiên có một biểu ngữ đúng với tâm trạng của chúng ta hôm nay nhân dự lễ Đại tường của Ngài. Đó là câu viết “Tưởng nhớ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang là thừa kế Ngài phục hoạt GHPGVNTN và đem lại nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam”. Chúng tôi thấy câu này rất ý nghĩa. Bởi vì chúng ta tưởng nhớ không chỉ nhớ thương trong lòng mà phải nhớ thương bằng hành động. Hành động tiếp nối con đường mà Ngài đã chịu khổ nạn suốt trên ba mươi năm qua. Đức cố Đệ tứ Tăng Thống là gương mẫu cho chúng ta thấy rằng, một con người ý thức có thể lật đổ một bạo quyền. Ngài với hai bàn tay trắng, cùng với Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ đã đứng lên suốt 35 năm qua, đối diện với ba triệu bộ đội, đối diện với trên một triệu công an, cảnh sát. Đặc biệt đối diện với một chính sách thù địch tôn giáo. Nhờ vậy ngày hôm nay, GHPGVNTN vẫn tồn tại trong nước cũng như ngoài nước. Đây là ví dụ hùng hồn Ngài để lại cho chúng ta.
“Một câu nói thâm thúy khi ông Thứ trưởng Công an Trần Tư đến gặp Ngài ở Bình Định than trách tại sao Giáo hội chống đối Nhà nước Cộng sản, Ngài trả lời nhẹ nhàng : Chính quyền nào cũng nói là muôn năm, nhưng không có chính quyền nào tồn tại muôn năm. Còn Phật giáo không nói muôn năm nhưng ba nghìn năm rồi Phật giáo vẫn tồn tại trên trái đất.
“Tôi xin phép quý vị đọc một đôi lời của Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang giải thích thế nào là pháp lý ? thế nào là GHPGVNTN ? Ngài phát biểu hôm Đức Đệ Tam Tăng Thống Thích Đôn Hậu viên tịch tại chùa Linh Mụ Huế năm 1992. Ngài từ Quảng Ngãi ra thọ tang. Trước linh đài Đức Đệ tam Tăng thống, Ngài phát biểu một bài dài nhiều ý nghĩa. Nhưng tôi chỉ xin trích đọc lại hai đoạn ngắn để chúng ta thấy rõ ý chí của Ngài, quan niệm của Ngài đối với vấn đề pháp lý cộng sản. Bởi vì hiện tại GHPGVNTN không có quyền sinh hoạt pháp lý tại Việt Nam. Đối với Ngài pháp lý chỉ là một mảnh giấy, rồi Ngài cũng định nghĩa thế nào là GHPGVNTN mà trong chúng ta hôm nay có người đã đoạn tình quên lãng. Xin hãy lắng lòng nghe lại lời phát biểu của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang sau đây :
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 xẩy tới. Chiến tranh chấm dứt. Hòa thượng cũng như chúng tôi trong Hội đồng Lưỡng Viện tưởng rằng Giáo hội sẽ được bước vào thời bình, để tiếp tục thi hành Phật sự. Không ngờ chướng ngại và trở lực khác lại manh nha.
“Chướng ngại ấy là sự kiện một“Giáo hội Nhà nước” ra đời tại Chùa Quán Sứ ở Hà Nội, do chính quyền dựng lên vào đầu năm 1981. Tôi xin nói lại, là do chính quyền dựng lên, chứ không phải do Tăng Ni suy cử. Vì vậy mà mười mấy năm qua, Tăng Ni và Phật tử âm thầm chịu đựng sự áp bức.
“Làm sao cho Giáo hội tồn tại, như một hùng niệm tới máu xương và tù tội của các Thánh Tăng và Phật tử tử đạo ?
“Vì sao Giáo hội Hà Nội mới ra đời lại có pháp lý, còn Giáo hội Ấn Quang, tức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), không được pháp lý bảo vệ ? Xin lập lại, là tại sao Giáo hội Hà Nội do chính quyền lập ra lại đầy quyền hành, thế lực, và có “pháp lý” ? Trong khi Giáo hội Ấn Quang, một Giáo hội truyền thống dựng lên từ xương máu, khổ đau và tâm thành của bao nhiêu thế hệ Phật giáo, thì lại bị phủ nhận ? Điều cần biết là cho đến nay, chưa có một nghị định, sắc luật nào khai tử Giáo hội Ấn Quang. Thế thì, chỉ nói trên mặt xã hội và thế tục mà thôi, pháp lý của Giáo hội Ấn Quang vẫn y nhiên tồn tại.
“Có người sẽ hỏi tại sao mười mấy năm qua chúng ta không còn được thi hành Phật sự như ý nguyện ? Câu hỏi rất đúng, rất cần, rất thiết tha, bắt tòan thể Phật tử chúng ta phải suy nghĩ. Lại có người dễ dãi cho rằng, chúng ta đang thiếu những người lãnh đạo. Tôi khẳng dịnh ngay : điều đó không đúng. Và cũng xin thưa ngay : chư vị lãnh đạo Phật giáo, những người đã hy sinh đóng góp xây dựng Giáo hội Ấn Quang còn nhiều lắm. Họ có mặt khắp nơi, ở trong nước cũng đông, mà ở hải ngọai cũng đông. Cho nên, GHPGVNTN của chúng ta không dễ dẹp bỏ đi trong một ngày, một tháng, một vài năm. Không ai có quyền tự thị muốn dẹp bỏ, muốn đóng cửa lúc nào cũng được.
“Kính bạch Giác linh Hòa thượng,
“Tôi còn đây, Quảng Độ còn đó, hàng Giáo phẩm ở trong nước, ở ngòai nước cũng còn đó. Chúng tôi sẽ tiếp tục hướng dẫn Hội đồng Lưỡng Viện, tiếp tục điều hành bình thường Phật sự Giáo hội cho đến khi GHPGVNTN được tự do họat động như ngày nào trước 1975. Xin Giác linh Hòa thượng gia hộ cho chúng tôi, cho Tăng Ni, cho Phật tử vững bước tiến theo Giáo hội, vững lòng tin tưởng vào pháp mệnh trường cửu của một Giáo hội truyền thống.
“Giáo hội truyền thống là gì ? Là một Giáo hội của Tăng Ni, Phật tử, do chư vị Trưởng lão đại tăng, cao tăng, danh tăng lập thành. Chứ không do một thế lực thế tục nào lập ra, bất chấp mọi ý lực của tập thể Tăng Ni Phật tử. Bởi thế, tòan thể Tăng Ni, Phật tử đã dựng xây Giáo hội, sống với Giáo hội, chia ngọt sẻ bùi với Giáo hội, chết chóc, tù đày cùng Giáo hội, vẫn bất khuất tiến lên dưới sự lãnh đạo của Giáo hội. Không ai có thể phát ngôn bừa bãi rằng GHPGVNTN ta không có pháp lý.
“Pháp lý là gì ? Ở đây và hiện nay, pháp lý chỉ là mảnh giấy được viết và cấp phát cho một tổ chức tân lập để hỗ trợ những mục tiêu riêng tư, cục bộ, phi Phật giáo. Trái lại, Giáo hội ta có mặt trên dải đất này đã 2000 năm rồi. Đinh, Lê, Lý, Trần đã chấp nhận Phật giáo. Các triều đại kế tiếp cũng chấp nhận Phật giáo. Do đó, mà những khẩu hiệu như thế này đã vang lên ở Đại hội bất thường của GHPGVNTN sau năm 1975 tại Hội trường Ấn Quang ở Saigon, tôi xin lập lại :
- Pháp lý của Giáo hội là 2000 năm dựng Văn mở Đạo trên dải đất Việt Nam này !
- Địa vị của Giáo hội là 80% dân chúng già, trẻ, lớn, bé !
- Cơ sở của Giáo hội là nông thôn, thành thị, cao nguyên và hải đảo !
“Đó là cơ sở vững chắc muôn năm. Đó là pháp lý, địa vị có sở của Giáo hội.
“Pháp lý thế tục có thể ban ra và có thể thu lại. Lẽ nào Giáo hội lại cúi đầu chịu mãi sự săn đầm đó ? Cho nên, không thể nhìn Giáo hội Phật giáo theo pháp lý giấy, mà phải nhìn thấy Giáo hội qua lịch sử đạo lý và vinh quang của dân tộc. Cái đó mới là pháp lý. Nói rõ hơn, pháp lý ấy là Chính Pháp.
“Các vị nghe rõ không ạ ? Tôi lập lại : Pháp lý của Giáo hội Phật giáo là Chính pháp của 2000 năm lịch sử đạo lý và văn hiến trên đường mở nước và dựng nước. Cơ sở của Giáo hội Phật giáo là nông thôn, thành thị, núi rừng và hải đảo dưới ánh hào quang của Trí Tuệ và Từ Bi. Địa vị của Giáo hội Phật giáo là 80% dân chúng, già, trẻ, lớn, bé. Không còn nghi ngờ gì nữa về nền pháp lý có truyền thồng lịch sử ấy của GHPGVNTN”.
Quầy sách “Một Đời Vì Đạo Vì Dân : Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang”
|
Dân
biểu Quốc hội Hoa Kỳ Joseph Cao trong buổi Hội luận về cuộc đời
Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang, ảnh bên trái Nhà văn Ỷ Lan,
bên phải ông Võ Văn Ái
|
Phần phát biểu của Bình luận gia Lý Đại Nguyên, ông đề cao sự tiên phong của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang dẫn đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức và độc tài Cộng san, khiến cho sau đó những nhà cộng sản ly khai bước theo nhập cuộc.
Đặc biệt ở phần Hội luận kết thúc lễ Đại tường, Dân biểu Joseph Cao, người dân biểu gốc Việt duy nhất tại Quốc hội Hoa Kỳ, đã đến tôn vinh Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang. Nhân dịp này, Dân biểu khẳng định vai trò của mình đối với Cộng đồng Người Việt hải ngoại cũng như đối với cố quốc Việt Nam :
“Cách đây khoảng chừng một năm rưởi tôi có được gặp Đức Dalai Lama ở trên Hoa Thịnh Đốn. Đức Dalai Lama có nhắc tôi một chuyện, là nếu trong những lúc tôi nói chuyện, thông báo hay làm việc ở Quốc hội thì ông khuyên tôi tính cách chuyên môn qua tư cách mình là người Mỹ gốc Việt. Tại vì chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiểu được tình trạng Cộng đồng Việt Nam của chúng ta. Chỉ có người Mỹ gốc Việt mới có thể hiều được những đau khổ, những sự Cộng đồng chúng ta phải trải qua trong hơn 35 năm qua. Và nói chung một người Mỹ gốc Việt đứng lên nói về sự xẩy ra ở trên nước Việt Nam [với tính cách] chuyên môn là sẽ được nhiều hiệu quả, mạnh hơn là một người không phải gốc Việt Nam.
“Nói chung, trong 18 tháng qua tôi cũng thấy như vậy. Mỗi lần những người tôi làm việc chung trong Quốc hội lúc nào liên hệ tới Việt Nam họ tới gặp tôi nói chuyện và hỏi ý kiến. Tại họ nghĩ rằng có một người Việt hiểu được tình trạng nước Việt. Và trong 18 tháng qua tôi rất hãnh diện, mặc dù tôi đại diện cho địa hạt Louisana, tôi cũng rất hãnh diện đã là một tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên nước Mỹ, cùng với tiếng nói của Cộng đồng chúng ta trên thế giới liên hệ tới vấn đề tự do tôn giáo, tự do nhân quyền ở trên nước Việt Nam. Trong 18 tháng qua tôi đã làm việc rất là… nói là không ngủ thì không đúng, nhưng nhiều thời gian lâu dài liên hệ tới những Đạo luật và những chuyện xẩy ra trên đất nước Việt Nam. Nói chung có hai Đạo luật tôi đang muốn thông qua tại Quốc hội ; thứ nhất là việc gọi là Việt Nam Denocracy Promotion Act (Đạo luật Thăng tiến Dân chủ Việt Nam), thứ hai là về Vietnam Sanction Act (Đạo luật về việc chế tài Việt Nam). Hai cái đó nếu Quốc hội thông qua sẽ ép Việt Nam theo đường lối của chúng ta ước ao trong hơn ba mươi năm qua. Đó là làm sao xây dựng được một xã hội Việt Nam mà dân chúng có tự do tôn giáo, tự do nhân quyền.
“Tôi thấy qua sự tiếp xúc của mọi người trong cộng đồng, dù là Cộng giáo, Phật giáo hay là Hòa Hảo, mọi người chúng ta dù khác biệt về đức tin, khác biệt về ý nghĩ, về đời sống, nhưng tôi thấy mọi người đồng ý một điểm, đó là làm sao chúng ta có thể thành lập, thứ nhất một Cộng đồng Việt Nam rất mạnh trên nước Mỹ, thứ hai là làm sao mang tới sự tự do ở trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta”.
*
TT.THICH THIỆN MINH * GỬI CHÍNH PHỦ CỘNG SẢN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KIẾN NGHỊ THƯ
V/v: PHÓNG THÍCH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO
Kính gởi:
· Ông Nông Đức Mạnh –Tổng bí thư Đảng CS Việt Nam
· Ông Nguyễn Minh Triết – Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
· Ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam
· Ông Nguyễn Phú Trọng– Chủ tịch quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
Đồng kính gởi:
- Cựu tù nhân Chính trị và Tôn giáo của nhà tù nước CHXHCN Việt Nam .
- Gia đình các Cựu tù nhân chính trị và Tôn giáo nhà tù nước CHXHCN Việt Nam .
- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Kính thưa các Qúy ngài lãnh đạo đất nước.
Nhân
dịp ân xá ngày Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam 2/9/2010 và Đại lễ ngàn
năm Thăng Long 10/10/2010, chúng tôi một số cựu tù nhân Chính trị và
Tôn giáo cùng với gia đình những tù nhân Chính trị và Tôn giáo đang còn
bị giam giữ, kiến nghị khẩn thiết kính gởi đến
Qúy ngài lãnh đạo nước CHXHCN Việt Nam hãy trả tự do cho những tù nhân
Chính trị và Tôn giáo đang bị giam giữ vì các lý do sau đây:
Về
Tình trạng tù nhân: Những tù nhân Chính trị và Tôn giáo bao gồm những
tù nhân sắc tộc khác, hiện nay đều là những người yêu đất nước Việt Nam
với những tư tưởng ôn hòa. Có nhiều trường hợp họ bị kết án vì nói lên
tiếng nói khác biệt với quan điểm của Đảng CS Việt Nam, hoặc chỉ vì đề
nghị một đường lối chính sách xây dựng đất nước khác với quan điểm của
Đảng CS Việt Nam và phù hợp với lòng dân . Trong số đó có những người
bị giam giữ đến 27, 28 năm chưa kể thời gian họ bị tập trung cải tạo trước đó vì tham gia chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Nhiều tù nhân còn bị kết án một cách không
minh bạch, không công bằng, không đúng với thủ tục tố tụng. Điển hình
là vụ án của ông Nguyễn Hữu Cầu đang bị giam tại phân trại 2, Trại giam
Xuân Lộc, Đồng Nai với thời gian giam cầm gần 29, mắt Anh hầu như không còn thấy, người đầy bệnh tật, sức khỏe giảm sút…
Về
Tình trạng giam giữ: Mặc dù đã có phần nào cải thiện so với thập niên
80, 90 của thế kỷ trước, tuy nhiên nhà tù Việt Nam hiện nay vẫn là một
trong những nơi giam giữ khắc nghiệt nhất thế giới. Chế độ dinh dưỡng
thiếu thốn, phòng giam chật hẹp thiếu dưỡng khí, tù nhân chen chúc trong
điều kiện thiếu vệ sinh, dễ lây lan cá bệnh truyền nhiễm, dịch vụ y tế
khám chữa bệnh thiếu thốn và lạc hậu. Tất cả đó là những nguyên nhân
khiến nhiều tù nhân mang bệnh chết trong nhà tù
hoặc khi được trả tự do, về nhà phải mang nhiều bệnh nan y, hiểm nghèo.
Đó là chưa kể đến sự ngược đãi và bạo hành của những người có trách
nhiệm trong việc quản lý trại giam.
Ngoài
ra do hoàn cảnh khó khăn của gia đình những người tù, nên việc thăm
nuôi không thể thường xuyên và đều đặn. Có những tù nhân không có người
thăm nuôi trong suốt thời gian ở tù như trường hợp của anh Đinh Quang
Hải ra tù ngày 1/7/2010, không có gia đình thăm nuôi trong suốt 11 năm.
Ngoài
các tình trạng nêu trên chúng tôi thấy rằng tạo môi trường hòa giải
hòa hợp dân tộc là một lý do chánh đáng mà chúng tôi kiến nghị
Thưa các vị lãnh đạo!
Cuộc nội chiến Việt Nam đã chấm dứt 35 năm, nhưng lòng người dân Việt chưa bao giờ thống nhất. Thời thời gian gần đây Đảng CS và Nhà
nước Việt Nam luôn nói về HÒA HỢP, HÒA GIẢI DÂN TỘC, nhưng những ngôn
từ cao đẹp này sẽ trở nên vô nghĩa nếu nó không được thể hiện bằng hành
động cụ thể. Đảng CS và Nhà nước Việt Nam còn
có thể bắt tay làm hòa với Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Úc Đại Lợi…là những quốc
gia đã từng tham chiến tại Việt Nam trở thành đối tác chiến lược thì
tại sao không thể bắt tay làm hòa với những người dân Việt Nam theo chủ
nghĩa ôn hòa. Không có HÒA HỢP, HÒA GIẢI DÂN TỘC nếu chưa hòa giải với
những nạn nhân của chế độ, của sự khác biệt tư tưởng và ý thức hệ.
Trả
tự do các tù nhân Chính trị và Tôn giáo đó là sứ mệnh cao đẹp nhất mà
Qúy ngài có thể thực hiện ngay, ngoài mục đích nhân đạo còn là sự biểu
hiện thiện chí rõ ràng của Đảng CS và Nhà nước Việt Nam trong lời kêu
gọi HÒA HỢP, HÒA GIẢI DÂN TỘC.
Vì những lý do trên, chúng tôi, những cựu tù Chính trị và Tôn giáo và gia đình kiến nghị những nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và
Nhà nước CHXHCN Việt Nam hãy mở rộng lòng mình trả tự do vô điều kiện
các tù nhân Chính trị và Tôn giáo đang còn bị giam giữ trên khắp đất
nước Việt Nam. Trước mắt đưa ngay các tù nhân bị bệnh nặng, bệnh nan y,
bệnh mãn tính đến các bệnh viện có điều kiện hơn để chửa trị hay cho
gia đình bảo lãnh về nhà chữa bệnh.
Trân trọng kính chào
Sài gòn, Ngày 1 tháng 8 năm 2010
ĐẠI DIỆN CỰU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO
CỦA NHÀ TÙ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
KIẾN NGHỊ THƯ
V/v: PHÓNG THÍCH TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO
Sunday, August 1, 2010
THƠ SONG NGỮ
To:
ThiNhanVietNam@yahoo.com
NÓI VỚI DÒNG MISSISSIPPI
ngươi trôi tới đây từ phương bắc
ta giạt về đây từ phương đông
ta với ngươi cùng nhau trôi giạt
đời ta buồn, đời ngươi buồn không ?
ngươi buồn ư ? sao còn chảy xiết ?
càng đi xa, ngươi càng rộng sâu
ta buồn quá, ngó ngươi chóng mặt
ngàn trùng quê - nhớ - ta cúi đầu
đường ngươi đi phù sa rải khắp
sông xa quê sông biết nuôi người
đường ta đi tha phương cầu thực
muốn nuôi mình mà hết niềm vui
quê ta có sông Thu không cầu danh
cũng biết nuôi người và thương mình
cả đời ta ước như sông ấy
chảy giữa tình yêu chảy quẩn quanh
vậy mà ta một ngày ra đi
tới đây là đã biệt đường về
càng xa nguồn sông càng ngầu đục
chỉ khổ dòng trong thuở trước kia
ta với ngươi cách quê đều xa
đáng khi tâm sự phải sa đà
ngươi chẳng buồn chi ngươi chảy xiết
bỏ trời lưu lạc một mình ta...
HOÀNG LỘC
TO MISSISSIPPI
You have flowed down here from the North;
Like you, I have drifted over here from the East.
We’ve been similar in our leeway thenceforth;
My life is melancholy, is yours too, at least?
Do you grieve? Why are you still running fast?
The farther you reach the wider/deeper you grow.
Along your path everywhere alluvium giving,
Away from source a river knows to nourish Man,
While my blind alley is in search of a living,
Wanting to feed myself with joy hardly I can.
Back home, I have the modest Thu Stream
Which also knows to nurse people and self-love.
All my life to be like that dear river I dream
To flow among Love, round and round to rove.
Nevertheless, adieu to my country! So fervid
Up to this place, my return seems a blindfold.
The farther from its origin it gets more turbid:
Distraught with disgrace -- Oh! pure flow of old!
You and me, we both are away from source:
We should have exchanged feelings all night.
Without worry, you continue your swift course,
Leaving me all solitary in exile in this plight!
Translation by THANH-THANH
To:
ThiNhanVietNam@yahoo.com
NÓI VỚI DÒNG MISSISSIPPIngươi trôi tới đây từ phương bắcta giạt về đây từ phương đôngta với ngươi cùng nhau trôi giạtđời ta buồn, đời ngươi buồn không ?ngươi buồn ư ? sao còn chảy xiết ?càng đi xa, ngươi càng rộng sâuta buồn quá, ngó ngươi chóng mặtngàn trùng quê - nhớ - ta cúi đầuđường ngươi đi phù sa rải khắpsông xa quê sông biết nuôi ngườiđường ta đi tha phương cầu thựcmuốn nuôi mình mà hết niềm vuiquê ta có sông Thu không cầu danhcũng biết nuôi người và thương mìnhcả đời ta ước như sông ấychảy giữa tình yêu chảy quẩn quanhvậy mà ta một ngày ra đitới đây là đã biệt đường vềcàng xa nguồn sông càng ngầu đụcchỉ khổ dòng trong thuở trước kiata với ngươi cách quê đều xađáng khi tâm sự phải sa đàngươi chẳng buồn chi ngươi chảy xiếtbỏ trời lưu lạc một mình ta...HOÀNG LỘC | TO MISSISSIPPI You have flowed down here from the North; Like you, I have drifted over here from the East. We’ve been similar in our leeway thenceforth; My life is melancholy, is yours too, at least? Do you grieve? Why are you still running fast? The farther you reach the wider/deeper you grow. Along your path everywhere alluvium giving, Away from source a river knows to nourish Man, While my blind alley is in search of a living, Wanting to feed myself with joy hardly I can. Back home, I have the modest Thu Stream Which also knows to nurse people and self-love. All my life to be like that dear river I dream To flow among Love, round and round to rove. Nevertheless, adieu to my country! So fervid Up to this place, my return seems a blindfold. The farther from its origin it gets more turbid: Distraught with disgrace -- Oh! pure flow of old! You and me, we both are away from source: We should have exchanged feelings all night. Without worry, you continue your swift course, Leaving me all solitary in exile in this plight! Translation by THANH-THANH |
VATICAN BÁC BỎ YÊU SÁCH PHI LÝ CỦA VIỆT CỘNG
CÔNG GIÁO VIỆT NAM * VIỆT CỘNG ĐÒI HỎI PHI LÝ
Hòa Bình là kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới
(Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)
www.conggiaovietnam.net conggiaovietnam@gmail.com
Vatican đã bác bỏ nhiều đòi hỏi phi lý từ phía Việt Nam như thế nào trong Phiên họp hỗn hợp vòng 2 tại Vatican
Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/82485.htm
Phiên
họp hỗn hợp giữa Vatican và Việt Nam đã kết thúc hơn 1 tháng nay. Cả
hai bên đều ra thông cáo gần giống nhau, đều coi đây là bước phát triển
trong quan hệ song phương và đã có một thoả thuận là Toà thánh được cử
một đại diện không thường trực đến Việt Nam. Thế nhưng còn rất nhiều
chi tiết của phiên họp đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Mới đây
VietCatholic nhận được một số tin tức từ những nguồn tin đáng tin cậy
cho biết về phiên họp này và một số những chi tiết "nhậy cảm" xin được
ghi lại như sau:
Khác hẳn với phiên họp vòng 1 tại Hà Nội, Tòa
Thánh đã chấp nhận một số những đề nghị từ phía Việt Nam liên quan tới
Giáo hội Việt Nam thì trong phiên họp lần 2 Tòa Thánh chẳng những có
thái độ không khoan nhượng với những lập luận phê bình Giáo hội từ phía
Việt Nam, nhưng còn thẳng thắn bác bỏ hầu hết các đòi hỏi do đoàn Việt
Nam đưa ra ở phiên họp vòng 2 tại Vatican.
Theo nhiều nguồn tin
chúng tôi nhận được thì đoàn Việt Nam đã đề nghị Toà thánh cấm không
cho Đức TGM Ngô Quang Kiệt về nước kể cả dịp đại hội các GMVN vào tháng
10-2010 và không bổ nhiệm vào bất cứ chức vụ nào ở Toà thánh. Vatican
cho rằng, Đức TGM Ngô Quang Kiệt chưa bị tước quyền công dân Việt Nam
nên Toà thánh không thể làm cái việc vi phạm nhân quyền và cả pháp luật
Việt Nam nữa. Còn việc bổ nhiệm nhân sự ở Vatican, đó là công việc nội
bộ mà Việt Nam không nên can thiệp vào giống như Vatican không thể đề
nghị ông A làm Thủ tướng hay bà B không được làm Bộ trưởng ở Việt Nam.
Việt
Nam cũng đề nghị Toà thánh cấm không cho dòng Chúa Cứu Thế hoạt động
tại Việt Nam hay ít nhất không cho hoạt động tại Hà Nội giống như trước
đây trong lịch sử Toà thánh đã rút dòng Tên khỏi Việt Nam, không cho
hoạt động mục vụ ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XVII. Vatican trả lời các
dòng tu hoạt động theo tôn chỉ của Dòng và luật pháp ở từng quốc gia.
Nếu họ sai pháp luật, xin các ngài hãy xử theo luật pháp, chúng tôi chỉ
có thể nhắc nhở họ khi họ làm sai với tôn chỉ đã được Toà thánh phê
chuẩn.
Về đề nghị của Việt Nam là Toà Thánh ra thông báo cấm các
cuộc tập trung cầu nguyện đòi đất đai, tài sản như thời gian vừa qua
và can thiệp kịp thời như vụ cầu nguyện ở Toà Khâm sứ, phái đoàn
Vatican trả lời rằng: đất đai, tài sản của Giáo hội sở hữu một cách hợp
pháp, Toà thánh kiên quyết bảo vệ và vẫn dứt khoát nêu lại đòi hỏi của
các Giám mục Việt Nam là đòi lại quyền sử dụng hợp pháp Toà Khâm sứ ở
Hà Nội và Giáo hoàng học viện Đà Lạt.
Toà thánh nhận định rằng
nếu như Toà thánh có đại diện ở Việt Nam thì việc nắm bắt thông tin sẽ
kịp thời và chính xác hơn thì sẽ sẽ đễ dàng có chỉ dẫn cụ thể cho từng
vụ việc.
Lập trường của Toà thánh là luôn ủng hộ việc đòi hỏi
chính đáng: việc đòi lại tài sản hợp pháp của Giáo hội Việt Nam trong
tình thần ôn hoà, bất bạo động.
Việt Nam cũng đề nghị Toà thánh
dừng tiến trình phong thánh cho Hồng y Nguyễn Văn Thuận vì “không có
lợi cho đại đoàn kết dân tộc”, Vatican đã bác bỏ thẳng thừng và cho đó
là vi phạm các thoả thuận giữa Vatican và Việt Nam ở vòng 1 vì chỉ có
phong giám mục ở Việt Nam mới cần có sự đồng thuận của Nhà nước Việt
Nam mà thôi.
Không khí họp căng thẳng tới mức phái đoàn Việt Nam
đã xin tạm ngừng họp để xin ý kiến ở Hà Nội. Không biết Hà Nội chỉ đạo
thế nào nhưng kết thúc đã thống nhất đề nghị Vatican được cử một đại
diện không thường trực đến Việt Nam.
Tuy nhiên vị đại diện này
có được tự do vào Việt Nam gặp gỡ các giám mục, linh mục giáo dân hay
không? Có phải xin phép và báo trước lịch trình cho phía Việt Nam và
được ở lại Việt Nam bao lâu hay bao lâu mới được đến Việt Nam một lần
vẫn chưa thống nhất được mà phải chờ đến vòng ba họp tại Hà Nội vào năm
sau.
Còn một số thông tin nữa chúng tôi đang kiểm chứng, đối
chiếu nhưng với những gì biết được và khi nào thuận tiện sẽ trình bầy
sau. Một số giáo sĩ Việt Nam ở Roma và một vài Giáo chức Giáo hội có
ảnh hưởng ở Việt Nam rất nhiệt liệt hoan hô tinh thần làm việc thẳng
thắn của phái đoàn Vatican tại phiên họp vòng 2 vừa qua.
Đồng Nhân
Kinh thưa Quý vị, đặc biệt các bạn trẻ,
Trong số những người thân của chúng ta
Không phải tất cả đều đã có máy điện toán (vi tính) hoặc có dùng email, hoặc đã có thể nhận được những tài liệu này...
Vì
vậy, xin hãy ủng hộ chúng tôi bằng cách phổ biến tài liệu này bằng
email hoặc in ra, photocopy và gởi cho người thân của Quý vị.
Đặc biệt xin gởi cho các Linh mục chưa có sử dụng internet
Xin chân thành cám ơn
conggiaovietnam@gmail.com
www.conggiaovietnam.net
THƠ CUNG TRẦM TƯỞNG
TA KHÔNG VỀ TẮM AO TA
HAY CẤU TRÚC SÁU TÁM MỘT CỘI BUỒN CUNG TRẦM TƯỞNG
LỜI NHẬP
Trước
hết, xin nói về nguyên nhân sự ra đời và mục đích của bài thơ này nhằm
giúp độc giả hiểu thấu đáo hơn những tình ý tác giả muốn gửi tới họ
thông qua bài thơ đảm nhận cùng một lúc hai chức năng: vừa là môi
trường chuyển tải thông điệp, vừa chính là thông điệp. Bài thơ ra đời
từ hình ảnh một con vờ tác giả bắt gặp khi còn là một đứa trẻ thơ vào
một buổi chiều thu trên mặt nước một ao tù trong cổ thành Sơn Tây. Kể
từ buổi sơ ngộ bất ngờ ấy, hình ảnh con vờ ở lại luôn với tác giả như
một ám ảnh mông lung, một thắc mắc mơ hồ, một xao động lăn tăn, một kí
hiệu u uẩn, một đầu tư thi ca bất trắc, có nguy cơ trở thành vô sinh
như thứ cau không trổ buồng. Ý tác giả muốn nói: nó có thể bị ngưng lại
ở dạng một biểu tượng thuần tuý vì không có cơ duyên nảy nở thành một
mãn thể ngôn ngữ là câu thơ hay bài thơ.
Có hơn một vật hình
đến với ta rồi ra đi mất tích luôn: chúng không bao giờ trở thành kỉ
niệm. Lí do không phải vì kí ức ta bạc bẽo với chúng mà vì khả năng
ngôn ngữ của ta bất cập trước cái muôn màu muôn vẻ của thế giới sự vật.
Trong đầu mỗi chúng ta có một nghĩa địa chôn không biết bao nhiêu là
bóng ma tiền ngôn ngữ alogon.
Cơ bản, mỗi chúng ta đều mắc ít
nhiều chứng thất ngữ, căn bệnh của những thi sĩ hụt, poète manqué.
Người là động vật duy nhất có tiếng nói. Mất tiếng nói hay bị cấm nói,
nó sống một cuộc sống mất quân bình. Để bù đắp, nó phải sử dụng tiếng
kêu, tiếng thở dài, tiếng khóc, tiếng cười và những phương cụ khác của
ngôn ngữ thân thể như cặp mắt, đôi môi, hai bàn tay, dáng đi, cách ngồi
và những điệu bộ khác để tự khẳng định sự hiện hữu của mình. Nó bắt
buộc phải trở lại làm con người tiền sử, một con vật không có tiếng
nói, nhưng là một con vật có cái pour-soi biết mình là một con vật
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy đặc điêu ngoa và xảo trá.
Môi
trường ngôn ngữ bị lũng đoạn bởi những âm mưu u ám của lũ phù thuỷ,
lang băm chính trị đức mỏng tài thô, say mê quyền lực và bạo lực. Trong
môi trường bị nhiễm độc này, con chữ trở thành một công cụ của tuyên
truyền: cái bẫy gài biến người dân thành một cái máy nghe thụ động, ngu
trung và một chiếc loa lặp lại không sai một chữ những khẩu hiệu, sáo
ngữ, thần chú, sấm truyền, chỉ thị của bọn phù thuỷ, lang băm. Chúng còn
tẩm mị dược vào con chữ để làm bại liệt óc phán đoán của người dân rồi
ném họ vào những vạc lửa chiến tranh, những lò thiêu thanh tẩy chủng
tộc, những cỗ máy nghiến thanh trừng giai cấp, tất cả đã ngốn ngót 200
triệu sinh linh trong chưa đầy một thế kỉ.
Thế kỉ 20 là thế kỉ
của một ngôn ngữ đẫm máu. Ví thế, có những lúc ta đâm kinh tởm tiếng
nói và tự đẩy mình vào một tình trạng á khẩu. Sự tự nguyện lưu vong
vào cõi vô thanh này đến một lúc nào đó sẽ gây cho ta một cảm giác tắc
nghẽn, khó ở. Đây chính là lúc ta cần gặp chàng diễn viên kịch câm
Marceau để nhờ chàng giải toả hộ cơn bế ngữ ta đang mắc phải bằng những
điệu bộ, cử chỉ của chàng. Điều tài tình là chàng đã khéo léo và linh
hoạt sử dụng thân thể mình để “nói” lên một thứ ngôn ngữ tín hiệu giầu
sức biểu cảm và tính ẩn dụ. Nhìn chàng diễn xuất, ta có cảm tưởng như cả
thân chàng đang nhô ra khỏi cái khối en-soi u đặc của nó để phát biểu
cảm nghĩ và bày tỏ thái độ bằng mắt, mũi, môi, tay, vai và cả bằng chân
nữa.
Nhưng vì đây là một ngôn ngữ trừu tượng, nên khả năng biểu
đạt tâm tính, tình cảm của mỗi bộ phận phải được khai thác tối đa nhằm
nâng cao hệ số chuyển tải thông điệp của nó. Chẳng hạn như trìu mến
bằng mắt, khinh thị bằng môi, cao kiêu bằng mũi, hiếu kì bằng cổ,
nhún/nhường bằng vai, bình chân nghe ngóng và phẫn nộ bằng tay. Kể cả
sống lưng cũng được giao phó nhiệm vụ thông báo nhân cách. Với Marceau,
ngôn ngữ cử chỉ là một ngôn ngữ tín hiệu có hồn. Một thứ thể dục nhằm
khai dụng tối đa những hạt mầm ngữ nghĩa ủ trong cơ bắp. Một thứ kịch
nghệ toàn năng, sử dụng hết công xuất của một thân thể bén nhạy, mẫn
cảm, tinh khôn, uyển chuyển, linh hoạt, vụng về một cách khéo léo, ngang
phè một cách dễ thương, nhăn nhó một cách trào lộng, co ro một cách
đáo để, hung hăng vô hại, vô ngôn một cách hùng hồn,.
Chiếc
mặt nạ chân phương, logic của phi lí, người phát ngôn câm của một
nghịch dụ ngang tầm với cái nghịch lí trớ trêu của phận người. Tưởng
cũng nên nêu lên một nét đặc thù khác của nghệ thuật Marceau: nó tránh
sự cường điệu vì đạo đức tự thân của nghệ thuật diễn suất muốn nó phải
như vậy. Một khán giả mẫn cảm thì đọc được cái thông điệp tư tưởng mà
ngôn ngữ thân thể ấy muốn chuyển đạt: đó là sự mâu thuẫn đầy tính bi
hài và chưa có lời giải của thân phận con người hiện đại, đặc biệt là
con người hiện đại tây phương vừa mới ngoi lên khỏi những đổ vỡ vật
chất và tinh thần tan hoang do cuộc thế chiến thứ hai để lại.
Một
cuộc chiến tranh cực kì khốc liệt, đã mang trong nó mầm mống của một
thế chiến mới dưới một dạng thức mới: cuộc chiến tranh lạnh, trận xung
đột ý hệ mà dân tộc Việt Nam đã phải gánh chịu những hậu quả thê lương
và lâu dài nhất vì những sai lầm chiến lược chết người của đảng cộng
sản Việt Nam (ĐCSVN). TIẾNG GỌI CỦA MỘT CÕI IM Bây
giờ thì tôi hiểu tại sao hình ảnh con vờ lại ở lại với tôi. Nó ở lại vì
tôi muốn giữ nó ở lại. Tôi muốn giữ nó ở lại là vì tôi thấy nó là một
hình ảnh giầu tính ẩn dụ, làm liên tưởng đến một điều gì đó có ý nghĩa
với thi ca. Tôi nghĩ, nếu có cơ duyên, nó có thể trở thành một thi ảnh
hàm súc làm tiền đề cho một bài thơ có trọng lượng về tư tưởng, thứ
poésie grave hiểu theo nghĩa heideggerienne.
Trong
thời gian gần đây, nó bỗng dưng trỗi dậy từ đáy tiềm thức tôi, chập
chờn mà mãnh liệt. Chứng thất ngữ tái phát, làm tôi mất ngủ hai đêm
liền. Chỉ vì những thây ma tiền ngôn ngữ alogon chưa chịu chết hẳn. Rồi
như một phép lạ, một chuỗi tám con chữ tôi không hề chờ đợi bỗng loé
lên trong đầu tôi, làm tôi nhỏm dậy, lấy bút ghi vội xuống một tờ giấy
trực sẵn ở đầu giường: Lênh chênh nhện nước con vờ lội ao. Tôi giật
mình, rõ ràng vờ này và ao này chính là vờ ấy và ao ấy tôi đã bắt gặp
trong cổ thành Sơn Tây năm xưa vào một buổi chiều thu, dưới chân một
tháp cờ đá ong nâu sẫm và bên cạnh một đề lao tường đá xám xịt và chiếc
cổng cao đen hắc sần sùi. Thì ra, tôi đã thai nghén câu thơ này từ 70
năm nay mà không hay! Thi sĩ Valéry cho biết có nhiều bài
thơ của ông ra đời từ một câu thơ ông ngẫu hứng làm ra và thấy ưng ý.
Tác
giả của bài thơ này cũng ở trong một hoàn cảnh tương tự. Nó ra đời từ
một câu thơ bâng quơ, vô vụ lợi, tức là không nhằm phục vụ cho cho một
dự án ngôn ngữ nào cả như câu thơ trên. Sau, tác giả nhận thấy câu thơ
này có một nội dung tinh thần làm nghĩ đến cảnh đời ao tù nước đọng của
khoảng 70% dân tộc ta đang sống tập trung vào những vùng nông thôn
nghèo khổ và lạc hậu nhất của đất nước. Ngoài ra, nó còn làm tác giả
nghĩ lây sang một hiện tượng phổ biến khác: đó là cái não trạng trì
trệ, thụ động mà rất nhiều người Việt chúng ta cho đến thế kỉ 21 này
vẫn còn mắc phải, nó bắt nguồn từ cái tâm lí an phận thủ thường, liều
thuốc ngủ tạo ảo tưởng, làm cho họ không chỉ bằng lòng với mà còn cảm
thấy hãnh diện về cái thân phận ao tù nước đọng của mình: Ta về ta tắm
ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Theo thiển
ý, ta chỉ cần thay chữ ao bằng chữ sông thôi thì xoá được nghịch lí
trên và làm cho ý hai câu thơ trở nên khoáng đạt hẳn lên: Ta về ta tắm
sông ta / Dù trong dù đục sông nhà vẫn hơn. Lợi thế của sông so với ao
là nó gợi cho ta hình ảnh một nhân sinh quan sống động, mở, luôn hướng
về những chân trời khoáng đãng bao la; về biển, chốn hội tụ - mẫu số
chung, văn hoá nhân loại - của những dòng văn hoá dân tộc nhân bản. Một
nhân sinh quan như vậy vừa lành mạnh vừa tiến bộ, có thể làm cho dân
tộc hãnh diện về nó một cách chính đáng hơn. CÓ CHĂNG MỘT PHƯƠNG
THUỐC CHO CƠN SẦU VẠN CỔ?
Ta chỉ cần nghe âm nhạc
của ta, đặc biệt là cổ nhạc, thì thấy được âm chủ của quốc hồn ta. Đó
là nỗi buồn vạn cổ, cái gien văn hoá vận vào ta từ ngàn trước đến bây
giờ và đến cả ngàn sau nữa nếu ta vẫn nhận nó là định mệnh của ta. Nó
là một dạng của bệnh tâm thần, một khuyết tật về bản thể, tạo cảm giác
khó ở và là ngọn nguồn của những tình cảm tiêu cực. Như tình cảm yếm
thế thấy đời là một bể khổ; hay tình cảm phẫn tồn trước sự bất công của
con Tạo bắt ta phải sống lầm quê hương và lầm thế kỉ, nên ta đòi nó
phải trả ta về thời ta chưa sinh ra; hay nỗi tủi phận mãn tính ấy, nó
làm ta không chỉ xót xa cho ta mà còn trách cứ ta nữa: ta là một hiện
hữu luôn luôn khuyết mãn, triền miên hẫng hụt, một hiện hữu không nên
hiện hữu; sống cuối cùng chỉ còn vỏn vẹn là một tồn tại đơn chiều, một
nội động từ, sự tự co cụm ta vào trong ta hoá thành một cõi ta âm u, bế
tắc hoàn toàn.
Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng ý
hệ trầm trọng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, một câu hỏi cơ bản được
đặt ra cho những ai chưa chịu buông xuôi trước định mệnh: Biện pháp
nào phải được sử dụng để giải quyết một lần cho xong khuyết tật về bản
thể trên? Theo thiển ý, để hiệu nghiệm, trị liệu pháp phải
là một giải pháp tổng trạng (holistic) hai bước. Trước hết,
phải thanh toán chế độ cộng sản, đứa con đẻ của chủ nghĩa hư vô, vật
cản chặn đường sống của dân tộc ta. Thay thế nó bằng một chế độ cộng
hoà nhân bản lấy tự do chính trị và dân chủ làm hai phương tiện chủ yếu
để phục vụ cho cứu cánh tối hậu là một con người tự do tổng hợp: tự do
ngoài xã hội và tự do trong tư tưởng.
Để đảm bảo sự liên tục và
tính chính thống của tân chế độ, những định chế dân chủ vững bền phải
được thiết lập và một văn hoá chính trị phải được hình thành bằng những
tập quán dân chủ ăn sâu trong tâm thức người dân, hoá thành bản tính
thứ hai của họ. Đồng thời, nếp sinh hoạt dân chủ ngoài xã hội phải được
bổ sung liên tục bởi những thế hệ cán bộ có kiến thức và ý thức dân
chủ cao, có nhiệt tình và đức độ, được đào tạo chính quy trong nhà
trường với một chương trình giáo dục đề cao vai trò của chính trị học
không chỉ như một khoa học quản trị quốc gia thuần tuý, mà còn là triết
học chính trị và đạo đức học chính trị nữa.
Trên
phương diện cá nhân, mục đích của nền cộng hoà nhân bản là tạo cơ sở
cho việc hình thành một mẫu công dân với tư cách là một chủ thể tự do.
Điều này cần nhưng chưa đủ để giải quyết tận căn cái vấn nạn văn hoá,
nguồn gốc của nông nỗi lao đao lận đận dân tộc ta phải gánh chịu từ ngàn
đời. Vì vậy biện pháp kế tiếp phải là một thứ phân tâm học nhắm vào
nguyên nhân của khuyết tật về bản thể trên. Đó là não trạng con vờ, nỗi
buồn truyền kiếp; cuống nhau úa trong bụng mẹ, tế bào héo trong đầu
cha; sự phối giống mù quáng chết người, đẻ ra một ethos èo uột, kìm hãm
sức phát triển hoàn mãn của của cái tâm lí tập thể gọi là quốc hồn.
Thiếu cái nguyên lí thống nhất tối thượng này, một cộng đồng dù đồng
chủng, đồng văn cũng không thể trở thành một chỉnh thể quốc gia được.
Văn hoá của một dân tộc là cái hồn của lịch sử của nó.
Và,
lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của một lệ thuộc từ ngàn đời vào hệ
tư tưởng Trung Hoa, nói rõ hơn là hệ tư tưởng Hán. Cho đến thế kỉ 21
này, ta vẫn sống dưới sự đô hộ văn hoá của kẻ thù truyền kiếp của ta.
Điều nghịch lí là ta chống nó, nhưng ta lại thờ thần thánh của nó
trong nhà ta; ta thù nó, nhưng ta lại thuộc lòng lịch sử của nó hơn là
thuộc lòng lịch sử của ta; ngôn ngữ hàn lâm của ta thiếu chữ của nó thì
trở nên què quặt; mà ngôn ngữ nào thì tư tưởng ấy: tư tưởng của ta, sự
sao chép với dăm ba hiệu đính tiểu xảo của tư tưởng của nó; thiếu Lão,
Khổng, Mạnh, hồn ta hẫng, mất điểm tựa; lịch của nó với những cát
thần, hung thần, giờ tốt, giờ xấu và linh tinh được dùng làm lịch của
ta; tử vi của nó, thuật bói dựa trên 15 ngôi sao giả tưởng và có lối
suy diễn tuỳ tiện, coi thường logic, mê hoặc ta và được ta coi như một
tương lai học chính xác; cũng thế, một sản phẩm khác của óc mê tín tàu
là khoa phong thuỷ từ nguyên thuỷ là một thứ duy linh học địa lí lấy
hai nguyên tố gió và nước làm phương hướng quyết định vị trí thổ phần
của người chết, nó được ta coi trọng như một khoa học nghiêm túc chi
phối kĩ thuật kiến trúc nhà cửa, trụ sở kinh doanh, hoàng cung, phủ
chúa, miếu mạo, đền đài, mộ phần của ta; kể cả khi ta buồn ta cũng phải
mượn cái buồn của Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Vương Phạm Chí và
linh tinh để buồn.
Một hệ luận được rút ta từ phân
tâm học trên. Muốn giải quyết tận căn nỗi buồn truyền kiếp của ta, nỗi
buồn nòi - chủ đề của bài viết này – ta phải giải quyết nguồn cơn của
nguồn cơn: đó là cái vạn cổ sầu của Tàu. Xét rộng ra, để khôi phục Việt
hồn, trị liệu pháp phải khởi sự với việc giải Hán hoá (déhanisation)
tư tưởng ta đang mắc kẹt trong thiên la địa võng của những huyền sử, dã
sử, phong dao, tục ngữ, tập quán, lễ nghi, phim ảnh, tiểu thuyết của
Tàu. Đây, cơ bản, là một tiến trình giải phóng người tù khỏi gông cùm
của một tinh thần sùng Hán và sợ Hán. Nó làm thui chột khả năng phán
đoán độc lập của hắn, biến hắn thành một tên nô lệ bằng lòng với, để
không nói là tự hào về, sự lệ thuộc vô điều kiện vào hệ tư tưởng Hán
của mình.
Sự vong thân này khoác mặc một kích thước cộng đồng:
chúng ta là loại Hoa kiều hạng hai sống trên đất nước của chúng ta. Đến
đây thì ta hiểu được thâm ý của người Tàu khi họ bảo Việt Nam là một
phần đất tạm mất của họ. Để có một ý niệm cụ thể về sự đô hộ
văn hoá của đế quốc phương bắc lên chúng ta, ta hãy nhìn vào chẳng hạn
những hiện tượng tiểu thuyết của La Quán Trung, Kim Dung, Quỳnh Dao,
kiếm hiệp tàu và tầm ảnh hưởng của chúng tới nếp nghĩ và lối sống của
ta. Có rất nhiều người Việt, kể cả những người tây học, đã nhẩy bổ vào
và ôm chầm lấy và nằm lòng tới từng chi tiết một những cuốn tiểu thuyết
tàu ấy, không hiểu rằng chúng thật ra chỉ là sản phẩm của cái
chinoiserie, một tập hợp láo nháo của những hoang tưởng chết người đã
làm khốn đốn chính nước Tàu trong suốt chiều dài lịch sử 5000 năm của
nó.
Người ta tâm đắc với những mưu mẹo của Khổng Minh, Tào Tháo;
chúng còn được dùng làm bảng chỉ đường cho một số người đang cầm trong
tay vận mệnh của đất nước ta nữa! Một nước muốn độc lập
về chính trị thì phải có một nền kinh tế phát triển. Nhưng nó vẫn chưa
phải là một chỉnh thể quốc gia nếu nó không có một văn hoá riêng của
nó, làm dân tộc của nó khác với các dân tộc khác. Khác với quan điểm
của Lenin theo đó văn hoá được tạo ra bằng hoạt động của đông đảo quần
chúng lao động, văn hoá ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn: nó là
sự nghiệp của toàn dân, mẫu số chung của mọi thành phần xã hội, người
giàu cũng như người nghèo, nông dân cũng như công nhân, lao động cũng
như trí thức.
Nó là nguyên lí thống nhất trăm thu về một mối,
hồn khí tạo bản sắc và niềm tự hào của một dân tộc. Nó là một hiện
tượng lịch sử, tập đại thành của những giá trị tinh thần tích tụ trong
quá trình phát triển của một dân tộc. Cả ba điều kiện trên
mà một nước cần phải có để trở thành một chỉnh thể quốc gia, ĐCSVN với
tư cách là đảng cầm quyền duy nhất trong suốt mấy chục năm nay đã không
thực hiện được cho dân tộc của nó.
Trái lại, cung cách hành sử
khúm núm, quỵ luỵ trước Bắc triều của nó có tất cả những nét đặc thù
của cái tâm lí tập thể thuở nào: tâm lí phiên quốc, tiểu nhược quốc;
tâm lí chư hầu, cái phức cảm tự ti dân tộc; tâm lí triều cống: nó dâng
hiến cho Bắc triều nào là biển và hải đảo, nào là đất liền và tài
nguyên rừng đầu nguồn, nào là khoáng sản miền cao nguyên trung phần, nơi
mà đế quốc bành trướng phương bắc đã dòm ngó từ lâu vì giá trị chiến
lược vô song của nó. Về mặt tinh thần, lịch sử cho thấy ĐCSVN
phải luôn dựa vào ngoại bang để tồn tại.
Nó là đứa con đẻ ngu
trung của hệ tư tưởng marxist – leninist – maoist. Trên thực tế, nó chịu
ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa Mao, sự trá hình của chủ nghĩa Đại Hán
truyền thống coi tộc Hán là trung tâm của loài người. Đây là dạng cực
đoan của chủ nghĩa chủng tộc, có dáng dấp của chủ nghĩa chủng tộc
thượng đẳng Đức Quốc xã – ta hãy nhìn vào thái độ đối xử hiện nay của
người Hán với người Tây Tạng – cái tâm thái có từ thời tộc Hán chinh
phục được và đặt ách thống trị cực kì dã man của nó lên các tộc khác mà
nó gọi là di, man, mạch, cửu di bát man, mười bảy sắc dân mọi rợ.
Ở kỉ nguyên toàn cầu hoá này, quan hệ liên lập giữa các
quốc gia trở nên chặt chẽ hơn và điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thiết lập một trật tự thế giới mới hài hoà hơn, công bằng hơn,
bình đẳng hơn và văn minh hơn. Do đó, khó mà xẩy ra trường hợp một nước
nhỏ bị thôn tính bởi nước lớn, trừ phi nước lớn cài được người của nó
vào những cơ quan đầu não của nước nhỏ. Đìều bất hạnh cho chúng ta là
trường hợp hãn hữu này lại xẩy ra trên ngay đất nước chúng ta. Chỉ vì
những người cầm đầu ĐCSVN như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn
Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn
Dũng, Nguyễn Chí Vịnh đã cam tâm nối giáo cho giặc bắc phương. Họ là sự
lại giống ở cấp số nhân của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
Sự
phản bội dân tộc ngày càng gia tăng của tập đoàn cầm quyền của CSVN
đang đặt đất nước chúng ta trước nguy cơ mất cả lãnh thổ lẫn quốc hồn.
Hoạ Bắc thuộc lần thứ ba đang ló dạng ở cuối chân trời. Ta có thể mường
tượng được những hậu quả gây ra cho dân tộc ta của hoạ này qua kịch
bản sau.
Hoa ngữ sẽ trở thành quốc ngữ, đẩy Việt ngữ xuống hàng
một thổ ngữ như tiếng Mán, tiếng Chàm, tiếng Thượng, tiếng Khả lá vàng;
quốc sử sẽ được viết lại theo quan điểm Đại Hán coi tộc Việt là một
tộc thiểu số và lãnh thổ Việt Nam là phần đất tạm mất, nay đã thu hồi
lại được; Việt Nam sẽ trở thành vệ tinh thứ năm trên lá quốc kì của
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, v.v. Những mất mát cơ bản trên là gì nếu
không là những hậu quả gây ra bởi hoạ diệt chủng? Theo định nghĩa của
công pháp quốc tế, một dân tộc bị mất lịch sử, mất văn hoá, tức là mất
cội nguồn, bản sắc và quốc hồn của nó, là một dân tộc bị diệt chủng.
Vâng,
ĐCSVN đang đặt dân tộc Việt Nam trước một nguy cơ chưa từng thấy trong
lịch sử của nó: nguy cơ bị diệt chủng. Đường cứu rỗi phải bắt đầu
với việc xét lại cái quan điểm cổ điển theo đó Việt Nam chỉ là một cậu
bé tí hon sống cạnh tên khổng lồ Trung Hoa lúc nào cũng lăm le muốn
nuốt chửng cậu để thoả mãn cơn mộng bá vương muôn đời của nó; và, chính
cái tương quan lực lượng lớn-bé này là nhân tố quyết định đường hướng
hành động của cậu bé: cậu không thể không nhún nhường, không thể không
cư xử cho phải đạo - đạo Hán – không thể không chấp nhận cái thân phận
vệ tinh của mình.
Quan điểm trên đúng, nhưng chỉ đúng
một phần. Bởi vì trung tâm của vấn đề không phải là địa lí chính trị mà
là văn hoá. Ý người viết muốn nói đến sự lệ thuộc quá đáng, để không
nói là mù quáng, của cậu bé vào hệ tư tưởng của tên khổng lồ, nó làm
nhụt tinh thần tự chủ của cậu. Và, tên khổng lồ biết rõ nhược điểm này
của cậu, nên nó bèn sử dụng ưu thế văn hoá hầu như tuyệt đối của nó làm
một thứ vũ khí mềm để khuất phục và đồng hoá cậu bé. Vậy,
đường cứu rỗi phải bắt đầu với việc tự ta giải thoát ta khỏi sự lệ
thuộc thật là tai hại trên. Phản ứng hữu hiệu nhất là một phản cảm dị
ứng với tất cả những cái chinoiserie của hệ tư tưởng Hán. Nhất định
không bắt chước những mưu mẹo kiểu Khổng Minh của La Quán Trung. Nhất
quyết không muốn làm quân tử tàu, kiếm sĩ kiểu Kim Dung, anh hùng kiểu
kiếm hiệp tàu, và gì nữa.
Tất cả những thứ này đều là sản phẩm
của một đầu óc hoang tưởng, bệnh hoạn, nguỵ khoa học; liều thuốc ngủ
đánh gục ý chí tự cường của ta; vật cản chặn đường tiến của dân tộc ta
và của bản thân ta. Đường cứu rỗi: sự kết hợp nhuần nhuyễn
cái gốc minh triết quần chúng thực dụng và trong sáng của ta với tri
thức duy lí có hệ thống và phương pháp suy luận chặt chẽ, mạch lạc,
sáng sủa của Tây phương nhằm xua tan những đám sương u mộng của ý hệ
Hán đang phủ kín hồn ta. Đường cứu rỗi: sự bổ sung và trau
giồi không ngừng tri thức ta bằng những kiến thức tích cực, những kiến
thức vui: những hòn đá tảng của một nhân sinh quan mới yêu đời, ham
sống, hướng thiện và yêu cái đẹp.
Một nhân sinh quan của một mẫu
người tổng hợp, bộ ba làm nên bởi sự cộng sinh hài hoà trong mỗi chúng
ta của mẫu người cá nhân thân ái với tha nhân, mẫu người xã hội tự
nguyện vì công ích và mẫu người công dân thiết tha với tổ quốc. Một nền
cộng hoà được gọi là nhân bản khi nó lấy bộ ba này làm cứu cánh tối
hậu của nó. MỘT BÀI THƠ VỀ CON VỜ. Cái buồn thường dễ
lây hơn cái vui. Mà cái buồn ta lây của Tàu, buồn vạn cổ, là cái buồn
chết người. Thứ thuốc phiện tạo ảo tưởng, làm nhụt ý chí và bào mòn
sinh lực của người nghiện. Muốn cai nó, theo thiển ý, trước hết ta phải
thành thật với ta, nghĩa là ta phải biết rằng ta đang bị nó nô lệ hoá.
Ta phải tự nội soi ta nhằm phát hiện những ngầm phá nó gây ra trong
ngõ nghách tâm hồn ta. Phẫu não này là một ca mổ in vivo, hiểu như ta
tự thực hiện nó ngay trong đầu ta nhằm trừ khử những chất độc của nỗi
buồn chết người ấy mà hồn ta đang nhiễm phải.
Đây là một trong
những bước đầu mà trị liệu pháp tổng trạng nói trên phải thực hiện để
đảm bảo cho việc giải Hán hoá của ta đạt được kết quả mĩ mãn.
Riêng đối với tác giả, hình ảnh con vờ - biểu tượng của một kiếp sống
lênh chênh, phù phiếm - cứ lởn vởn đâu đó trong đầu hắn kể từ khi hắn
còn là một đứa trẻ thơ. Chính nỗi ám ảnh mông lung và dằng dai này là
động cơ thúc đẩy sự ra đời của bài thơ về con vờ này mà tác giả, như đã
nói ở trên, đã thai nghén trong mấy chục năm trời mà không hay.
Bài thơ nên được coi như một cố gắng phác tả cấu trúc của cái gien
văn hoá là nỗi buồn nòi của ta, một dị bản của nỗi buồn vạn cổ của Tàu.
Đề tài thuộc phạm trù bản thể học, trừu tượng, trùng phức, nên bài thơ
- một tập hợp của 28 câu lục bát – không thể không có những giới hạn
nhất định của nó.
Tác giả hi vọng, với những thông tin cung cấp
bởi thố lộ trên, độc giả như một du tử rong chơi trong cõi chữ sẽ cảm
thấy bớt bỡ ngỡ trước cái phẫn khí quyết liệt của bài thơ ưu uất ta
trách ta và ta phủ định ta này.
TA VỀ KHÔNG TẮM AO TA HAY CẤU TRÚC SÁU TÁM MỘT CỘI BUỒN
Buồn nòi bủa lưới giăng tơ
Lênh chênh nhện nước con vờ lội ao.
Sòng đời chẵn lẻ thế nào? -
Thưa con số hẩm gieo vào cửa tôi.
Nhau con úa dạ mẹ rồi!
Chôn lầm mảnh đất mồ côi nhân tình.
Tà quyền phù thuỷ âm binh,
Nhà cò nhà vạc lục bình trôi sông.
Tiên thiên thù oán chất chồng,
Sống cùm kinh cụ, chết còng tân toan
Phẫn tồn một cái búng tăn
Ao tù diếc (1) quẫy vết nhăn mặt người.
Cái lì của tĩnh trêu ngươi,
Cái u của tịch mốc đời héo hon.
Mười đi chín mất một còn,
Máu trào cửa tử cờ son đẫy đùa.
Quê cha trái đắng được mùa,
Quả lừa thu ấy còn chua đến giờ.
Vung tay đòi xoá ván cờ:
Vẫn lờ đờ kiếp con vờ lội ao.
Cái buồn huyền sử xanh xao
Ủ mầm trong máu ngấm vào cung thương (2).
Mười đi may có một về,
Đường mòn con vác não nề trên lưng.
Ba đời đời vẫn kín bưng!
Mẹ ơi kiếp tới Mẹ đừng sinh con.
Minnesota, ngày lễ phục sinh, năm 2010 CUNG TRẦM TƯỞNG
(1)
Cá nước ngọt, sống chủ yếu ở ao hồ, ít ở sông. (2) Hai âm trong hệ
ngũ âm: cung, thương, chuỷ, giốc, vũ; gọi chung là âm nhạc nghiêng về
vãn than.
Trước hết, xin nói về nguyên nhân sự ra đời và mục đích của bài thơ này nhằm giúp độc giả hiểu thấu đáo hơn những tình ý tác giả muốn gửi tới họ thông qua bài thơ đảm nhận cùng một lúc hai chức năng: vừa là môi trường chuyển tải thông điệp, vừa chính là thông điệp. Bài thơ ra đời từ hình ảnh một con vờ tác giả bắt gặp khi còn là một đứa trẻ thơ vào một buổi chiều thu trên mặt nước một ao tù trong cổ thành Sơn Tây. Kể từ buổi sơ ngộ bất ngờ ấy, hình ảnh con vờ ở lại luôn với tác giả như một ám ảnh mông lung, một thắc mắc mơ hồ, một xao động lăn tăn, một kí hiệu u uẩn, một đầu tư thi ca bất trắc, có nguy cơ trở thành vô sinh như thứ cau không trổ buồng. Ý tác giả muốn nói: nó có thể bị ngưng lại ở dạng một biểu tượng thuần tuý vì không có cơ duyên nảy nở thành một mãn thể ngôn ngữ là câu thơ hay bài thơ.
Có hơn một vật hình đến với ta rồi ra đi mất tích luôn: chúng không bao giờ trở thành kỉ niệm. Lí do không phải vì kí ức ta bạc bẽo với chúng mà vì khả năng ngôn ngữ của ta bất cập trước cái muôn màu muôn vẻ của thế giới sự vật. Trong đầu mỗi chúng ta có một nghĩa địa chôn không biết bao nhiêu là bóng ma tiền ngôn ngữ alogon.
Cơ bản, mỗi chúng ta đều mắc ít nhiều chứng thất ngữ, căn bệnh của những thi sĩ hụt, poète manqué. Người là động vật duy nhất có tiếng nói. Mất tiếng nói hay bị cấm nói, nó sống một cuộc sống mất quân bình. Để bù đắp, nó phải sử dụng tiếng kêu, tiếng thở dài, tiếng khóc, tiếng cười và những phương cụ khác của ngôn ngữ thân thể như cặp mắt, đôi môi, hai bàn tay, dáng đi, cách ngồi và những điệu bộ khác để tự khẳng định sự hiện hữu của mình. Nó bắt buộc phải trở lại làm con người tiền sử, một con vật không có tiếng nói, nhưng là một con vật có cái pour-soi biết mình là một con vật Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy đặc điêu ngoa và xảo trá.
Môi trường ngôn ngữ bị lũng đoạn bởi những âm mưu u ám của lũ phù thuỷ, lang băm chính trị đức mỏng tài thô, say mê quyền lực và bạo lực. Trong môi trường bị nhiễm độc này, con chữ trở thành một công cụ của tuyên truyền: cái bẫy gài biến người dân thành một cái máy nghe thụ động, ngu trung và một chiếc loa lặp lại không sai một chữ những khẩu hiệu, sáo ngữ, thần chú, sấm truyền, chỉ thị của bọn phù thuỷ, lang băm. Chúng còn tẩm mị dược vào con chữ để làm bại liệt óc phán đoán của người dân rồi ném họ vào những vạc lửa chiến tranh, những lò thiêu thanh tẩy chủng tộc, những cỗ máy nghiến thanh trừng giai cấp, tất cả đã ngốn ngót 200 triệu sinh linh trong chưa đầy một thế kỉ.
Thế kỉ 20 là thế kỉ của một ngôn ngữ đẫm máu. Ví thế, có những lúc ta đâm kinh tởm tiếng nói và tự đẩy mình vào một tình trạng á khẩu. Sự tự nguyện lưu vong vào cõi vô thanh này đến một lúc nào đó sẽ gây cho ta một cảm giác tắc nghẽn, khó ở. Đây chính là lúc ta cần gặp chàng diễn viên kịch câm Marceau để nhờ chàng giải toả hộ cơn bế ngữ ta đang mắc phải bằng những điệu bộ, cử chỉ của chàng. Điều tài tình là chàng đã khéo léo và linh hoạt sử dụng thân thể mình để “nói” lên một thứ ngôn ngữ tín hiệu giầu sức biểu cảm và tính ẩn dụ. Nhìn chàng diễn xuất, ta có cảm tưởng như cả thân chàng đang nhô ra khỏi cái khối en-soi u đặc của nó để phát biểu cảm nghĩ và bày tỏ thái độ bằng mắt, mũi, môi, tay, vai và cả bằng chân nữa.
Nhưng vì đây là một ngôn ngữ trừu tượng, nên khả năng biểu đạt tâm tính, tình cảm của mỗi bộ phận phải được khai thác tối đa nhằm nâng cao hệ số chuyển tải thông điệp của nó. Chẳng hạn như trìu mến bằng mắt, khinh thị bằng môi, cao kiêu bằng mũi, hiếu kì bằng cổ, nhún/nhường bằng vai, bình chân nghe ngóng và phẫn nộ bằng tay. Kể cả sống lưng cũng được giao phó nhiệm vụ thông báo nhân cách. Với Marceau, ngôn ngữ cử chỉ là một ngôn ngữ tín hiệu có hồn. Một thứ thể dục nhằm khai dụng tối đa những hạt mầm ngữ nghĩa ủ trong cơ bắp. Một thứ kịch nghệ toàn năng, sử dụng hết công xuất của một thân thể bén nhạy, mẫn cảm, tinh khôn, uyển chuyển, linh hoạt, vụng về một cách khéo léo, ngang phè một cách dễ thương, nhăn nhó một cách trào lộng, co ro một cách đáo để, hung hăng vô hại, vô ngôn một cách hùng hồn,.
Chiếc mặt nạ chân phương, logic của phi lí, người phát ngôn câm của một nghịch dụ ngang tầm với cái nghịch lí trớ trêu của phận người. Tưởng cũng nên nêu lên một nét đặc thù khác của nghệ thuật Marceau: nó tránh sự cường điệu vì đạo đức tự thân của nghệ thuật diễn suất muốn nó phải như vậy. Một khán giả mẫn cảm thì đọc được cái thông điệp tư tưởng mà ngôn ngữ thân thể ấy muốn chuyển đạt: đó là sự mâu thuẫn đầy tính bi hài và chưa có lời giải của thân phận con người hiện đại, đặc biệt là con người hiện đại tây phương vừa mới ngoi lên khỏi những đổ vỡ vật chất và tinh thần tan hoang do cuộc thế chiến thứ hai để lại.
Một cuộc chiến tranh cực kì khốc liệt, đã mang trong nó mầm mống của một thế chiến mới dưới một dạng thức mới: cuộc chiến tranh lạnh, trận xung đột ý hệ mà dân tộc Việt Nam đã phải gánh chịu những hậu quả thê lương và lâu dài nhất vì những sai lầm chiến lược chết người của đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). TIẾNG GỌI CỦA MỘT CÕI IM Bây giờ thì tôi hiểu tại sao hình ảnh con vờ lại ở lại với tôi. Nó ở lại vì tôi muốn giữ nó ở lại. Tôi muốn giữ nó ở lại là vì tôi thấy nó là một hình ảnh giầu tính ẩn dụ, làm liên tưởng đến một điều gì đó có ý nghĩa với thi ca. Tôi nghĩ, nếu có cơ duyên, nó có thể trở thành một thi ảnh hàm súc làm tiền đề cho một bài thơ có trọng lượng về tư tưởng, thứ poésie grave hiểu theo nghĩa heideggerienne.
Trong thời gian gần đây, nó bỗng dưng trỗi dậy từ đáy tiềm thức tôi, chập chờn mà mãnh liệt. Chứng thất ngữ tái phát, làm tôi mất ngủ hai đêm liền. Chỉ vì những thây ma tiền ngôn ngữ alogon chưa chịu chết hẳn. Rồi như một phép lạ, một chuỗi tám con chữ tôi không hề chờ đợi bỗng loé lên trong đầu tôi, làm tôi nhỏm dậy, lấy bút ghi vội xuống một tờ giấy trực sẵn ở đầu giường: Lênh chênh nhện nước con vờ lội ao. Tôi giật mình, rõ ràng vờ này và ao này chính là vờ ấy và ao ấy tôi đã bắt gặp trong cổ thành Sơn Tây năm xưa vào một buổi chiều thu, dưới chân một tháp cờ đá ong nâu sẫm và bên cạnh một đề lao tường đá xám xịt và chiếc cổng cao đen hắc sần sùi. Thì ra, tôi đã thai nghén câu thơ này từ 70 năm nay mà không hay! Thi sĩ Valéry cho biết có nhiều bài thơ của ông ra đời từ một câu thơ ông ngẫu hứng làm ra và thấy ưng ý.
Tác giả của bài thơ này cũng ở trong một hoàn cảnh tương tự. Nó ra đời từ một câu thơ bâng quơ, vô vụ lợi, tức là không nhằm phục vụ cho cho một dự án ngôn ngữ nào cả như câu thơ trên. Sau, tác giả nhận thấy câu thơ này có một nội dung tinh thần làm nghĩ đến cảnh đời ao tù nước đọng của khoảng 70% dân tộc ta đang sống tập trung vào những vùng nông thôn nghèo khổ và lạc hậu nhất của đất nước. Ngoài ra, nó còn làm tác giả nghĩ lây sang một hiện tượng phổ biến khác: đó là cái não trạng trì trệ, thụ động mà rất nhiều người Việt chúng ta cho đến thế kỉ 21 này vẫn còn mắc phải, nó bắt nguồn từ cái tâm lí an phận thủ thường, liều thuốc ngủ tạo ảo tưởng, làm cho họ không chỉ bằng lòng với mà còn cảm thấy hãnh diện về cái thân phận ao tù nước đọng của mình: Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Theo thiển ý, ta chỉ cần thay chữ ao bằng chữ sông thôi thì xoá được nghịch lí trên và làm cho ý hai câu thơ trở nên khoáng đạt hẳn lên: Ta về ta tắm sông ta / Dù trong dù đục sông nhà vẫn hơn. Lợi thế của sông so với ao là nó gợi cho ta hình ảnh một nhân sinh quan sống động, mở, luôn hướng về những chân trời khoáng đãng bao la; về biển, chốn hội tụ - mẫu số chung, văn hoá nhân loại - của những dòng văn hoá dân tộc nhân bản. Một nhân sinh quan như vậy vừa lành mạnh vừa tiến bộ, có thể làm cho dân tộc hãnh diện về nó một cách chính đáng hơn. CÓ CHĂNG MỘT PHƯƠNG THUỐC CHO CƠN SẦU VẠN CỔ?
Ta chỉ cần nghe âm nhạc của ta, đặc biệt là cổ nhạc, thì thấy được âm chủ của quốc hồn ta. Đó là nỗi buồn vạn cổ, cái gien văn hoá vận vào ta từ ngàn trước đến bây giờ và đến cả ngàn sau nữa nếu ta vẫn nhận nó là định mệnh của ta. Nó là một dạng của bệnh tâm thần, một khuyết tật về bản thể, tạo cảm giác khó ở và là ngọn nguồn của những tình cảm tiêu cực. Như tình cảm yếm thế thấy đời là một bể khổ; hay tình cảm phẫn tồn trước sự bất công của con Tạo bắt ta phải sống lầm quê hương và lầm thế kỉ, nên ta đòi nó phải trả ta về thời ta chưa sinh ra; hay nỗi tủi phận mãn tính ấy, nó làm ta không chỉ xót xa cho ta mà còn trách cứ ta nữa: ta là một hiện hữu luôn luôn khuyết mãn, triền miên hẫng hụt, một hiện hữu không nên hiện hữu; sống cuối cùng chỉ còn vỏn vẹn là một tồn tại đơn chiều, một nội động từ, sự tự co cụm ta vào trong ta hoá thành một cõi ta âm u, bế tắc hoàn toàn.
Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng ý hệ trầm trọng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, một câu hỏi cơ bản được đặt ra cho những ai chưa chịu buông xuôi trước định mệnh: Biện pháp nào phải được sử dụng để giải quyết một lần cho xong khuyết tật về bản thể trên? Theo thiển ý, để hiệu nghiệm, trị liệu pháp phải là một giải pháp tổng trạng (holistic) hai bước. Trước hết, phải thanh toán chế độ cộng sản, đứa con đẻ của chủ nghĩa hư vô, vật cản chặn đường sống của dân tộc ta. Thay thế nó bằng một chế độ cộng hoà nhân bản lấy tự do chính trị và dân chủ làm hai phương tiện chủ yếu để phục vụ cho cứu cánh tối hậu là một con người tự do tổng hợp: tự do ngoài xã hội và tự do trong tư tưởng.
Để đảm bảo sự liên tục và tính chính thống của tân chế độ, những định chế dân chủ vững bền phải được thiết lập và một văn hoá chính trị phải được hình thành bằng những tập quán dân chủ ăn sâu trong tâm thức người dân, hoá thành bản tính thứ hai của họ. Đồng thời, nếp sinh hoạt dân chủ ngoài xã hội phải được bổ sung liên tục bởi những thế hệ cán bộ có kiến thức và ý thức dân chủ cao, có nhiệt tình và đức độ, được đào tạo chính quy trong nhà trường với một chương trình giáo dục đề cao vai trò của chính trị học không chỉ như một khoa học quản trị quốc gia thuần tuý, mà còn là triết học chính trị và đạo đức học chính trị nữa.
Trên phương diện cá nhân, mục đích của nền cộng hoà nhân bản là tạo cơ sở cho việc hình thành một mẫu công dân với tư cách là một chủ thể tự do. Điều này cần nhưng chưa đủ để giải quyết tận căn cái vấn nạn văn hoá, nguồn gốc của nông nỗi lao đao lận đận dân tộc ta phải gánh chịu từ ngàn đời. Vì vậy biện pháp kế tiếp phải là một thứ phân tâm học nhắm vào nguyên nhân của khuyết tật về bản thể trên. Đó là não trạng con vờ, nỗi buồn truyền kiếp; cuống nhau úa trong bụng mẹ, tế bào héo trong đầu cha; sự phối giống mù quáng chết người, đẻ ra một ethos èo uột, kìm hãm sức phát triển hoàn mãn của của cái tâm lí tập thể gọi là quốc hồn. Thiếu cái nguyên lí thống nhất tối thượng này, một cộng đồng dù đồng chủng, đồng văn cũng không thể trở thành một chỉnh thể quốc gia được. Văn hoá của một dân tộc là cái hồn của lịch sử của nó.
Và, lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của một lệ thuộc từ ngàn đời vào hệ tư tưởng Trung Hoa, nói rõ hơn là hệ tư tưởng Hán. Cho đến thế kỉ 21 này, ta vẫn sống dưới sự đô hộ văn hoá của kẻ thù truyền kiếp của ta. Điều nghịch lí là ta chống nó, nhưng ta lại thờ thần thánh của nó trong nhà ta; ta thù nó, nhưng ta lại thuộc lòng lịch sử của nó hơn là thuộc lòng lịch sử của ta; ngôn ngữ hàn lâm của ta thiếu chữ của nó thì trở nên què quặt; mà ngôn ngữ nào thì tư tưởng ấy: tư tưởng của ta, sự sao chép với dăm ba hiệu đính tiểu xảo của tư tưởng của nó; thiếu Lão, Khổng, Mạnh, hồn ta hẫng, mất điểm tựa; lịch của nó với những cát thần, hung thần, giờ tốt, giờ xấu và linh tinh được dùng làm lịch của ta; tử vi của nó, thuật bói dựa trên 15 ngôi sao giả tưởng và có lối suy diễn tuỳ tiện, coi thường logic, mê hoặc ta và được ta coi như một tương lai học chính xác; cũng thế, một sản phẩm khác của óc mê tín tàu là khoa phong thuỷ từ nguyên thuỷ là một thứ duy linh học địa lí lấy hai nguyên tố gió và nước làm phương hướng quyết định vị trí thổ phần của người chết, nó được ta coi trọng như một khoa học nghiêm túc chi phối kĩ thuật kiến trúc nhà cửa, trụ sở kinh doanh, hoàng cung, phủ chúa, miếu mạo, đền đài, mộ phần của ta; kể cả khi ta buồn ta cũng phải mượn cái buồn của Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Vương Phạm Chí và linh tinh để buồn.
Một hệ luận được rút ta từ phân tâm học trên. Muốn giải quyết tận căn nỗi buồn truyền kiếp của ta, nỗi buồn nòi - chủ đề của bài viết này – ta phải giải quyết nguồn cơn của nguồn cơn: đó là cái vạn cổ sầu của Tàu. Xét rộng ra, để khôi phục Việt hồn, trị liệu pháp phải khởi sự với việc giải Hán hoá (déhanisation) tư tưởng ta đang mắc kẹt trong thiên la địa võng của những huyền sử, dã sử, phong dao, tục ngữ, tập quán, lễ nghi, phim ảnh, tiểu thuyết của Tàu. Đây, cơ bản, là một tiến trình giải phóng người tù khỏi gông cùm của một tinh thần sùng Hán và sợ Hán. Nó làm thui chột khả năng phán đoán độc lập của hắn, biến hắn thành một tên nô lệ bằng lòng với, để không nói là tự hào về, sự lệ thuộc vô điều kiện vào hệ tư tưởng Hán của mình.
Sự vong thân này khoác mặc một kích thước cộng đồng: chúng ta là loại Hoa kiều hạng hai sống trên đất nước của chúng ta. Đến đây thì ta hiểu được thâm ý của người Tàu khi họ bảo Việt Nam là một phần đất tạm mất của họ. Để có một ý niệm cụ thể về sự đô hộ văn hoá của đế quốc phương bắc lên chúng ta, ta hãy nhìn vào chẳng hạn những hiện tượng tiểu thuyết của La Quán Trung, Kim Dung, Quỳnh Dao, kiếm hiệp tàu và tầm ảnh hưởng của chúng tới nếp nghĩ và lối sống của ta. Có rất nhiều người Việt, kể cả những người tây học, đã nhẩy bổ vào và ôm chầm lấy và nằm lòng tới từng chi tiết một những cuốn tiểu thuyết tàu ấy, không hiểu rằng chúng thật ra chỉ là sản phẩm của cái chinoiserie, một tập hợp láo nháo của những hoang tưởng chết người đã làm khốn đốn chính nước Tàu trong suốt chiều dài lịch sử 5000 năm của nó.
Người ta tâm đắc với những mưu mẹo của Khổng Minh, Tào Tháo; chúng còn được dùng làm bảng chỉ đường cho một số người đang cầm trong tay vận mệnh của đất nước ta nữa! Một nước muốn độc lập về chính trị thì phải có một nền kinh tế phát triển. Nhưng nó vẫn chưa phải là một chỉnh thể quốc gia nếu nó không có một văn hoá riêng của nó, làm dân tộc của nó khác với các dân tộc khác. Khác với quan điểm của Lenin theo đó văn hoá được tạo ra bằng hoạt động của đông đảo quần chúng lao động, văn hoá ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn: nó là sự nghiệp của toàn dân, mẫu số chung của mọi thành phần xã hội, người giàu cũng như người nghèo, nông dân cũng như công nhân, lao động cũng như trí thức.
Nó là nguyên lí thống nhất trăm thu về một mối, hồn khí tạo bản sắc và niềm tự hào của một dân tộc. Nó là một hiện tượng lịch sử, tập đại thành của những giá trị tinh thần tích tụ trong quá trình phát triển của một dân tộc. Cả ba điều kiện trên mà một nước cần phải có để trở thành một chỉnh thể quốc gia, ĐCSVN với tư cách là đảng cầm quyền duy nhất trong suốt mấy chục năm nay đã không thực hiện được cho dân tộc của nó.
Trái lại, cung cách hành sử khúm núm, quỵ luỵ trước Bắc triều của nó có tất cả những nét đặc thù của cái tâm lí tập thể thuở nào: tâm lí phiên quốc, tiểu nhược quốc; tâm lí chư hầu, cái phức cảm tự ti dân tộc; tâm lí triều cống: nó dâng hiến cho Bắc triều nào là biển và hải đảo, nào là đất liền và tài nguyên rừng đầu nguồn, nào là khoáng sản miền cao nguyên trung phần, nơi mà đế quốc bành trướng phương bắc đã dòm ngó từ lâu vì giá trị chiến lược vô song của nó. Về mặt tinh thần, lịch sử cho thấy ĐCSVN phải luôn dựa vào ngoại bang để tồn tại.
Nó là đứa con đẻ ngu trung của hệ tư tưởng marxist – leninist – maoist. Trên thực tế, nó chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa Mao, sự trá hình của chủ nghĩa Đại Hán truyền thống coi tộc Hán là trung tâm của loài người. Đây là dạng cực đoan của chủ nghĩa chủng tộc, có dáng dấp của chủ nghĩa chủng tộc thượng đẳng Đức Quốc xã – ta hãy nhìn vào thái độ đối xử hiện nay của người Hán với người Tây Tạng – cái tâm thái có từ thời tộc Hán chinh phục được và đặt ách thống trị cực kì dã man của nó lên các tộc khác mà nó gọi là di, man, mạch, cửu di bát man, mười bảy sắc dân mọi rợ.
Ở kỉ nguyên toàn cầu hoá này, quan hệ liên lập giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn và điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập một trật tự thế giới mới hài hoà hơn, công bằng hơn, bình đẳng hơn và văn minh hơn. Do đó, khó mà xẩy ra trường hợp một nước nhỏ bị thôn tính bởi nước lớn, trừ phi nước lớn cài được người của nó vào những cơ quan đầu não của nước nhỏ. Đìều bất hạnh cho chúng ta là trường hợp hãn hữu này lại xẩy ra trên ngay đất nước chúng ta. Chỉ vì những người cầm đầu ĐCSVN như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh đã cam tâm nối giáo cho giặc bắc phương. Họ là sự lại giống ở cấp số nhân của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
Sự phản bội dân tộc ngày càng gia tăng của tập đoàn cầm quyền của CSVN đang đặt đất nước chúng ta trước nguy cơ mất cả lãnh thổ lẫn quốc hồn. Hoạ Bắc thuộc lần thứ ba đang ló dạng ở cuối chân trời. Ta có thể mường tượng được những hậu quả gây ra cho dân tộc ta của hoạ này qua kịch bản sau.
Hoa ngữ sẽ trở thành quốc ngữ, đẩy Việt ngữ xuống hàng một thổ ngữ như tiếng Mán, tiếng Chàm, tiếng Thượng, tiếng Khả lá vàng; quốc sử sẽ được viết lại theo quan điểm Đại Hán coi tộc Việt là một tộc thiểu số và lãnh thổ Việt Nam là phần đất tạm mất, nay đã thu hồi lại được; Việt Nam sẽ trở thành vệ tinh thứ năm trên lá quốc kì của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, v.v. Những mất mát cơ bản trên là gì nếu không là những hậu quả gây ra bởi hoạ diệt chủng? Theo định nghĩa của công pháp quốc tế, một dân tộc bị mất lịch sử, mất văn hoá, tức là mất cội nguồn, bản sắc và quốc hồn của nó, là một dân tộc bị diệt chủng.
Vâng, ĐCSVN đang đặt dân tộc Việt Nam trước một nguy cơ chưa từng thấy trong lịch sử của nó: nguy cơ bị diệt chủng. Đường cứu rỗi phải bắt đầu với việc xét lại cái quan điểm cổ điển theo đó Việt Nam chỉ là một cậu bé tí hon sống cạnh tên khổng lồ Trung Hoa lúc nào cũng lăm le muốn nuốt chửng cậu để thoả mãn cơn mộng bá vương muôn đời của nó; và, chính cái tương quan lực lượng lớn-bé này là nhân tố quyết định đường hướng hành động của cậu bé: cậu không thể không nhún nhường, không thể không cư xử cho phải đạo - đạo Hán – không thể không chấp nhận cái thân phận vệ tinh của mình.
Quan điểm trên đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Bởi vì trung tâm của vấn đề không phải là địa lí chính trị mà là văn hoá. Ý người viết muốn nói đến sự lệ thuộc quá đáng, để không nói là mù quáng, của cậu bé vào hệ tư tưởng của tên khổng lồ, nó làm nhụt tinh thần tự chủ của cậu. Và, tên khổng lồ biết rõ nhược điểm này của cậu, nên nó bèn sử dụng ưu thế văn hoá hầu như tuyệt đối của nó làm một thứ vũ khí mềm để khuất phục và đồng hoá cậu bé. Vậy, đường cứu rỗi phải bắt đầu với việc tự ta giải thoát ta khỏi sự lệ thuộc thật là tai hại trên. Phản ứng hữu hiệu nhất là một phản cảm dị ứng với tất cả những cái chinoiserie của hệ tư tưởng Hán. Nhất định không bắt chước những mưu mẹo kiểu Khổng Minh của La Quán Trung. Nhất quyết không muốn làm quân tử tàu, kiếm sĩ kiểu Kim Dung, anh hùng kiểu kiếm hiệp tàu, và gì nữa.
Tất cả những thứ này đều là sản phẩm của một đầu óc hoang tưởng, bệnh hoạn, nguỵ khoa học; liều thuốc ngủ đánh gục ý chí tự cường của ta; vật cản chặn đường tiến của dân tộc ta và của bản thân ta. Đường cứu rỗi: sự kết hợp nhuần nhuyễn cái gốc minh triết quần chúng thực dụng và trong sáng của ta với tri thức duy lí có hệ thống và phương pháp suy luận chặt chẽ, mạch lạc, sáng sủa của Tây phương nhằm xua tan những đám sương u mộng của ý hệ Hán đang phủ kín hồn ta. Đường cứu rỗi: sự bổ sung và trau giồi không ngừng tri thức ta bằng những kiến thức tích cực, những kiến thức vui: những hòn đá tảng của một nhân sinh quan mới yêu đời, ham sống, hướng thiện và yêu cái đẹp.
Một nhân sinh quan của một mẫu người tổng hợp, bộ ba làm nên bởi sự cộng sinh hài hoà trong mỗi chúng ta của mẫu người cá nhân thân ái với tha nhân, mẫu người xã hội tự nguyện vì công ích và mẫu người công dân thiết tha với tổ quốc. Một nền cộng hoà được gọi là nhân bản khi nó lấy bộ ba này làm cứu cánh tối hậu của nó. MỘT BÀI THƠ VỀ CON VỜ. Cái buồn thường dễ lây hơn cái vui. Mà cái buồn ta lây của Tàu, buồn vạn cổ, là cái buồn chết người. Thứ thuốc phiện tạo ảo tưởng, làm nhụt ý chí và bào mòn sinh lực của người nghiện. Muốn cai nó, theo thiển ý, trước hết ta phải thành thật với ta, nghĩa là ta phải biết rằng ta đang bị nó nô lệ hoá. Ta phải tự nội soi ta nhằm phát hiện những ngầm phá nó gây ra trong ngõ nghách tâm hồn ta. Phẫu não này là một ca mổ in vivo, hiểu như ta tự thực hiện nó ngay trong đầu ta nhằm trừ khử những chất độc của nỗi buồn chết người ấy mà hồn ta đang nhiễm phải.
Đây là một trong những bước đầu mà trị liệu pháp tổng trạng nói trên phải thực hiện để đảm bảo cho việc giải Hán hoá của ta đạt được kết quả mĩ mãn. Riêng đối với tác giả, hình ảnh con vờ - biểu tượng của một kiếp sống lênh chênh, phù phiếm - cứ lởn vởn đâu đó trong đầu hắn kể từ khi hắn còn là một đứa trẻ thơ. Chính nỗi ám ảnh mông lung và dằng dai này là động cơ thúc đẩy sự ra đời của bài thơ về con vờ này mà tác giả, như đã nói ở trên, đã thai nghén trong mấy chục năm trời mà không hay. Bài thơ nên được coi như một cố gắng phác tả cấu trúc của cái gien văn hoá là nỗi buồn nòi của ta, một dị bản của nỗi buồn vạn cổ của Tàu. Đề tài thuộc phạm trù bản thể học, trừu tượng, trùng phức, nên bài thơ - một tập hợp của 28 câu lục bát – không thể không có những giới hạn nhất định của nó.
Tác giả hi vọng, với những thông tin cung cấp bởi thố lộ trên, độc giả như một du tử rong chơi trong cõi chữ sẽ cảm thấy bớt bỡ ngỡ trước cái phẫn khí quyết liệt của bài thơ ưu uất ta trách ta và ta phủ định ta này.
TA VỀ KHÔNG TẮM AO TA HAY CẤU TRÚC SÁU TÁM MỘT CỘI BUỒN
Buồn nòi bủa lưới giăng tơLênh chênh nhện nước con vờ lội ao.
Sòng đời chẵn lẻ thế nào? -
Thưa con số hẩm gieo vào cửa tôi.
Nhau con úa dạ mẹ rồi!
Chôn lầm mảnh đất mồ côi nhân tình.
Tà quyền phù thuỷ âm binh,
Nhà cò nhà vạc lục bình trôi sông.
Tiên thiên thù oán chất chồng,
Sống cùm kinh cụ, chết còng tân toan
Phẫn tồn một cái búng tăn
Ao tù diếc (1) quẫy vết nhăn mặt người.
Cái lì của tĩnh trêu ngươi,
Cái u của tịch mốc đời héo hon.
Mười đi chín mất một còn,
Máu trào cửa tử cờ son đẫy đùa.
Quê cha trái đắng được mùa,
Quả lừa thu ấy còn chua đến giờ.
Vung tay đòi xoá ván cờ:
Vẫn lờ đờ kiếp con vờ lội ao.
Cái buồn huyền sử xanh xao
Ủ mầm trong máu ngấm vào cung thương (2).
Mười đi may có một về,
Đường mòn con vác não nề trên lưng.
Ba đời đời vẫn kín bưng!
Mẹ ơi kiếp tới Mẹ đừng sinh con.
Minnesota, ngày lễ phục sinh, năm 2010 CUNG TRẦM TƯỞNG
(1) Cá nước ngọt, sống chủ yếu ở ao hồ, ít ở sông. (2) Hai âm trong hệ ngũ âm: cung, thương, chuỷ, giốc, vũ; gọi chung là âm nhạc nghiêng về vãn than.
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0147
HUỲNH TÂM * DI DÂN LẬU VIỆT NAM TẠI PHÁP
Huỳnh Tâm
Ngày
10-6-2010 vừa qua, tại quảng trường Bastille, quận 4 thủ đô Paris,
Pháp Quốc, người ta thấy có nhiều bà mẹ trẻ Việt Nam bồng bế con thơ
xuống đường, yêu cầu nhà nước Pháp hợp thức hoá qui chế định cư. Những
cuộc xuống đường này không phải tình cờ, họ biết chính phủ Pháp không
thể trục xuất họ ra khỏi nước một khi chứng minh được đã sinh con tại
Pháp. Họ còn biết sẽ có nhiều hội đoàn thiện nguyện Pháp bênh vực và
che chở họ nếu bị đàn áp.
Có
lẽ đây là lần đầu tiên di dân Việt bất hợp pháp xuất hiện công khai
trong những cuộc xuống đường đòi hợp thức hoá sự hiện diện của họ trên
đất Pháp. Trước đó, được các hội đoàn thiện nguyện và nhân đạo khuyến
khích và hỗ trợ, cộng đồng người Châu Phi da đen, Ả Rập và Trung Quốc
đã nhiều lần xuống đường đòi hợp thức hoá tình trạng nhập cư bất hợp
pháp của họ và yêu cầu chính phủ Pháp cung cấp giấy tờ để tìm việc và
hội nhập. Lần này, những bà mẹ trẻ Việt Nam đã bồng bế con thơ xuống
đường, như những bà mẹ trẻ Trung Quốc và Châu Phi đã từng làm trước
đó, vì biết rằng lực lượng an ninh sẽ không đàn áp và các cơ quan
truyền thông và báo chí sẽ bênh vực họ.
Cái không may của đoàn
người này là đã xuống đường đòi quyền lợi vào một thời điểm không
thuận lợi, do đó đã diễn ra trong sự dửng dưng, không được cơ quan
truyền thông nào chú ý tới. Nước Pháp đang bị suy thoái kinh tế và ưu
tư của các công đoàn và dư luận tập trung vào dự luật cải cách tuổi về
hưu. Chỉ thấy xe cộ ồ ạt qua lại và khách bàng quan tò mò đứng nhìn.
Tuy
vậy, cuộc xuống đường này đã được nhóm phóng viên tự do người Việt
chúng tôi chú ý. Sự chú ý của chúng tôi không nhắm vào đoàn người xuống
đường mà số trẻ thơ bị mang xuống đường làm dụng cụ thương thuyết. Trẻ
em, tuổi từ một tháng đến một năm được bồng bế trên tay hay nằm trên
những xe đẩy với hơn 45 phụ nữ, tuổi từ 20 đến 30, có lẽ là mẹ của
những trẻ em này. Không hiểu số trẻ em này được sinh ra vào lúc nào và
trong những điều kiện nào trên đất Pháp?
Dĩ
nhiên không thấy xuất hiện bóng một nam nhân Việt Nam nào, mặc dù
những trẻ em này đều da vàng, tóc đen, mũi tẹt. Những người cha đã ẩn
mặt để cho vợ, người tình xuống đường đòi quyền lợi và sẽ xuất hiện khi
thành công và lẩn trốn khi thất bại. Cách tính toán này quả là khôn
ngoan cho kẻ ném đá giấu tay, nhưng không danh dự gì cho người trục lợi.
Từ muôn đời bà mẹ Việt Nam nào cũng là những kẻ thiệt thòi, chỉ biết
hy sinh và chịu đựng. Lần này sự chịu đựng diễn ra tại Châu Âu, trên
quảng trường Bastille, thủ đô nước Pháp, khiến sĩ diện và danh dự cộng
đồng người Việt tị nạn trên đất Pháp bị xúc phạm.
Từ
năm 1975 đến nay, cộng đồng người Việt tị nạn đã xây dựng được cho
mình một hình ảnh tốt đẹp trong dư luận người Pháp: những con người đàng
hoàng, tôn trọng pháp luật, bầu cử danh dự, cần cù làm việc, biết
khuyến khích con cái học hành, và nhất là không làm mất danh dự tập thể.
Nhưng từ một vài năm trở lại đây, phong trào di dân bất hợp pháp của
người Việt trên đất Pháp đã làm hoen ố hình ảnh này. Dư luận người
Pháp không phân biệt cộng đồng người Việt di dân sau 1975 và hiện nay,
họ gọi chung là người Việt bất hợp pháp (les clandestins
vietnamiens). Nhất là sau vụ một phụ nữ Pháp bị bắt quả tang đưa người
Việt sang Anh và những thiên phóng sự về những nhóm người Việt bất
hợp pháp trong các khu rừng miền Bắc nước Pháp chờ dịp sang Anh trồng
cần sa.
Cuộc xuống đường của 45 người phụ nữ
và 45 trẻ em Việt Nam tại Quảng trường Bastille,
quận 4 Paris(Photo: Huỳnh Tâm)
Thực ra những phụ nữ này chỉ là nạn
nhân của một đường dây đưa người bất hợp pháp vào đất Pháp mà ai cũng
biết có sự đồng loã, nếu không muốn nói là có sự tiếp tay của Tòa đại
sứ Việt Nam tại Pháp. Nếu không được cấp giấy thông hành, làm sao
những người này qua được nước Pháp? Nếu không có nơi chứa, làm sao
những người này có thể ăn ở và mang thai rồi sinh con đẻ cái? Qua điều
tra, chúng tôi được biết họ là nạn nhân của một đường dây có tổ chức
do nhà nước chỉ đạo: Xuất khẩu lao động. Những phụ nữ này, sau khi nộp
đủ thứ tiền cho các cơ quan dịch vụ, được đưa sang Pháp. Sau khi đến
Pháp, những phụ nữ này mới biết mình bị lừa thì đã quá muộn. Họ được
đưa đi ẩn náu trong các thành phố ngoại ô phía Đông Paris để chờ được
đưa sang Anh định cư. Khi đường dây sang Anh bị đổ bể, những phụ nữ
này được khuyến khích sinh con đẻ cái tại Pháp để được hưởng quyền
định cư hợp pháp. Nói họ nhẹ dạ thì có hơi quá đáng, nhưng rõ ràng họ
là nạn nhân của một đường dây buôn người do nhà nước cộng sản Việt Nam
tổ chức. Nếu không có tổ chức thì làm sao hơn 45 phụ nữ sàn sàn cùng
lứa tuổi, không biết ở đâu và có con cùng độ tuổi đến gặp nhau tại
quảng trường Bastille đúng ngày, đúng giờ để biểu tình đòi quyền lợi?
Còn cha của những em bé này là ai nếu không phải là những thanh niên
Việt Nam được đưa sang Pháp bằng đường du lịch hay du học sinh, và
muốn được hợp thức hoá giấy tờ để ở lại?
Hay
tin người Việt xuống đường tại Quảng trường Bastille, Paris, ngày
10/6/2010 đòi hợp thức hoá tình trạng cư trú, nhóm phóng viên chúng tôi
liền đến tìm hiểu và thăm hỏi sự tình.
Qua
trao đổi, người dân Paris cho biết, họ rất thắc mắc: Nước Việt Nam
đang phát triển không thua gì Trung Quốc, tại sao lại có tình trạng
người Việt di dân bất hợp pháp ra nước ngoài? Người Việt nổi tiếng
thương con và tự trọng, tại sao lại đem chúng xuống đường yêu sách đòi
hợp thức hoá một tình trạng bất hợp pháp?
Một
người Việt sống lâu năm ở Paris thì phát biểu: Kẻ mù cũng thấy sau
lưng những người này có bàn tay của đảng cộng sản Việt Nam xúi gịuc, họ
là nạn nhân của bọn mafia nhà nước.
Xưa
nay văn hoá Việt Nam có rất nhiều hình ảnh lưu truyền nói về tình mẫu
tử, như câu ca dao: "Con dại cái mang". Con làm điều bậy thì cha mẹ
gánh chịu. Thế mà từ ngày chế độ cộng sản được thiết đặt trên toàn lãnh
thổ Việt Nam thì câu ca dao này đã đổi thay ngược dòng đời: "Cái dại
con mang". Cha mẹ làm điều bậy thì con gánh hết, âu cũng do xã hội Việt
Nam ngày nay đổi thay không thể chấp nhận được.
Những bà mẹ Việt trẻ bồng con thơ
đi biểu tình tại Quảng trường Bastille,
quận 4 Paris, ngày 10/6/2010 (Photo: AFP/Getty Images)
Những
bà mẹ Việt thời nay, bồng bế con thơ đi biểu tình tại Paris có những
suy nghĩ không chính xác và thiếu thực tế về xã hội phương Tây, nhất
là về hội nhập. Họ cứ tưởng rằng nếu sinh con đẻ cái trên đất Pháp thì
sẽ được hợp thức hoá tình trạng cư trú tức khắc, do đó đã xuống đường
yêu cầu nhà nước Pháp Quốc hiểu hoàn cảnh và lắng nghe tiếng nói của họ.
Trước
đây, chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều đoàn biểu tình của người di
dân bất hợp pháp gốc Châu Phi, xin hợp thức hoá định cư, nhưng chẳng
mấy ai có được kết quả.
Phải
biết rằng luật di trú Pháp đã rất rõ ràng: một người con có cha mẹ
thuộc diện di dân bất hợp pháp muốn hợp thức hoá giấy tờ phải chờ đến
năm 18 tuổi mới được làm đơn xin gia nhập quốc tịch. Những bậc cha mẹ
phải làm gì trong suốt 18 năm chờ đợi đó? Và cũng nên biết rằng, trong
suốt 18 năm đó, khi bị xét hỏi và khám phá cha mẹ, kể cả đứa con, không
có giấy tờ hợp lệ thì cả gia đình có thể sẽ bị bắt giữ để trục xuất
về nước liền tức thì. Trong trường hợp may mắn, sau khi đứa con đã đến
tuổi trưởng thành (18 tuổi) và được chấp thuận làm công dân nước Pháp
thì bà mẹ đã ngoài 40 tuổi, tuổi rất khó tìm việc tại Châu Âu vì xem
như hết sức lao động. Không lẽ sau 18 năm chờ đợi, tương lai của mẹ
lẫn con lại bấp bênh đến thế sao ?
Chân dung bà mẹ
Mẹ
Việt Nam thông qua tập quán ở quê nhà, là mẫu mực của sáng tạo, người
lập ra mái ấm gia đình và kỷ cương sống, người con chào đời thụ hưởng
thương yêu, hiếu đức, lương thiện. Bà mẹ ấy là chân dung của đức cần
cù nhẫn nại. Mẹ là sự sống của từng khắc giây hy vọng, cho con cái
thành nhân chí mỹ, mẹ cho con tình yêu vào đời rất vĩ đại.
Cũng
có trường hợp đớn đau như những bà mẹ trẻ Việt Nam xuống đường tại
Paris đòi quyền lợi. Tương lai của họ sẽ như thế nào? Qua tìm hiểu sơ
lược chúng tôi được biết một số những bà mẹ trẻ này không quan tâm gì
đến tương lai của con cái họ. Các bà chỉ mong sao có giấy tờ để thực
hiện những dự án làm giàu khác, như kiếm chồng có địa vị, có tài sản để
được sống trong sự sung túc và giàu sang. Không ai có dự án đầu tư nào
cho con cái, các bà mẹ đều nói con cái họ sẽ được nhà nước Pháp nuôi
nên không phải lo lắng gì cho lắm. Trước mắt chúng tôi chỉ thấy các em
bé này chuẩn bị tiếp nhận sự bất hạnh mà các bà mẹ định dành cho. Ít
ai tự hỏi tương lai của những em bé này ra sao và sẽ nghĩ gì về những
toan tính của mẹ dành cho mình ?
Sau lưng bồng bế con thơ xuống đườngTrong
buổi biểu tình, sự chú ý của chúng tôi hướng về hai phụ nữ, một người
trạc tuổi 30, bồng một con nhỏ, và người đứng kế bên, ăn mặc thanh
lịch, tay cầm cây dù màu thiên thanh che cho em bé.
Tôi
đến gần và gợi chuyện với người phụ nữ ăn mặc thanh lịch. Quan sát
kỹ, tôi thấy người này không phải là người nhập cư bất hợp pháp vì dáng
người sang trọng, ăn mặc đúng kiểu phương Tây, trang điểm thanh lịch,
nhưng khuôn mặt được che lấp bởi bảy lớp phấn dầy nên trông rất trẻ.
Thêm vào đó, vành môi của bà ta đươc tô đen một cách gợi tình. Những
nam thanh niên yếu bóng vía sẽ bị lửa tình thiêu đốt khi bị tia chớp
từ đôi mắt huyền chiếu vào.
Càng
gợi chuyện, tôi càng ngạc nhiên. Sự khám phá về người phụ nữ này rất
là lý thú. Thoạt đầu tôi gọi bằng cô xưng tôi, sau khi biết tuổi của
nhau cách xưng hô trở nên thân thiện hơn, chúng tôi gọi nhau bằng bác
và cháu rất là thân mật. Tôi hỏi:
—
Cháu Hồng à, bằng cách nào cháu biết địa chỉ này mà đến tham dự biểu
tình? Ai chỉ dẫn cháu yêu cầu nhà nước Pháp hợp thức hoá thủ tục định
cư?
Suy nghĩ một hồi, với một giọng nói ngồ ngộ miền Nam, cô Hồng chậm rãi nói:
—
Thưa bác, câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng cháu tin bác là không có
ác ý gì, bởi thế cháu không thể nào nói dối với bác. Thưa bác, cuộc
biểu tình hôm nay là do cháu tự nguyện tổ chức. Còn những chị em từ xa
đến đây tập hợp cũng do cháu đài thọ mọi chi phí như di chuyển và ăn
trưa. Sau buổi biểu tình này cháu không hy vọng nhà nước Pháp đồng ý
chấp nhận hợp thức hoá định cư. Tuy nhiên đây là tiếng chuông báo hiệu
trước, lần sau cháu sẽ tổ chức rầm rộ hơn.
Tôi
không hiểu nổi. Nguyên nhân nào xuất hiện một cô Hồng tại Paris và ai
đứng sau lưng cuộc biểu tình này? Khi vừa đến đây, tôi đã nghi ngờ
thực chất của cuộc biểu tình này vì chỉ thấy toàn người Việt và không
có một hội đoàn thiện nguyện hay nhân đạo người Pháp nào. Sau khi dò
hỏi, tôi biết chắc chắn có bàn tay hay âm mưu nào đó của chính quyền
cộng sản Việt Nam ở đằng sau.
Muốn
tìm hiểu một mẫu người xa lạ và huyền bí như cô Hồng, quả thật không
dễ. Tôi chỉ biết để lộ sự chân tình và để cho cô Hồng tự nguyện kể lại
từng hành động, từng sinh hoạt và cuộc đời riêng. Để bắt đầu tôi gợi ý
bằng một câu hỏi, như một người thân đứng tuổi:
—
Cô Hồng có lẽ đã sinh sống ở Pháp từ lâu lắm rồi phải không? Công ăn
việc làm có khó nhọc không? Sinh hoạt gia đình có bị chật vật gì không?
Còn an sinh xã hội đối với chồng con thế nào, nếu trung bình thì bác
đây vui mừng cho cháu, cũng như quý chị em đang biểu tình?
Cô Hồng nhìn về phía xa xăm thổ lộ:
—
Thưa bác, thực ra cháu chỉ vừa đến Paris hơn được một năm. Khi còn ở
quê nhà cháu đã có mang thai rồi, đến Pháp mới sinh được một con trai,
hôm nay con của cháu đã được 8 tháng. Quê cháu ở Sài Gòn, trước nhà
thờ Huyện Sĩ, đường Ngô Tùng Châu.
Tôi liền ngắt lời của cô Hồng:
— Nhà của bác ở đầu hẻm Ngô Tùng Châu đó cháu ạ.
Đôi
mắt cô Hồng như bừng sáng, khuôn mặt thể hiện sự thiện cảm và gương
mặt của cô Hồng để lộ sự chân thật. Quả nhiên bản tính con người đều
mang tính thiện, nhất là khi gặp được người đồng hương hay láng giềng ở
xứ lạ, cô Hồng để lộ một niềm vui khôn tả, nói tiếp:
— Thưa bác, cháu nhớ ra rồi, căn nhà ấy lúc nào cũng tấp nập bạn bè ra vào.
Rồi chuyển qua những câu hỏi của tôi, cô Hồng nói tiếp:
—
Thưa bác, cháu không ngại nói ra đây để bác tường. Cháu nguyên là vợ
bé thứ mấy, trẻ tuổi nhất của một nhân vật hàng đầu ban lãnh đạo trung
ương đảng cộng sản Việt Nam. Cháu ăn ở với người này cũng vì tiền mà
thôi, chứ tình yêu gì với một lão già! Đối với cháu, một lão già nua
thì khó ăn cỏ xanh một cách tự nhiên. Lúc ấy bất ngờ cháu mang thai
với một người tình cũ, thế là cháu báo tin cho lão tình già biết, đã
cấn thai một tháng. Lập tức lão tình già tin tưởng có thêm vốn lời,
liền cho cháu đi du lịch sang Pháp rồi ở luôn từ đó đến nay. Cháu sống
trong một biệt thự lộng lẫy tại Chatou, ngoại ô phía tây cách Paris
30 km, có ba người hầu và một người làm vườn. Đặc biệt có một chị
người gốc Hoa, làm tài xế và thông dịch, nói thông thạo bốn thứ tiếng,
Quan Thoại, Việt, Anh và Pháp.
Lòng
tôi bồi hồi thật lâu, không biết có nên tin những lời nói này, thật
là bán tín bán nghi. Lời nói có vẻ chân thực, nhưng không biết lấy gì
đo lường sự thành thật của người phụ nữ trước mặt! Tôi chỉ nghe trong
lòng vang lên sự bực tức: Con mẹ đảng cộng sản chúng nó, đục khoét đất
nước Việt Nam, bán đất, bán dân, bán rừng, bán biển và tham nhũng để
lấy tiền nuôi một con bồ nhí. Thảo nào đất nước Việt Nam ngày nay
không giống ai cả!
Tôi
chợt định thần trấn tĩnh lại trước một cô Hồng, đương là phu nhân nhỏ
của một nhân vật lãnh đạo trung ương của đảng cộng sản Việt Nam, cũng
là kẻ nắm quyền sinh tử trên tay 86 triệu dân Việt Nam. Như vậy cô
Hồng không phải là một người phụ nữ chân chất, bởi cô đã biến lão tình
già của đảng cộng sản thành nạn nhân của kế mỹ nhân, do đó lời nói của
cô Hồng này rất là khó tin. Đang lúc thâm tâm còn phân vân, tôi liền
quyết định tránh xa kẻ xấu để cho tâm hồn được bình an và không muốn
nghe tiếp một lời nào từ một người xuất thân từ chế độ xã hội chủ nghĩa
này ra.
Sau
một hồi nhìn trời mây nước, giả vờ quan sát những người biểu tình,
mãi một lúc lâu sau tôi mới lấy quyết định, thà chịu bẩn lỗ tai để khám
phá thâm cung bí sử của đảng cộng sản Việt Nam hơn là nhắm mắt bịt
tai trước sự thật. Hơn nữa đây cũng là một dịp hiếm hoi để tìm hiểu
đảng cộng sản nên không thể làm ngơ.
Sau
buổi biểu tình, tôi mời cô Hồng và người đi theo dùng cơm chiều. Tôi
nghĩ, muốn tìm hiểu mẫu người phụ nữ có lớp áo bí ẩn này thì nên tiếp
xúc tại nhà hàng ở trước quảng trường Bastille. Cô Hồng đồng ý chấp
thuận lời mời của tôi. Vào nhà hàng, tôi nhờ người chạy bàn cho ba phần
ăn bình thường trên thực đơn, kèm theo rượu vang. Cô Hồng liền phất
tay và xin phép người chạy bàn đổi thực đơn theo ý của cô. Người đi
theo liền gọi khai vị, tiếp theo thực đơn chính là hải sản và tráng
miệng.
Tôi liền hỏi:
— Cô Hồng có để ý thực đơn của em bé không ?
Cô ta đáp:
— Thưa bác, yên chí cháu đã có thực đơn chính hiệu cho bé rồi.
Tôi cười mỉm:
—
Thì ra cháu bé đã có thực đơn thiên nhiên rất tốt đấy, chính ở điểm
này thôi đã nói lên tình thâm mẫu tử rồi. Đúng là cha mẹ thương con như
biển trời lai láng, dù sau này cha mẹ có lỗi lầm gì người con cũng tha
thứ tất cả.
Trong
buổi cơm, sự thân mật đến một cách tự nhiên, lời ăn tiếng nói không
còn đắn đo suy nghĩ như trước. Tôi trình bày về khía cạnh nhân đạo của
nước Pháp để cô Hồng có khái niệm và tránh những điều không hay, và
cũng nhân thể báo tin cho cô Hồng đừng nghe những gì từ kẻ xúi giục, để
rồi mất thời gian mà không đem lại kết quả.
— Cô Hồng ạ, nói về
đất nước Pháp thì họ có tinh thần nhân đạo nhất thế giới, nhưng năm
tháng ngày dài cả thế kỷ nhân đạo cũng đã đến thời kỳ cùng cạn, dù đất
nước Pháp lúc nào cũng cổ vũ nhân dạo, cho nên tất cả những ai muốn
lên làm lãnh đạo quốc gia cũng thực hiện theo ý nguyện của dân. Nhà
nước Pháp đã từng thành công chương trình di dân, vì trước đây tất cả
người di dân quyết tâm hội nhập, cùng với người dân bản xứ, họ thi
nhau đóng góp nền kinh tế phồn thịnh, trong số đó có cộng đồng Việt
Nam. Tính từ con số 5 cuối, như 1945 lính thợ, 1955 hồi tịch, 1975 di
dân. Ở thời điểm 1975 tại Pháp mới thực sự có mặt cộng đồng người Việt
Nam, đến nay trên dưới 450.000 người Việt định cư tại Pháp (Theo tư
liệu của bộ Nội Vụ Pháp Quốc), kể cả số người nhập cư lậu. Tôi được
biết Chương trình di dân cũng đã thay đổi theo thời gian, nay không
còn rộng lượng và bao dung như ngày xưa nữa, trong thập niên 1990.
Theo
Bộ Di Trú Pháp cho biết, truyền thống nhân đạo của chính phủ Pháp
đang bị xét lại, do phía người ngoại quốc có những trá hình nhập cư bất
hợp pháp, vượt quá đường rang nhân đạo mà luật pháp đã quy định.
Để dẫn chứng, tôi nói đến nhiều trường hợp nhập cư bất hợp pháp khác nhau như:
1. Chương trình hôn nhân và bảo lãnh thân nhân.
2. Chương trình bảo lãnh bệnh nhân nan trị.
3. Du lịch và thăm viếng thân nhân.
Trong
ba chương trình trên, yếu tố nhân đạo bao trùm lên tất cả và người
nhập cư bất hợp pháp đã lợi dụng yếu tố này để nhập cư bất hợp pháp.
Như một người vào nước Pháp xin uống một hớp nước, thấy nguồn nước trong
lành người đó ở lại luôn. Không những thế họ còn bắt buộc chủ nhà
nuôi ăn và nuôi ở, và còn phải trả tiền bồi dưỡng ở nhà nuôi con. Thử
hỏi có gia đình nào, chứ đừng nói quốc gia nào còn hứng thú để tiếp
nhận những loại di dân như thế không? Ngày nay chính quyền Pháp đã đặt
ra rất nhiều tiêu chuẩn nhập cư.
Từ
thập niên 1990 trở lại đây, nước Pháp đã phải đối đầu với làn sóng di
cư kinh tế, qua nhiều dạng bất hợp pháp khác nhau. Điển hình là chương
trình hôn nhân, mỗi năm Pháp cho nhập cư ít nhất 2.530 người, trong
số đó có người Việt Nam. Rồi kéo theo một đoàn công-voa bảo lãnh thân
nhân, làm số người nhập cư lên tăng bội.
Chương trình bảo lãnh
bệnh nhân nan trị khoảng 1.360 người, đa số đã chọn ở lại và bảo lãnh
thân nhân sang chăm sóc, ăn theo v.v.
Đặc biệt là chương trình
du lịch và thăm viếng thân nhân tại Pháp. Tạm tính mỗi năm có trên
45.500 người Việt sang thăm nước Pháp, trong số đó số người Việt Nam ở
lại Pháp không phải là nhỏ, chuyến du lịch nào cũng báo cáo danh sách
mất tích. Phần lớn những người đi du lịch và quyết định ở lại này cấu
kết với thành phần nhập cư bất hợp pháp mà sau lưng là những tổ chức
hoạt động xã hội trá hình như hội đoàn thiện nguyện, tín ngưỡng v.v.,
có tổ chức là cánh tay nối dài của tổ chức mafia Việt Nam. Một số
người Việt Nam du lịch đến Pháp tìm mọi cách để chứng minh là có thân
nhân tại Pháp rồi ở lại, trừ khi không có ai bảo đảm mới trở về cố
quốc. Sự xuất hiện của họ từ phía các quốc gia nghèo, vì họ khao khát
đổi đời, nhưng đại thể vô tình lại nuôi béo mập mafia.
Du
lịch để tạm cư ở Pháp cũng không phải là cách hay, họ lấy quyết định ở
lại Pháp do suy nghĩ đơn thuần, lúc nào họ cũng tìm cơ hội để lập gia
đình với người đồng hương hay bất cứ với màu da khác, nếu là người
Pháp thì bảo đảm hơn, bởi vậy họ trả giá cho cuộc đời riêng tư rất lớn
để rồi tâm hồn không bao giờ yên lặng.
Khi
được Bộ Di Trú chấp thuận cho định cư chinh thức, họ lập tức chuẩn bị
ly hôn. Cũng có những hôn nhân sống bằng hồ sơ, nhà ai nấy ở, chờ
đúng năm tháng theo luật pháp quy định, lúc ấy họ mới chuẩn bị hồ sơ ly
hôn. Có những phiêu lưu khác, phụ nữ tìm nam giới để cấy giống, bởi
họ không còn con đường nào khác để được ở Pháp. Cũng như vừa qua rất
đông người Việt du lịch lấy Pháp làm quá cảnh, rồi đến cảng Calais
vượt biên vào Anh Quốc để trồng cần sa. Ôi sao mà làm đời nghèo lắm
xót xa !
Nói chung, người Việt không am tường luật di trú của
Pháp Quốc, cho nên suy nghĩ đơn giản, như khi được ở Pháp rồi thì tìm
được công ăn việc làm và có điều kiện sẽ bảo lãnh thân nhân tại quê
nhà. Thực tế tất cả những tính toán trên của người muốn ở lại Pháp
hoàn toàn sai, vì Pháp không thể tạo công ăn việc làm cho thành phần
nhập cư bất hợp pháp. Nhất là kinh tế toàn cầu đang suy thoái, Pháp
vẫn chưa ra khỏi sự trì trệ kinh tế như hiện nay. Nước Pháp lo cho dân
họ đã là một gánh nặng và người dân Pháp đang gánh nền kinh tế quốc
gia với những phiền muộn nên sẽ không tha thứ cho bất cứ chính quyền
hay cấp lãnh đạo nào nuôi ăn, nuôi ở một kẻ lạ không thân thuộc và
không đóng góp nào vào kinh tế Pháp.
Tôi nói tiếp:
— Cô Hồng à, tôi trình bày đơn sơ, như một báo cáo của kẻ ít biết về nước Pháp, tôi hơi lắm chuyện xin cô cảm thông.
Miệng tôi nói, mắt quan sát để tìm phản ứng của cô Hồng, tuyệt nhiên thấy cô bình thản, hình như vô tư. Tôi thấy cũng lạ, hỏi:
— Cô Hồng, có cảm tưởng nào, qua câu chuyện tôi vừa trình bày không ?
Cô Hồng nhìn bâng quơ ra quảng trường Bastille, đáp:
—
Thưa bác, cuộc phiêu lưu của cháu hoàn toàn khác với đồng hương vì
cháu không hề chuẩn bị. Hôm nay cháu chỉ biết bảo vệ quyền sở hữu vì
tương lai con của cháu, còn việc xin định cư thì cháu có cách khác. Cũng
có thể cháu thong thả chịu được 20 năm hay hơn nữa với một gia tài đã
ổn định.
Tôi nghe cô Hồng nói đến gia tài ổn định, liền không thể bỏ cơ hội, hỏi:
— Cô Hồng à, dù có gia tài thế nào ngồi ăn không cũng phải lở.
Cô Hồng không do dự, đáp:
—
Thưa bác, bác không hiểu đâu, tài sản của cháu là đồ thừa thãi của lão
tình già, cháu lấy tiền của lão cũng vì đánh mất hạnh phúc cá nhân
nay mới có được, những thứ tiền tham nhũng đó không phải là mồ hôi
nước mắt của lão tình già. Cháu không lấy tiền của lão tình già thì
người khác cũng lấy vậy thôi. Tuy cháu có độc ác với lão ấy thực,
nhưng bù lại cháu âm thầm thực hiện chương trình khuyến học từ tiểu
học đến trung học tại quê nhà, mỗi năm cháu phải chi trên 50.000
euros. Thà cháu bất nhân với một kẻ, nhưng cháu lương thiện với muôn
người.
Bác
xem, sở dĩ cháu có được như vậy là vì phải trả giá bằng trinh tiết
đời con gái và lão tình già cũng không mất mát gì bởi tiền đó do tham
nhũng. Cháu rất vui là lão tình già vẫn đinh ninh là bản sao y chính
hiệu một mặt con. Bây giờ mỗi tuần lễ, lão tình già cứ phải rót tiền vào
ngân hàng tài khoản công ty xuất nhập khẩu và tài khoản riêng của
cháu. Hiện cháu sử dụng đồng tiền đó bằng cách mua bất động sản ở hải
ngoại.
Tôi rất kinh ngạc khi cô Hồng thổ lộ về mãnh lực đồng tiền, liền trách:
—
Cô Hồng không suy tính kỹ, tại sao lại nói toạc móng heo như vậy,
không sợ đảng cộng sản hay sao? Phải chăng nay cô vô tình hay cô ý làm
trung gian rửa tiền cho đảng cộng sản Việt Nam?
— Thưa bác, sợ
cái gì! Bọn cộng sản đều cá mè một lứa cả lũ! Thời phong kiến một ông
vua muôn trăm ngàn bà vợ, dân đã khổ lắm rồi. Còn thời nay dân khổ cao
ngất trời xanh cũng do đảng cộng sản cha và con thi nhau làm vui, ngự
trị trên đầu dân tộc Việt Nam, mỗi ông đảng tự xem là vua chúa quyền
hành bá đạo, tranh nhau cướp tài sản của dân giữa ban ngày, tạo ra các
công trình để tham nhũng, buôn bán trẻ em gái tơ, xuất khẩu lao động.
Đảng cộng sản Việt Nam khuyến khích đảng viên vay tiền nhà nước để
kinh doanh, rồi quỵt luôn vốn. Đây là hình thức cướp tài sản của quốc
gia. Nếu cháu được làm trung gian rửa tiền cho đảng cộng sản Việt Nam
thì là trúng số rồi. Rất tiếc là họ tín nhiệm thân nhân và tư vấn rửa
tiền, cùng những tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam trên thế
giới, ngoài ra còn có một số tổ chức tôn giáo nhận rửa tiền cho họ.
Không ngờ trong người cô Hồng chất chứa một vốn phẫn nộ. Tôi liền hỏi qua hướng khác:
— Cô Hồng đã có dự định ngày nào để tổ chức biểu tình xin hợp thức hoá thủ tục định cư ?
Cô Hồng thở một hơi dài rồi bảo người phụ nữ đi theo:
— Nhờ chị Lình bồng bế cháu đi lấy xe, để chuẩn bị về.
Lúc
này tôi mới biết tên của người phụ nữ gốc Hoa là Lình và hiểu được ý
của cô Hồng muốn nói những lời trong tâm khảm, nhưng không cho cô Lình
biết. Khi cô Lình ra khỏi cửa thì cô Hồng mới nói nhỏ với tôi:
—
Thưa bác, một lần là đã ngã ngựa rồi bác ạ, cháu bị chị Lình này xui
khiến đến nỗi cháu phải tự ái dân tộc, đành đứng ra tổ chức. Không ngờ
tinh thần của cháu bị người lợi dụng, bây giờ cháu mới biết thì đã
muộn, tên Lình này cháu phải cho nghỉ việc trong tuần này.
Cháu
cũng lo ngại không biết từ đâu tên Lình này có một danh sách của chị
em sinh con nhỏ tại Pháp trên trăm người Việt lẫn Hoa. Cháu có hỏi tên
Lình: Từ đâu có danh sách này, thì Lình bảo là những người Việt Nam
đồng ký tên trong danh sách nhờ chúng ta vận động định cư.
Từ đó
cháu nghi ngờ chính là sứ quán Trung Hoa và Việt Nam có mưu đồ nào
đó. Có thể cuộc biểu tình hôm nay do cộng sản Việt Nam đã thành công
trên mặt quảng cáo, ít nhất họ tạo ra một viễn tượng có hy vọng và đầy
hứa hẹn cho những người Việt thiếu thông tin về di trú tại Pháp Quốc,
cũng là cơ hội để mafia Việt Nam thử nghiệm thị trường Mẹ Bồng Con.
Sau
buổi cơm thân mật cô Hồng đưa thẻ ngân hàng Thuỵ Sĩ cho người hầu bàn
tính tiền. Tôi ngạc nhiên liền nói một cách rất kín đáo:
— Tôi mời, nhưng cháu lanh tay trả tiền trước, cảm ơn hẹn dịp khác.
Miệng tôi nói chuyện, nhưng mắt thoáng qua thấy thẻ ngân hàng không phải tên Hồng. Rồi liền nói qua chuyện khác:
— Năm nay cô Hồng có dự định đi nghỉ hè ở đâu không?
—
Thưa bác, cháu không có dự định nghỉ hè. Tuy nhiêu mỗi tháng cháu ở
mỗi nơi, tháng này ở Pháp, tháng sau ở thủ đô Berne Thuỵ Sĩ. Mỗi lần như
vậy thì cả 3 chị làm việc cùng đi theo.
Cô
Hồng còn cho biết nguyên là phó giám đốc của công ty xuất nhập khẩu
Vinacon với cổ phần trong tay 49%. Cô Hồng đã giãi bày hết những việc có
thể thật, nhất là sự tham nhũng của tầng lớp lãnh đạo đảng viên cộng
sản Việt Nam.
Trước mắt chúng tôi có thể dự ước được về cô Hồng
có sở hữu tài sản như một lâu đài tại Chatou Pháp Quốc, một lâu đài
tại Berne Thuỵ Sĩ và một công ty xuất nhập khẩu. Còn riêng tiền ký gửi
ngân hàng Thuỵ Sĩ thì đố ai biết được!
Khi chuẩn bị chia tay, cô Hồng hỏi:
— Bác đi về đâu, và bằng phương tiện gì ?
Tôi không ngại nói đùa:
— Tôi có cổ phần xe Métro, cho nên đi không cần tài xế và bãi đậu.
Cô
Hồng cười rất vui vì biết tôi nói đùa. Cô Hồng hỏi địa chỉ và tên họ
tôi để liên lạc, tôi cho địa chỉ E-mail: tam.tamtam@online.fr và địa chỉ
tòa thị chính Gennevilliers.
— Mời bác Ba–Tam đi cùng với cháu .
— Vâng cảm ơn cô Hồng.
Tôi bước theo sau và ngồi vào xe Lexus SC430 Convertible 2010.
Khi
đến Gennevillers tôi xuống xe, trong lòng bâng khuâng về những gì biết
được từ một cuộc chuyện trò thật hãn hữu. Paris 23-7-2010
Huỳnh Tâm
__,_._,___
Huỳnh Tâm
Ngày
10-6-2010 vừa qua, tại quảng trường Bastille, quận 4 thủ đô Paris,
Pháp Quốc, người ta thấy có nhiều bà mẹ trẻ Việt Nam bồng bế con thơ
xuống đường, yêu cầu nhà nước Pháp hợp thức hoá qui chế định cư. Những
cuộc xuống đường này không phải tình cờ, họ biết chính phủ Pháp không
thể trục xuất họ ra khỏi nước một khi chứng minh được đã sinh con tại
Pháp. Họ còn biết sẽ có nhiều hội đoàn thiện nguyện Pháp bênh vực và
che chở họ nếu bị đàn áp.
Có
lẽ đây là lần đầu tiên di dân Việt bất hợp pháp xuất hiện công khai
trong những cuộc xuống đường đòi hợp thức hoá sự hiện diện của họ trên
đất Pháp. Trước đó, được các hội đoàn thiện nguyện và nhân đạo khuyến
khích và hỗ trợ, cộng đồng người Châu Phi da đen, Ả Rập và Trung Quốc
đã nhiều lần xuống đường đòi hợp thức hoá tình trạng nhập cư bất hợp
pháp của họ và yêu cầu chính phủ Pháp cung cấp giấy tờ để tìm việc và
hội nhập. Lần này, những bà mẹ trẻ Việt Nam đã bồng bế con thơ xuống
đường, như những bà mẹ trẻ Trung Quốc và Châu Phi đã từng làm trước
đó, vì biết rằng lực lượng an ninh sẽ không đàn áp và các cơ quan
truyền thông và báo chí sẽ bênh vực họ.
Cái không may của đoàn người này là đã xuống đường đòi quyền lợi vào một thời điểm không thuận lợi, do đó đã diễn ra trong sự dửng dưng, không được cơ quan truyền thông nào chú ý tới. Nước Pháp đang bị suy thoái kinh tế và ưu tư của các công đoàn và dư luận tập trung vào dự luật cải cách tuổi về hưu. Chỉ thấy xe cộ ồ ạt qua lại và khách bàng quan tò mò đứng nhìn.
Cái không may của đoàn người này là đã xuống đường đòi quyền lợi vào một thời điểm không thuận lợi, do đó đã diễn ra trong sự dửng dưng, không được cơ quan truyền thông nào chú ý tới. Nước Pháp đang bị suy thoái kinh tế và ưu tư của các công đoàn và dư luận tập trung vào dự luật cải cách tuổi về hưu. Chỉ thấy xe cộ ồ ạt qua lại và khách bàng quan tò mò đứng nhìn.
Tuy vậy, cuộc xuống đường này đã được nhóm phóng viên tự do người Việt chúng tôi chú ý. Sự chú ý của chúng tôi không nhắm vào đoàn người xuống đường mà số trẻ thơ bị mang xuống đường làm dụng cụ thương thuyết. Trẻ em, tuổi từ một tháng đến một năm được bồng bế trên tay hay nằm trên những xe đẩy với hơn 45 phụ nữ, tuổi từ 20 đến 30, có lẽ là mẹ của những trẻ em này. Không hiểu số trẻ em này được sinh ra vào lúc nào và trong những điều kiện nào trên đất Pháp?
Dĩ
nhiên không thấy xuất hiện bóng một nam nhân Việt Nam nào, mặc dù
những trẻ em này đều da vàng, tóc đen, mũi tẹt. Những người cha đã ẩn
mặt để cho vợ, người tình xuống đường đòi quyền lợi và sẽ xuất hiện khi
thành công và lẩn trốn khi thất bại. Cách tính toán này quả là khôn
ngoan cho kẻ ném đá giấu tay, nhưng không danh dự gì cho người trục lợi.
Từ muôn đời bà mẹ Việt Nam nào cũng là những kẻ thiệt thòi, chỉ biết
hy sinh và chịu đựng. Lần này sự chịu đựng diễn ra tại Châu Âu, trên
quảng trường Bastille, thủ đô nước Pháp, khiến sĩ diện và danh dự cộng
đồng người Việt tị nạn trên đất Pháp bị xúc phạm.
Cuộc xuống đường của 45 người phụ nữ
và 45 trẻ em Việt Nam tại Quảng trường Bastille,
quận 4 Paris(Photo: Huỳnh Tâm)
Thực ra những phụ nữ này chỉ là nạn
nhân của một đường dây đưa người bất hợp pháp vào đất Pháp mà ai cũng
biết có sự đồng loã, nếu không muốn nói là có sự tiếp tay của Tòa đại
sứ Việt Nam tại Pháp. Nếu không được cấp giấy thông hành, làm sao
những người này qua được nước Pháp? Nếu không có nơi chứa, làm sao
những người này có thể ăn ở và mang thai rồi sinh con đẻ cái? Qua điều
tra, chúng tôi được biết họ là nạn nhân của một đường dây có tổ chức
do nhà nước chỉ đạo: Xuất khẩu lao động. Những phụ nữ này, sau khi nộp
đủ thứ tiền cho các cơ quan dịch vụ, được đưa sang Pháp. Sau khi đến
Pháp, những phụ nữ này mới biết mình bị lừa thì đã quá muộn. Họ được
đưa đi ẩn náu trong các thành phố ngoại ô phía Đông Paris để chờ được
đưa sang Anh định cư. Khi đường dây sang Anh bị đổ bể, những phụ nữ
này được khuyến khích sinh con đẻ cái tại Pháp để được hưởng quyền
định cư hợp pháp. Nói họ nhẹ dạ thì có hơi quá đáng, nhưng rõ ràng họ
là nạn nhân của một đường dây buôn người do nhà nước cộng sản Việt Nam
tổ chức. Nếu không có tổ chức thì làm sao hơn 45 phụ nữ sàn sàn cùng
lứa tuổi, không biết ở đâu và có con cùng độ tuổi đến gặp nhau tại
quảng trường Bastille đúng ngày, đúng giờ để biểu tình đòi quyền lợi?
Còn cha của những em bé này là ai nếu không phải là những thanh niên
Việt Nam được đưa sang Pháp bằng đường du lịch hay du học sinh, và
muốn được hợp thức hoá giấy tờ để ở lại?
Hay tin người Việt xuống đường tại Quảng trường Bastille, Paris, ngày 10/6/2010 đòi hợp thức hoá tình trạng cư trú, nhóm phóng viên chúng tôi liền đến tìm hiểu và thăm hỏi sự tình.
Qua trao đổi, người dân Paris cho biết, họ rất thắc mắc: Nước Việt Nam đang phát triển không thua gì Trung Quốc, tại sao lại có tình trạng người Việt di dân bất hợp pháp ra nước ngoài? Người Việt nổi tiếng thương con và tự trọng, tại sao lại đem chúng xuống đường yêu sách đòi hợp thức hoá một tình trạng bất hợp pháp?
Một người Việt sống lâu năm ở Paris thì phát biểu: Kẻ mù cũng thấy sau lưng những người này có bàn tay của đảng cộng sản Việt Nam xúi gịuc, họ là nạn nhân của bọn mafia nhà nước.
Xưa
nay văn hoá Việt Nam có rất nhiều hình ảnh lưu truyền nói về tình mẫu
tử, như câu ca dao: "Con dại cái mang". Con làm điều bậy thì cha mẹ
gánh chịu. Thế mà từ ngày chế độ cộng sản được thiết đặt trên toàn lãnh
thổ Việt Nam thì câu ca dao này đã đổi thay ngược dòng đời: "Cái dại
con mang". Cha mẹ làm điều bậy thì con gánh hết, âu cũng do xã hội Việt
Nam ngày nay đổi thay không thể chấp nhận được.
Những bà mẹ Việt trẻ bồng con thơ
đi biểu tình tại Quảng trường Bastille, quận 4 Paris, ngày 10/6/2010 (Photo: AFP/Getty Images) |
Những bà mẹ Việt thời nay, bồng bế con thơ đi biểu tình tại Paris có những suy nghĩ không chính xác và thiếu thực tế về xã hội phương Tây, nhất là về hội nhập. Họ cứ tưởng rằng nếu sinh con đẻ cái trên đất Pháp thì sẽ được hợp thức hoá tình trạng cư trú tức khắc, do đó đã xuống đường yêu cầu nhà nước Pháp Quốc hiểu hoàn cảnh và lắng nghe tiếng nói của họ.
Trước đây, chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều đoàn biểu tình của người di dân bất hợp pháp gốc Châu Phi, xin hợp thức hoá định cư, nhưng chẳng mấy ai có được kết quả.
Phải
biết rằng luật di trú Pháp đã rất rõ ràng: một người con có cha mẹ
thuộc diện di dân bất hợp pháp muốn hợp thức hoá giấy tờ phải chờ đến
năm 18 tuổi mới được làm đơn xin gia nhập quốc tịch. Những bậc cha mẹ
phải làm gì trong suốt 18 năm chờ đợi đó? Và cũng nên biết rằng, trong
suốt 18 năm đó, khi bị xét hỏi và khám phá cha mẹ, kể cả đứa con, không
có giấy tờ hợp lệ thì cả gia đình có thể sẽ bị bắt giữ để trục xuất
về nước liền tức thì. Trong trường hợp may mắn, sau khi đứa con đã đến
tuổi trưởng thành (18 tuổi) và được chấp thuận làm công dân nước Pháp
thì bà mẹ đã ngoài 40 tuổi, tuổi rất khó tìm việc tại Châu Âu vì xem
như hết sức lao động. Không lẽ sau 18 năm chờ đợi, tương lai của mẹ
lẫn con lại bấp bênh đến thế sao ?
Chân dung bà mẹ
Mẹ
Việt Nam thông qua tập quán ở quê nhà, là mẫu mực của sáng tạo, người
lập ra mái ấm gia đình và kỷ cương sống, người con chào đời thụ hưởng
thương yêu, hiếu đức, lương thiện. Bà mẹ ấy là chân dung của đức cần
cù nhẫn nại. Mẹ là sự sống của từng khắc giây hy vọng, cho con cái
thành nhân chí mỹ, mẹ cho con tình yêu vào đời rất vĩ đại.
Cũng
có trường hợp đớn đau như những bà mẹ trẻ Việt Nam xuống đường tại
Paris đòi quyền lợi. Tương lai của họ sẽ như thế nào? Qua tìm hiểu sơ
lược chúng tôi được biết một số những bà mẹ trẻ này không quan tâm gì
đến tương lai của con cái họ. Các bà chỉ mong sao có giấy tờ để thực
hiện những dự án làm giàu khác, như kiếm chồng có địa vị, có tài sản để
được sống trong sự sung túc và giàu sang. Không ai có dự án đầu tư nào
cho con cái, các bà mẹ đều nói con cái họ sẽ được nhà nước Pháp nuôi
nên không phải lo lắng gì cho lắm. Trước mắt chúng tôi chỉ thấy các em
bé này chuẩn bị tiếp nhận sự bất hạnh mà các bà mẹ định dành cho. Ít
ai tự hỏi tương lai của những em bé này ra sao và sẽ nghĩ gì về những
toan tính của mẹ dành cho mình ?
Sau lưng bồng bế con thơ xuống đườngTrong buổi biểu tình, sự chú ý của chúng tôi hướng về hai phụ nữ, một người trạc tuổi 30, bồng một con nhỏ, và người đứng kế bên, ăn mặc thanh lịch, tay cầm cây dù màu thiên thanh che cho em bé.
Tôi đến gần và gợi chuyện với người phụ nữ ăn mặc thanh lịch. Quan sát kỹ, tôi thấy người này không phải là người nhập cư bất hợp pháp vì dáng người sang trọng, ăn mặc đúng kiểu phương Tây, trang điểm thanh lịch, nhưng khuôn mặt được che lấp bởi bảy lớp phấn dầy nên trông rất trẻ. Thêm vào đó, vành môi của bà ta đươc tô đen một cách gợi tình. Những nam thanh niên yếu bóng vía sẽ bị lửa tình thiêu đốt khi bị tia chớp từ đôi mắt huyền chiếu vào.
Càng gợi chuyện, tôi càng ngạc nhiên. Sự khám phá về người phụ nữ này rất là lý thú. Thoạt đầu tôi gọi bằng cô xưng tôi, sau khi biết tuổi của nhau cách xưng hô trở nên thân thiện hơn, chúng tôi gọi nhau bằng bác và cháu rất là thân mật. Tôi hỏi:
—
Cháu Hồng à, bằng cách nào cháu biết địa chỉ này mà đến tham dự biểu
tình? Ai chỉ dẫn cháu yêu cầu nhà nước Pháp hợp thức hoá thủ tục định
cư?
Suy nghĩ một hồi, với một giọng nói ngồ ngộ miền Nam, cô Hồng chậm rãi nói:
— Thưa bác, câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng cháu tin bác là không có ác ý gì, bởi thế cháu không thể nào nói dối với bác. Thưa bác, cuộc biểu tình hôm nay là do cháu tự nguyện tổ chức. Còn những chị em từ xa đến đây tập hợp cũng do cháu đài thọ mọi chi phí như di chuyển và ăn trưa. Sau buổi biểu tình này cháu không hy vọng nhà nước Pháp đồng ý chấp nhận hợp thức hoá định cư. Tuy nhiên đây là tiếng chuông báo hiệu trước, lần sau cháu sẽ tổ chức rầm rộ hơn.
Suy nghĩ một hồi, với một giọng nói ngồ ngộ miền Nam, cô Hồng chậm rãi nói:
— Thưa bác, câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng cháu tin bác là không có ác ý gì, bởi thế cháu không thể nào nói dối với bác. Thưa bác, cuộc biểu tình hôm nay là do cháu tự nguyện tổ chức. Còn những chị em từ xa đến đây tập hợp cũng do cháu đài thọ mọi chi phí như di chuyển và ăn trưa. Sau buổi biểu tình này cháu không hy vọng nhà nước Pháp đồng ý chấp nhận hợp thức hoá định cư. Tuy nhiên đây là tiếng chuông báo hiệu trước, lần sau cháu sẽ tổ chức rầm rộ hơn.
Tôi không hiểu nổi. Nguyên nhân nào xuất hiện một cô Hồng tại Paris và ai đứng sau lưng cuộc biểu tình này? Khi vừa đến đây, tôi đã nghi ngờ thực chất của cuộc biểu tình này vì chỉ thấy toàn người Việt và không có một hội đoàn thiện nguyện hay nhân đạo người Pháp nào. Sau khi dò hỏi, tôi biết chắc chắn có bàn tay hay âm mưu nào đó của chính quyền cộng sản Việt Nam ở đằng sau.
Muốn tìm hiểu một mẫu người xa lạ và huyền bí như cô Hồng, quả thật không dễ. Tôi chỉ biết để lộ sự chân tình và để cho cô Hồng tự nguyện kể lại từng hành động, từng sinh hoạt và cuộc đời riêng. Để bắt đầu tôi gợi ý bằng một câu hỏi, như một người thân đứng tuổi:
— Cô Hồng có lẽ đã sinh sống ở Pháp từ lâu lắm rồi phải không? Công ăn việc làm có khó nhọc không? Sinh hoạt gia đình có bị chật vật gì không? Còn an sinh xã hội đối với chồng con thế nào, nếu trung bình thì bác đây vui mừng cho cháu, cũng như quý chị em đang biểu tình?
Cô Hồng nhìn về phía xa xăm thổ lộ:
— Thưa bác, thực ra cháu chỉ vừa đến Paris hơn được một năm. Khi còn ở quê nhà cháu đã có mang thai rồi, đến Pháp mới sinh được một con trai, hôm nay con của cháu đã được 8 tháng. Quê cháu ở Sài Gòn, trước nhà thờ Huyện Sĩ, đường Ngô Tùng Châu.
Tôi liền ngắt lời của cô Hồng:
— Nhà của bác ở đầu hẻm Ngô Tùng Châu đó cháu ạ.
Đôi mắt cô Hồng như bừng sáng, khuôn mặt thể hiện sự thiện cảm và gương mặt của cô Hồng để lộ sự chân thật. Quả nhiên bản tính con người đều mang tính thiện, nhất là khi gặp được người đồng hương hay láng giềng ở xứ lạ, cô Hồng để lộ một niềm vui khôn tả, nói tiếp:
— Thưa bác, cháu nhớ ra rồi, căn nhà ấy lúc nào cũng tấp nập bạn bè ra vào.
Rồi chuyển qua những câu hỏi của tôi, cô Hồng nói tiếp:
— Thưa bác, cháu không ngại nói ra đây để bác tường. Cháu nguyên là vợ bé thứ mấy, trẻ tuổi nhất của một nhân vật hàng đầu ban lãnh đạo trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Cháu ăn ở với người này cũng vì tiền mà thôi, chứ tình yêu gì với một lão già! Đối với cháu, một lão già nua thì khó ăn cỏ xanh một cách tự nhiên. Lúc ấy bất ngờ cháu mang thai với một người tình cũ, thế là cháu báo tin cho lão tình già biết, đã cấn thai một tháng. Lập tức lão tình già tin tưởng có thêm vốn lời, liền cho cháu đi du lịch sang Pháp rồi ở luôn từ đó đến nay. Cháu sống trong một biệt thự lộng lẫy tại Chatou, ngoại ô phía tây cách Paris 30 km, có ba người hầu và một người làm vườn. Đặc biệt có một chị người gốc Hoa, làm tài xế và thông dịch, nói thông thạo bốn thứ tiếng, Quan Thoại, Việt, Anh và Pháp.
Rồi chuyển qua những câu hỏi của tôi, cô Hồng nói tiếp:
— Thưa bác, cháu không ngại nói ra đây để bác tường. Cháu nguyên là vợ bé thứ mấy, trẻ tuổi nhất của một nhân vật hàng đầu ban lãnh đạo trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Cháu ăn ở với người này cũng vì tiền mà thôi, chứ tình yêu gì với một lão già! Đối với cháu, một lão già nua thì khó ăn cỏ xanh một cách tự nhiên. Lúc ấy bất ngờ cháu mang thai với một người tình cũ, thế là cháu báo tin cho lão tình già biết, đã cấn thai một tháng. Lập tức lão tình già tin tưởng có thêm vốn lời, liền cho cháu đi du lịch sang Pháp rồi ở luôn từ đó đến nay. Cháu sống trong một biệt thự lộng lẫy tại Chatou, ngoại ô phía tây cách Paris 30 km, có ba người hầu và một người làm vườn. Đặc biệt có một chị người gốc Hoa, làm tài xế và thông dịch, nói thông thạo bốn thứ tiếng, Quan Thoại, Việt, Anh và Pháp.
Lòng tôi bồi hồi thật lâu, không biết có nên tin những lời nói này, thật là bán tín bán nghi. Lời nói có vẻ chân thực, nhưng không biết lấy gì đo lường sự thành thật của người phụ nữ trước mặt! Tôi chỉ nghe trong lòng vang lên sự bực tức: Con mẹ đảng cộng sản chúng nó, đục khoét đất nước Việt Nam, bán đất, bán dân, bán rừng, bán biển và tham nhũng để lấy tiền nuôi một con bồ nhí. Thảo nào đất nước Việt Nam ngày nay không giống ai cả!
Tôi chợt định thần trấn tĩnh lại trước một cô Hồng, đương là phu nhân nhỏ của một nhân vật lãnh đạo trung ương của đảng cộng sản Việt Nam, cũng là kẻ nắm quyền sinh tử trên tay 86 triệu dân Việt Nam. Như vậy cô Hồng không phải là một người phụ nữ chân chất, bởi cô đã biến lão tình già của đảng cộng sản thành nạn nhân của kế mỹ nhân, do đó lời nói của cô Hồng này rất là khó tin. Đang lúc thâm tâm còn phân vân, tôi liền quyết định tránh xa kẻ xấu để cho tâm hồn được bình an và không muốn nghe tiếp một lời nào từ một người xuất thân từ chế độ xã hội chủ nghĩa này ra.
Sau một hồi nhìn trời mây nước, giả vờ quan sát những người biểu tình, mãi một lúc lâu sau tôi mới lấy quyết định, thà chịu bẩn lỗ tai để khám phá thâm cung bí sử của đảng cộng sản Việt Nam hơn là nhắm mắt bịt tai trước sự thật. Hơn nữa đây cũng là một dịp hiếm hoi để tìm hiểu đảng cộng sản nên không thể làm ngơ.
Sau buổi biểu tình, tôi mời cô Hồng và người đi theo dùng cơm chiều. Tôi nghĩ, muốn tìm hiểu mẫu người phụ nữ có lớp áo bí ẩn này thì nên tiếp xúc tại nhà hàng ở trước quảng trường Bastille. Cô Hồng đồng ý chấp thuận lời mời của tôi. Vào nhà hàng, tôi nhờ người chạy bàn cho ba phần ăn bình thường trên thực đơn, kèm theo rượu vang. Cô Hồng liền phất tay và xin phép người chạy bàn đổi thực đơn theo ý của cô. Người đi theo liền gọi khai vị, tiếp theo thực đơn chính là hải sản và tráng miệng.
Tôi liền hỏi:
— Cô Hồng có để ý thực đơn của em bé không ?
Cô ta đáp:
— Thưa bác, yên chí cháu đã có thực đơn chính hiệu cho bé rồi.
Tôi cười mỉm:
— Thì ra cháu bé đã có thực đơn thiên nhiên rất tốt đấy, chính ở điểm này thôi đã nói lên tình thâm mẫu tử rồi. Đúng là cha mẹ thương con như biển trời lai láng, dù sau này cha mẹ có lỗi lầm gì người con cũng tha thứ tất cả.
Trong
buổi cơm, sự thân mật đến một cách tự nhiên, lời ăn tiếng nói không
còn đắn đo suy nghĩ như trước. Tôi trình bày về khía cạnh nhân đạo của
nước Pháp để cô Hồng có khái niệm và tránh những điều không hay, và
cũng nhân thể báo tin cho cô Hồng đừng nghe những gì từ kẻ xúi giục, để
rồi mất thời gian mà không đem lại kết quả.
— Cô Hồng ạ, nói về đất nước Pháp thì họ có tinh thần nhân đạo nhất thế giới, nhưng năm tháng ngày dài cả thế kỷ nhân đạo cũng đã đến thời kỳ cùng cạn, dù đất nước Pháp lúc nào cũng cổ vũ nhân dạo, cho nên tất cả những ai muốn lên làm lãnh đạo quốc gia cũng thực hiện theo ý nguyện của dân. Nhà nước Pháp đã từng thành công chương trình di dân, vì trước đây tất cả người di dân quyết tâm hội nhập, cùng với người dân bản xứ, họ thi nhau đóng góp nền kinh tế phồn thịnh, trong số đó có cộng đồng Việt Nam. Tính từ con số 5 cuối, như 1945 lính thợ, 1955 hồi tịch, 1975 di dân. Ở thời điểm 1975 tại Pháp mới thực sự có mặt cộng đồng người Việt Nam, đến nay trên dưới 450.000 người Việt định cư tại Pháp (Theo tư liệu của bộ Nội Vụ Pháp Quốc), kể cả số người nhập cư lậu. Tôi được biết Chương trình di dân cũng đã thay đổi theo thời gian, nay không còn rộng lượng và bao dung như ngày xưa nữa, trong thập niên 1990.
— Cô Hồng ạ, nói về đất nước Pháp thì họ có tinh thần nhân đạo nhất thế giới, nhưng năm tháng ngày dài cả thế kỷ nhân đạo cũng đã đến thời kỳ cùng cạn, dù đất nước Pháp lúc nào cũng cổ vũ nhân dạo, cho nên tất cả những ai muốn lên làm lãnh đạo quốc gia cũng thực hiện theo ý nguyện của dân. Nhà nước Pháp đã từng thành công chương trình di dân, vì trước đây tất cả người di dân quyết tâm hội nhập, cùng với người dân bản xứ, họ thi nhau đóng góp nền kinh tế phồn thịnh, trong số đó có cộng đồng Việt Nam. Tính từ con số 5 cuối, như 1945 lính thợ, 1955 hồi tịch, 1975 di dân. Ở thời điểm 1975 tại Pháp mới thực sự có mặt cộng đồng người Việt Nam, đến nay trên dưới 450.000 người Việt định cư tại Pháp (Theo tư liệu của bộ Nội Vụ Pháp Quốc), kể cả số người nhập cư lậu. Tôi được biết Chương trình di dân cũng đã thay đổi theo thời gian, nay không còn rộng lượng và bao dung như ngày xưa nữa, trong thập niên 1990.
Theo Bộ Di Trú Pháp cho biết, truyền thống nhân đạo của chính phủ Pháp đang bị xét lại, do phía người ngoại quốc có những trá hình nhập cư bất hợp pháp, vượt quá đường rang nhân đạo mà luật pháp đã quy định.
Để dẫn chứng, tôi nói đến nhiều trường hợp nhập cư bất hợp pháp khác nhau như:
1. Chương trình hôn nhân và bảo lãnh thân nhân.
2. Chương trình bảo lãnh bệnh nhân nan trị.
3. Du lịch và thăm viếng thân nhân.
Trong ba chương trình trên, yếu tố nhân đạo bao trùm lên tất cả và người nhập cư bất hợp pháp đã lợi dụng yếu tố này để nhập cư bất hợp pháp. Như một người vào nước Pháp xin uống một hớp nước, thấy nguồn nước trong lành người đó ở lại luôn. Không những thế họ còn bắt buộc chủ nhà nuôi ăn và nuôi ở, và còn phải trả tiền bồi dưỡng ở nhà nuôi con. Thử hỏi có gia đình nào, chứ đừng nói quốc gia nào còn hứng thú để tiếp nhận những loại di dân như thế không? Ngày nay chính quyền Pháp đã đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn nhập cư.
Từ
thập niên 1990 trở lại đây, nước Pháp đã phải đối đầu với làn sóng di
cư kinh tế, qua nhiều dạng bất hợp pháp khác nhau. Điển hình là chương
trình hôn nhân, mỗi năm Pháp cho nhập cư ít nhất 2.530 người, trong
số đó có người Việt Nam. Rồi kéo theo một đoàn công-voa bảo lãnh thân
nhân, làm số người nhập cư lên tăng bội.
Chương trình bảo lãnh bệnh nhân nan trị khoảng 1.360 người, đa số đã chọn ở lại và bảo lãnh thân nhân sang chăm sóc, ăn theo v.v.
Đặc biệt là chương trình du lịch và thăm viếng thân nhân tại Pháp. Tạm tính mỗi năm có trên 45.500 người Việt sang thăm nước Pháp, trong số đó số người Việt Nam ở lại Pháp không phải là nhỏ, chuyến du lịch nào cũng báo cáo danh sách mất tích. Phần lớn những người đi du lịch và quyết định ở lại này cấu kết với thành phần nhập cư bất hợp pháp mà sau lưng là những tổ chức hoạt động xã hội trá hình như hội đoàn thiện nguyện, tín ngưỡng v.v., có tổ chức là cánh tay nối dài của tổ chức mafia Việt Nam. Một số người Việt Nam du lịch đến Pháp tìm mọi cách để chứng minh là có thân nhân tại Pháp rồi ở lại, trừ khi không có ai bảo đảm mới trở về cố quốc. Sự xuất hiện của họ từ phía các quốc gia nghèo, vì họ khao khát đổi đời, nhưng đại thể vô tình lại nuôi béo mập mafia.
Chương trình bảo lãnh bệnh nhân nan trị khoảng 1.360 người, đa số đã chọn ở lại và bảo lãnh thân nhân sang chăm sóc, ăn theo v.v.
Đặc biệt là chương trình du lịch và thăm viếng thân nhân tại Pháp. Tạm tính mỗi năm có trên 45.500 người Việt sang thăm nước Pháp, trong số đó số người Việt Nam ở lại Pháp không phải là nhỏ, chuyến du lịch nào cũng báo cáo danh sách mất tích. Phần lớn những người đi du lịch và quyết định ở lại này cấu kết với thành phần nhập cư bất hợp pháp mà sau lưng là những tổ chức hoạt động xã hội trá hình như hội đoàn thiện nguyện, tín ngưỡng v.v., có tổ chức là cánh tay nối dài của tổ chức mafia Việt Nam. Một số người Việt Nam du lịch đến Pháp tìm mọi cách để chứng minh là có thân nhân tại Pháp rồi ở lại, trừ khi không có ai bảo đảm mới trở về cố quốc. Sự xuất hiện của họ từ phía các quốc gia nghèo, vì họ khao khát đổi đời, nhưng đại thể vô tình lại nuôi béo mập mafia.
Du lịch để tạm cư ở Pháp cũng không phải là cách hay, họ lấy quyết định ở lại Pháp do suy nghĩ đơn thuần, lúc nào họ cũng tìm cơ hội để lập gia đình với người đồng hương hay bất cứ với màu da khác, nếu là người Pháp thì bảo đảm hơn, bởi vậy họ trả giá cho cuộc đời riêng tư rất lớn để rồi tâm hồn không bao giờ yên lặng.
Khi được Bộ Di Trú chấp thuận cho định cư chinh thức, họ lập tức chuẩn bị ly hôn. Cũng có những hôn nhân sống bằng hồ sơ, nhà ai nấy ở, chờ đúng năm tháng theo luật pháp quy định, lúc ấy họ mới chuẩn bị hồ sơ ly hôn. Có những phiêu lưu khác, phụ nữ tìm nam giới để cấy giống, bởi họ không còn con đường nào khác để được ở Pháp. Cũng như vừa qua rất đông người Việt du lịch lấy Pháp làm quá cảnh, rồi đến cảng Calais vượt biên vào Anh Quốc để trồng cần sa. Ôi sao mà làm đời nghèo lắm xót xa !
Nói chung, người Việt không am tường luật di trú của Pháp Quốc, cho nên suy nghĩ đơn giản, như khi được ở Pháp rồi thì tìm được công ăn việc làm và có điều kiện sẽ bảo lãnh thân nhân tại quê nhà. Thực tế tất cả những tính toán trên của người muốn ở lại Pháp hoàn toàn sai, vì Pháp không thể tạo công ăn việc làm cho thành phần nhập cư bất hợp pháp. Nhất là kinh tế toàn cầu đang suy thoái, Pháp vẫn chưa ra khỏi sự trì trệ kinh tế như hiện nay. Nước Pháp lo cho dân họ đã là một gánh nặng và người dân Pháp đang gánh nền kinh tế quốc gia với những phiền muộn nên sẽ không tha thứ cho bất cứ chính quyền hay cấp lãnh đạo nào nuôi ăn, nuôi ở một kẻ lạ không thân thuộc và không đóng góp nào vào kinh tế Pháp.
Tôi nói tiếp:
— Cô Hồng à, tôi trình bày đơn sơ, như một báo cáo của kẻ ít biết về nước Pháp, tôi hơi lắm chuyện xin cô cảm thông.
Miệng tôi nói, mắt quan sát để tìm phản ứng của cô Hồng, tuyệt nhiên thấy cô bình thản, hình như vô tư. Tôi thấy cũng lạ, hỏi:
— Cô Hồng, có cảm tưởng nào, qua câu chuyện tôi vừa trình bày không ?
Cô Hồng nhìn bâng quơ ra quảng trường Bastille, đáp:
— Thưa bác, cuộc phiêu lưu của cháu hoàn toàn khác với đồng hương vì cháu không hề chuẩn bị. Hôm nay cháu chỉ biết bảo vệ quyền sở hữu vì tương lai con của cháu, còn việc xin định cư thì cháu có cách khác. Cũng có thể cháu thong thả chịu được 20 năm hay hơn nữa với một gia tài đã ổn định.
Tôi nghe cô Hồng nói đến gia tài ổn định, liền không thể bỏ cơ hội, hỏi:
— Cô Hồng à, dù có gia tài thế nào ngồi ăn không cũng phải lở.
Cô Hồng không do dự, đáp:
— Thưa bác, bác không hiểu đâu, tài sản của cháu là đồ thừa thãi của lão tình già, cháu lấy tiền của lão cũng vì đánh mất hạnh phúc cá nhân nay mới có được, những thứ tiền tham nhũng đó không phải là mồ hôi nước mắt của lão tình già. Cháu không lấy tiền của lão tình già thì người khác cũng lấy vậy thôi. Tuy cháu có độc ác với lão ấy thực, nhưng bù lại cháu âm thầm thực hiện chương trình khuyến học từ tiểu học đến trung học tại quê nhà, mỗi năm cháu phải chi trên 50.000 euros. Thà cháu bất nhân với một kẻ, nhưng cháu lương thiện với muôn người.
Bác xem, sở dĩ cháu có được như vậy là vì phải trả giá bằng trinh tiết đời con gái và lão tình già cũng không mất mát gì bởi tiền đó do tham nhũng. Cháu rất vui là lão tình già vẫn đinh ninh là bản sao y chính hiệu một mặt con. Bây giờ mỗi tuần lễ, lão tình già cứ phải rót tiền vào ngân hàng tài khoản công ty xuất nhập khẩu và tài khoản riêng của cháu. Hiện cháu sử dụng đồng tiền đó bằng cách mua bất động sản ở hải ngoại.
Tôi rất kinh ngạc khi cô Hồng thổ lộ về mãnh lực đồng tiền, liền trách:
— Cô Hồng không suy tính kỹ, tại sao lại nói toạc móng heo như vậy, không sợ đảng cộng sản hay sao? Phải chăng nay cô vô tình hay cô ý làm trung gian rửa tiền cho đảng cộng sản Việt Nam?
— Thưa bác, sợ cái gì! Bọn cộng sản đều cá mè một lứa cả lũ! Thời phong kiến một ông vua muôn trăm ngàn bà vợ, dân đã khổ lắm rồi. Còn thời nay dân khổ cao ngất trời xanh cũng do đảng cộng sản cha và con thi nhau làm vui, ngự trị trên đầu dân tộc Việt Nam, mỗi ông đảng tự xem là vua chúa quyền hành bá đạo, tranh nhau cướp tài sản của dân giữa ban ngày, tạo ra các công trình để tham nhũng, buôn bán trẻ em gái tơ, xuất khẩu lao động. Đảng cộng sản Việt Nam khuyến khích đảng viên vay tiền nhà nước để kinh doanh, rồi quỵt luôn vốn. Đây là hình thức cướp tài sản của quốc gia. Nếu cháu được làm trung gian rửa tiền cho đảng cộng sản Việt Nam thì là trúng số rồi. Rất tiếc là họ tín nhiệm thân nhân và tư vấn rửa tiền, cùng những tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản Việt Nam trên thế giới, ngoài ra còn có một số tổ chức tôn giáo nhận rửa tiền cho họ.
Không ngờ trong người cô Hồng chất chứa một vốn phẫn nộ. Tôi liền hỏi qua hướng khác:
— Cô Hồng đã có dự định ngày nào để tổ chức biểu tình xin hợp thức hoá thủ tục định cư ?
Cô Hồng thở một hơi dài rồi bảo người phụ nữ đi theo:
— Nhờ chị Lình bồng bế cháu đi lấy xe, để chuẩn bị về.
Lúc này tôi mới biết tên của người phụ nữ gốc Hoa là Lình và hiểu được ý của cô Hồng muốn nói những lời trong tâm khảm, nhưng không cho cô Lình biết. Khi cô Lình ra khỏi cửa thì cô Hồng mới nói nhỏ với tôi:
— Thưa bác, một lần là đã ngã ngựa rồi bác ạ, cháu bị chị Lình này xui khiến đến nỗi cháu phải tự ái dân tộc, đành đứng ra tổ chức. Không ngờ tinh thần của cháu bị người lợi dụng, bây giờ cháu mới biết thì đã muộn, tên Lình này cháu phải cho nghỉ việc trong tuần này.
Cháu cũng lo ngại không biết từ đâu tên Lình này có một danh sách của chị em sinh con nhỏ tại Pháp trên trăm người Việt lẫn Hoa. Cháu có hỏi tên Lình: Từ đâu có danh sách này, thì Lình bảo là những người Việt Nam đồng ký tên trong danh sách nhờ chúng ta vận động định cư.
Từ đó cháu nghi ngờ chính là sứ quán Trung Hoa và Việt Nam có mưu đồ nào đó. Có thể cuộc biểu tình hôm nay do cộng sản Việt Nam đã thành công trên mặt quảng cáo, ít nhất họ tạo ra một viễn tượng có hy vọng và đầy hứa hẹn cho những người Việt thiếu thông tin về di trú tại Pháp Quốc, cũng là cơ hội để mafia Việt Nam thử nghiệm thị trường Mẹ Bồng Con.
Sau buổi cơm thân mật cô Hồng đưa thẻ ngân hàng Thuỵ Sĩ cho người hầu bàn tính tiền. Tôi ngạc nhiên liền nói một cách rất kín đáo:
— Tôi mời, nhưng cháu lanh tay trả tiền trước, cảm ơn hẹn dịp khác.
Miệng tôi nói chuyện, nhưng mắt thoáng qua thấy thẻ ngân hàng không phải tên Hồng. Rồi liền nói qua chuyện khác:
— Năm nay cô Hồng có dự định đi nghỉ hè ở đâu không?
— Thưa bác, cháu không có dự định nghỉ hè. Tuy nhiêu mỗi tháng cháu ở mỗi nơi, tháng này ở Pháp, tháng sau ở thủ đô Berne Thuỵ Sĩ. Mỗi lần như vậy thì cả 3 chị làm việc cùng đi theo.
Cô Hồng còn cho biết nguyên là phó giám đốc của công ty xuất nhập khẩu Vinacon với cổ phần trong tay 49%. Cô Hồng đã giãi bày hết những việc có thể thật, nhất là sự tham nhũng của tầng lớp lãnh đạo đảng viên cộng sản Việt Nam.
Trước mắt chúng tôi có thể dự ước được về cô Hồng có sở hữu tài sản như một lâu đài tại Chatou Pháp Quốc, một lâu đài tại Berne Thuỵ Sĩ và một công ty xuất nhập khẩu. Còn riêng tiền ký gửi ngân hàng Thuỵ Sĩ thì đố ai biết được!
Khi chuẩn bị chia tay, cô Hồng hỏi:
— Bác đi về đâu, và bằng phương tiện gì ?
Tôi không ngại nói đùa:
— Tôi có cổ phần xe Métro, cho nên đi không cần tài xế và bãi đậu.
Cô Hồng cười rất vui vì biết tôi nói đùa. Cô Hồng hỏi địa chỉ và tên họ tôi để liên lạc, tôi cho địa chỉ E-mail: tam.tamtam@online.fr và địa chỉ tòa thị chính Gennevilliers.
— Mời bác Ba–Tam đi cùng với cháu .
Tôi bước theo sau và ngồi vào xe Lexus SC430 Convertible 2010.
Khi đến Gennevillers tôi xuống xe, trong lòng bâng khuâng về những gì biết được từ một cuộc chuyện trò thật hãn hữu. Paris 23-7-2010
Huỳnh Tâm
__,_._,___
CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA & VIET NAM FOUNDATION
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòavà
Việt Nam Cộng Hòa Foundation
Trước
đây, trong tháng 6-2010, chúng tôi đã loan tin, lần đầu tiên sau 35
năm lưu vong di tản sau biến cố 30/4/1975, một phái đoàn gồm 8 người
của chính phủ VNCH do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Chỉ huy trưởng Công
Binh kiêm thứ trưởng
Định
Cư của chính phủ VNCH cầm đầu và các vị khác như Thiếu Tướng Lý Tòng
Bá Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh Quân Lực VNCH, Luật Sư Lâm Chấn Thọ Cố
Vấn Pháp Luật, Luật Sư Bennetto Cố Vấn Pháp Luật, Bác Sĩ Nghiêm Phú
Phụ Tá Vận Động, Ông Nguyễn Cần Phụ Tá Ngoại Giao, và Ông Hồ Văn
Sinh.
Các vị trên đã đi khắp nước Mỹ tuyên cáo lập trường và đường lối của họ từ tháng 3-2010.
Họ
đã họp báo ngày trong suốt 2 ngày 28 và 29/6/2010 vừa qua. Với sự
ngạc nhiên, bất ngờ và nhanh chóng, Phái đoàn Chính Phủ VNCH do Giáo
Sư Nguyễn Ngọc Bích hướng dẩn đã tiếp xúc được vào khoảng 8 văn phòng
Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu Quốc hội hằng quan tâm đến tình trạng vi
phạm tự do, tôn giáo và nhân quyền của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam cũng
như nâng đỡ hổ trợ các sinh hoạt của Cộng Đồng người Việt Nam tỵ nạn
chính trị tại Hoa Kỳ. Đó là các văn phòng Thượng Nghị Sĩ Brownback,
Dân Biểu Ed Royce, Dân Biểu Mike Honda, Dân Biểu Zoe Lofgren, Dân
Biểu Chris Smith, Dân Biểu Loretta Sanchez, Dân Biểu Joseph Cao, Dân
Biểu Frank Wolf và các chuyên viên phúc trình của Thượng Nghị Viện
Hoa Kỳ về các vấn đề quốc tế.
Với
những lập luận vững chắc về các vấn đề liên quan đến ngoại giao,
chính trị và pháp lý, Phái Đoàn Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã trình
bày một cách thuyết phục bắt đầu từ vấn đề tranh chấp biển đông, sự
chiếm cứ bất hợp pháp của Trung Cộng trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
là của VNCH cho đến các diển biến đưa đến sự di tản bi thãm của hàng
triệu Quân Dân Cán Chính VNCH.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Đại
Diện Chính Phủ VNCH ngoài lãnh thổ sau cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng
Nội Các Chính Phủ VNCH của Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn 27/11/2009 đã
cho biết nguyên nhân chính là sự vi phạm trầm trọng hiệp định Paris
năm 1973 mà Cộng Sản Bắc Việt đã cố tình xé bỏ để xâm lăng chiếm đóng
Việt Nam Cộng Hòa, từ đó gây ra không biết bao nhiêu thảm nạn cho cả
Nước VNCH.
Luật Sư Lâm Chấn Thọ đã trình bày rất rỏ ràng về
Bản Định Ước Quốc Tế ký ngày 2/3/1973 do 12 Nước dưới sự chứng kiến
của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đó là Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa,
Chính Phủ Liên Bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết, Chính Phủ Canada, Chính
Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Hoa Kỳ, Chính Phủ Cộng Hòa
Pháp, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Chính
Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Hung-ga-ri, Chính Phủ Cộng Hòa Indonexia,
Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, và Chính Phủ Vương Quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan.
Tất cả đều
cam kết bảo đãm chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình và tiến tới
một cuộc tổng tuyển cử tự do, công bằng dưới sự giám sát của Liên
Hiệp Quốc. Thế nhưng tất cả những điều này đã không xảy ra vì những
thủ đoạn gian trá, lừa bịp của Cộng Sản Bắc Việt. Trong các cuộc tiếp
xúc với thời gian đã định sẵn, Phái Đoàn Chính Phủ VNCH đã đặt biệt
nhấn mạnh đến giải pháp VNCH trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973.
Đều mà chính giới cũng như nhân dân Hoa Kỳ có thể giúp được là dựa
trên điều 7 của Bản Định Ước Quốc Tế để triệu tập một Hội Nghị Quốc
Tế về Việt Nam nhằm trả lại một sự công bằng cho Nước Việt Nam Cộng
Hòa.
Với
những tài liệu cụ thể rỏ ràng chứng minh sự xâm lăng của Cộng Sản
Bắc Việt cũng như sự bức bách tàn hại của Cộng Sản Việt Nam, phái
đoàn VNCH hầu như không gặp một trở ngại nào trong công cuộc vận động
Quốc Hội Hoa Kỳ tại Washington DC. Nếu thời thế sẽ thay đồi để dân
tộc Việt Nam vượt qua những đau thương tủi nhục dưới sự thống trị bạo
tàn của Đảng Cộng Sản Việt Nam để còn vươn lên cùng với một thế giới
văn minh, tiến bộ tự do, dân chủ, nhân quyền, thì ngày hôm nay là
một dấu hiệu. Thiếu Tướng Lý Tòng Bá đã nói với sự tin tưởng.
Được
biết Phái Đoàn Chính Phủ VNCH trước khi vào Quốc Hội Hoa Kỳ, đã đến
thăm viếng Bức Tường Đá Đen ghi tên 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ đã hy
sinh chiến đấu vì tự do tại Việt Nam. Tại đây phái đoàn đã được Lử
Đoàn 31 Tình Nguyện Trừ Bị của Quân Đội Hoa Kỳ hổ trợ trong phần nghi
lể rất cảm động dưới sự chứng kiến của nhiều người Mỹ cũng đến thăm
viếng tại nghĩa trang quân đội rất linh thiêng nầy.
Phái
Đoàn Chính Phủ VNCH sau khi rời Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn sẽ tiếp tục
công việc vận động tại nhiều nước khác mà trước đây từng là đồng minh
chiến đấu để bảo vệ mãnh đất Miền Nam Tự Do chống lại sự xâm nhập
của Cộng Sản.
http://tvvn.org/forum/showthread.php?13591-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-Hoa-v%E1%BA%ADn-%C4%91%E1%BB%99ng-Qu%E1%BB%91c-H%E1%BB%99i-Hoa-K%E1%BB%B3
VIỆT NAM CỘNG HÒA VÙNG DẬY.
(Bản
Tin của VNCHF) Đại Úy Võ Ngọc Vui
trong quân phục binh chủng Biệt Động Quân đã phát biểu …”từ trước đến
nay Ông đã tham gia rất nhiều các sinh hoạt đấu tranh, chính trị,
nhưng chưa bao giờ có được một ngày như ngày hôm nay...” Bác sĩ Nghiêm
Phú đến từ Orange County.. “ chúng ta hãy cùng hổ trợ cho chính phủ
VNCH…”
Hòa thượng Thích Giác Minh viện chủ Chùa Quan Âm đến từ
Los Angles đã kể lại câu chuyện Hòa thượng có một người anh mang cấp
bực Đại Tá trong quân lực VNCH đã bị Việt Cộng sát hại trong trại
tù cải tạo. bằng giọng nói thật cảm động hòa thượng cho biết …”Việt
Nam Cộng Hòa là tổ quốc của tôi, VNCH muôn năm…”. Đó là những hình
ảnh, tiếng nói thật sống động trong buổi ra mắt và tường trình về
đường hướng đấu tranh của chính phủ VNCH do Việt Nam Cộng Hòa
Foundation Miền Bắc California tổ chức vừa qua ngày 9/5 tại G I forum.
Thành phố San Jose, California.
Hội trường G I tuy nhỏ
nhưng chật kín, đã có gần 300 quan khách và đồng bào tham dự say mê
theo dỏi cho đến giờ phút cuối. Những cái bắt tay thân mật, những ánh
mắt thân thương, có những tiếng vỗ tay hân hoan tràn ngập chen lẩn
với những giây phút cảm động đến rơi nước mắt. Tất cả quyện lại
thành nổi mừng vui khó tả dưới tấm banner mang bốn chử Việt Nam Cộng
Hòa hào hùng uất hận.
Chương trình bắt đầu bằng nghi thức Chào
cờ VNCH, phút mặc niệm tưởng nhớ quân, dân, cán, chính VNCH đã hy
sinh vì tự do và sau đó ban hợp ca Vì Dân đã trình bày nhạc phẩm Việt
Nam Cọng Hòa Muôn Năm rất khí thế và mạnh mẽ. Điều khiển chương trình
là Ông Triệu Phổ và Bảo Tố rất uyển chuyển khéo léo do đó không bị
ngắt quảng lúc nào cũng đáp ứng trước sự chứng kiến của mọi người.
Ngoài thành phần quan khách tham dự, giới truyền thông báo chí tại Bắc
California cũng tham dự khá đầy đủ như báo Đời Mới, Tin Việt News,
Hệ Thống Truyền Thông Cali Today, Ý Dân, Tiếng Dân, Con Ong, CM
Magazine, Việt Báo, Việt Heral, Sài Gòn USA, Viện Nghiên Cứu Lịch
Sử Việt Nam, people’s voive, Cửu Long Radio, Đài Truyền Hình SBTN,
VHN-TV…
Mở đầu cuộc tường trình, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức
với tư cách Đại Diện của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối của
Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã trình bày về đường hướng đấu tranh của
Chính Phủ VNCH là dựa trên căn bản pháp lý để vận động ngoại giao,
dùng ngoại giao để tạo áp lực chính trị buột Cộng Sản Bắc Việt phải
trã lại những gì họ đã cướp của VNCH cho nhân dân Việt Nam Cộng Hòa.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức nhấn mạnh rằng đây là một trận đánh
cuối cùng không đổ máu mà VNCH phải thắng để còn mang về tự do dân chủ
và phú cường cho dân tộc Việt Nam.
Chính Phủ VNCH không chủ
trương quyên góp tiền bạc của đồng bào và không có tham vọng lãnh
đạo các tổ chức hội đoàn tại Hải Ngoại. Phần phát biểu của Thiếu Tướng
đã được cử tọa vổ tay nhiệt liệt. Tiếp đó là phần trình bày của Thiếu
Tướng Lý Tòng Bá người hùng KonTum của Quân Lực VNCH. Nay là Chủ
Tịch của VNCH Foundation một tổ chức đã vận động và hổ trợ mạnh mẽ cho
Chính Phủ VNCH. Năm nay đã 80 tuổi, nhưng dáng dấp còn khỏe mạnh,
giọng nói còn sang sảng. Tướng Bá đã kể về cuộc đời binh nghiệp của
mình và nhắc lại những ngày tháng vui buồn trong quá khứ.
Tướng
Bá khẳng định Hiệp Định Paris là một hiệp định lịch sử và không có
thời hạn. Vấn đề còn lại của chúng ta là chúng ta phải làm như thế
nào để tái lập lại Hiệp Định Paris mà thôi. Tiếp đó Ông Hồ Văn Sinh một
cán bộ Dân Vận Chiêu Hội VNCH đã trình bày về những uẩn khúc của lịch
sử, đưa đến biến cố 30/4/1975. Trong đó cái thâm độc của Cộng Sản
Bắc Việt là dùng hiến pháp của VNCH để bức tử VNCH, dùng Dương Văn
Minh làm Tổng Thống trá hàng để bắn phát sung ân huệ vào đầu chúng ta
trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Thời điểm
30/4/1975 là một thảm kịch do Cộng Sản Nga, Tàu chủ động với sự tiếp
tay của bè lũ tay sai cuồng sát, cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt, kết hợp
với sự phản bội của đồng minh, sự nhắm mắt làm ngơ của Liên Hiệp
Quốc nhưng quan trọng nhất là lổi lầm của chúng ta là đã tin vào sự
tuyên truyền bịp bợm láo khoét của Cộng Sản khi đa số trong chúng ta
đều nghĩ rằng lịch sử đã sang trang, VNCH đã bị xóa sô và không còn
nữa. rồi từ đó chúng ta đã trách móc lẩn nhau, đổ thừa lẩn nhau thậm
chí còn lên án kết tội lẩn nhau nữa.
Ông Hồ Văn Sinh nhấn mạnh,
sự thật là VNCH vẩn còn tồn tại dựa trên công pháp quốc tế và hiến
chương Liên hiệp quốc. bằng chứng không thể chối cải là Hiệp định
Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973. Vì thế cho nên biến cố
30/4/1975 chỉ là một thời điểm xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và là
một ván cờ gian lận. Ông Hồ Văn Sinh cho biết Hiệp Định Paris 1973 là
một Hiệp định quy định thể thức ngưng bắn, tái lập hòa bình để
tiến tới một cuộc tổng tuyển cử công bằng tự do dưới sự giám sát của
quốc tế. thế mà Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ. Tuy nhiên
trong bản định ước quốc tế mà 12 Nước đã ký dưới sự chứng kiến của
Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc có điều khoản 7 b. điều này cho phép
tài lập Hiệp định Paris nếu có đủ 6 Nước thành viên đã ký. Hiện nay
Chính Phủ VNCH đang ráo riết vận động về việc nầy.
Ông Hồ
Văn Sinh kết luận rằng phải làm thì mới biết thành công hay thất bại,
còn ngồi đó mà phán đoán, cân nhắc thì biết đến bao giờ mới xong
chuyện và VNCH phải vùng dậy để mang về tự do, ấm no hạnh phúc cho
dân tộc Việt Nam. Một số các câu hỏi từ các đại diện
báo chí, đều được chủ tọa đoàn giải đáp thỏa đáng, thời gian còn
lại là những phát biểu rất cảm động của quan khách tham dự. Buổi tường
trình đã chấm dứt sau 4 tiếng đồng hồ với một không khí hân hoan
và sôi nổi. Đánh dấu sự thành công tốt đẹp lần đầu tiên Chính Phủ VNCH
ra mắt và xuất hiện tại San Jose Miền Bắc California.
http://thitapbendoi2.over-blog.com/article-vi-t-nam-c-ng-hoa-vung-d-y-50272153.html
DỰNG LẠI NIỀM TIN
PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP TẠI CANADA.
(Bản
Tin VNCHF Canada) Trong nổ lực vận động Chính phủ các Nước tự do trên
thế giới chú ý đến trường hợp Nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị Cộng Sản Bắc
Việt vi phạm Hiệp Định Paris xâm lăng thống trị một cách dã man tàn
bạo. Từ đó 35 năm qua trên đất nước Việt Nam, nhân quyền đã không được
tôn trọng, tự do người dân đã bị tước đoạt. Một phái đoàn của Chính
Phủ VNCH gồm 12 người do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Đại diện đã đến
vận động và hoạt động tại Canada từ ngày 22/7/2010 đến 29/7/2010 vừa
qua.
Di
chuyển bằng xe Van từ Montreal đến Toronto, Phái đoàn Đại Diện Chính
Phủ VNCH đã lần lượt gặp gở, nói chuyện về nguyện vọng của Nước VNCH
với giới lãnh đạo của hai Đảng lớn tại Canada như Đảng Tự Do (đối lập)
và Đảng Bảo Thủ hiện đang nắm quyền cũng như một số các vị Tổng bộ
trưởng, thượng nghị sĩ, dân biểu quốc hội của Canada. Phái Đoàn Đại
Diện Chính Phủ VNCH cũng trao đổi các tài liệu liên quan đến sự vi phạm
trắng trợn Hiệp Định Paris 1973 của Cộng Sản Bắc Việt và phương cách
tái hợp Hiệp Định Paris nhằm trả lại một sự công bằng cho Quân, Dân,
Cán Chính VNCH.
Phái
đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã được hoan nghênh và hưỡng ứng mạnh mẽ
trong các buổi nói chuyện tại Montreal và Toronto do Việt Nam Cộng Hòa
Foundation tổ chức. Tại Montreal là Cộng Đồng NVQG Montreal, Hội Quốc
Gia Hành Chánh, Hội Gia Long, Trung Tâm Sinh Hoạt Người Cao Niên Đông
Dương, Hội Giáo Chức, Hội Không Quân, Hội Chiến Sĩ Cựu Tù Nhân Chính Trị
Khu Hội Canada, Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng, Hội Võ Bị Đà Lạt, Hội Phụ Nữ
Việt Nam và Gia Đình Biệt Động Quân.
Tại
Toronto có sự tham dự của Đại Diện PGHH, Hội Người Việt Kitchener, Hội
Người Việt Toronto, Hội Mũ Đỏ Montreal, Báo Thời Mới, Cộng Đồng VNTD
tại Đức Quốc, VBS Television Canada, Đảng Việt Tân, Hiệp Hội Võ Thuật
Ontario, Phong Trào Hiên Chương 2000, SBTN Toronto, Hội Cựu Tù Nhân
Chính Trị, Hội Phật Giáo Cao Đài, Báo Thời Báo và Tuần Báo Viet Tide.
Điều đáng chú ý là việc khai mạc rất đúng giờ với hàng trăm người tham
dự và chăm chú lắng nghe cho đến giờ phút chót là điều chưa từng thấy
trong các buổi sinh hoạt hội thảo chính trị trong Cộng Đồng Người Việt
tại Canada.
Trước
đó tại Montreal. Phái Đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã đến dâng hương tại
Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH Vị Quốc Vong Thân và thăm viếng Hòa Thượng
Thích Tâm Châu người lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thế Giới năm
nay đã 90 tuổi và đã được Hòa Thượng tiếp đón phái đoàn ngay tại Tu
Viện. Trong cuộc thăm viếng bất ngờ nầy Hòa Thượng bày tỏ sự vui mừng
và mong mỏi giải pháp VNCH sớm thành công để người dân bớt khổ, đất nước
không còn bị ngoại xâm chiếm đoạt. Sau đó Ngài đã gởi tặng cho VNCH
Foundation một số hiện kim để góp phần ủng hộ việc di chuyển hoạt động
của Chính Phủ VNCH.
Tóm
lại chuyến đi vận động vừa qua của Chính Phủ VNCH tại Canada rất thành
công tốt đẹp. Chính giới Canada ít ra đã nhìn thấy được cái oan khiên
của VNCH qua biến cố 30/4/1975, còn Cộng Đồng Người Việt tại đây cũng
đã nhìn thấy nổ lực của Chính Phủ VNCH trong công cuộc cứu dân cứu
Nước. Và đó cũng là hoài bảo của những ai còn quan tâm đến tiền đồ vận
mệnh của dân tộc Việt Nam. xa.yimg.com/kq/groups/2476050/.
TIN MONTREAL VÀ OTTAWA
Ngày
24-7-2010, phái đoàn VNCH đã đến Montreal và Ottawa Canada. Chúng tôi
nghĩ rằng Cộng sản Việt Nam cướp tự do, dân chủ của nhân dân và cam
tâm bán nước, thần phục Trung Cộng, và trong một ngày gần đây, Trung
Cộng sẽ xâm lăng Việt Nam. Bọn Việt Công một số sẽ đầu hàng Trung cộng,
một số cộng sản sẽ chống Trung Cộng nhưng vẫn theo độc tài chủ nghĩa
hay dân chủ chủ nghĩa? Nay mai chúng ta sẽ rõ hơn.
Trong tình
trạng này, nếu chúng vẫn khư khư giữ chuyên chính vô sản, độc tài đảng
trị hay một thứ liên hiệp hình thức, chúng ta không nên thoả hiệp với
chúng, mắc mưu chúng như bọn GPMN trước đây bị cộng sản Việt Nam lợi
dụng.
Chúng ta sẽ theo đường lối của ta, giương hai ngọn cờ dân chủ
và giải phóng dân tộc, nghĩa là làm hai việc một lúc là chống Trung
Cộng và thực thi dân chủ.
Ngày nay, các vị trên làm nhiệm vụ
vận động quốc dân và quốc tế căn cứ vào pháp lý để nói lên chính nghĩa
của Việt Nam cộng hòa. Và đó cũng là chuẩn bị cho lực lượng nhân dân
Việt Nam vùng lên cứu quốc và kiến quốc trong giai đoạn lịch sử sắp tới
mà người quốc gia sẽ phải đảm trách. Không pháp lý nào, quang vinh nào
cho bằng chiến thắng Trung Cộng. Chính chiến thắng này đặt nền tảng
cho chính phủ quốc gia sau này.
Trong tình thế đó, chúng ta sẽ
có lực lượng của ta giải phóng quê hương và thực thi dân chủ. Chính phủ
VNCH và VNCH Foundation chính là cơ sở của người quốc gia, cơ sở để
sau này chiếm lại quê hương, đòi lại những mảnh đất đã lọt vào tay
Trung Cộng và tái lập một nền dân chủ và tự do cho nhân dân Việt Nam.
Sau
đây là những cuộn phim về hình ảnh Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức,
Chuẩn tuớng Lý Tòng Bá và luật sư Lâm Chấn Thọ tại Montreal Canada.
Xin
mời các bạn nghe lời tuyên bố và xem hình ảnh của Thiếu tướng Nguyễn
Văn Chức, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá và LS Lâm Chấn Thọ để hiểu rõ mục đích
của những con người can trường và đầy lòng yêu nước đang hoạt động để
đòi lại tự do, độc lập cho nhân dân và tổ quốc Việt Nam.
Sơn Trung
Sau đây là vài hình ảnh và videos mà ban thông tin của Cộng Đồng người
Việt vùng Montréal thâu và ghi lại của buổi thuyết trình này, xin
cống hiến cùng qúy vị khắp nơi.
Trong phòng họp của buổi thuyết trình - Lễ chào quốc kỳ Thiếu Tướng Nguyễn văn Chức,
đại diện Chính Phủ VNCH, duyệt qua hàng chào
Từ trái sang phải : Kevin Nguyễn ( phụ tá ngoại giao ) - Hồ Văn Sinh ( phụ tá nội vụ ) -
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức ( đại diện Chính Phủ VNCH ) - Thiếu Tướng Lý Tòng Bá ( chủ Tịch VNCH Foundation ) và
Luật Sư Lâm Chánh Thọ ( cố vấn Pháp Luật ).
quan khách tham dự buổi họp
Vài videos :
1/Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức : Đại diện Chính Phủ VNCH
2/Chuẩn Tướng Lý Tòng B1 : Đại diện của VNCH Foundation
http://www.youtube.com/watch?v=ELyPqU91wfo
3/LS Lâm Chánh Thọ : Cố Vấn Luật Pháp của VNCH Foundation & Chinh Phu VNCH
http://www.youtube.com/watch?v=SMQfiTp1GvE
Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòavà
Việt Nam Cộng Hòa Foundation
Việt Nam Cộng Hòa Foundation
Trước đây, trong tháng 6-2010, chúng tôi đã loan tin, lần đầu tiên sau 35 năm lưu vong di tản sau biến cố 30/4/1975, một phái đoàn gồm 8 người của chính phủ VNCH do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Chỉ huy trưởng Công Binh kiêm thứ trưởng
Định Cư của chính phủ VNCH cầm đầu và các vị khác như Thiếu Tướng Lý Tòng Bá Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh Quân Lực VNCH, Luật Sư Lâm Chấn Thọ Cố Vấn Pháp Luật, Luật Sư Bennetto Cố Vấn Pháp Luật, Bác Sĩ Nghiêm Phú Phụ Tá Vận Động, Ông Nguyễn Cần Phụ Tá Ngoại Giao, và Ông Hồ Văn Sinh.
Các vị trên đã đi khắp nước Mỹ tuyên cáo lập trường và đường lối của họ từ tháng 3-2010.
Họ đã họp báo ngày trong suốt 2 ngày 28 và 29/6/2010 vừa qua. Với sự ngạc nhiên, bất ngờ và nhanh chóng, Phái đoàn Chính Phủ VNCH do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích hướng dẩn đã tiếp xúc được vào khoảng 8 văn phòng Thượng Nghị Sĩ, Dân Biểu Quốc hội hằng quan tâm đến tình trạng vi phạm tự do, tôn giáo và nhân quyền của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam cũng như nâng đỡ hổ trợ các sinh hoạt của Cộng Đồng người Việt Nam tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ. Đó là các văn phòng Thượng Nghị Sĩ Brownback, Dân Biểu Ed Royce, Dân Biểu Mike Honda, Dân Biểu Zoe Lofgren, Dân Biểu Chris Smith, Dân Biểu Loretta Sanchez, Dân Biểu Joseph Cao, Dân Biểu Frank Wolf và các chuyên viên phúc trình của Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ về các vấn đề quốc tế.
Với những lập luận vững chắc về các vấn đề liên quan đến ngoại giao, chính trị và pháp lý, Phái Đoàn Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã trình bày một cách thuyết phục bắt đầu từ vấn đề tranh chấp biển đông, sự chiếm cứ bất hợp pháp của Trung Cộng trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của VNCH cho đến các diển biến đưa đến sự di tản bi thãm của hàng triệu Quân Dân Cán Chính VNCH.
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Đại Diện Chính Phủ VNCH ngoài lãnh thổ sau cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Nội Các Chính Phủ VNCH của Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn 27/11/2009 đã cho biết nguyên nhân chính là sự vi phạm trầm trọng hiệp định Paris năm 1973 mà Cộng Sản Bắc Việt đã cố tình xé bỏ để xâm lăng chiếm đóng Việt Nam Cộng Hòa, từ đó gây ra không biết bao nhiêu thảm nạn cho cả Nước VNCH.
Luật Sư Lâm Chấn Thọ đã trình bày rất rỏ ràng về Bản Định Ước Quốc Tế ký ngày 2/3/1973 do 12 Nước dưới sự chứng kiến của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đó là Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, Chính Phủ Liên Bang Cộng Hòa XHCN Xô Viết, Chính Phủ Canada, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Chính Phủ Hoa Kỳ, Chính Phủ Cộng Hòa Pháp, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Hung-ga-ri, Chính Phủ Cộng Hòa Indonexia, Chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Chính Phủ Vương Quốc Anh và Bắc Ái Nhĩ Lan.
Tất cả đều cam kết bảo đãm chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình và tiến tới một cuộc tổng tuyển cử tự do, công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng tất cả những điều này đã không xảy ra vì những thủ đoạn gian trá, lừa bịp của Cộng Sản Bắc Việt. Trong các cuộc tiếp xúc với thời gian đã định sẵn, Phái Đoàn Chính Phủ VNCH đã đặt biệt nhấn mạnh đến giải pháp VNCH trên căn bản của Hiệp Định Paris 1973. Đều mà chính giới cũng như nhân dân Hoa Kỳ có thể giúp được là dựa trên điều 7 của Bản Định Ước Quốc Tế để triệu tập một Hội Nghị Quốc Tế về Việt Nam nhằm trả lại một sự công bằng cho Nước Việt Nam Cộng Hòa.
Với những tài liệu cụ thể rỏ ràng chứng minh sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt cũng như sự bức bách tàn hại của Cộng Sản Việt Nam, phái đoàn VNCH hầu như không gặp một trở ngại nào trong công cuộc vận động Quốc Hội Hoa Kỳ tại Washington DC. Nếu thời thế sẽ thay đồi để dân tộc Việt Nam vượt qua những đau thương tủi nhục dưới sự thống trị bạo tàn của Đảng Cộng Sản Việt Nam để còn vươn lên cùng với một thế giới văn minh, tiến bộ tự do, dân chủ, nhân quyền, thì ngày hôm nay là một dấu hiệu. Thiếu Tướng Lý Tòng Bá đã nói với sự tin tưởng.
Được biết Phái Đoàn Chính Phủ VNCH trước khi vào Quốc Hội Hoa Kỳ, đã đến thăm viếng Bức Tường Đá Đen ghi tên 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ đã hy sinh chiến đấu vì tự do tại Việt Nam. Tại đây phái đoàn đã được Lử Đoàn 31 Tình Nguyện Trừ Bị của Quân Đội Hoa Kỳ hổ trợ trong phần nghi lể rất cảm động dưới sự chứng kiến của nhiều người Mỹ cũng đến thăm viếng tại nghĩa trang quân đội rất linh thiêng nầy.
Phái Đoàn Chính Phủ VNCH sau khi rời Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn sẽ tiếp tục công việc vận động tại nhiều nước khác mà trước đây từng là đồng minh chiến đấu để bảo vệ mãnh đất Miền Nam Tự Do chống lại sự xâm nhập của Cộng Sản.
http://tvvn.org/forum/showthread.php?13591-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-Hoa-v%E1%BA%ADn-%C4%91%E1%BB%99ng-Qu%E1%BB%91c-H%E1%BB%99i-Hoa-K%E1%BB%B3
VIỆT NAM CỘNG HÒA VÙNG DẬY.
(Bản
Tin của VNCHF) Đại Úy Võ Ngọc Vui
trong quân phục binh chủng Biệt Động Quân đã phát biểu …”từ trước đến
nay Ông đã tham gia rất nhiều các sinh hoạt đấu tranh, chính trị,
nhưng chưa bao giờ có được một ngày như ngày hôm nay...” Bác sĩ Nghiêm
Phú đến từ Orange County.. “ chúng ta hãy cùng hổ trợ cho chính phủ
VNCH…”
Hòa thượng Thích Giác Minh viện chủ Chùa Quan Âm đến từ Los Angles đã kể lại câu chuyện Hòa thượng có một người anh mang cấp bực Đại Tá trong quân lực VNCH đã bị Việt Cộng sát hại trong trại tù cải tạo. bằng giọng nói thật cảm động hòa thượng cho biết …”Việt Nam Cộng Hòa là tổ quốc của tôi, VNCH muôn năm…”. Đó là những hình ảnh, tiếng nói thật sống động trong buổi ra mắt và tường trình về đường hướng đấu tranh của chính phủ VNCH do Việt Nam Cộng Hòa Foundation Miền Bắc California tổ chức vừa qua ngày 9/5 tại G I forum. Thành phố San Jose, California.
Hội trường G I tuy nhỏ nhưng chật kín, đã có gần 300 quan khách và đồng bào tham dự say mê theo dỏi cho đến giờ phút cuối. Những cái bắt tay thân mật, những ánh mắt thân thương, có những tiếng vỗ tay hân hoan tràn ngập chen lẩn với những giây phút cảm động đến rơi nước mắt. Tất cả quyện lại thành nổi mừng vui khó tả dưới tấm banner mang bốn chử Việt Nam Cộng Hòa hào hùng uất hận.
Chương trình bắt đầu bằng nghi thức Chào cờ VNCH, phút mặc niệm tưởng nhớ quân, dân, cán, chính VNCH đã hy sinh vì tự do và sau đó ban hợp ca Vì Dân đã trình bày nhạc phẩm Việt Nam Cọng Hòa Muôn Năm rất khí thế và mạnh mẽ. Điều khiển chương trình là Ông Triệu Phổ và Bảo Tố rất uyển chuyển khéo léo do đó không bị ngắt quảng lúc nào cũng đáp ứng trước sự chứng kiến của mọi người. Ngoài thành phần quan khách tham dự, giới truyền thông báo chí tại Bắc California cũng tham dự khá đầy đủ như báo Đời Mới, Tin Việt News, Hệ Thống Truyền Thông Cali Today, Ý Dân, Tiếng Dân, Con Ong, CM Magazine, Việt Báo, Việt Heral, Sài Gòn USA, Viện Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam, people’s voive, Cửu Long Radio, Đài Truyền Hình SBTN, VHN-TV…
Mở đầu cuộc tường trình, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức với tư cách Đại Diện của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối của Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã trình bày về đường hướng đấu tranh của Chính Phủ VNCH là dựa trên căn bản pháp lý để vận động ngoại giao, dùng ngoại giao để tạo áp lực chính trị buột Cộng Sản Bắc Việt phải trã lại những gì họ đã cướp của VNCH cho nhân dân Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức nhấn mạnh rằng đây là một trận đánh cuối cùng không đổ máu mà VNCH phải thắng để còn mang về tự do dân chủ và phú cường cho dân tộc Việt Nam.
Chính Phủ VNCH không chủ trương quyên góp tiền bạc của đồng bào và không có tham vọng lãnh đạo các tổ chức hội đoàn tại Hải Ngoại. Phần phát biểu của Thiếu Tướng đã được cử tọa vổ tay nhiệt liệt. Tiếp đó là phần trình bày của Thiếu Tướng Lý Tòng Bá người hùng KonTum của Quân Lực VNCH. Nay là Chủ Tịch của VNCH Foundation một tổ chức đã vận động và hổ trợ mạnh mẽ cho Chính Phủ VNCH. Năm nay đã 80 tuổi, nhưng dáng dấp còn khỏe mạnh, giọng nói còn sang sảng. Tướng Bá đã kể về cuộc đời binh nghiệp của mình và nhắc lại những ngày tháng vui buồn trong quá khứ.
Tướng Bá khẳng định Hiệp Định Paris là một hiệp định lịch sử và không có thời hạn. Vấn đề còn lại của chúng ta là chúng ta phải làm như thế nào để tái lập lại Hiệp Định Paris mà thôi. Tiếp đó Ông Hồ Văn Sinh một cán bộ Dân Vận Chiêu Hội VNCH đã trình bày về những uẩn khúc của lịch sử, đưa đến biến cố 30/4/1975. Trong đó cái thâm độc của Cộng Sản Bắc Việt là dùng hiến pháp của VNCH để bức tử VNCH, dùng Dương Văn Minh làm Tổng Thống trá hàng để bắn phát sung ân huệ vào đầu chúng ta trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Thời điểm 30/4/1975 là một thảm kịch do Cộng Sản Nga, Tàu chủ động với sự tiếp tay của bè lũ tay sai cuồng sát, cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt, kết hợp với sự phản bội của đồng minh, sự nhắm mắt làm ngơ của Liên Hiệp Quốc nhưng quan trọng nhất là lổi lầm của chúng ta là đã tin vào sự tuyên truyền bịp bợm láo khoét của Cộng Sản khi đa số trong chúng ta đều nghĩ rằng lịch sử đã sang trang, VNCH đã bị xóa sô và không còn nữa. rồi từ đó chúng ta đã trách móc lẩn nhau, đổ thừa lẩn nhau thậm chí còn lên án kết tội lẩn nhau nữa.
Ông Hồ Văn Sinh nhấn mạnh, sự thật là VNCH vẩn còn tồn tại dựa trên công pháp quốc tế và hiến chương Liên hiệp quốc. bằng chứng không thể chối cải là Hiệp định Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973. Vì thế cho nên biến cố 30/4/1975 chỉ là một thời điểm xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và là một ván cờ gian lận. Ông Hồ Văn Sinh cho biết Hiệp Định Paris 1973 là một Hiệp định quy định thể thức ngưng bắn, tái lập hòa bình để tiến tới một cuộc tổng tuyển cử công bằng tự do dưới sự giám sát của quốc tế. thế mà Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ. Tuy nhiên trong bản định ước quốc tế mà 12 Nước đã ký dưới sự chứng kiến của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc có điều khoản 7 b. điều này cho phép tài lập Hiệp định Paris nếu có đủ 6 Nước thành viên đã ký. Hiện nay Chính Phủ VNCH đang ráo riết vận động về việc nầy.
Ông Hồ Văn Sinh kết luận rằng phải làm thì mới biết thành công hay thất bại, còn ngồi đó mà phán đoán, cân nhắc thì biết đến bao giờ mới xong chuyện và VNCH phải vùng dậy để mang về tự do, ấm no hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Một số các câu hỏi từ các đại diện báo chí, đều được chủ tọa đoàn giải đáp thỏa đáng, thời gian còn lại là những phát biểu rất cảm động của quan khách tham dự. Buổi tường trình đã chấm dứt sau 4 tiếng đồng hồ với một không khí hân hoan và sôi nổi. Đánh dấu sự thành công tốt đẹp lần đầu tiên Chính Phủ VNCH ra mắt và xuất hiện tại San Jose Miền Bắc California.
Hòa thượng Thích Giác Minh viện chủ Chùa Quan Âm đến từ Los Angles đã kể lại câu chuyện Hòa thượng có một người anh mang cấp bực Đại Tá trong quân lực VNCH đã bị Việt Cộng sát hại trong trại tù cải tạo. bằng giọng nói thật cảm động hòa thượng cho biết …”Việt Nam Cộng Hòa là tổ quốc của tôi, VNCH muôn năm…”. Đó là những hình ảnh, tiếng nói thật sống động trong buổi ra mắt và tường trình về đường hướng đấu tranh của chính phủ VNCH do Việt Nam Cộng Hòa Foundation Miền Bắc California tổ chức vừa qua ngày 9/5 tại G I forum. Thành phố San Jose, California.
Hội trường G I tuy nhỏ nhưng chật kín, đã có gần 300 quan khách và đồng bào tham dự say mê theo dỏi cho đến giờ phút cuối. Những cái bắt tay thân mật, những ánh mắt thân thương, có những tiếng vỗ tay hân hoan tràn ngập chen lẩn với những giây phút cảm động đến rơi nước mắt. Tất cả quyện lại thành nổi mừng vui khó tả dưới tấm banner mang bốn chử Việt Nam Cộng Hòa hào hùng uất hận.
Chương trình bắt đầu bằng nghi thức Chào cờ VNCH, phút mặc niệm tưởng nhớ quân, dân, cán, chính VNCH đã hy sinh vì tự do và sau đó ban hợp ca Vì Dân đã trình bày nhạc phẩm Việt Nam Cọng Hòa Muôn Năm rất khí thế và mạnh mẽ. Điều khiển chương trình là Ông Triệu Phổ và Bảo Tố rất uyển chuyển khéo léo do đó không bị ngắt quảng lúc nào cũng đáp ứng trước sự chứng kiến của mọi người. Ngoài thành phần quan khách tham dự, giới truyền thông báo chí tại Bắc California cũng tham dự khá đầy đủ như báo Đời Mới, Tin Việt News, Hệ Thống Truyền Thông Cali Today, Ý Dân, Tiếng Dân, Con Ong, CM Magazine, Việt Báo, Việt Heral, Sài Gòn USA, Viện Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam, people’s voive, Cửu Long Radio, Đài Truyền Hình SBTN, VHN-TV…
Mở đầu cuộc tường trình, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức với tư cách Đại Diện của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối của Cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã trình bày về đường hướng đấu tranh của Chính Phủ VNCH là dựa trên căn bản pháp lý để vận động ngoại giao, dùng ngoại giao để tạo áp lực chính trị buột Cộng Sản Bắc Việt phải trã lại những gì họ đã cướp của VNCH cho nhân dân Việt Nam Cộng Hòa. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức nhấn mạnh rằng đây là một trận đánh cuối cùng không đổ máu mà VNCH phải thắng để còn mang về tự do dân chủ và phú cường cho dân tộc Việt Nam.
Chính Phủ VNCH không chủ trương quyên góp tiền bạc của đồng bào và không có tham vọng lãnh đạo các tổ chức hội đoàn tại Hải Ngoại. Phần phát biểu của Thiếu Tướng đã được cử tọa vổ tay nhiệt liệt. Tiếp đó là phần trình bày của Thiếu Tướng Lý Tòng Bá người hùng KonTum của Quân Lực VNCH. Nay là Chủ Tịch của VNCH Foundation một tổ chức đã vận động và hổ trợ mạnh mẽ cho Chính Phủ VNCH. Năm nay đã 80 tuổi, nhưng dáng dấp còn khỏe mạnh, giọng nói còn sang sảng. Tướng Bá đã kể về cuộc đời binh nghiệp của mình và nhắc lại những ngày tháng vui buồn trong quá khứ.
Tướng Bá khẳng định Hiệp Định Paris là một hiệp định lịch sử và không có thời hạn. Vấn đề còn lại của chúng ta là chúng ta phải làm như thế nào để tái lập lại Hiệp Định Paris mà thôi. Tiếp đó Ông Hồ Văn Sinh một cán bộ Dân Vận Chiêu Hội VNCH đã trình bày về những uẩn khúc của lịch sử, đưa đến biến cố 30/4/1975. Trong đó cái thâm độc của Cộng Sản Bắc Việt là dùng hiến pháp của VNCH để bức tử VNCH, dùng Dương Văn Minh làm Tổng Thống trá hàng để bắn phát sung ân huệ vào đầu chúng ta trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Thời điểm 30/4/1975 là một thảm kịch do Cộng Sản Nga, Tàu chủ động với sự tiếp tay của bè lũ tay sai cuồng sát, cuồng tín Cộng Sản Bắc Việt, kết hợp với sự phản bội của đồng minh, sự nhắm mắt làm ngơ của Liên Hiệp Quốc nhưng quan trọng nhất là lổi lầm của chúng ta là đã tin vào sự tuyên truyền bịp bợm láo khoét của Cộng Sản khi đa số trong chúng ta đều nghĩ rằng lịch sử đã sang trang, VNCH đã bị xóa sô và không còn nữa. rồi từ đó chúng ta đã trách móc lẩn nhau, đổ thừa lẩn nhau thậm chí còn lên án kết tội lẩn nhau nữa.
Ông Hồ Văn Sinh nhấn mạnh, sự thật là VNCH vẩn còn tồn tại dựa trên công pháp quốc tế và hiến chương Liên hiệp quốc. bằng chứng không thể chối cải là Hiệp định Geneve 1954, Hiệp định Paris 1973. Vì thế cho nên biến cố 30/4/1975 chỉ là một thời điểm xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt và là một ván cờ gian lận. Ông Hồ Văn Sinh cho biết Hiệp Định Paris 1973 là một Hiệp định quy định thể thức ngưng bắn, tái lập hòa bình để tiến tới một cuộc tổng tuyển cử công bằng tự do dưới sự giám sát của quốc tế. thế mà Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên xé bỏ. Tuy nhiên trong bản định ước quốc tế mà 12 Nước đã ký dưới sự chứng kiến của Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc có điều khoản 7 b. điều này cho phép tài lập Hiệp định Paris nếu có đủ 6 Nước thành viên đã ký. Hiện nay Chính Phủ VNCH đang ráo riết vận động về việc nầy.
Ông Hồ Văn Sinh kết luận rằng phải làm thì mới biết thành công hay thất bại, còn ngồi đó mà phán đoán, cân nhắc thì biết đến bao giờ mới xong chuyện và VNCH phải vùng dậy để mang về tự do, ấm no hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Một số các câu hỏi từ các đại diện báo chí, đều được chủ tọa đoàn giải đáp thỏa đáng, thời gian còn lại là những phát biểu rất cảm động của quan khách tham dự. Buổi tường trình đã chấm dứt sau 4 tiếng đồng hồ với một không khí hân hoan và sôi nổi. Đánh dấu sự thành công tốt đẹp lần đầu tiên Chính Phủ VNCH ra mắt và xuất hiện tại San Jose Miền Bắc California.
http://thitapbendoi2.over-blog.com/article-vi-t-nam-c-ng-hoa-vung-d-y-50272153.html
DỰNG LẠI NIỀM TIN
PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP TẠI CANADA.
PHÁI ĐOÀN ĐẠI DIỆN CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP TẠI CANADA.
(Bản
Tin VNCHF Canada) Trong nổ lực vận động Chính phủ các Nước tự do trên
thế giới chú ý đến trường hợp Nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị Cộng Sản Bắc
Việt vi phạm Hiệp Định Paris xâm lăng thống trị một cách dã man tàn
bạo. Từ đó 35 năm qua trên đất nước Việt Nam, nhân quyền đã không được
tôn trọng, tự do người dân đã bị tước đoạt. Một phái đoàn của Chính
Phủ VNCH gồm 12 người do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức Đại diện đã đến
vận động và hoạt động tại Canada từ ngày 22/7/2010 đến 29/7/2010 vừa
qua.
Di chuyển bằng xe Van từ Montreal đến Toronto, Phái đoàn Đại Diện Chính Phủ VNCH đã lần lượt gặp gở, nói chuyện về nguyện vọng của Nước VNCH với giới lãnh đạo của hai Đảng lớn tại Canada như Đảng Tự Do (đối lập) và Đảng Bảo Thủ hiện đang nắm quyền cũng như một số các vị Tổng bộ trưởng, thượng nghị sĩ, dân biểu quốc hội của Canada. Phái Đoàn Đại Diện Chính Phủ VNCH cũng trao đổi các tài liệu liên quan đến sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 1973 của Cộng Sản Bắc Việt và phương cách tái hợp Hiệp Định Paris nhằm trả lại một sự công bằng cho Quân, Dân, Cán Chính VNCH.
Phái đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã được hoan nghênh và hưỡng ứng mạnh mẽ trong các buổi nói chuyện tại Montreal và Toronto do Việt Nam Cộng Hòa Foundation tổ chức. Tại Montreal là Cộng Đồng NVQG Montreal, Hội Quốc Gia Hành Chánh, Hội Gia Long, Trung Tâm Sinh Hoạt Người Cao Niên Đông Dương, Hội Giáo Chức, Hội Không Quân, Hội Chiến Sĩ Cựu Tù Nhân Chính Trị Khu Hội Canada, Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng, Hội Võ Bị Đà Lạt, Hội Phụ Nữ Việt Nam và Gia Đình Biệt Động Quân.
Tại Toronto có sự tham dự của Đại Diện PGHH, Hội Người Việt Kitchener, Hội Người Việt Toronto, Hội Mũ Đỏ Montreal, Báo Thời Mới, Cộng Đồng VNTD tại Đức Quốc, VBS Television Canada, Đảng Việt Tân, Hiệp Hội Võ Thuật Ontario, Phong Trào Hiên Chương 2000, SBTN Toronto, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, Hội Phật Giáo Cao Đài, Báo Thời Báo và Tuần Báo Viet Tide. Điều đáng chú ý là việc khai mạc rất đúng giờ với hàng trăm người tham dự và chăm chú lắng nghe cho đến giờ phút chót là điều chưa từng thấy trong các buổi sinh hoạt hội thảo chính trị trong Cộng Đồng Người Việt tại Canada.
Trước đó tại Montreal. Phái Đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã đến dâng hương tại Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH Vị Quốc Vong Thân và thăm viếng Hòa Thượng Thích Tâm Châu người lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thế Giới năm nay đã 90 tuổi và đã được Hòa Thượng tiếp đón phái đoàn ngay tại Tu Viện. Trong cuộc thăm viếng bất ngờ nầy Hòa Thượng bày tỏ sự vui mừng và mong mỏi giải pháp VNCH sớm thành công để người dân bớt khổ, đất nước không còn bị ngoại xâm chiếm đoạt. Sau đó Ngài đã gởi tặng cho VNCH Foundation một số hiện kim để góp phần ủng hộ việc di chuyển hoạt động của Chính Phủ VNCH.
Tóm lại chuyến đi vận động vừa qua của Chính Phủ VNCH tại Canada rất thành công tốt đẹp. Chính giới Canada ít ra đã nhìn thấy được cái oan khiên của VNCH qua biến cố 30/4/1975, còn Cộng Đồng Người Việt tại đây cũng đã nhìn thấy nổ lực của Chính Phủ VNCH trong công cuộc cứu dân cứu Nước. Và đó cũng là hoài bảo của những ai còn quan tâm đến tiền đồ vận mệnh của dân tộc Việt Nam. xa.yimg.com/kq/groups/2476050/.
Di chuyển bằng xe Van từ Montreal đến Toronto, Phái đoàn Đại Diện Chính Phủ VNCH đã lần lượt gặp gở, nói chuyện về nguyện vọng của Nước VNCH với giới lãnh đạo của hai Đảng lớn tại Canada như Đảng Tự Do (đối lập) và Đảng Bảo Thủ hiện đang nắm quyền cũng như một số các vị Tổng bộ trưởng, thượng nghị sĩ, dân biểu quốc hội của Canada. Phái Đoàn Đại Diện Chính Phủ VNCH cũng trao đổi các tài liệu liên quan đến sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 1973 của Cộng Sản Bắc Việt và phương cách tái hợp Hiệp Định Paris nhằm trả lại một sự công bằng cho Quân, Dân, Cán Chính VNCH.
Phái đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã được hoan nghênh và hưỡng ứng mạnh mẽ trong các buổi nói chuyện tại Montreal và Toronto do Việt Nam Cộng Hòa Foundation tổ chức. Tại Montreal là Cộng Đồng NVQG Montreal, Hội Quốc Gia Hành Chánh, Hội Gia Long, Trung Tâm Sinh Hoạt Người Cao Niên Đông Dương, Hội Giáo Chức, Hội Không Quân, Hội Chiến Sĩ Cựu Tù Nhân Chính Trị Khu Hội Canada, Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng, Hội Võ Bị Đà Lạt, Hội Phụ Nữ Việt Nam và Gia Đình Biệt Động Quân.
Tại Toronto có sự tham dự của Đại Diện PGHH, Hội Người Việt Kitchener, Hội Người Việt Toronto, Hội Mũ Đỏ Montreal, Báo Thời Mới, Cộng Đồng VNTD tại Đức Quốc, VBS Television Canada, Đảng Việt Tân, Hiệp Hội Võ Thuật Ontario, Phong Trào Hiên Chương 2000, SBTN Toronto, Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị, Hội Phật Giáo Cao Đài, Báo Thời Báo và Tuần Báo Viet Tide. Điều đáng chú ý là việc khai mạc rất đúng giờ với hàng trăm người tham dự và chăm chú lắng nghe cho đến giờ phút chót là điều chưa từng thấy trong các buổi sinh hoạt hội thảo chính trị trong Cộng Đồng Người Việt tại Canada.
Trước đó tại Montreal. Phái Đoàn Chính Phủ VNCH cũng đã đến dâng hương tại Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ VNCH Vị Quốc Vong Thân và thăm viếng Hòa Thượng Thích Tâm Châu người lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thế Giới năm nay đã 90 tuổi và đã được Hòa Thượng tiếp đón phái đoàn ngay tại Tu Viện. Trong cuộc thăm viếng bất ngờ nầy Hòa Thượng bày tỏ sự vui mừng và mong mỏi giải pháp VNCH sớm thành công để người dân bớt khổ, đất nước không còn bị ngoại xâm chiếm đoạt. Sau đó Ngài đã gởi tặng cho VNCH Foundation một số hiện kim để góp phần ủng hộ việc di chuyển hoạt động của Chính Phủ VNCH.
Tóm lại chuyến đi vận động vừa qua của Chính Phủ VNCH tại Canada rất thành công tốt đẹp. Chính giới Canada ít ra đã nhìn thấy được cái oan khiên của VNCH qua biến cố 30/4/1975, còn Cộng Đồng Người Việt tại đây cũng đã nhìn thấy nổ lực của Chính Phủ VNCH trong công cuộc cứu dân cứu Nước. Và đó cũng là hoài bảo của những ai còn quan tâm đến tiền đồ vận mệnh của dân tộc Việt Nam. xa.yimg.com/kq/groups/2476050/.
TIN MONTREAL VÀ OTTAWA
Ngày 24-7-2010, phái đoàn VNCH đã đến Montreal và Ottawa Canada. Chúng tôi nghĩ rằng Cộng sản Việt Nam cướp tự do, dân chủ của nhân dân và cam tâm bán nước, thần phục Trung Cộng, và trong một ngày gần đây, Trung Cộng sẽ xâm lăng Việt Nam. Bọn Việt Công một số sẽ đầu hàng Trung cộng, một số cộng sản sẽ chống Trung Cộng nhưng vẫn theo độc tài chủ nghĩa hay dân chủ chủ nghĩa? Nay mai chúng ta sẽ rõ hơn.
Trong tình trạng này, nếu chúng vẫn khư khư giữ chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị hay một thứ liên hiệp hình thức, chúng ta không nên thoả hiệp với chúng, mắc mưu chúng như bọn GPMN trước đây bị cộng sản Việt Nam lợi dụng.
Chúng ta sẽ theo đường lối của ta, giương hai ngọn cờ dân chủ và giải phóng dân tộc, nghĩa là làm hai việc một lúc là chống Trung Cộng và thực thi dân chủ.
Ngày nay, các vị trên làm nhiệm vụ vận động quốc dân và quốc tế căn cứ vào pháp lý để nói lên chính nghĩa của Việt Nam cộng hòa. Và đó cũng là chuẩn bị cho lực lượng nhân dân Việt Nam vùng lên cứu quốc và kiến quốc trong giai đoạn lịch sử sắp tới mà người quốc gia sẽ phải đảm trách. Không pháp lý nào, quang vinh nào cho bằng chiến thắng Trung Cộng. Chính chiến thắng này đặt nền tảng cho chính phủ quốc gia sau này.
Trong tình thế đó, chúng ta sẽ có lực lượng của ta giải phóng quê hương và thực thi dân chủ. Chính phủ VNCH và VNCH Foundation chính là cơ sở của người quốc gia, cơ sở để sau này chiếm lại quê hương, đòi lại những mảnh đất đã lọt vào tay Trung Cộng và tái lập một nền dân chủ và tự do cho nhân dân Việt Nam.
Sau đây là những cuộn phim về hình ảnh Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức, Chuẩn tuớng Lý Tòng Bá và luật sư Lâm Chấn Thọ tại Montreal Canada.
Xin mời các bạn nghe lời tuyên bố và xem hình ảnh của Thiếu tướng Nguyễn Văn Chức, Chuẩn tướng Lý Tòng Bá và LS Lâm Chấn Thọ để hiểu rõ mục đích của những con người can trường và đầy lòng yêu nước đang hoạt động để đòi lại tự do, độc lập cho nhân dân và tổ quốc Việt Nam.
Sơn Trung
Sau đây là vài hình ảnh và videos mà ban thông tin của Cộng Đồng người
Việt vùng Montréal thâu và ghi lại của buổi thuyết trình này, xin
cống hiến cùng qúy vị khắp nơi.
Trong phòng họp của buổi thuyết trình - Lễ chào quốc kỳ Thiếu Tướng Nguyễn văn Chức,
đại diện Chính Phủ VNCH, duyệt qua hàng chào
đại diện Chính Phủ VNCH, duyệt qua hàng chào
Từ trái sang phải : Kevin Nguyễn ( phụ tá ngoại giao ) - Hồ Văn Sinh ( phụ tá nội vụ ) -
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức ( đại diện Chính Phủ VNCH ) - Thiếu Tướng Lý Tòng Bá ( chủ Tịch VNCH Foundation ) và
Luật Sư Lâm Chánh Thọ ( cố vấn Pháp Luật ).
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức ( đại diện Chính Phủ VNCH ) - Thiếu Tướng Lý Tòng Bá ( chủ Tịch VNCH Foundation ) và
Luật Sư Lâm Chánh Thọ ( cố vấn Pháp Luật ).
quan khách tham dự buổi họp
Vài videos :
1/Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chức : Đại diện Chính Phủ VNCH
http://www.youtube.com/watch?v=ELyPqU91wfo
3/LS Lâm Chánh Thọ : Cố Vấn Luật Pháp của VNCH Foundation & Chinh Phu VNCH
http://www.youtube.com/watch?v=SMQfiTp1GvE
THƠ SONG NGỮ LÊ THỊ CÔNG NHÂN
I HAVE A DREAM – TÔI CÓ MỘT GIẤC MƠ
Lê thị Công Nhân
Hà Nội, June 12th 2010
Chuyển ngữ: Tôn Thất Diên
Cựu Khoa Trưởng/Khoa Sinh Ngữ/Văn Hóa Vụ/TVBQGVN
Riêng tặng Cha Vũ Khởi Phụng và giáo xứ Thái Hà, Hà nội – Việt Nam
I have a dream !
Tôi có một giấc mơ,
đến một ngày
trên thế gian
sẽ không còn
cộng sản.
Khi ấy, người nông dân quê tôi
sẽ không còn lam lũ ngoài đồng nắng
chang chang
ướt đầm áo giọt mồ hôi
bão tố gió mưa
đơn côi
trên đồng quạnh vắng
cho lúa được vàng bông
trĩu hạt !
Nhưng,
phải cống nạp nuôi chính quyền độc tài cộng sản
hơn (một) nửa mất rồi,
Còn đâu !
Khi ấy, người trí thức nước tôi
sẽ tự nhiên cất lên lời chân thật
Vì chiếc còng số 8
và điều luật số 88
đã bị đánh bật
ra khỏi tư tưởng
cùng với nó là điều luật số 79, 87,
và 258 …
quái dị đến thiên tài !
là đặc sản của nước chúng tôi
và những nước anh em xã hội chủ nghĩa khác
Hỡi ôi !
Anh em ư ?
Liên minh ma quỷ thì đúng hơn !
sánh bước cùng nhau
chiếm đoạt âm ti
cho riêng mình,
mãi mãi !
Khi ấy, văn nhân và nghệ sỹ nước tôi
sẽ tuôn tràn cảm xúc nghĩ suy
mà không phải
tụt nó xuống (người ta vẫn thường hay nói “Tụt cả cảm xúc !”)
dấu nó đi,
treo nó lên,
túm nó lại,
hoặc đơn giản hơn
là
lờ nó đi.
Coi như mình chẳng có cảm xúc nghĩ suy gì
chân thật cả !
và khi ấy,
nền thi ca nghệ thuật
ở xứ sở tôi
sẽ trỗi dậy
dẫu phải làm lại từ đầu.
Nhưng
một bước chân thôi
trên con đường chân thật (nếu bạn cả gan dám bước vào)
cũng đã ngất ngây rồi !
Thật đấy !
Thử mà coi !
Khi cộng sản không còn bóng dáng
trên quê hương tôi
thì người luật sư
sẽ thật sự
là trái tim của nền dân chủ !
Hùng biện, diễn thuyết
tranh luận, bào chữa
mà không sợ
bị tống vào tù
chỉ vì không chịu
xuẩn ngu
ca ngợi băng đảng cộng sản quang vinh muôn năm ? ! ? !
và một cái xác ướp điêu toe (làm bằng composite)
là vĩ đại,
là chân lý duy nhất
của trần gian.
Khi ấy,
sẽ không còn những gian nan
của người công nhân lao động lầm than
với đồng lương rẻ mạt
như không thể nào rẻ hơn được nữa !
Và sẽ không còn những khổ nạn
mà giới tu sĩ chân chính phải gánh chịu
vì thường xuyên mắc phải
cái tật
trót dại ? ! ? !
cứ đòi tự do tôn giáo và tín ngưỡng
lại còn tơ tưởng ! ? ! ?
đòi thêm
những tài sản bị chiếm đoạt bất công
để thờ phượng
Đức Chúa trời, là Ông Trời, là Thượng đế
là Đấng Tạo hóa
của chúng ta
và hỡi ôi,
cũng là của người cộng sản nữa !
Vì Người là đấng ban sự sống
của muôn loài !
Vậy thì, những người cộng sản hỡi,
nếu các người vẫn còn sống
thì chắc chắn điều đó
phải có ý nghĩa rồi ! (Tôi vẫn biết thế mà.)
Đó là
để cho những người có lương tri
và chút quả cảm còn sót lại,
chút tự trọng còn rơi rớt lại,
chút danh dự
bỗng dưng được tìm thấy
sau một thời gian bị thất lạc (khá lâu!)
“lên án mạnh mẽ”
và
“kịch liệt phản đối”
chế độ độc tài cộng sản
tàn ác dã man,
thâm độc mọi rợ,
ngu dốt vượt trội,
xa xỉ bậc nhất,
hoang tưởng cực độ,
NÓI DỐI THÀNH THẦN !
..v…v…và…v…v !
Khi ấy,
mọi người sẽ lại tìm thấy
Ý nghĩa của cuộc đời mình
là
Phải sống cho nhau
và biết hy sinh vì đồng loại,
là người anh em của mình
do Đấng Tạo hóa
hằng ban,
Yêu thương !
Tôi có một giấc mơ
chưa chắc đã thành sự thật
trong đời mình,
và tôi dám nói ra /tiết lộ /chia sẻ /tâm sự
kêu gào thảm thiết
một cách mạnh mẽ và công khai
cho mọi người cùng biết
rằng:
Tôi không câm,
Có tai không điếc,
Có mắt chẳng mù,
và một trái tim (chẳng may) vẫn còn rung cảm
một lương tâm không bị sún
vì chưa gãy hết răng
(nó cắn rứt tôi mỗi ngày !
Có Chúa chứng giám cho tôi điều ấy!)
cái đầu vẫn còn biết suy nghĩ
và mơ mộng
về những điều cao siêu,
nhưng thật ra thì đơn giản,
là
Tính trung thực và Lòng dũng cảm
nền tảng đạo đức
của con người !
Nhưng,
Ai ?
Sẽ tái lập và gìn giữ
Điều này ?
“Tôi,
(oắt con tép riu Lê thị Công Nhân)
Xin góp
Một bàn tay.”
Vậy,
Phần còn lại
Sẽ chờ
Ai đây ?
“Tôi,
(oắt con tép riu Lê thị Công Nhân)
Xin góp
Một bàn tay.”
(Công
an mỗi khi sỉ vả tôi thì thường gọi tôi là “Đồ oắt con, con nhãi
ranh, đồ nhãi nhép, mấy cái tuổi ranh ..v…v…mà phạm tội tày đình”. Tôi
quyết định là sẽ không coi cách công an gọi tôi như vậy là một tội
lỗi của cá nhân họ với riêng tôi, vì xét thấy: mình cũng trẻ thật (hồi
ấy, 2006, mới 27 tuổi), thôi thì cứ coi mình là oắt con tép riu cho
nó vui ! ? ! ? )
Người
nào đó giỏi về ngoại ngữ xin vui lòng dịch ra tiếng các nước vẫn còn
nằm dưới sự cai trị của độc tài cộng sản, và chuyển đến họ như là một
sự chia sẻ nhỏ bé của những người cùng khổ đồng cảnh ngộ. Xin hàm ơn
rất nhiều !
Lê Thị Công Nhân
To Father Vu Khoi Phung and
Thai Ha Parish, Hanoi , Vietnam
I have a dream!
I dream
of a day
when Communism
no longer exists
in this world.
When farmers in my country
no longer have to work miserably
under the burning sun
in their sweaty shirts
against the wind and storms
by themselves
on deserted fields
to produce plentiful
golden rice grains!
Unfortunately,
they have to pay more than half of their crop
to the damned communist dictators.
Not much is left, alas!
That’s the day when intellectuals in Vietnam
will freely speak out the truth
in defiance of the 8-shaped handcuffs,
for Article 88
will have been forever out of
my people’s minds
along with Articles 79, 87,
and 258…
those giftedly evil laws
that are a specialty of my country
as well as of others in the socialist system.
Alas!
Are they really brotherly countries?
No, just a mafia-like alliance
that marches together
to take over Hell
to make it its own possession
forever!
That’s the day when Vietnamese scholars and artists
will let their emotions overflow
instead of having to
flush them down (as people often
say,“Flush down my emotions”),
hide them,
hang them up,
put them in a bunch,
or more simply,
ignore them,
coldly considering themselves having neither sincere emotion nor true thought!
That is when
our national literature and arts
will spring up
even if they have to start
from the very beginning.
But
only one step
on the road of truth (if one dares to venture)
is already a wonderful move!
It’s completely true!
Just try it!
When no communists
exist in my fatherland,
attorneys
will truly
be the heart of Democracy!
They will use eloquence, speeches,
debates, and defenses
without fear
of being jailed
simply because they refuse
to dumbly glorify
the communist party forever
since it’s merely a faked mummy
(made of composite) nothing great
and not the unique truth
of mankind.
That’s the day when
miserable workers will no longer
have to suffer hardships
in exchange for
impossibly lower wages
Gone will be the miseries
suffered by truly religious leaders who have long been
the victims of
their ‘silly’ bad habit
of asking for
freedom of religion and faith
or even of dreaming
to ask for the return of
illegally confiscated properties
once used for worshipping
God, King of Heaven, or the Supreme Deity,
our Creator,
and, too,
that of the communists!
For He is
the Giver of Life
to all creatures!
Listen, communists,
if you are still alive
then that fact alone
surely must mean something! (I already know this.)
It is for those people
who still retain some
conscience and courage,
self-respect,
and honor,
to suddenly find
that after getting lost (quite long),
they can “strongly condemn”
and
“vigorously protest”
against the communist dictators,
a bunch of tyrannical and barbarous,
vicious and savage,
outstandingly stupid rulers,
makers of the worst extravagant
and megalomaniac regime
that reveres NOTHING BUT LIES!
And so on…
It’s when,
everyone will find again
the meaning of one’s life
which is
to live for one another
ready to sacrifice for the humanity,
one’s own siblings,
who are blessed
by the Creator
with His Love!
I have a dream
that may not come true
in my lifetime,
yet, I want to speak it out/reveal it/share it/confess it
in my dramatic shouts,
through my loud and open voice
to let everyone know
that:
I am NOT dumb,
I have perfect ears,
I have clear eyes,
a heart that (unfortunately) still
is sensible,
a pure conscience only partially damaged
(by daily remorses,
as God be my witness about these!),
a head that can think
and dream
of noble
but really simple things
such as
Truthfulness and Courage
the foundation of morality
of mankind!
But
Who
will restore and maintain
this?
“I will,
(a Lilliputian* Le Thi Cong Nhan)
I will lend
a hand.”
Then,
who will
take care
of the rest?”
“I will,
(a Lilliputian* Le Thi Cong Nhan)
I will lend
a hand.”
Translated by Ton Dzien
* The communist police often tried to belittle me by calling me “the Lilliputian, the brat, the sassy little one… ” I
never protested this personal mistake of theirs against me as I
thought I was in fact still young at the time (27 years of age, in
2006).
I HAVE A DREAM – TÔI CÓ MỘT GIẤC MƠ
Lê thị Công Nhân
Hà Nội,
Chuyển ngữ: Tôn Thất Diên
Cựu Khoa Trưởng/Khoa Sinh Ngữ/Văn Hóa Vụ/TVBQGVN
| |
Riêng tặng Cha Vũ Khởi Phụng và giáo xứ Thái Hà, Hà nội – Việt Nam
I have a dream !
Tôi có một giấc mơ,
đến một ngày
trên thế gian
sẽ không còn
cộng sản.
Khi ấy, người nông dân quê tôi
sẽ không còn lam lũ ngoài đồng nắng
chang chang
ướt đầm áo giọt mồ hôi
bão tố gió mưa
đơn côi
trên đồng quạnh vắng
cho lúa được vàng bông
trĩu hạt !
Nhưng,
phải cống nạp nuôi chính quyền độc tài cộng sản
hơn (một) nửa mất rồi,
Còn đâu !
Khi ấy, người trí thức nước tôi
sẽ tự nhiên cất lên lời chân thật
Vì chiếc còng số 8
và điều luật số 88
đã bị đánh bật
ra khỏi tư tưởng
cùng với nó là điều luật số 79, 87,
và 258 …
quái dị đến thiên tài !
là đặc sản của nước chúng tôi
và những nước anh em xã hội chủ nghĩa khác
Hỡi ôi !
Anh em ư ?
Liên minh ma quỷ thì đúng hơn !
sánh bước cùng nhau
chiếm đoạt âm ti
cho riêng mình,
mãi mãi !
Khi ấy, văn nhân và nghệ sỹ nước tôi
sẽ tuôn tràn cảm xúc nghĩ suy
mà không phải
tụt nó xuống (người ta vẫn thường hay nói “Tụt cả cảm xúc !”)
dấu nó đi,
treo nó lên,
túm nó lại,
hoặc đơn giản hơn
là
lờ nó đi.
Coi như mình chẳng có cảm xúc nghĩ suy gì
chân thật cả !
và khi ấy,
nền thi ca nghệ thuật
ở xứ sở tôi
sẽ trỗi dậy
dẫu phải làm lại từ đầu.
Nhưng
một bước chân thôi
trên con đường chân thật (nếu bạn cả gan dám bước vào)
cũng đã ngất ngây rồi !
Thật đấy !
Thử mà coi !
Khi cộng sản không còn bóng dáng
trên quê hương tôi
thì người luật sư
sẽ thật sự
là trái tim của nền dân chủ !
Hùng biện, diễn thuyết
tranh luận, bào chữa
mà không sợ
bị tống vào tù
chỉ vì không chịu
xuẩn ngu
ca ngợi băng đảng cộng sản quang vinh muôn năm ? ! ? !
và một cái xác ướp điêu toe (làm bằng composite)
là vĩ đại,
là chân lý duy nhất
của trần gian.
Khi ấy,
sẽ không còn những gian nan
của người công nhân lao động lầm than
với đồng lương rẻ mạt
như không thể nào rẻ hơn được nữa !
Và sẽ không còn những khổ nạn
mà giới tu sĩ chân chính phải gánh chịu
vì thường xuyên mắc phải
cái tật
trót dại ? ! ? !
cứ đòi tự do tôn giáo và tín ngưỡng
lại còn tơ tưởng ! ? ! ?
đòi thêm
những tài sản bị chiếm đoạt bất công
để thờ phượng
Đức Chúa trời, là Ông Trời, là Thượng đế
là Đấng Tạo hóa
của chúng ta
và hỡi ôi,
cũng là của người cộng sản nữa !
Vì Người là đấng ban sự sống
của muôn loài !
Vậy thì, những người cộng sản hỡi,
nếu các người vẫn còn sống
thì chắc chắn điều đó
phải có ý nghĩa rồi ! (Tôi vẫn biết thế mà.)
Đó là
để cho những người có lương tri
và chút quả cảm còn sót lại,
chút tự trọng còn rơi rớt lại,
chút danh dự
bỗng dưng được tìm thấy
sau một thời gian bị thất lạc (khá lâu!)
“lên án mạnh mẽ”
và
“kịch liệt phản đối”
chế độ độc tài cộng sản
tàn ác dã man,
thâm độc mọi rợ,
ngu dốt vượt trội,
xa xỉ bậc nhất,
hoang tưởng cực độ,
NÓI DỐI THÀNH THẦN !
..v…v…và…v…v !
Khi ấy,
mọi người sẽ lại tìm thấy
Ý nghĩa của cuộc đời mình
là
Phải sống cho nhau
và biết hy sinh vì đồng loại,
là người anh em của mình
do Đấng Tạo hóa
hằng ban,
Yêu thương !
Tôi có một giấc mơ
chưa chắc đã thành sự thật
trong đời mình,
và tôi dám nói ra /tiết lộ /chia sẻ /tâm sự
kêu gào thảm thiết
một cách mạnh mẽ và công khai
cho mọi người cùng biết
rằng:
Tôi không câm,
Có tai không điếc,
Có mắt chẳng mù,
và một trái tim (chẳng may) vẫn còn rung cảm
một lương tâm không bị sún
vì chưa gãy hết răng
(nó cắn rứt tôi mỗi ngày !
Có Chúa chứng giám cho tôi điều ấy!)
cái đầu vẫn còn biết suy nghĩ
và mơ mộng
về những điều cao siêu,
nhưng thật ra thì đơn giản,
là
Tính trung thực và Lòng dũng cảm
nền tảng đạo đức
của con người !
Nhưng,
Ai ?
Sẽ tái lập và gìn giữ
Điều này ?
“Tôi,
(oắt con tép riu Lê thị Công Nhân)
Xin góp
Một bàn tay.”
Vậy,
Phần còn lại
Sẽ chờ
Ai đây ?
“Tôi,
(oắt con tép riu Lê thị Công Nhân)
Xin góp
Một bàn tay.”
(Công
an mỗi khi sỉ vả tôi thì thường gọi tôi là “Đồ oắt con, con nhãi
ranh, đồ nhãi nhép, mấy cái tuổi ranh ..v…v…mà phạm tội tày đình”. Tôi
quyết định là sẽ không coi cách công an gọi tôi như vậy là một tội
lỗi của cá nhân họ với riêng tôi, vì xét thấy: mình cũng trẻ thật (hồi
ấy, 2006, mới 27 tuổi), thôi thì cứ coi mình là oắt con tép riu cho
nó vui ! ? ! ? )
Người
nào đó giỏi về ngoại ngữ xin vui lòng dịch ra tiếng các nước vẫn còn
nằm dưới sự cai trị của độc tài cộng sản, và chuyển đến họ như là một
sự chia sẻ nhỏ bé của những người cùng khổ đồng cảnh ngộ. Xin hàm ơn
rất nhiều !
Lê Thị Công Nhân
|
To Father Vu Khoi Phung and
Thai Ha Parish,
I have a dream!
I dream
of a day
when Communism
no longer exists
in this world.
When farmers in my country
no longer have to work miserably
under the burning sun
in their sweaty shirts
against the wind and storms
by themselves
on deserted fields
to produce plentiful
golden rice grains!
Unfortunately,
they have to pay more than half of their crop
to the damned communist dictators.
Not much is left, alas!
That’s the day when intellectuals in
will freely speak out the truth
in defiance of the 8-shaped handcuffs,
for Article 88
will have been forever out of
my people’s minds
along with Articles 79, 87,
and 258…
those giftedly evil laws
that are a specialty of my country
as well as of others in the socialist system.
Alas!
Are they really brotherly countries?
No, just a mafia-like alliance
that marches together
to take over Hell
to make it its own possession
forever!
That’s the day when Vietnamese scholars and artists
will let their emotions overflow
instead of having to
flush them down (as people often
say,“Flush down my emotions”),
hide them,
hang them up,
put them in a bunch,
or more simply,
ignore them,
coldly considering themselves having neither sincere emotion nor true thought!
That is when
our national literature and arts
will spring up
even if they have to start
from the very beginning.
But
only one step
on the road of truth (if one dares to venture)
is already a wonderful move!
It’s completely true!
Just try it!
When no communists
exist in my fatherland,
attorneys
will truly
be the heart of Democracy!
They will use eloquence, speeches,
debates, and defenses
without fear
of being jailed
simply because they refuse
to dumbly glorify
the communist party forever
since it’s merely a faked mummy
(made of composite) nothing great
and not the unique truth
of mankind.
That’s the day when
miserable workers will no longer
have to suffer hardships
in exchange for
impossibly lower wages
Gone will be the miseries
suffered by truly religious leaders who have long been
the victims of
their ‘silly’ bad habit
of asking for
freedom of religion and faith
or even of dreaming
to ask for the return of
illegally confiscated properties
once used for worshipping
God, King of Heaven, or the Supreme Deity,
our Creator,
and, too,
that of the communists!
For He is
the Giver of Life
to all creatures!
Listen, communists,
if you are still alive
then that fact alone
surely must mean something! (I already know this.)
It is for those people
who still retain some
conscience and courage,
self-respect,
and honor,
to suddenly find
that after getting lost (quite long),
they can “strongly condemn”
and
“vigorously protest”
against the communist dictators,
a bunch of tyrannical and barbarous,
vicious and savage,
outstandingly stupid rulers,
makers of the worst extravagant
and megalomaniac regime
that reveres NOTHING BUT LIES!
And so on…
It’s when,
everyone will find again
the meaning of one’s life
which is
to live for one another
ready to sacrifice for the humanity,
one’s own siblings,
who are blessed
by the Creator
with His Love!
I have a dream
that may not come true
in my lifetime,
yet, I want to speak it out/reveal it/share it/confess it
in my dramatic shouts,
through my loud and open voice
to let everyone know
that:
I am NOT dumb,
I have perfect ears,
I have clear eyes,
a heart that (unfortunately) still
is sensible,
a pure conscience only partially damaged
(by daily remorses,
as God be my witness about these!),
a head that can think
and dream
of noble
but really simple things
such as
Truthfulness and Courage
the foundation of morality
of mankind!
But
Who
will restore and maintain
this?
“I will,
(a Lilliputian* Le Thi Cong Nhan)
I will lend
a hand.”
Then,
who will
take care
of the rest?”
“I will,
(a Lilliputian* Le Thi Cong Nhan)
I will lend
a hand.”
Translated by Ton Dzien
* The communist police often tried to belittle me by calling me “the Lilliputian, the brat, the sassy little one… ” I
never protested this personal mistake of theirs against me as I
thought I was in fact still young at the time (27 years of age, in
2006).
|
LÝ ĐẠI NGUYÊN * MỸ & TRUNG CỘNG
DẰN MẶT TRUNGCỘNG RĂN ĐE BẮC HÀN
LÝ ĐẠI NGUYÊN
Nữ ngoại trưởng Hoakỳ Hillary Clinton đã có mặt tại Việtnam hôm 22/07/2010 ,
mở đầu chuyến công du, đánh dấu kỷ niệm 15 năm Việt-Mỹ thiết lập quan
hệ ngoại giao và tham dự Diễn Đàn Hợp Tác An Ninh ASEAN. Lên tiếng với
báo chí sau cuộc gặp với người tương nhiệm về phía Hànội là Phạm Gia
Khiêm. Bà nói: “Việtnam với một dân số năng động và người dân thực độc
đáo – đang trên đường trở thành một quốc gia vĩ đại với tiềm năng vô
biên – đó là một trong những lý do khiến Hoakỳ bày tỏ quan ngại về vấn đề nhân quyền với phía Việtnam”. Bà Clinton
bày tỏ mối quan ngại của Hoakỳ về thái độ mà bà gọi là “không khoan
dung” với những người bất đồng chính kiến như: “Những vụ tống giam những
người đấu tranh cho dân chủ, những hành động tấn công vào một số nhóm
tôn giáo, hay việc đàn áp một số Websites trên mạng internet”. Sau bữa
ăn trưa với các doanh nhân Việt và Mỹ bà Clinton
đã trở lại đề tài này, Bà nhắc đến các khác biệt sâu đậm giữa Việtnam
và Hoakỳ trên vấn đề tự do chính trị. Bà xác định là “Hoakỳ sẽ thúc dục
Việtnam nỗ lực nhiền hơn nữa trong vìệc bảo vệ quyền tự do cá nhân”.
Phạm gia Khiêm gượng gạo chống đỡ rằng: “Khái niệm nhân quyền bắt nguồn từ đặc thù văn hóa và lịch sử của
mỗi nước”. Đúng là láo toét! Văn hóa và lịch sử Việtnam đâu có dậy kẻ
cầm quyền khủng bố đàn áp dân chúng, tước đoạt quyền tự do lựa chọn của
công dân, cướp đoạt tài sản đất đai của toàn dân, như bọn Việtcộng
đang làm hiện nay. Văn hóa dân tộc Việtnam lấy
Con Người làm cứu cánh, cho nên đã bao phen “bỏ đất giữ dân”, mở ra các
đợt di cư kỳ vĩ, cũng như các cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước kiêu
hùng để mưu tìm độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự cho giống nòi Lạc
Việt. Văn Hóa và Lịch Sử Việtnam đặt gía trị Con Người linh hơn Vạn
Vật. Chỉ có bọn Việtcộng mới hạ thấp giá trị Con Người xuống hàng Duy
Vật, nhằm cướp mất nhân quyền, hèn hoá toàn dân, bắt làm nô lệ cho bọn
cầm quyền. Rồi bọn cầm quyền lại làm tay sai cho các Đế Quốc Cộng Sản
đàn anh trước kia, và rồi hậu quả đến ngày nay đảng cộng sản và nhà cầm
quyền Việtnam vẫn đang bị bọn Bành Trướng Bắc Kinh khống chế, buộc
phải ngậm miệng để cho Trungcộng tiến chiếm Hoàngsa, Trườngsa và toàn
cõi Biển Đông.
Từ đó Trungcộng đã ngang nhiên xác định khu vực này là “vùng quyền lợi quốc gia thiết thân” của họ, như Đàiloan, Tâncương, Tâytạng. Khiến cho các nước ASEAN lần thứ 43 quyết định: “Mở rộng Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á, mời Hoakỳ và Nga tham gia. Đó là mong muốn tăng cường quan hệ với Washington và Moscow ”.
Tuy nghị trình của Diễn Đàn ARF vì có mặt của Dương Khiết Trì, bộ
trưởng ngoại giao Trungcộng nên không thấy nêu ra vấn đề ‘Tranh Chấp
Biển Đông’, nhưng trong cuộc họp
chính thức ngày 23/07 tại Hànội, ngoại trưởng Mỹ Clinton đã phát pháo
lệnh về Biển Đông. Bà nhấn mạnh đến quyền tự do lưu thông trên Biển
Đông. Với tư cách Ngoại Trưởng Hoakỳ, bà Hillary Clinton
tuyên bố: “Vì quyền lợi của quốc gia, Hoakỳ mong muốn thấy các quốc gia
liên quan đến vụ tranh chấp chủ quyền ở Hoàngsa và Trườngsa giải quyết
với nhau bằng đường lối ôn hòa, tôn trọng các điều khoản được ghi trong
công ước về biển và lãnh hải do Liên Hiệp Quốc soạn thảo”.
“Hoakỳ không ủng hộ bất kỳ tuyên bố chủ quyền quần đảo này của bất cứ
nước nào, nhưng khu vực Châu Á Thái Bình Dương gắn kết với nhau bằng
đường biển, do đó hòa bình và an ninh trên biển, cũng như an toàn hàng
hải là điều rất quan trọng”. Hiệp Hội các nước Đông Nam Á đã ra tuyên bố
chung là. “Vấn đề Biển Đông đã được các ngoại trưởng ASEAN đặc biệt
chú ý dành hẳn một phần riêng cho hồ sơ trong một thông cáo. Khẳng định
lại tầm quan trọng của Tuyên Bố Về Ứng Xử Của Các Bên Ở Biển Đông
-DOC- với tư cách một văn kiện mang tính cột mốc
giữa ASEAN và Trungquốc”. “Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
các bên tôn trọng tự do hàng hải và hàng không bên trên Biển Đông, như
đã được quy định trong các nguyên tắc đã được thừa nhận của luật pháp
quốc tế”.
Đến
đây thấy được rằng Hoakỳ và các nước Đông Nam Á hoàn toàn ủng hộ
“Chiến Lược Quốc Tế Hóa cuộc tranh chấp Biển Đông của Việtnam, bằng
cách lôi kéo nhiều nước khác nhập cuộc, buộc Trungcộng phải chấp nhận
đàm phán trong các diễn đàn đa phương, thay vì chủ trương nói chuyện
song phương của Trungcộng. Tại Hội nghị, Dương Khiết Trì bị rơi vào thế
đơn độc, đã yếu ớt nhắc lại rằng: “Tranh chấp không nên được quốc tế
hóa”. Có nghĩa là cứ để Trungcộng một mình tranh chấp với từng nước cho
dễ nuốt.
Sau
đó Dương Khiết Trì được Nông Đức Mạnh, tổng bí thứ đảng cộng sản
Việtnam tiếp kiến riêng và đưa ra những lời vuốt ve, hứa hẹn quen thuộc
của một tên đàn em thân tín. Bắckinh gay gắt cho là tuyên bố của ngoại trưởng Clinton về Biển Đông là tấn công nhằm vào Trungquốc.
Hai ngày sau khi ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nói: “Giải quyết vấn
đề Biển Đông là điều tối quan trọng cho ổn định khu vực” thì bộ trưởng
ngoại giao Trungcộng Dương Khiết Trì đưa ra lời cảnh báo có đoạn viết:
“Quốc tế hoá chủ đề này thì liệu mang lại được kết quả gì, hay chỉ
khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?”. Họ Dương nhấn
mạnh: “Các tuyên bố tưởng là công bằng của bà ngoại trưởng chính là để
tấn công vào Trungquốc”.
Lời
nói của nữ ngoại trưởng Clinton dứt khoát can dự vào Biển Đông, đi đôi
với lời tuyên bố của Đô đốc Mike Mullen, chủ tịch Ban Tham Mưu Liên
Quân Hoakỳ ngày 23/07/10, rằng: “Trungquốc đã đi theo đường lối ngày
càng hung hăng hơn trong vùng biển gần nước họ”, được hậu thuẫn bởi
hành động quân sự của bộ Quốc Phòng Mỹ bằng một cuộc tập trận chung
giữa Mỹ-Hàn, tại vùng biển Nhậtbản, gọi là “Tinh Thần Bất Khuất” khai
diễn đại quy mô. Huy động khoảng 20 tàu chiến, có hàng không mẫu hạm
USS George Washington, 200 chiến đấu cơ, có 4 phi cơ tiêm kích Raptor
F-22, với 8.000 binh sĩ.
Cả Hoa Thịnh Đốn và Hán Thành đều nhấn mạnh, cuộc tập trận kéo dài từ 25 đến 28/07/10 lần này là một thông điệp mạnh gửi tới nhà cầm quyền Bắc Triều Tiên. Lẽ
đương nhiên ngoài việc răn đe Hàncộng, cuộc tâp trận còn là sự dằn mặt
Trungcộng nữa. Vì Hàncộng từng lớn tiếng dọa sẽ tiến hành “chiến tranh
thần thánh” chống Mỹ và Nam Triền Tiên. Trungcộng thì tỏ dấu vui mừng,
đại ý cho rằng: Mỹ đưa hàng không mẩu hạm tối tân nhất lại gần để họ
dễ tiêu diệt. Tuy nhiên dù biết cả Bắc Hàn và Trungcộng chỉ đánh võ mồm
chứ chưa đủ sức tấn công trực diện với quân lực Mỹ.
Nhưng
khi Trungcộng loan báo từ 30/06 đến 05/07/10 tập trận tại Đông Hải,
thì Mỹ đã điều ba tàu ngầm cực tối tân tới các cảng ở châu Á. Tàu USS
Michigan tới Pusan Hànquốc, tàu USS Ohio tới Vịnh Subic Philippines, tàu
USS Florida tới Ấn Độ Dương. Tổng số tên lửa
của 3 tàu này lên tới 462 chiếc hỏa tiễn Tomahawk, đây là một hỏa lực
cực lớn, đủ khả năng làm tê liệt sức tấn công của đối thủ trước mắt.
Đến nay bộ quốc phòng Hànquốc cho biết chưa có dấu hiệu bất thường nào
từ phía đối phương.
Little Saigon ngày 27/07/2010 .
*
TRUNG QUỐC MUỐN DẠY MỸ MỘT BÀI HỌC
Trung Quốc lên mặt muốn dạy cho Mỹ một bài học
VIT
- "Mỹ cần phải thay đổi chính sách để thừa nhận vai trò của Trung
Quốc như một cường quốc lớn trên trường quốc tế nếu họ muốn tránh va
chạm và bất ổn!"- một tờ báo lớn của Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm 29/7
cho hay.
Bài
xã luận trên tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng
sản cầm quyền Trung Quốc, đã được đăng tải sau cuộc tranh cãi gần đây
nhất trong quan hệ Trung-Mỹ, về những gì Trung Quốc xem là sự can
thiệp vô lý của Mỹ đối với cuộc tranh chấp lãnh thổ tại biển Đông.
Trong khi các quan chức cao cấp, bao gồm cả Tổng thống Mỹ Barack Obama, cho biết họ hoan nghênh một nước Trung Quốc thịnh vượng và phát triển, thì lời nói tốt phải đi đôi với hành động, tờ báo cho biết.
"Nếu Mỹ không thể tìm được cách công nhận và chấp nhận việc Trung Quốc bước vào vũ đài thế giới với tư cách là một cường quốc, thì các mối quan hệ sẽ thay đổi lên xuống như hình chữ chi," bài báo nói.
"Sự bất ổn định này trong các mối quan hệ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với quan hệ song phương, mà còn đối với thế giới, và đó không phải điều mà mọi người muốn chứng kiến."
Bài báo cho biết, Tổng thống Obama đã khởi đầu rất tốt đẹp bằng chuyến thăm của ông tới Trung Quốc hồi năm ngoái, tuy nhiên, những tranh cãi về kế hoạch bán vũ khí cho Đài Loan của Mỹ, về Tập đoàn Google và về giá trị của đồng Nhân dân tệ đã cho thấy Mỹ không có sự thay đổi thực sự nào.
"Về vấn đề cùng tồn tại như thế nào với một Trung Quốc phát triển nhanh chóng, trong thực tế Washington đã không tính toán mọi việc theo một cách bình tĩnh."
Thật sai lầm khi cho rằng, như một số chuyên gia tại Mỹ tin tưởng, Trung Quốc sẽ linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề nhất định khi các mối quan hệ giữa hai nước được tăng cường, bài xã luận cho biết.
"Khi vấn đề cốt yếu của Trung Quốc đạt được sẽ không thể không có một phản ứng. Tình trạng của mối quan hệ Trung-Mỹ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoặc thậm chí là quyết định đến hòa bình và ổn định trên toàn cầu, đặc biệt là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương ... Các mối quan hệ tới một mức độ rộng lớn trong tương lai sẽ xoay quanh việc liệu Washington có thể kiểm soát được sức mạnh của họ hay không."
Phản ứng "cứng rắn" này của Trung Quốc xảy ra trong bối cảnh phía Đông Bắc Á đang có cuộc tập trận qui mô lớn của liên quân Mỹ-Hàn và phía Đông Nam Á vừa kết thúc diễn đàn các bộ trưởng ngoại giao ASEAN - ARF.
Một trong số các thành công lớn của ASEAN - ARF Hà Nội là các Bộ trưởng tham dự diễn đàn khẳng định ủng hộ việc triển khai hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC); và dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) hướng tới mục tiêu xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông trong tương lai.
Phát biểu tại tại diễn Đàn ASEAN - ARF ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ, bà Clinton, cho biết "Mỹ có những lợi ích quốc gia của mình trong việc giải quyết ổn thỏa các xung đột tại biển Đông."
Được biết, trong khoảng thời gian qua Trung Quốc đã thực thi chính sách hiếú chiến đánh chiếm và chiếm giữ bất hợp pháp nhiều đảo và vùng biển của các quốc gia trong khu vực. Song song với việc gia tăng sức mạnh quân sự và kinh tế mà tham vọng mở rộng lãnh hải của Trung quốc ngày càng tăng.
http://www.baomoi.com/Info/Trung-Quoc-len-mat-muon-day-cho-My-mot-bai-hoc/119/4631497.epi
Trong khi các quan chức cao cấp, bao gồm cả Tổng thống Mỹ Barack Obama, cho biết họ hoan nghênh một nước Trung Quốc thịnh vượng và phát triển, thì lời nói tốt phải đi đôi với hành động, tờ báo cho biết.
"Nếu Mỹ không thể tìm được cách công nhận và chấp nhận việc Trung Quốc bước vào vũ đài thế giới với tư cách là một cường quốc, thì các mối quan hệ sẽ thay đổi lên xuống như hình chữ chi," bài báo nói.
"Sự bất ổn định này trong các mối quan hệ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đối với quan hệ song phương, mà còn đối với thế giới, và đó không phải điều mà mọi người muốn chứng kiến."
Bài báo cho biết, Tổng thống Obama đã khởi đầu rất tốt đẹp bằng chuyến thăm của ông tới Trung Quốc hồi năm ngoái, tuy nhiên, những tranh cãi về kế hoạch bán vũ khí cho Đài Loan của Mỹ, về Tập đoàn Google và về giá trị của đồng Nhân dân tệ đã cho thấy Mỹ không có sự thay đổi thực sự nào.
"Về vấn đề cùng tồn tại như thế nào với một Trung Quốc phát triển nhanh chóng, trong thực tế Washington đã không tính toán mọi việc theo một cách bình tĩnh."
Thật sai lầm khi cho rằng, như một số chuyên gia tại Mỹ tin tưởng, Trung Quốc sẽ linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề nhất định khi các mối quan hệ giữa hai nước được tăng cường, bài xã luận cho biết.
"Khi vấn đề cốt yếu của Trung Quốc đạt được sẽ không thể không có một phản ứng. Tình trạng của mối quan hệ Trung-Mỹ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoặc thậm chí là quyết định đến hòa bình và ổn định trên toàn cầu, đặc biệt là ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương ... Các mối quan hệ tới một mức độ rộng lớn trong tương lai sẽ xoay quanh việc liệu Washington có thể kiểm soát được sức mạnh của họ hay không."
Phản ứng "cứng rắn" này của Trung Quốc xảy ra trong bối cảnh phía Đông Bắc Á đang có cuộc tập trận qui mô lớn của liên quân Mỹ-Hàn và phía Đông Nam Á vừa kết thúc diễn đàn các bộ trưởng ngoại giao ASEAN - ARF.
Một trong số các thành công lớn của ASEAN - ARF Hà Nội là các Bộ trưởng tham dự diễn đàn khẳng định ủng hộ việc triển khai hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC); và dựa trên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) hướng tới mục tiêu xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông trong tương lai.
Phát biểu tại tại diễn Đàn ASEAN - ARF ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ, bà Clinton, cho biết "Mỹ có những lợi ích quốc gia của mình trong việc giải quyết ổn thỏa các xung đột tại biển Đông."
Được biết, trong khoảng thời gian qua Trung Quốc đã thực thi chính sách hiếú chiến đánh chiếm và chiếm giữ bất hợp pháp nhiều đảo và vùng biển của các quốc gia trong khu vực. Song song với việc gia tăng sức mạnh quân sự và kinh tế mà tham vọng mở rộng lãnh hải của Trung quốc ngày càng tăng.
http://www.baomoi.com/Info/Trung-Quoc-len-mat-muon-day-cho-My-mot-bai-hoc/119/4631497.epi
DANIEL BLUMRENTHAL * TRUNG QUỐC & MỸ
ĐÀN CHIM VIỆT
Trái với hành vi gần đây của Trung Quốc, Washington vẫn còn mạnh hơn Bắc Kinh
Điều
gì đã xảy ra với “quyền lực mềm” được Trung Quốc hồ hởi và chính
sách ngoại giao “láng giềng tốt” mà chúng ta đã nghe nói khá nhiều
trong những năm gần đây? Quyền lực được Trung Quốc gọi là “mềm dẻo,”
lúc nào cũng là một cường điệu, đã bị chìm xuồng một cách nhanh chóng
trên hiện trường.
Trong
vài tháng qua, Trung Quốc đã từ chối ra mặt không mời Bộ trưởng Quốc
phòng Gates đến thăm Bắc Kinh; gọi Biển Đông/Nam Trung Quốc là một
“quyền lợi cốt lõi” (chẳng khác nào tuyên bố: Biển Đông này chính là
lãnh thổ của Trung Quốc); đe dọa trả đũa nếu Hoa Kỳ tiến hành việc bán
thêm F-16 cho Đài Loan; và từ chối không cả lên án Bắc Triều Tiên
trong vụ họ thẳng tay tàn sát 46 thủy thủ Nam Hàn.
Tại
sao lúc này người Trung Quốc lại nhào ra đánh loạn xạ như thế? Hai
lý do. Một là ngửi thấy mùi yếu kém của Mỹ, mà Obama có vẻ như bắt
đầu sửa chữa. Thứ hai, tất cả mọi chuyện không được êm xuôi bên trong
Trung Quốc.
Về lý do thứ nhất: Là
bậc thầy trong chuyện thao dợt điểm này, Đảng Cộng sản Trung Quốc
hiểu và nể sợ sức mạnh. Không phải là điều ngẫu nhiên mà quan hệ
Trung-Mỹ được ổn định, và nhiều lúc thậm chí khả quan, trong khi Tổng
thống Bush cân bằng quyền lực của Trung Quốc bằng cách nâng cấp quan
hệ với Nhật Bản, bán vũ khí cho Đài Loan, và phát triển quan hệ đối
tác chiến lược với Ấn Độ.
Tổng
thống Obama tiếp cận Trung Quốc một cách khác, thường tránh sự cân
bằng quyền lực chính trị và cố tìm cách nhân nhượng để tránh không
bới lông tìm vết với Bắc Kinh. Ví dụ, mối quan hệ của Mỹ với Ấn Độ đã
không được coi là một phần quan trọng của sự cân bằng quyền lực ở
Châu Á, vi phạm nhân quyền của Trung Quốc được bỏ qua, và chính quyền
Obama cố trì hoãn chuyện bán vũ khí cần thiết cho Đài Loan hay gặp
gỡ với Đức Đạt Lai Lạt Ma càng lâu càng tốt. Trong khi Obama cho rằng
những động thái như thế giúp tăng cường quan hệ đối tác với Bắc
Kinh, thì Trung Quốc đã chồm lấy cơ hội để dứt chỉ những hành vi mà
họ cho là khó chịu của Mỹ như hội đàm với lãnh đạo tâm linh của Tây
Tạng hoặc giúp Đài Loan tự vệ.
Cộng
thêm vào các chính sách sai lầm này, Nhật Bản lại kinh qua những bất
ổn chính trị riêng của mình, cũng chẳng phải do lỗi của Tổng thống
Obama, vì thế không ở trong tư thế giúp duy trì sự cân bằng quyền lực.
Một
cách dễ hiểu, Bắc Kinh đã nhận ra một chính phủ Hoa Kỳ có thể hiếp
đáp được nên muốn yêu sách hơn nữa. Hiện giờ Trung quốc đang đánh mạnh
vào yếu huyệt, đòi Mỹ chấm dứt chuyện bán vũ khí cho Đài Loan và
tuyên bố Biển Đông là một ao hồ của Trung Quốc.
Các
vấn đề đa tạp trong nội bộ của Trung Quốc cũng là một nguyên nhân
đưa đến sự hiếu chiến của Trung Quốc. Với sự thừa kế chính trị vào
năm 2012 sắp tới, bao gồm cán bộ đảng không có bất kỳ một quan hệ nào
với các cuộc cách mạng cộng sản đang tranh giành vai trò lãnh đạo,
Bộ Chính trị đã có mọi lý do để lo lắng. Tình trạng dân tình bất ổn
càng ngày càng mang nhiều chất chính trị, có tổ chức và tinh vi hơn,
như nhiều công nhân nhập cư đã làm việc ở nhiều nơi khác nhau, và đã
chứng kiến sự bất bình đẳng và bất công trên cả nước (xem bài báo gần
đây của Minxin Pei trong tạp chí The Diplomat/Nhà ngoại giao).
Có
thể là Quân đội Giải phóng Quốc dân và những người Trung hoa quốc
gia có tinh thần chống Mỹ nhận thấy một thời cơ chín muồi để đặt áp
lực lên hệ thống chính trị và đòi hỏi chính phủ họ phải có những biện
pháp “cứng rắn” hơn. Điều người ta nghe được từ một người Trung Quốc
là, “chúng tôi đang mạnh và sẽ không chịu thụ động được nữa.” Chịu
hay thụ động “chuyện gì”, ta có thể đoán nằm trong vụ bán vũ khí cho
Đài Loan và hoạt động quân sự của Hoa Kỳ trong phạm vi Trung Quốc.
Chính
quyền Obama dường như đã nhận được thông điệp. Họ đã bán một số vũ
khí cần thiết cho Đài Loan. Bộ trưởng Gates đã không ấp úng với ngôn
từ khi nói về quyền lợi của Hoa Kỳ và lợi ích của liên minh ở Biển
Đông/Nam Trung Hoa và chính quyền dường như đang tiến hành vụ thao tác
chiến tranh chống tàu ngầm với Nam Triều Tiên mặc dù kêu gào chống
đối từ Trung Quốc.
Washington vẫn
còn con bài mạnh để chơi. Trung Quốc đang tăng trưởng mạnh mẽ hơn,
nhưng với những chuyện đấm ngực xưng hùng, sức mạnh họ vẫn bị lu mờ
trước lực lượng của Hoa Kỳ và các đồng minh ở Á châu. Và không ai
trong số các đồng minh châu Á của chúng ta lại muốn có một Trung Quốc
giữ vai thống trị. Thật vậy, một trong những câu chuyện chưa được kể
ở châu Á là sự hiện đại hóa quân sự trong vùng. Hầu như tất cả các
đồng minh của chúng ta đang mua các phản lực tác chiến tiên tiến (chủ
yếu là F-35), khả năng giám sát hàng hải, và tàu ngầm diesel – để
đối phó với một Trung Quốc đang lên. Tình thế đã chín muồi để chúng
ta bắt đầu tạo một mạng lưới liên minh bán chính thức nhằm hoạt động
chặt chẽ với nhau hơn, đặc biệt kể từ khi đa số những gì các đồng
minh của chúng ta mua là thiết bị của Mỹ. Washington nên bắt đầu
thiết lập các định chế ngày nay cho phép các đồng minh tập luyện với
nhau trên phản lực cơ tác chiến thuộc thế hệ thứ năm của họ, tuần tra
Biển Đông, và truy lùng các tàu ngầm. Hay là thông báo việc chế tạo
một “trung tâm xuất sắc” cho phản lực cơ tác chiến thuộc thế hệ thứ
năm tại Singapore, nơi mà tất cả các đồng minh có thể thao tác?
Vấn
đề là chúng ta vẫn còn một cơ hội để trình bày với Trung Quốc với sự
một lựa chọn: cư xử như một cường quốc có trách nhiệm hoặc phải đối
đầu với một lực lượng chống đối lớn. Một tin lành là có rất nhiều
người Trung Quốc đang muốn chọn điều thứ nhất.
© Thái Anh chuyển ngữ
Nguồn: Daniel Blumenthal
http://shadow.foreignpolicy.com/posts/2010/07/21/contrary_to_china_s_recent_behavior_washington_is_still_stronger_than_beijingcontrary_to_china_s_recenhttp://www.danchimviet.com/archives/14613*
Saturday, July 31, 2010
VOA * CỘNG SẢN VIỆT NAM BẮT CÓC TỐNG TIỀN
Chuyện Có Thật 100%
Trịnh Hội
Thứ Bảy, 31 tháng 7 2010
Hình: Getty Images/iStockphoto
Chia sẻ
Tin liên hệ
Đối với dân Úc hay hầu hết những ai đã có dịp sang Úc có lẽ tất cả đều biết Qantas là hãng hàng không quốc gia lớn nhất của Úc và cũng là một trong những hãng hàng không an toàn, hiện đại nhất thế giới. Không những nó là niềm hãnh diện của cả quốc gia mà chính hãng Qantas cũng luôn tự hào là từ khi được thành lập vào năm 1920 cho đến nay, chưa có bất kỳ một chiếc máy bay Qantas nào đang bay lại bị… rớt.
Hãnh diện là thế. Tự hào là thế.
Vậy mà theo bài báo có một điều ít ai ở Úc được biết đó là trong năm vừa qua, hãng Qantas đã bị làm tiền ở Việt Nam rất nhiều lần mà không ai dám nói ra, kể cả những giám đốc hiện đang điều hành Qantas. Đặc biệt hơn là hai giám đốc Daniela Marsilli và Tristan Freeman vừa được Việt Nam cho phép trở về Úc sau hơn 6 tháng bị cấm không được rời khỏi Việt Nam. Mặc dù họ chưa bao giờ bị truy tố, gán ghép vào bất cứ tội gì trong suốt thời gian bị công an liên tục hù dọa và tra hỏi.
Từ lúc họ được thả ra cho đến nay không một ai dám lên tiếng hoặc trả lời phỏng vấn của các báo chí Úc. Thế mới lạ.
Theo bài báo cho biết nguyên nhân của vụ này liên quan đến việc vào năm 2007 hãng Qantas đồng ý mua 18% cổ phần của hãng máy bay Pacific Airlines mà sau này đã được đổi tên thành Jetstar Pacific là hãng hàng không lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ đứng sau Vietnam Airlines.
Dĩ nhiên ở Việt Nam đa số các công ty lớn hoặc liên quan đến những lĩnh vực quan trọng như truyền thông, vận tải, v.v… đều do chính phủ nắm giữ thông qua các công ty quốc doanh được thành lập và trực tiếp quản lý. Hãng Jetstar Pacific vì thế cũng không phải là một ngoại lệ vì ông chủ thật sự của hãng là Bộ Tài chính đầy quyền lực.
Vào giữa năm 2008 khi giá xăng bất chợt tăng lên một cách chóng mặt trên toàn thế giới, hãng Jetstar Pacific đã đồng ý ký hợp đồng cam kết với đối tác sẽ mua xăng với giá là $135/thùng cho đến giữa năm 2009 vì theo nhận định của các chuyên gia vào thời điểm đó, giá xăng có thể lên đến $200/thùng.
Nhưng rất tiếc chỉ vài tháng sau giá xăng đã bị tụt một cách khủng khiếp từ $135/thùng xuống chỉ còn $50/thùng, báo hại hãng Jetstar Pacific đã bị lỗ đến 31 triệu đô chỉ riêng cho khoản này.
Đây là một tổn thất khá to lớn cho một hãng máy bay nội địa. Nhưng nếu điều này xảy ra ở một nước có đầy đủ pháp quyền thì thật ra cũng chẳng có điều gì đáng nói. Chuyện làm ăn lỗ lã ai cũng biết là chuyện thường tình ở huyện. Bất quá thì đem nhau ra toà kiện cáo chứ không bao giờ liên quan đến nhà nước và… công an.
Nhưng ở Việt Nam thì khác. Không những Tổng Giám Đốc CEO Lương Hoài Nam bị cho vào tù không biết ngày nào ra mà ngay cả công dân Úc chính cống thứ thiệt cũng bị bắt giữ lại không cho bay về nước mà không cần bất kỳ một trát tòa nào. Hay lệnh tống giam nào. Kể cả không được thuê mướn luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Và theo bài báo cho biết mãi cho đến tháng trước, khi cả hai giám đốc Qantas bị chính một tướng công an buộc phải nhận trách nhiệm cho khoản lỗ này thì họ mới được phép bay về lại Úc.
Bởi vậy tác giả mới đặt tựa đề cho bài báo là “Qantas held to ransom in Vietnam”.
Trông người lại nghĩ đến ta. Trong hai lần về Việt Nam làm việc, mỗi lần cách nhau đúng 10 năm, tôi cũng đã phải trải qua những kinh nghiệm tương tự như thế. Không biết là bây giờ tôi có nên kể ra đây để các bạn cùng thưởng thức không nhỉ?
Bảo đảm toàn là chuyện có thật 100%, không hấp dẫn không ăn tiền.
Chúc các bạn một kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ.
*
RFA * HOA KỲ THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO
Hoa Kỳ thay đổi chính sách ở Đông Nam Á
Ngọc Trân, thông tín viên RFA
2010-07-31
Qua các tuyên bố của bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, trong chuyến thăm châu Á hồi tháng 7 vừa qua cũng như tham dự hội nghị Diễn đàn An ninh Khu vực Asean tại Việt Nam, ngoài các phát biểu được nhiều người quan tâm như: nêu lên ý kiến giúp các nước trong khu vực giải quyết về vấn đề Biển Đông, có lẽ chúng ta còn nhận thấy có sự thay đổi lớn trong chính sách của Mỹ dành cho Đông Nam Á qua phát biểu của bà Clinton.
Photo courtesy of US Embassy/Minh Ngo
Chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á đã thay đổi ra
sao? Mời quý vị cùng Thông tín viên Ngọc Trân tìm hiểu thêm.
Chương mới trong quan hệ Mỹ - Đông Nam Á
Quan
hệ giữa Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã thay đổi, có lẽ bắt đầu kể từ tháng 7
năm ngoái, trong chuyến viếng thăm của bà Hillary Clinton, Ngoại
trưởng Hoa Kỳ, đến Đông Nam Á và tham dự Diễn đàn An ninh Khu vực ở
Thái Lan, nơi đó bà đã tuyên bố với các nước Asean rằng: “Chúng tôi trở lại”.
Tuyên
bố này của bà Clinton có thể sẽ đi vào lịch sử ngoại giao của nước Mỹ
bởi vì đây là một tín hiệu cho thấy, rõ ràng là Mỹ đang tìm cách thách
thức sự ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Và
tuyên bố này có lẽ cũng với mục đích đáp trả lại các mối lo ngại về sự
bành trướng của Trung Quốc, có khả năng gây bất ổn lớn trong khu vực,
nhất là trên Biển Đông.
Cũng
xin nhắc thêm để thính giả hiểu, dưới thời Tổng thống George W. Bush,
do Hoa Kỳ bận rộn với chủ nghĩa khủng bố, và hai cuộc chiến Iraq và
Afghanistan, cho nên khu vực Đông Nam Á gần như đã bị bỏ quên. Bà
Condoleezza Rice, Ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George W.
Bush đã không quan tâm nhiều đến khu vực này. Bà Rice đã vài lần không
tham gia Hội nghị thượng đỉnh Asean, cho nên khi bà Hillary Clinton tham
dự các cuộc họp với khối Asean kể từ hồi năm ngoái, có ý nghĩa rất
quan trọng đối với các nước Đông Nam Á.
Qua
việc ký hiệp ước nói trên và tuyên bố sẽ trở lại Đông Nam Á, Hoa Kỳ
muốn nhắn nhủ rằng, họ sẽ ở bên cạnh các nước Asean để đương đầu với các
thử thách mà hai bên sẽ phải đối mặt.
Sau
chuyến thăm của bà Clinton, ngày 16 tháng 11 năm ngoái, Tổng thống
Obama cũng đã đến Singapore tham dự Hội nghị Các lãnh đạo (Leaders
Meeting) Hoa Kỳ và Asean. Đây là lần đầu tiên ông Obama gặp lãnh đạo của
mười nước Đông Nam Á, và hai bên cũng đã thảo luận các cam kết cụ thể
của chính phủ Hoa Kỳ dành cho khu vực này. Sự xuất hiện của Tổng thống
Obama tại Hội nghị Các lãnh đạo Asean - Mỹ, cho thấy sự hiện diện của
Hoa Kỳ ở khu vực Đông Nam Á ngày càng rõ hơn.
Tăng cường quan hệ hơn nữa
“Tại Hội nghị các Bộ
trưởng Asean năm ngoái, tôi đã thông báo Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á và
đã cam kết sẽ làm việc với các nước Asean để nâng cao lợi ích và các
giá trị mà chúng ta chia sẻ. Kể từ đó, chúng ta đã đạt được nhiều tiến
triển và hôm nay tôi xin nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm việc với
từng nước thành viên ASEAN để thúc đẩy quan hệ đối tác giữa các quốc
gia.”
Hoa Kỳ quyết định
tăng cường hợp tác với các nước Asean có lẽ do hai bên đều được lợi
trong mối quan hệ hợp tác này, Asean được lợi qua việc hợp tác với một
siêu cường thế giới, do Hoa Kỳ có thể giúp các nước Đông Nam Á cân bằng
quan hệ với Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ cũng được nhiều lợi thế khi
tham gia với các đối tác đa dạng dưới một tổ chức như Asean, ở một khu
vực giàu tài nguyên và có nhiều tiềm năng phát triển, cho dù vẫn còn
phải đối mặt với các thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường. Bà
Clinton nói tiếp:
Hoa Kỳ cam kết làm việc với các bạn để đem lại hòa bình, thịnh vượng, an ninh và cơ hội nhiều hơn cho tất cả mọi người dân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.NT Hillary Clinton
“Người
dân Mỹ nhận ra rằng khu vực này quan trọng đối với tất cả các nước
châu Á, với Mỹ và quan trọng đối với thế giới, và chúng ta cũng biết
rằng chúng ta có nhiều mục tiêu cùng chia sẻ. Chúng tôi muốn Đông Nam Á
giữ vững kinh tế mạnh mẽ và độc lập. Chúng tôi tin rằng người dân Đông
Nam Á được quyền hưởng hòa bình, ổn định khu vực và quyền con người,
và chúng tôi sẽ làm việc với các bạn để cải thiện cơ hội kinh tế và
giáo dục để thanh niên có cơ hội cạnh tranh thành công trên thị trường
toàn cầu.
Ngày nay,
khoảng cách giữa các dân tộc và các quốc gia bị thu hẹp lại. Chúng tôi
nhận thấy chúng ta đoàn kết xung quanh các mối quan tâm chung và chúng
tôi thấy rằng công nghệ mới cho chúng ta nhiều cơ hội làm việc hơn
trong quan hệ đối tác và hợp tác với nhau”.
Để kết thúc bài này, chúng tôi xin mượn lời cam kết của bà Clinton dành cho các nước Đông Nam Á như sau:“Hoa
Kỳ cam kết làm việc với các bạn để đem lại hòa bình, thịnh vượng, an
ninh và cơ hội nhiều hơn cho tất cả mọi người dân ở khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Để làm được điều đó, chúng tôi cần sự giúp đỡ của các
bạn. Chúng tôi mong được làm việc với các bạn”.
Theo dòng thời sự:
- Hy vọng mới cho vấn đề biển Đông
- Mỹ thách thức Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông?
- Ngoại trưởng Hillary Clinton phát biểu tại Hội nghị cấp Ngoại trưởng ASEAN – Mỹ
- Trung Quốc lên án phát biểu về chủ quyền ở biển Đông của NT Hillary Clinton
- Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc giải quyết vấn đề lãnh hải trước quốc tế
- Trung Quốc cảnh báo Hoa Kỳ trên hồ sơ Biển Đông
- Mỹ cam kết hỗ trợ các nước tiểu vùng sông Mekong
- Mỹ sẽ giúp 14 triệu đô-la cho các nước hạ vùng Mekong
- Kết thúc hội nghị đối thoại Mỹ - Trung tại Bắc Kinh
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Us-changes-its-policy-in-south-east-asia-ntran-07312010095928.html
*
MAI THANH TRUYẾT * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC VIỆT NAM
Âm mưu tiến chiếm Việt Nam của Trung Cộng
Mai Thanh Truyết
Trong suốt quá trình lịch sử, Trung cộng đã từng đô hộ Việt Nam. Mãi
cho đến năm 939, Ngô Quyền mới dành lại nến tự chủ cho dân tộc. Kể từ
đó, TC vẫn sang xâm lăng nước ta nhiều lần nhưng lần nào cũng bị bẻ gảy.
Dấu vết của người lính TC lần sau cùng diễn ra trong một giai đoạn
ngắn ngũi. Đó là thời gian quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng
Long vào tháng 11 năm 1978. Chỉ hơn một tháng sau đó, quân binh của
Hoàng đế Quang Trung với chiến thuật thần tốc đã đuổi quân xâm lược
chạy có cờ… Từ đó đến nay, có thể nói, trên toàn cõi đất nước không
còn bóng dáng quân thù Bắc phương. Nhưng từ khi, CS Việt Nam dành công
đầu của tất cả đảng phài trong công cuộc giải phóng dân tộc dưới thời
thực dân Pháp, tuyên bố độc lập vào năm 1945, thêm một lần nữa bóng
dáng quân xâm lược lại bắt đầu xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
do CS Việt Nam yêu cầu. Và sự hiện diện của quân thù Bắc phương thực
sự hiện rõ nét kể từ ngày CS Việt Nam chiếm toàn thể đất nước vào ngày
30 tháng tư năm 1975.Đây là lý do chính để Trung Cộng đã và đang chuyển mình tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn để cho tư bản TC định cư cùng với những ảnh hưởng chính trị và quân sự để thực hiện mộng bá quyền nước lớn và thôn tính vùng Đông Nam Á cùng biển Đông. Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế giới.
Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là một mãnh đất béo bở cho tài phiệt TC đầu tư vì: - Nhân công còn quá rẻ, ngay cả đối với nhân công TC vốn dĩ đã quá rẻ mạt; - Chi phí cho việc bảo vệ môi trường không bị đòi hỏi gắt gao như ở TC hiện tại; - Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập cảng đều được dễ dàng vì cung cách quản lý địa phương ở Việt Nam dễ bị mua chuộc.
Từ 3 yếu tố trên, Việt Nam đối với TC có thể được ví như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ trong lãnh vực đầu tư và sản xuất. Thêm một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho các nhà đầu tư TC di chuyển xuống Việt Nam là TC tìm thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước của họ, một đất nước đang chuyển mình từ từ và đang từ bỏ chủ thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường tự do đầy hấp dẫn.
Còn về tâm lý chung của hai dân tộc, có nhiều điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dãi trong thủ tục hành chánh. Hãy nghe Zou Qinghai, Chủ tịch phòng Thương mãi Triết Giang tuyên bố:” Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công việc.
Cách thức phát triển của Việt Nam chỉ đơn giản là một bản sao của Trung Cộng”. Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của TC chính thức vào Việt Nam tương đối còn khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên quan đến những đối tác Hồng Kông thì mức thẩm thấu vào Việt Nam có thể lên đến 3,7 tỷ.
Và thương mãi hai chiều dự kiến trong năm 2009 là trên 10 tỷ Mỹ kim. Các công ty TC chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. TC đã ký thoả thuận trong việc thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm thủ đô Hà Nội vào tháng 10, 2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho TC vì hai quốc gia đã ký hiệp ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, TC có thể chuyển ngành dệt sang VN để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản phẩm nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu. Từ quyết định giao khoán cho TC khai thác cao nguyên Trung phần Việt Nam qua các công trình quặng mõ bauxite, chúng ta có thể hình dung được âm mưu hay kế hoạch của TC (và của cả Việt Nam, vì cả hai thiết nghĩ đều cùng nhìn chung một chiến lược của cộng sản toàn cầu) .
Đó là việc khống chế vùng Đông Nam Á châu trong tương lai. Việc nầy đã được TC (hay có cả Việt Nam) tính toán từ lâu qua những công trình quốc tế trong vùng từ hơn 10 năm qua. Chiến lược xâm chiếm Việt Nam của Trung Cộng Chúng ta thử hình dung các mắc xích có thể kết nối bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận.
Đó là: 1- Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn,
2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Quảng Trị,
3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất,
4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy,
5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh, Côn Minh và Hà Nội,
6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau,
7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Tây nguyên (Cao nguyên).
Công trình xây dựng xa lộ Đông Trường Sơn:
Từ năm 2001, cựu Thủ tướng Việt Nam cộng sản Võ Văn Kiệt đã ra lịnh bằng mọi giá phải xây dựng xa lộ Trường Sơn nối liền Bắc Nam dọc theo biện giiới Việt Miên Lào, huy động hàng trăm ngàn thanh niên xung phong thời bấy giờ. Theo quan điểm chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường Sơn sẽ không còn là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như lãnh đạo Việt Nam biện minh cho việc xây dựng nầy, vì với vũ khí tối tân hiện tại, sẽ không có việc di chuyển vũ khí và quân đội bằng đường bộ qua kinh nghiệm hai trận chiến ở Iraq và Afganistan.
Thiết nghĩ đây là con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng không hẳn để áp dụng cho Việt Nam vì trong suốt chiều dài của xa lộ là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dã. Như vậy mục tiêu chính phải chăng là nhắm tới một mục tiêu bí mật nhằm giải quyết huyết lộ vận chuyển hàng hoá hai chiều ở miền Tây Trung Cộng ra hải ngoại. Thử hỏi, Quốc lộ I, con đường huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp vì nhu cầu giao thông và phát triển cho Việt Nam, nhất là từ Quảng Trị trở ra Bắc nhưng tại sao không được lưu tâm đến? Ngoài con đường trên, theo nguồn tin mới nhất vừa nhận được là Trung Cộng đã hoàn tất công trình tu sửa và mở rộng quốc lộ 13 nối liền Bắc Nam của Lào vào cuối năm 2008 để khai thông đường Tây Trường Sơn. Hiện TC cũng đang tu sửa và mở rộng quốc lộ 7 dự trù hoàn tất vào năm 2010 xuyên Cambodia từ Nam Lào đến hải cảng Sihanoukville ở vịnh Thái Lan. Cả hai dự án nầy là do viện trợ không bồi hoàn của TC.
Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để khai thông một huyết mạch mới đông tây từ Thái Lan ra biển Đông nối liền Quảng Trị và thành phố Tchepone và tiếp tục nối liền thành phố Sawannakhet của Lào. Có được con đường nầy, hàng hoá hai chiều của TC có thể được chuyển vận bằng đường sông và đường bộ để tiếp cận với các quốc gia khác qua biển Đông. Ngoài ra, từ Sawannakhet đã được tiếp nối qua sông Cửu Long và kéo dài đến hải cảng phiá tây của Thái Lan là Mawlamyine.
Như vậy, từ nay, những tỉnh phía Tây TC đặc biệt là tỉnh Vân Nam, trung tâm công nghệ hoá chất hàng đầu, đều nối liền ra ba cửa ngõ Thái Bình Dương và vịnh Thái Lan ở Việt Nam, Cambodia, và Tây Thái Lan để trao đổi xuất nhập cảng với thế giới bên ngoài. Về nhà máy lọc dầu Dung Quất: Tuy vùng nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí vào vùng đất phía Tây Nam của TC, thay vì phải chuyển vận từ Thượng Hải, Hong Kong bằng đường bộ rất tốn kém?
Có phải, chính vì các lý do trên, mà Việt Nam phải chấp nhận mọi tốn kém để xây dựng nhà máy Dung Quất dù cho tư bản Pháp và Liên bang Nga đã rút ra khỏi dự án từ ban đầu. Và công trình quốc tế thứ tư là trục vớt đá ngầm cùng nới sâu lòng sông Cửu Long từ năm 2004 qua việc thõa thuận giữa TC, Thái và Lào không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa có trọng tải lớn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Quốc), Thái, Lào, và Việt Nam, và giao thương với thế giới.
Vân Nam là một tỉnh sản xuất hoá chất hàng đầu của Trung Quốc và nhu cầu dầu thô của tỉnh nầy hang ngày là 1 triệu thùng dầu. Do đó, nhu cầu vận chuyển nguyên liệu nhập cảng và xuất cảng thành phẩm ra ngoại quốc là một nhu cầu chính yếu. Thế giới đã bắt đầu kêu gọi “hãy cứu dòng sông Mekong” qua hiểm hoạ tràn dầu khi hai chuyến tàu dầu đầu tiên nhận dầu từ Trung Đông qua cảng Chiang Ray của Thái Lan và điểm đến là vùng phía Nam tỉnh Vân Nam (Yunnang) ngày 29 tháng 12, 2008. Thiết lập thiết lộ và xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội: Song song với việc trên, một thiết lộ cũng đã được khai thác và nối liền hai thành phố nầy.
Việc xây dựng hoàn toàn do nhân viên và chuyển viên Trung Quốc đãm nhiệm, cũng như bề ngang của đường xe hỏa dựa theo tiêu chuẩn Trung Quốc; vì vậy, xe hỏa Việt Nam không thể sử dụng được. Hiện tại, chúng ta chỉ thấy các toa xe hoàn toàn mang bản hiệu chữ Tàu mà thôi. Phải chăng, thiết lộ nầy ngoài nhu cầu phục vụ các dịch vụ giao thương kinh tế giữa hai nước hay còn một ẩn dụ nào khác? Đó là con đường tháo chạy an toàn cho lãnh đạo Việt Nam hiện tại, mỗi khi có biến động lớn ở Việt Nam? Thêm nữa, việc thiết lập xa lộ nối liền Côn Minh (Kunming) – Hà Nội- Hải Phòng và Nam Ninh (Nanning) – Lạng Sơn – Hà Nội. Với mắc xích nầy, chúng ta cũng có thể hình dung được âm mưu của TC trong việc ảnh hưởng lên kinh tế-chính trị-quân sự của Việt Nam qua việc hình thành các con đường chiến lược kể trên.
Việc miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận Mũi Cà Mau: Mãi cho đến tháng 11, 2008, người Trung hoa được tự do đi lại, không cần hộ chiểu chỉ ở các tỉnh miền Bắc. Sau ngày trên, người Trung hoa có thể đi lại vào tận cao nguyên thậm chí đến Cà Mau không cần xin hộ chiếu. Quyết định nầy là một lợi khí lớn cho Trung Cộng để chuyển vận hàng hoá và thực phẩm, và nhân công dân sự hay quân sự (?) chính thức hay không chính thức xâm nhập vào tận miền Nam bằng đường bộ. Người “công nhân” TC không phải đã định cư ờ Nhân Cơ hay Tân Rai, mà họ đã có mặt ở khắp miền đất nước từ Bắc chí Nam.
Như tại Công ty Nhiệt điện Quảng Ninh đã có trên 4.000 công nhân và chuyên viên cư ngụ ở một khu vực hoàn toàn biệt lập có cổng rào riêng và được canh gát cẩn mật do bảo vệ cũng là người Hoa. Tương tợ như ở Công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng với trên 2000 công nhân, Công ty than Nông Sơn đã có trên 100 và dự trù vào tháng 6 tới đây sẽ tăng cường thêm 500 nữa. Thậm chí Công ty Điện Đạm Cà Mau cũng đã có trên 1.000. Việt Nam đang đứng trước nạn khủng hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp trầm trọng; theo con số chính thức đã có trên 1 triệu công nhân thất nghiệp đặc biệt là hai khu chế xuất Đồng Nai và Sông Bé…
Thế mà cũng đã có hàng ngàn công nhân nhập lậu (không có giấy phép lao động) làm việc trong các hảng xưởng do người Tàu làm chủ theo tin tức của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai. Chính Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương binh mới vừa công bố là không có công nhân “không có giấy phép làm việc” và các công ty đều theo đúung thủ tục của Luật Lao động. Xin thưa, Luật Lao động có ghi rõ là mọi công nhân hay chuyên viên nước ngoài đều phải xin giấy phép và công ty thuê mướn phải chứng minh là loại công việc trên là cần thiết và được Bộ Lao động cung cấp giấy phép lao động. Xin hỏi các công nhân làm việc trên hai công trường Tân Rai và Nhân Cơ như cất nhà, làm đường xá, làm mặt bằng, hay đào các hố rãnh v.v…
Đây có phải là những việc người công nhân Việt Nam không có khà năng làm không? Và mắc xích sau cùng và có thể là cuối cùng chính là việc Cộng sản Việt Nam cúi đầu chấp nhận cho TC đem nhân sự và máy móc cày xới mãnh đất thân yêu vùng Cao nguyên Trung phần như đã nói ở phần trên. Xin thưa, Cao nguyên Trung phần Việt nam năm 1975 có số cư dân là 1,4 triệu, và năm 2008 đã tăng lến đấn 4 triệu.
Xuyên qua bảy cản ngại đã phân tích ở phần trên để lý giải cho việc phát triển không đồng bộ đưa đến tình trạng bế tắc hiện tại của Việt Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến trình tòan cầu hóa trên thế giới, Việt Nam đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó không còn đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và xin-cho, để rồi cuối rồi cũng đi theo …bảng chỉ đường của Trung Cộng mà thôi. Điểm thứ tám chúng tôi muốn trang trãi ra đây là một sự nhượng bộ gần như không điều kiện gần đây nhất của Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng. Theo tin Tân hoa xã ngày 7 tháng 3, 2009 vừa qua, NTDũng đã phê chuẩn một kế hoạch đầu tư trên 50 tỷ Mỹ kim để phát triển vành đay kinh tế dọc theo duyên hải miền Bắc. Kế hoạch nầy dự trù thực hiện cho đến năm 2020 với ngân khoản đầu tư 100% của TC nhằm biến các tỉnh ở vùng nầy thành khu kinh tế trọng điểm hoàn toàn do TC chủ động từ công nhân, chuyên viên, thiết bị, thậm chí đến công nhân dịch vụ như làm vệ sinh, nấu nướng, bảo vệ v.v… cũng do người Trung hoa đãm nhiệm. Các dự án kể trên đều là những dự án gây ra ô nhiễm trầm trọng như dự án luyện gang, sắt, thép, than đá, xi măng, phân bón, xây dựng, hoá chất.
Tuy các doanh nghiệp bản địa cũng có khả năng thực thi dự án, nhưng hầu như tất cả đều vào tay của doanh nghiệp Trung Cộng trúng thầu! Còn một điểm cần phải nêu ra đây là, kể từ sau tiếng sứng nổ ra ở biên giới Việt – Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó mà vẫn tiếp tục dai dẳng dọc theo biên giới mãi cho đến 1988 mới thực sự chấm dứt qua sự quy phục hầu như hoàn toàn của CS Việt Nam. Kết quả là hiệp ước biên giới được ký kết với tất cả thiệt thòi về phía Việt Nam như: - Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải 280 mét; - Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch của TC; - Quan trọng hơn hết là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới tới tận tỉnh Quảng Đông.
Người Tày có khuynh hướng than TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ 5 của TC ở Việt Nam. Và người Tày chiếm trên 10% dân số của Quảng Đông. Đây có thể là một nguy cơ lớn và Bắc Việt có thể lọt vào tay TC một khi cuộc chiến xảy ra ngay sau đó? Âm mưu Hán hoá Cao nguyên miền Nam Qua những phân tích vừa nêu trên, chúng ta có thể hình dung một viễn ảnh khá rõ ràng là Trung Cộng đã thể hiện nhiều dấu hiệu chứng tỏ âm mưu thôn tính vùng đất trù phú của Việt Nam, và vùng đất nầy cũng là cột xương sống nối liền Bắc Nam. Một khi chiếm lĩnh vùng nầy dù dưới hình thức nào đi nữa, TC sẽ nắm trọn khả năng khống chế Việt Nam. Hiện tại, TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm ở cao nguyên Bolloven bên Lào, bên Cambodia, và “nhập nhằng” tóm gọn hai dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một tiến sĩ người Chăm cổ suý.
Nhóm nầy cũng được sự hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng Cao nguyên hiện tại đã được các hội thiện nguyện Hoa Kỳ yểm trợ dưới danh nghĩa DEGA. Theo tin tức được loan tải trên mạng, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên hiệp Quốc công nhận qua Department Of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế Tham Mưu (consultative status) kể từ năm 2009 nầy.
Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến hồ sơ lên Liên Hiệp Quốc và Thuỵ Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ Lưu vong Chăm (The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung Việt Nam, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Theo như dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các chính phủ. Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay “lông lá” của TC mới có thể thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm.
Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu dự định đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TC), nơi có một cộng đồng thiểu số Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang định cư tị nạn tại đây để chạy loạn vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân chúng Chăm năm 988 (theo Georges Maspero trong quyển sách Le Royaume de Champa). Nhưng sau đó, để tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, trụ sở hiện tại là P.O. Box 122, SE-33523 Gnosjo, Sweden, nơi có một tiến sĩ người Chăm định cư để tạo danh nghĩa nhằm gây áp lực với Việt Nam cộng sản khi cần thiết.
Một trụ sở tạm của chính phủ trên cũng đặt tại P.O. Box 1635, Phnom Penh 12000, Cambodia. Câu hỏi được đặt ra là TC giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì? Câu trả lời giản dị sẽ là, TC muốn hoàn toàn khống chế Việt Nam trong lãnh vực kinh tế-quân sụ-chính trị qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần. Nắm được cao nguyên nầy, TC sẽ biến vùng nầy thành một vùng “lệ thuộc” như miền đất Tây Tạng năm 1959. Đã nắm được yết hầu của Việt Nam rồi, mặc nhiên TC có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của Việt Nam trong mọi tình huống. Và biết đâu trong một tương lai không xa sau đó, Việt Nam có thể sẽ là một tỉnh “lẽ” Quảng Nam, tiếp theo tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của TC??
Nếu viễn ảnh trên đây trở thành một sự thật thì rõ ràng, điều nầy sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt. Chúng ta phải làm gì trước chiến lược đen tối của Trung Cộng?
Như vậy, một lần nữa, sự kiện mới nhất trên đây đã cho chúng ta thấy thêm rõ nét là CS Việt Nam qua Bộ chính trị đã hiến dâng toàn lãnh thổ Việt Nam cho Trung Cộng là một hiện thực. Chúng ta phải làm gì trước chiến lược đen tối của Trung Cộng với sự đồng lõa của cộng sản Việt Nam? Câu hỏi được đặt ra là: Có phải đây là vấn đề “phải đoàn kết lại” để chống “Trung Cộng”?
Câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi con dân Việt dù ở quốc nội hay hải ngoại. Đứng trước việc khai thác quặng mõ bauxite trên, Việt Nam cộng sản trong một “chiêu thức “ khác, qua tác động của những nhóm, hội đoàn ngoại vi… đã khơi dậy lòng yêu nước của người Việt khắp nơi trong đó có cả người Việt hải ngoại cùng nhau “đoàn kết” lại để “chống Trung Quốc”. Đây là một chiêu thức độc đáo làm cho một số người Việt hải ngoại có thể “siêu lòng” trước những lời chiêu dụ trên. Xin đừng quên, 84 triệu con dân Việt (trừ bớt số lượng đảng viên đảng cộng sản) đang còn chịu đựng ách thống trị hà khắc của một chế độ chuyên chính và độc tài, bóp nghẹt tất cả mọi khát vọng tự do dân chủ của người dân.
Do đó, chúng ta cần phải cảnh giác để khỏi vướng vào vòng kim cô của Nghị quyết 36. Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta phải nhắm vào hai mặt có tính cách quyết định: - Thứ nhất, tiếp tục vận động và phối hợp với những nhà dân chủ trong nước, chuyển tải các tin tức cập nhật về dân chủ, nhân quyền trên thế giới ngõ hầu cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. - Thứ hai, kêu gọi sự yểm trợ của thế giới tự do qua chiến lược cụ thể của Trung Cộng nhằm tiến chiếm Việt Nam dưới một hình thức “thực dân” mới, nghĩa là không cần động binh để chiếm đóng như ngày xưa nữa.
Còn đối với hành động xâm lược của TC, theo nghiên cứu của Alexander Vuving thuộc Trung Tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta, người Việt hải ngoại cần phổ biến rộng rãi cho thế giới thấy rõ những nhược điểm của TC là tình trạng phát triển quốc gia không ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hoá và không bảo vệ môi trường tạo ra sự ô nhiễm ngày càng trầm trọng không những cho đất nước TC mà còn ảnh hưởng lây lan trên toàn thê giới. Thêm nữa, việc vận động thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Tây Âu, tẩy chay hàng hoá xuất cảng từ TC vì các sản phẩm nầy vì không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm hay có chứa hoá chất độc hại ảnh hưởng lên sức khoẻ con người.
Những việc nầy cần phải thực hiện cùng một lúc và việc cần phải làm chính yếu là nỗ lực vận động để thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam phải được xem là ưu tiên hàng đầu. Thay lời kết Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng. Cao nguyên Trung phần là yếu huyệt của Việt Nam, không thể đưa cho ai khai thác, vì đây là một vị trí địa dư rất quan trọng và nhạy cảm trong lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, và xã hội.
Việt Nam đã mất lợi điểm ở phương Bắc qua trận chiến 1979 và các hiệp ước song phương Trung-Việt ô nhục về việc cấm mốc biên giới cụ thể là cột mốc số 1116 nằm ở phía Nam của Ải Nam Quan và cách Ải 280 thước tây đã được chính thức cầm vào cuối tháng 12/2008. Và thác Bản Giốc cùng Hoàng Sa đã trở thành một địa điểm du lịch của …Trung Quốc cũng như TC đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt Nam mời gọi người Việt đi thăm tụ điểm du lịch nầy. Quả thật mỉa mai! Một đất nước đã được cha ông vun bồi từ ngàn năm trước, để rồi ngày nay con cháu Việt lại bán dâng cho ngoại bang. Về sườn phía Đông, Việt Nam đã mất biển Đông do việc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa để thành lập huyện Tam Sa thuộc TC.
Về sườn phía Tây của Việt Nam là Lào và Cambodia đã được TC kiểm soát qua quốc lộ Bắc Nam 13 xuyên Lào, và quốc lộ Bắc Nam 7 xuyên Cambodia xuống tận cảng Sihanoukville. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn bị bao vây tứ phía, và nếu ngày hôm nay TC kiểm soát được cao nguyên Trung phần, mãnh đất đã được cựu Hoàng Bảo Đại quyết định là Hoàng triều cương thổ, thì chỉ cần một thời gian ngắn, TC có thể tiến chiếm toàn cõi Việt Nam hay xé Việt Nam ra thành nhiều mãnh tuỳ theo chiến lược Nam tiến của họ.
Một phần các nhận định trên đã được tạp chí Foreign Affairs bình luận từ năm 2005, và chúng tôi cũng đã trình bày sơ lược trước nhóm think tank thuộc American Enterprise Institute (AEI) ở quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 12, 2005. Lòng dân Việt Nam đã hoàn toàn không đứng về một phía với đảng Cộng sản Việt Nam, làm sao họ có khả năng huy động Hội nghị Diên Hồng như dưới thời Trần Hưng Đạo, dưới thế nước tràn đầy tình đoàn kết dân tộc “thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh, hy sinh”. TC đã từng “lý luận tương đồng, vận mệnh tương quan” với Việt Nam cộng sản qua 8 chữ vàng trên. Thử hỏi, làm sao Việt Nam có thể cưỡng lại kế hoạch Nam tiến của TC là tiến chiếm Việt Nam và toàn cõi Đông Nam Á.
Và dĩ nhiên CS VIỆT NAM sẽ không còn quyền lực nào trong việc quản lý đất nước và sẽ trở thành bù nhìn trước các quan thái thú TC dày xéo đất nước của ông cha để lại, giống như dưới thời Tô Định ngày xưa. Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều do cộng sản TC điều khiển từ xa; Việt Nam hoàn toàn không còn khà năng quyết định vận mệnh của đất nước nếu không có sự “góp ý” hay nói trắng ra là là phải làm theo mệnh lệnh của TC mà thôi. Và việc khai thác quặng mõ bauxite ở cao nguyên phải chăng là chiến lược sau cùng của TC và Việt Nam cộng sản cùng cấu kết với nhau để TC có điều kiện khống chế toàn vùng Đông Nam Á, thực hiện chính sách Đại Đông Á của TC?
Chúng ta phải làm gì, hởi những người Việt yêu nước ở quốc nội và hải ngoại? Đã đến lúc Việt Nam cần phải thay đổi, và thay đổi theo trào lưu dân chủ trên thế giới. Đã đến lúc, cộng sản Việt Nam phải cáo chung, vì những việc làm sai trái trong quá khứ và gần đây nhất là việc chấp nhận hay đồng lõa với Trung Cộng để cho hàng ngàn quân nhân dưới dạng công nhân xâm nhập và khai thác nguồn tài nguyên phong phú còn lại của Việt Nam, vùng Cao nguyên Trung phần và nhiều nơi khác ở Việt Nam.
www.thegioi-song.com/JUN/ammuu.doc
Nơi đây có nhiều chỉ dấu cho thấy, đó là âm mưu Hán hoá dân tộc và biến mãnh đất nầy thành một Tây Tạng thứ hai với sự đồng thuận hay tiếp tay của Cộng sản Việt Nam. Cầu mong cho tất cả chúng ta, những người còn ưu tư đến sự hưng vong của quê hương được chân cứng đá mềm để vượt qua giai đoạn vô cùng xấu của đất nước kể từ thời dựng nước đến nay. Đất Nước và Dân Tộc là hai thành tố không thể tách rời được và mãi mãi trường tồn. Chế độ chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn mà thôi. Và một khi, chế độ đi ngược lại với quyền lợi của Dân Tộc, thế nào rồi cũng bị đào thải và tiêu diệt. Mai Thanh Truyết Nhóm Nghiên cứu Việt Nam 19/6/2009
CHU CHỈ NAM * MỸ & TRUNG CỘNG
*
«Chúng
ta đã chiến thắng Chiến tranh Lạnh.» Và chỉ hơn một năm
sau, vào đầu năm 1991, thì đế quốc cộng sản Liên sô sụp đổ, khi ông
Gorbatchev từ chức Chủ tịch Liên bang Liên Sô. Ngày hôm
nay, có người cho rằng cuộc tranh hùng tư bản-cộng sản lại tái diễn,
qua cuộc tranh hùng Mỹ-Trung. Có phải thế không? Nếu phải,
thì ai sẽ thắng ai?
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề và đưa ra một vài tiên đóan. Một cách đại lược, chúng ta có thể nói là Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay từ sau khi Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) chấm dứt. Theo báo chí và những sử gia, thì ông Paul Nitzé, Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ H. Truman, khi họp Hội nghị Potsdam từ ngày 17/7 tới ngày 2/8/1945, đã mang theo quyển Trại Súc Vật (Animal Farm), của nhà văn hào Anh G. Orwells, làm quyển sách gối đầu giường, và ông đã lấy những ý trong quyển sách này làm Chính Sách Be Bờ.
Theo
ông, cộng sản như những loài súc vật, nếu chúng ta đương đầu với
chúng lúc chúng đang hăng, thì không thể được, mà cần phải kiên nhẫn
đợi chờ, be bở để ngăn chặn, cho tới khi cộng sản súc vật cắn quái lẫn
nhau, vì nhiều lý do, trong đó có lý do vì cộng sản súc vật là tiểu
nhân, «Đồng nhi bất hòa», trái ngược với người quân tử «Hòa nhi bất
đồng», theo lời Khổng Tử. Thêm vào đó có lý do vì Súc vật cộng sản
không biết làm kinh tế, sau đó vì tranh nhau ăn nên cắn quái nhau
trong nội bộ, trong những nước cộng sản.
Chính sách Be Bờ được gói ghém trong Chỉ thị mang tên số 68 của Hội Đồng An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, và đã được những nhà chính khách, ngoại giao coi như kim chỉ nam cho chiến lược ngoại giao Hoa Kỳ, suốt trong thời gian Chiến Tranh Lạnh. Trái với những điều nhiều người tin tưởng, cho rằng Hoa Kỳ là một anh cao bồi, thích dùng quân sự hơn là chính trị, nếu chúng ta xét gần là trong thời gian Chiến tranh Lạnh, và xa là từ đầu thế kỷ 20 với Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918), thì Hoa Kỳ không «cao bồi, thich giải pháp quân sự», như nhiều người lầm tưởng, mà Hoa Kỳ rất chính trị, đã tỏ ra là «người giỏi trong những người giỏi» «Khuất phục được quân người, nhưng không làm quân người tan, lấy được thành người, nhưng không làm thành người vỡ, chiếm được nước người, nhưng không làm nước người bể», theo như Binh Thư Tôn Tử nói.
Thật vậy, không ai chối cãi là 1 thế kỷ nay Hoa Kỳ, bằng cách này hay cách khác đã thắng 3 cuộc chiến lớn: Đệ Nhất, Đệ Nhị và Chiến tranh Lạnh; và đã thủ lợi trong cả 3 cuộc chiến này, đã hạ thủ 2 đế quốc Anh, Pháp và sau này là Liên Sô. Không ai chối cãi là hiện nay cường quốc có thể thách thức vai trò độc tôn của Hoa Kỳ là Trung Cộng. Một điều không thể chối cãi nữa là Hoa Kỳ bằng bất cứ giá nào phải bảo vệ, duy trì vai trò độc tôn của mình, như tất cả những quốc gia ở vào địa vị đó đều làm. Từ đó tất nhiên có cuộc tranh hùng giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ. Tuy nhiên cuộc tranh hùng này sẽ diễn ra như thế nào ; bằng chính trị, bằng kinh tế hay bằng quân sự hoặc cả 3 hay cả 2 cùng một lúc?
Đây
là một cái nhìn phiếm diện và lầm lẫn đi vào chỗ Trung cộng tự kỷ
trung tâm. Nếu chúng ta xét kỹ, thì mặc dầu tổng sản lượng
quốc gia cao, vì dân số đông, chứ sản lượng tính theo đầu người của
Trung Cộng mới là 4.170$, bằng 1/11 Hoa kỳ với 47.920$, bằng 1/10 hay
1/9 Nhật bản với 40.440$; và tất nhiên là còn thua nhiều nước khác.
Paris ngày 12/05/2 010
Chu chi Nam
Xin xem them phần Chiến lược ngoại giao của Hoa kỳ và Chiến tranh lạnh, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
*
CUỘC TRANH HÙNG MỸ - TRUNG hay CUỘC TRANH HÙNG TƯ BẢN - CỘNG SẢN TÁI DIỄN AI THẮNG AI?
ông Paul Nitzé
|
Cuộc
tranh hùng tư bản - cộng sản, chủ yếu là giữa Mỹ và Liên sô, trong
thời gian Chiến tranh Lạnh, bắt đầu từ sau Đại Chiến thứ Nhì cho tới
cuối năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thì nhà chiến lược Hoa
Kỳ, ông Paul Nitzé, cha đẻ của Chính sách Be bờ (Containment Policy),
lúc đó đang là Trưởng Phái đoàn về vấn đề Tài giảm binh bị Mỹ-Liên Sô
ở Genève, đã tuyên bố:
Gorbatchev
|
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề và đưa ra một vài tiên đóan. Một cách đại lược, chúng ta có thể nói là Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay từ sau khi Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) chấm dứt. Theo báo chí và những sử gia, thì ông Paul Nitzé, Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ H. Truman, khi họp Hội nghị Potsdam từ ngày 17/7 tới ngày 2/8/1945, đã mang theo quyển Trại Súc Vật (Animal Farm), của nhà văn hào Anh G. Orwells, làm quyển sách gối đầu giường, và ông đã lấy những ý trong quyển sách này làm Chính Sách Be Bờ.
nhà văn hào Anh G. Orwells
|
Chính sách Be Bờ được gói ghém trong Chỉ thị mang tên số 68 của Hội Đồng An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, và đã được những nhà chính khách, ngoại giao coi như kim chỉ nam cho chiến lược ngoại giao Hoa Kỳ, suốt trong thời gian Chiến Tranh Lạnh. Trái với những điều nhiều người tin tưởng, cho rằng Hoa Kỳ là một anh cao bồi, thích dùng quân sự hơn là chính trị, nếu chúng ta xét gần là trong thời gian Chiến tranh Lạnh, và xa là từ đầu thế kỷ 20 với Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918), thì Hoa Kỳ không «cao bồi, thich giải pháp quân sự», như nhiều người lầm tưởng, mà Hoa Kỳ rất chính trị, đã tỏ ra là «người giỏi trong những người giỏi» «Khuất phục được quân người, nhưng không làm quân người tan, lấy được thành người, nhưng không làm thành người vỡ, chiếm được nước người, nhưng không làm nước người bể», theo như Binh Thư Tôn Tử nói.
Thật vậy, không ai chối cãi là 1 thế kỷ nay Hoa Kỳ, bằng cách này hay cách khác đã thắng 3 cuộc chiến lớn: Đệ Nhất, Đệ Nhị và Chiến tranh Lạnh; và đã thủ lợi trong cả 3 cuộc chiến này, đã hạ thủ 2 đế quốc Anh, Pháp và sau này là Liên Sô. Không ai chối cãi là hiện nay cường quốc có thể thách thức vai trò độc tôn của Hoa Kỳ là Trung Cộng. Một điều không thể chối cãi nữa là Hoa Kỳ bằng bất cứ giá nào phải bảo vệ, duy trì vai trò độc tôn của mình, như tất cả những quốc gia ở vào địa vị đó đều làm. Từ đó tất nhiên có cuộc tranh hùng giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ. Tuy nhiên cuộc tranh hùng này sẽ diễn ra như thế nào ; bằng chính trị, bằng kinh tế hay bằng quân sự hoặc cả 3 hay cả 2 cùng một lúc?
Như
trên đã nói Hoa Kỳ, trái với nhiều người nghĩ, họ rất chính trị, họ
đặt ưu tiên cho giải pháp chính trị, sau đó mới đến kinh tế và thứ ba
mới đến quân sự, cũng như Tôn Tử đã nói: «Thứ nhất công tâm, thứ nhì
công lương, thứ ba mới công thành.» Việc này người Hoa Kỳ đã
làm từ lâu. Họ đã làm với Liên Sô và Đông Âu, ngày hôm nay
họ tái diễn với Việt Nam và Trung Cộng. Thật vậy, khi ký Hiệp
Ước Bình Thường hóa quân hệ kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ, ông Bill Clinton đã tuyên bố : «Những Hiệp ước bình
thường hóa kinh tế và thương mại giữa Hoa Kỳ và những nước Đông Âu đã
giúp cho các dân tộc này tìm thấy được mô hình tổ chức xã hội dân
chủ, tự do và kinh tế thị trường.
Tôi hy vọng rằng Hiệp ước Bình thường hóa kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa kỳ cũng giúp dân tộc Việt Nam tìm thấy được mô hình tổ chức xã hộ dân chủ, tự do và kinh tế thị trường như các dân tộc Đông Âu.» Mặc dầu là đệ nhất cường quốc, nhưng giới lãnh đạo Hoa Kỳ biết rất rõ là nếu Trung Cộng và Việt Nam theo như Bắc Hàn và Cu Ba, áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, thì Hoa Kỳ cũng không thể làm gì.
Vì vậy giai đoạn đầu là phải dụ Trung Cộng và Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường, biến kinh tế từ kinh tế quốc doanh, kinh tế không tương thuộc ‘économie autarcique‘, thành kinh tế thị trường, vùng này lệ thuộc vùng kia, ngành này lệ thuộc ngành kia, kinh tế tiền tệ, ngân hàng; và nếu trong tương lai, nếu có một cuộc khủng khỏang tài chánh, thì sẽ kéo theo khủng hỏang kinh tế, tới khủng hỏang xã hội, rồi mới tới khủng hoảng chính trị. Và từ đó mới có cơ để thay đổi mô hình tổ chức xã hội độc tài qua mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tự do và kinh tế thị trường.
Tôi hy vọng rằng Hiệp ước Bình thường hóa kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa kỳ cũng giúp dân tộc Việt Nam tìm thấy được mô hình tổ chức xã hộ dân chủ, tự do và kinh tế thị trường như các dân tộc Đông Âu.» Mặc dầu là đệ nhất cường quốc, nhưng giới lãnh đạo Hoa Kỳ biết rất rõ là nếu Trung Cộng và Việt Nam theo như Bắc Hàn và Cu Ba, áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, thì Hoa Kỳ cũng không thể làm gì.
Vì vậy giai đoạn đầu là phải dụ Trung Cộng và Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường, biến kinh tế từ kinh tế quốc doanh, kinh tế không tương thuộc ‘économie autarcique‘, thành kinh tế thị trường, vùng này lệ thuộc vùng kia, ngành này lệ thuộc ngành kia, kinh tế tiền tệ, ngân hàng; và nếu trong tương lai, nếu có một cuộc khủng khỏang tài chánh, thì sẽ kéo theo khủng hỏang kinh tế, tới khủng hỏang xã hội, rồi mới tới khủng hoảng chính trị. Và từ đó mới có cơ để thay đổi mô hình tổ chức xã hội độc tài qua mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tự do và kinh tế thị trường.
Tất
nhiên trong thời gian chiêu dụ này, thì có những ưu đãi, những hiệp
thương kinh tế, đàu tư, làm cho kinh tế Trung Cộng phát triển. Cũng
từ đó có nhiều người tin rằng ngày hôm nay kinh tế Trung Cộng đã trở
thành kinh tế thứ nhì trên thế giới với tổng sản lượng là 5.588 tỷ $,
đứng sau Hoa kỳ là 14.840 tỷ, trên Nhật với 5.128 tỷ $, đã trở thành
chủ nợ lớn nhất của Hoa kỳ trên dưới 800 tỷ; Trung cộng có thể đánh
bại kinh tế Hoa Kỳ và thế giới.
Thêm vào đó Trung cộng đã phải trả một giá rất đắt về vấn đề
phát triển. Đó là xã hội trở nên vô cùng bất công : bất công giữa
những vùng phát triển ven biển và những vùng trong lục địa, bất công
giữa người dân, người thì quá giàu, phần lớn là con ông cháu cha và
công chức cao cấp và đại đa số dân thì quá nghèo. Dân bất mãn nổi lên ở
mọi nơi, hàng năm có cả hàng 100.000 vụ nổi dậy, có những vụ xô sát
đưa đến cả trăm người chết và cả ngàn người bị thương. Người dân bị
bóc lột tận xương tủy bởi những ông tân tư bản đỏ cộng sản và những
ông tư bản trắng từ nước ngoài. Thêm vào đó có nạn ô nhiễm môi sinh,
môi trường, 70% sông ngòi của Việt Nam và Trung Cộng bị ô nhiễm.
Tất
cả những yếu tố trên sẽ làm cho người Hoa Kỳ khai thác tối đa để ép
chính quyền Trung Cộng thay đổi mô hình tổ chức xã hội; nếu không thì
sẽ có một cuộc nổi dậy chính trong lòng chế độ. Người Hoa Kỳ chưa
cần đến giải pháp quân sự. Tuy nhiên là một đại cường quốc, những nhà
chiến lược Hoa Kỳ phải tiên đóan tất cả những khả thế có thể xẩy ra,
từ khả thế tốt nhất là thay đổi Trung Cộng bằng chính trị, sau đó mới
tới kinh tế và cuối cùng mới tới quân sự. Chính Tôn Ngô
Binh pháp, phần Ngô tử, có đoạn:
“Có
4 điều bất hòa: bất hòa trong nước thì không thể ra quân; bất
hòa trong quân thì không thể ra trận; bất hòa trong trận thì không
thể tiến chiến; bất hòa trong chiến thì không thể quyết thắng… Ngô
Khởi còn viết thêm: “Nếu làm không hợp đạo, động không hợp
nghĩa, thì ở lớn, ngồi sang, tai nạn tất cũng sẽ đến. Cho nên thánh
nhân yên bằng đạo, trị bằng nghĩa, động bằng lễ, nuôi bằng nhân…”
“Phàm cái khởi binh có 5: một là tranh danh; hai là tranh lợi;
ba là tích ác; bốn là nội loạn; năm là nhân đói.” Ngày hôm nay
ai cũng biết xã hội Trung cộng là một xã hội vô cùng bất công, nhiều
vùng bị nghèo đói, dân bất mãn nổi lên ở khắp nơi. Nếu
Trung cộng gây chiến là nằm trong 5 lý do trên. Nhưng bất
hòa trong nước mà ra quân, thì phần Trung Cộng chiến thắng Hoa Kỳ rất
là mỏng manh; ngược lại, lại có nhiều phần thua.
Chu chi Nam
Xin xem them phần Chiến lược ngoại giao của Hoa kỳ và Chiến tranh lạnh, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/
*
TẠP CHÍ PHÁP LUẬT * KINH TẾ TRUNG QUỐC
Người Trung Quốc nói gì về “Mô hình Trung Quốc”?
Cục trưởng Cục Thống kê Trung Quốc nói: “Dù GDP Trung
Quốc xếp thứ mấy trên thế giới đi nữa nhưng GDP bình quân đầu người
vẫn xếp thứ hạng sau 100. Tình hình cơ bản của Trung Quốc vẫn là người
đông, vốn mỏng, tương đối thiếu tài nguyên, lắm người nghèo”.Ngày 21-1-2010, Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc công bố GDP năm 2009 của nước này tăng 8,7% so với năm 2008, đạt 33.535,3 tỉ nhân dân tệ.
Tính theo tỷ giá hối đoái 1 nhân dân tệ = 0,1466 USD thì con số ấy tương đương 4.916,275 tỉ USD.
Theo
số liệu của IMF, 10 nước lớn kinh tế năm 2008 là Mỹ, Nhật, Trung
Quốc, Đức, Pháp, Anh, Ý, Nga, Tây Ban Nha và Brazil. Ngành thống kê
Trung Quốc cho biết: vì gần đây đồng Yen Nhật tăng giá so với USD, cho
nên kinh tế Trung Quốc năm 2009 chưa vượt Nhật nhưng năm 2010 (vượt
Nhật) thì “không có vấn đề.”
Một công ty tư vấn
Pháp dự kiến sớm nhất tới năm 2020 kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, năm
2030 vượt xa Mỹ; khi ấy 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ là Trung
Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật, Brazil, Nga, Đức, Mexico, Pháp và Anh; tỷ lệ
của các nước trong GDP toàn cầu là: Mỹ 16%, EU 15%, Trung Quốc 19%, Ấn
Độ 9%.
Ngày 24-1 Jim O’Neill chuyên viên trưởng
kinh tế của Goldman Sachs Group Inc. nói trong năm nay Trung Quốc có
thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sớm 1 năm so với dự
kiến trước đây. Ông nói: với tốc độ tăng trưởng 8,3%, tới năm 2020 quy
mô kinh tế Trung Quốc sẽ gấp 3 hiện nay.
Rõ ràng sự trỗi dậy mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc đã trở thành hiện thực trước mắt toàn thế giới. Tạp chí Forbes (Mỹ) số ra ngày 15-12-2009 viết “Trung Quốc đã là siêu cường”.
Dư luận quốc tế bắt đầu bàn luận ồn ào về Mô hình kinh tế Trung Quốc.
Các nước đang phát triển mong muốn từ mô hình đó tìm được con đường
phát triển của mình; các nước giàu cũng muốn tham khảo các kinh nghiệm
bổ ích của Trung Quốc để giúp cho sự phục hồi kinh tế của họ.
Mới
đây Joshua Cooper Ramo đăng trên cơ quan ngôn luận của một nhóm
chuyên gia cố vấn nổi tiếng Anh Quốc là Trung tâm chính sách ngoại
giao Luân Đôn bài viết có tên Nhận thức chung Bắc Kinh (The Beijing Consensus), tuyên truyền rùm beng về cái gọi là Mô hình Trung Quốc,
cho rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua mô hình này đã “cứu
thế giới” ra khỏi cơn suy thoái kinh tế. Thậm chí báo Anh The Guardian còn gọi năm 2008 là Năm mô hình Trung Quốc.
Nhà
chính trị học nổi tiếng Francis Fukuyama, tác giả cuốn Hồi kết của
lịch sử (The End of History and the Last Man, 1992) – trong đó ông từng
quả quyết “Mô hình Mỹ ưu việt hơn bất cứ mô hình nào khác” – nhưng
năm 2009 khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nhật lại nói: “Trong gần 30
năm nay sự phát triển nhanh chóng kỳ lạ của kinh tế Trung Quốc đã thể
hiện tính hữu hiệu của Mô hình Trung Quốc,
nhìn chung người ta cho rằng Trung Quốc có khả năng tiếp tục tăng
trưởng 30 năm nữa. Hiện thực khách quan chứng tỏ dân chủ tự do của
phương Tây không phải là hồi kết của lịch sử tiến hoá của nhân loại.
Cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, cái gọi là thuyết Hồi kết của lịch
sử cần được cân nhắc lại và hoàn thiện thêm. Kho tàng tư tưởng của
nhân loại cần dành một chỗ cho truyền thống của Trung Quốc.”
Báo Washington Post ngày 14-11-2009 cũng đăng bài với đầu đề Người Trung Quốc đang thay đổi chúng ta.
Tóm
lại dường như các nước phương Tây tràn đầy niềm hy vọng đối với Trung
Quốc. Có điều niềm hy vọng ấy không đơn giản chút nào.
Dư luận Trung Quốc cũng rất phấn khởi đưa tin thế giới xôn xao ca ngợi mô hình phát triển kinh tế của nước họ. Tuy vậy, theo Quảng Châu nhật báo,
nhiều người đã nhanh chóng nhận ra động cơ sâu xa tại sao phương Tây
lại làm rùm beng vấn đề Mô hình kinh tế Trung Quốc – đó là họ muốn
Trung Quốc phải gánh vác trách nhiệm vượt quá năng lực của mình. Nói
trắng ra, cách phương Tây tâng bốc “Mô hình Trung Quốc” chẳng qua là để làm hại Trung Quốc mà thôi – tờ Quảng Châu nhật báo viết.
Tổng
thống Obama từng nói trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2009: “Mỹ không
theo đuổi việc kiềm chế Trung Quốc, ngược lại, Trung Quốc lớn mạnh
phồn vinh có thể trở thành một lực lượng của cộng đồng quốc tế.” Có
thể từ câu nói này suy ra ông Obama yêu cầu Trung Quốc cần có đóng góp
tương xứng với vai trò một lực lượng của cộng đồng quốc tế.
Đồng thời báo chí phương Tây bắt đầu bàn tán ầm ỹ cái gọi là mô hình “G2”,
tức liên kết kinh tế My-Trung Quốc, cho rằng thế giới đã tiến sang
thời đại “Trung Quốc-Mỹ cùng thống trị toàn cầu”. Theo logic của họ,
một khi Trung Quốc đã ngang hàng với Mỹ thì nước này nên gánh vác nhiều
‘trách nhiệm” hơn đối với thế giới.
Thí dụ khái niệm G2
được nêu lên tại 2 cuộc họp G20 trong năm 2009, sau đó lại được tiếp
tục đề cập tới trong hội nghị thượng đỉnh khí hậu Copenhagen. Có người
nói Mỹ và Trung Quốc chiếm 40% lượng khí thải gây nên hiệu ứng nhà
kính toàn cầu, nếu hai nước này không có cam kết cụ thể thì hội nghị
Copenhagen rất khó đạt được bất cứ thoả thuận nào. Nghĩa là phương Tây
muốn trên vấn đề biến đổi khí hậu, Trung Quốc phải cùng gánh vác trách
nhiệm như Mỹ. Người Trung Quốc cho rằng, đòi hỏi như vậy là không hợp
lý, vì họ đã không xét tới việc Trung Quốc chỉ là nước đang phát
triển, khác với Mỹ là nước đã phát triển; một nước đang phát triển
đang mở mang kinh tế thì dĩ nhiên cần thải khí nhiều hơn.
Báo Nhật Mainichi
ngày 3-8-2009 có bài viết dưới đầu đề “Kế tâng bốc để diệt Trung
Quốc”. Bài báo viết: Chủ tịch Uỷ ban Kinh tế Mỹ (National Economic
Council) Lawrence Summers mới đây nói: “Mỹ không còn là đầu tàu kinh tế
thế giới nữa”, ngụ ý nhường vai trò đó cho Trung Quốc, nhưng đây chỉ
là kế sách tạm thời của Mỹ nhằm để tâng bốc mà làm hại Trung Quốc. 20
năm trước Mỹ cũng dùng cách tâng bốc Nhật là Số Một thế giới để hại
Nhật, kết quả chỉ sau vài năm kinh tế bong bóng của Nhật tan vỡ, rơi
vào tình trạng trì trệ lâu dài.
Một chuyên gia
tại Brookings Institution phân tích phương Tây muốn Trung Quốc gánh vác
“trách nhiệm quốc tế” trên 3 mặt: Thứ nhất, trách nhiệm về kinh tế và
vật chất; họ nói Trung Quốc nay giàu rồi nên góp công góp của cho các
vấn đề quốc tế. Thí dụ Ngân hàng Thế giới (WB) nói Trung Quốc đã
không còn là nước cần được quốc tế cho vay nữa. Thứ hai, trách nhiệm
mở cửa thị trường tài chính, Trung Quốc cần bãi bỏ sự kiểm soát thị
trường này để các công ty nước ngoài tham gia thị trường tài chính
Trung Quốc, một thí dụ là phương Tây ép Trung Quốc nâng giá đồng nhân
dân tệ. Thứ ba, trách nhiệm về đạo nghĩa, Trung Quốc cần tăng đóng góp
tài chính cho cộng đồng quốc tế, cho các tổ chức quốc tế.
Quảng Châu nhật báo cho
rằng tình hình Trung Quốc hiện nay rất giống Nhật trước đây. Sau 2
thập niên tăng trưởng cao, nửa cuối thập niên 80, kinh tế Nhật tiến vào
thời kỳ phồn vinh chưa từng thấy. Năm 1985, Nhật trở thành nước chủ
nợ lớn nhất thế giới, còn nước Mỹ sau 70 năm là chủ nợ nay lại là con
nợ. Ngày ấy dư luận phương Tây bàn tán om xòm về Huyền thoại Nhật Bản. Năm 1979, cuốn Nhật Bản là Số Một (Japan As No. 1) của Ezrra Vogel xuất bản làm chấn động dư luận thế giới. Trong cuốn Thuật luyện đan tài chính (The Alchemy of Finance, 1988), George Soros tuyên bố: sức mạnh kinh tế tài chính đang chuyển từ Mỹ sang Nhật.
Thập
kỷ 80, tư bản Nhật thừa đô la tranh nhau mua bất động sản tại Mỹ.
Nhiều người Mỹ lo sẽ có ngày Nhật mua hết cả nước mình. Thực ra doanh
nhân Nhật còn thiếu kinh nghiệm đầu tư ở nước ngoài. Trên thực tế họ đã
mù quáng mua lại nhiều công ty cũng như bất động sản của Mỹ.
Trong thời gian đàm phán Thỏa ước Plaza (Plaza
Accord) Nhật Bản quá tự tin đã chủ động đề xuất tăng giá trị đồng Yen
Nhật thêm 10%. Nhưng chính là việc ký thỏa ước đó (22-91985) làm cho
Nhật chỉ vài năm sau đã rơi vào cuộc suy thoái “10 năm mất mát”. Đồng
yên lên giá, đô la mất giá làm cho xuất khẩu của Nhật giảm sút, mặt
khác các bất động sản người Nhật tậu tại Mỹ tự nhiên mất giá, toàn bộ
sự phồn vinh kinh tế của Nhật nhanh chóng biến thành bong bóng xà
phòng. Một thí dụ: công ty Mitsubishi bỏ ra 1,4 tỉ USD mua Trung tâm
Rockefeller chưa được bao lâu phải bán lại cho chủ cũ với giá bằng một
nửa. Nhiều dự án đầu tư của Nhật tại Mỹ thất bại thảm hại.
Mãi
tới cuối 1989 chính phủ Nhật mới chú ý đến tính chất nghiêm trọng của
nền kinh tế bong bóng. Ngược lại, kinh tế Mỹ từ thập niên 90 bắt đầu
thoát ra khỏi sự trì trệ, tiến sang thời kỳ tăng trưởng nhanh liên tục
trong cả chục năm. Sau khi các bong bóng kinh tế nối nhau tan vỡ,
người Nhật mới tỉnh ngộ, suy nghĩ lại mọi chuyện. Nhiều chuyên gia
kinh tế Nhật đổ lỗi cho Thỏa ước Plaza, thậm chí cho rằng đó là âm mưu thâm hiểm của Mỹ.
Trung Quốc cần rút kinh nghiệm tránh giẫm lên vết xe đổ của Nhật Bản, chớ nên hoa mắt trước những lời tâng bốc ca ngợi Mô hình Trung Quốc của phương Tây – Quảng Châu nhật báo kết luận.
Theo Nguyên Hải (Nhân Dân điện tử)
*
LÊ VĂN XƯƠNG * TỘI ÁC CỦA TRUNG CỘNG
Tham vọng lấn chiếm thế giới của Tàu
Thời
kỳ trì hoãn chiến (hay chiến tranh gián chỉ, proxy war) giữa khối
Cộng Sản và Tự Do chấm dứt khi Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử vào tháng 4
năm 1975, để thế giới bước vào giai đoạn chuyển tiếp tức là lúc Liên
Xô can thiệp vào khắp nơi trên thế giới. Giai đoạn này báo hiệu sự cáo
chung của Liên Xô, nhưng cũng là một dấu hiệu chỉ ra thời kỳ mà Tàu
cộng chuyển qua sách lược xâm lấn các lân bang một cách có quy mô, hệ
thống ở khắp nơi. Do vậy, ta cần phải xem xét các điều đã và đang xảy
ra đối với các lân bang của Tàu. Năm 1978 khi Liên Xô tung nhân lực,
tài lực và vật lực để can thiệp vào nhiều vùng trên thế giới nhằm gắng
sức đánh sập Mỹ và Phương Tây, nhưng Liên Xô đã trúng kế Mỹ một cách
thảm thương vì tài nguyên của Liên Xô có giới hạn, kinh tế của Liên Xô
lại èo uột và sự hiểu biết của Liên Xô về thế giới quá nghèo nàn và
một chiều, trong khi Trung cộng lại ngả hẳn sang phía Mỹ thì mọi cố
gắng của Liên Xô coi như vô vọng. Do đó, sự tan rã của Liên Xô chỉ còn
là vấn đề của thời gian.
Ðể
thưởng công cho Trung cộng, Phương Tây và Mỹ đã giúp Bắc Kinh về kinh
tế, kỹ thuật (cả Phương Tây-Mỹ và Trung cộng đều có ý đồ trong sự trợ
giúp này, sẽ bàn vào một dịp khác khi thời gian cho phép) và chính
trị (giúp Trung cộng có 1 chân trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc).
Như thế, Trung cộng yên hàn với Phương Tây-Mỹ khi Liên Xô tan rã.
Trung cộng không phải lo đối đầu với con gấu Bắc Cực nữa. Tàu biết là
đã đến lúc họ phải cần tập trung tối đa nỗ lực nhằm khai thác tối đa,
trong thời kỳ lúc quan hệ với Hoa Kỳ đang tốt đẹp để củng cố và phát
triển tối đa về kinh tế, kỹ thuật đồng thời chuẩn bị các phương tiện
nhằm xâm chiếm các nước lân bang một cách âm thầm thông qua đường lối
mua chuộc ngoại giao, kết hợp với kinh tế, quân sự đi liền với đà di
dân để đồng hoá các vùng biên giới giữa Tàu và các nước lân bang ( thí
dụ rõ nét nhất về âm mưu di dân thâm hiểm này đang xảy ra tại Việt
Nam. Chính quyền tay sai Việt cộng thân Tàu đã cho phép dân Tàu hay là
Tàu cộng đã được huấn luyện có quyền qua biên giới Việt-Tàu để đi lại
khắp vùng lãnh thổ Việt Nam mà không cần xin chiếu khán hay Visa nhập
cảnh. Bắc Kinh cũng đã và đang huấn luyện, dạy tiếng Việt cho những
thanh niên Tàu nghèo khổ và không thể kiếm được vợ tại Tàu và đưa họ
sang sinh sống tại Việt Nam .
Chúng
ta phải nhớ rằng: Hiện nay có khoảng hơn 100 triệu thanh niên Tàu
không thể kiếm được vợ ngay trong nước Tàu vì nạn “Trai Thừa Gái Thiếu”
do hậu qủa của chính sách “Một Con” do đảng Cộng sản Tàu đề ra. Những
thanh niên tình báo này khi sang Việt Nam thì lấy gái Việt Nam và
được lệnh từ Bắc Kinh để định cư tại 1 vùng chiến lược nào đó tại Việt
Nam . Với tiền bạc dồi dào được cung cấp từ các nhóm tình báo Tàu trá
hình làm con buôn đã nằm sẳn trong nước Việt Nam, các thanh niên này
thông qua gia đình vợ Việt, họ sẽ phát triển mạng lưới kinh tế và tình
báo khắp Việt Nam. Tại các vùng chiến lược tại Việt Nam, thì nhóm Tàu
tình báo chiến lược này với tiền bạc và ưu thế về kinh tế, họ sẽ dần
dần nắm hệ thống chính quyền địa phương. Theo thời gian, dân chúng
trong những vùng chiến lược này sẽ là Tàu, Tàu lai hay những người có
họ hàng thân thiết với Tàu hay có con rễ người Tàu.
Khi
cần có một cuộc trưng cầu dân ý tỏ vẻ “dân chủ kiểu Tàu”, để xem dân
chúng ở các vùng chiến lược này có muốn đất đai nơi họ cư ngụ thuộc về
Việt Nam hay Bắc Kinh, thì đương nhiên dân chúng vùng này sẽ ngả về
phía Bắc Kinh. Như vậy Việt Nam sẽ mất đất đai hay bị Tàu đồng hóa mà
Tàu không cần phải đánh chiếm. Lịch sử là một cuộc tái diễn, chuyện
Trọng Thủy, Mỵ Châu đã và đang lập lại trên đất nước Việt Nam một cách
có hệ thống bởi giới cầm quyền Bắc Kinh và những tên Việt gian Cộng
sản tay sai bán nước cho Tàu đang đóng vai lãnh đạo Việt Nam) để rồi
từ đó lan rộng ra từng bước một, cộng thêm với sự tiếp tay của các
chính quyền tay sai, bù nhìn thân Tàu tại các nước Việt Nam, Lào,
Campuchia, Nepal thì một ngày không xa, Tàu sẽ chiếm hay chi phối toàn
bộ các nước này. Khi tình hình chín mùi, bọn Tàu sẽ dùng thủ thuật
dân chủ bịp bợm (qua hình thức trưng cầu dân ý), kết hợp bạo lực để
hình thành các chính quyền địa phương hãy còn mang mầu sắc bản xứ,
nhưng thực chất một nửa dân số các vùng ấy là Tàu hay Tàu lai và các
lãnh đạo chính quyền ấy đều là Tàu trá hình, để trong vòng không đầy
50 năm nữa hay là hai thế hệ sau, các lân bang này sẽ bị tuyên bố trở
thành một tỉnh của Tàu.
Theo
ước tính này thì trong vòng chưa tới 50 năm nữa, tức là khoảng năm
2050 thì toàn bộ vùng Ðông Nam Á sẽ bị Hán hóa hoàn toàn. Khi Ðông Nam Á
bị mất vào tay Tàu mà Phương Tây-Mỹ chẳng làm gì được thì Úc Châu,
Tân Tây Lan sẽ bị đe dọa và cùng cách thức áp dụng tại các nước Ðông
Nam Á. Người Tàu tại Úc, Tân Tây Lan cũng sẽ chiếm ít nhất một nửa dân
số để từ đó đưa Úc và Tân Tây Lan thành những tỉnh của Tàu vào khoảng
năm 2050. (chúng ta nên hiểu rằng sau tháng 4 năm 1975 khi đàn em
Cộng sản Hà Nội tung quân chiếm trọn Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có
những kế sách xuất cảng người Tàu sang các nước lân bang phía Nam và
Tây phương, đây là một sách lược lâu dài và vô cùng tinh vi, Bắc Kinh
hiểu rằng phải khống chế Úc Châu mới đẩy Hoa Kỳ sang bên kia quần đảo
Hawaii – Hạ Uy Di, tính đến nay không ai có thể biết rõ là có bao
nhiêu tình báo người “Việt” nói tiếng Tàu đang nằm vùng và làm việc
cho Bắc Kinh khắp nơi tại Úc Châu. Sau 30 năm đến nay người “Việt Nam”
còn “vượt biên” đến Úc Châu từ Nam Dương-Indonesia, Timor. Nhưng theo
tin mới nhất từ Bộ Di Trú Úc thì hầu như những người Việt Nam này thì
lại không biết nói tiếng Việt Nam mà chỉ biết nói tiếng Trung Hoa, từ
Vân Nam người Tàu có thể đi đường xe hỏa xuống Kualalumpur sang
Jakarta và “vượt biển tị nạn” sang Úc. Vì vậy Bắc Kinh mới gọi con
đường sắt nối liền Vân Nam và Thái Lan là con đường chiến lược. Xin
xem lại đoạn “Kiều Vụ Chính Sách – Chu Tri Lục 3 của X. Y. Thái Dịch
Lý Đông A ở đoạn trên).
Khi
Úc đã mất, tất cả các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương sẽ bị Tàu xâm chiếm
bằng ngả di dân (Nhập cảnh lậu hay di dân chính thức bằng cách hối lộ
chính quyền địa phương tham nhũng tại các nước này) và cũng vào khoảng
năm 2050, Hawaii sẽ bị Hán hóa. Với đà lấn chiếm thâm hiểm như vậy,
thời điểm 2050 thì Tàu sẽ ngang nhiên trở thành thế lực chi phối toàn
bộ 2/3 vùng Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương, một phần Châu Phi,
riêng Úc Châu thì coi như đã bị Bắc Kinh xóa tên, vì Úc Châu đất rộng
nhưng dân số lại ít, để đẩy Âu Châu và Mỹ co cụm vào thế phòng thủ
trên 1/3 diện tích Thái Bình Dương và Vùng Bắc Ðại Tây Dương mà thôi.
Riêng Trung-Nam Mỹ thì cũng sẽ bị Tàu khống chế. Mặc khác, thông qua
các Cộng Hòa Hồi Giáo thuộc Liên Xô cũ, Tàu sẽ tràn lên hướng Tây Bắc,
theo con đường buôn bán tơ lụa khi xưa để chiếm toàn vùng biển
Caspian, mạn Nam Nga, Iran, Iraq, Syria, v.v.v. theo đúng con đường mà
ngày xưa Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện trong thế kỷ thứ 13.
Theo
chúng tôi ước tính chính xác là: Trước năm 2100, toàn bộ thế giới sẽ
bị Tàu đô hộ, mọi quyết định về vận mạng thế giới sẽ xuất phát từ Bắc
Kinh. Đây là một sự thật được lượng định rõ ràng chứ không phải ảo
tưởng, mong các nhà nghiên cứu chiến lược để tâm theo dõi.
Không
phải là Tàu không quan tâm đến thái độ của Hoa Kỳ hay Âu Châu nhưng
Tàu đánh giá là: Mạng lưới tình báo Tàu thông qua đạo quân thứ 5 hiện
đang hiện diện hơn 60 triệu người khắp thế giới và đang nắm nền kinh tế
tại nhiều nước (thí dụ vùng Ðông Nam Á) thì Tàu đủ sức khuấy động,
tạo sự bất ổn về tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của Hoa Kỳ và Âu
Châu. Ở một tầm nhìn chiến lược cao hơn, Tàu nghĩ rằng: Xã hội Phương
Tây quá phóng túng và tự do theo chủ nghĩa cá nhân, thì xã hội này sẽ
dãy chết trước làn sóng xâm thực một cách từ từ nhưng vô cùng hữu
hiệu của Tàu mà Tàu không cần gây chiến tranh toàn diện. Nếu bất đắc
dĩ Bắc Kinh phải tham gia vào cuộc chiến tranh đối đầu trực tiếp bằng
võ lực thì Bắc Kinh sẵn sàng làm liều, giáng trả với tất cả sức mạnh
nguyên tử hay chiến tranh cổ điển và bất chấp mọi qui ước, vì Bắc Kinh
nghĩ là sau cuộc chiến tranh, với đất rộng, người đông Trung Hoa vẫn
còn tồn tại trong khi đối phương gần như bị tận diệt dân số.
Bài Học Tiêu Biểu
Ðể minh chứng cho nhận định trên, chúng tôi xin đưa ra đây một số trường hợp cụ thể tiêu biểu:
a)
Khủng Bố: Câu nói để đời với những ai quen với chính trị là thế này:
“Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta”. Như vậy Tàu xác định rõ kẻ thù tối
hậu của họ là Hoa Kỳ, mà Hoa Kỳ là kẻ thù của các nhóm cực đoan trong
thế giới Hồi Giáo. Vậy Hồi Giáo cực đoan là bạn thân của Bắc Kinh. Vì
vậy, Bắc Kinh đứng đằng sau vụ 9-11 tại Hoa Kỳ là không sai!
Chúng
ta hãy xem cuốn “Unrestricted Warfare” của hai đại tá Trung cộng là
Qiao Liang (Dao Lương) và Wang Xiangsui (Vương Sơn Thủy), viết 3 năm
trước khi vụ 9-11 xảy ra ở New York thì rõ (cuốn sách Unrestricted
Warfare của nhà xuất bản Pan American Publishing Company, Introduction
by Ai Santoli – Al Santoli hiện là thứ trưởng quốc phnòg Hoa Kỳ). Giang
Trạch Dân rất thích thú và cho thâu lại thành băng (tape) để Giang
xem đi xem lại nhiều lần cảnh toà Tháp Ðôi tại New York bị khủng bố
tấn công và sập đổ, (người ta đếm được là họ Giang đã xem đi xem lại
tổng cộng 32 lần trong 1 ngày).
Chúng
tôi cũng xin nói rõ là: Tung ra vũ khí hóa học, sinh vật học để khủng
bố thế giới cũng là do bàn tay của Bắc Kinh, cho dù kẻ xử dụng vũ khí
này là bọn khủng bố cực đoan Hồi giáo (Bắc Kinh chơi trò ném đá dấu
tay, đưa vũ khí sinh hóa học, vi trùng học cho bọn Hồi giáo quá khích
để giết Mỹ và Phương Tây). Nếu cần xử dụng bom bẩn hay vũ khí nguyên
tử khi tình hình thực sự bất lợi cho Tàu thì Tàu sẵn sàng làm ngay.
Mao Trạch Ðông đã từng tuyên bố: “Nếu chết 500 triệu người Trung Hoa
để chiếm cả thế giới thì Trung Hoa sẵn sàng làm”.
Trung
Cộng nghĩ rằng: Nếu thảm cảnh này xảy ra thì xã hội Tây Phương-Mỹ sẽ
dễ bị suy sụp vì họ không có nền “kinh tế quốc dân” (kinh tế dân sinh
tự túc) theo kiểu tự cung cấp để có thể tồn tại được khi tình hình cực
xấu xảy ra và vì sức chịu đựng cực khổ, căng thẳng tinh thần của Mỹ
và Tây Phương không được mạnh lắm nếu so với dân Tàu.
b)
Bài Học Từ Các Lân Bang Của Tàu: Chiến thuật “dương đông kích tây”
luôn được Tàu xử dụng. Theo nhận định này thì Ðài Loan, Nhật Bản, Triều
Tiên là “dương đông” để Trung cộng lấy tiền và hàng hóa, âm thầm thôn
tính Miến Ðiện, Việt Nam, Lào, Campuchia, Nepal, Bhutan là “kích tây”
để chiếm đất đai và tài nguyên. Kế tiếp sẽ là Mã Lai, Nam Dương, Phi
Luật Tân và xa hơn nữa là Úc, Tân Tây Lan, Hawaii, Iran, Iraq,
Pakistan, Ả Rập Saudi và các nước Hồi giáo thuộc Liên Xô cũ (Trung Á).
Khi các vùng này thuộc về Tàu thì Ấn Ðộ phải quy hàng, Nga phải xếp
giáo, Âu Châu phải quỳ gối và Hoa Kỳ phải gãy cánh. Kết quả, thế giới
chỉ có Tàu và Tàu làm chủ mà thôi.
Chúng
tôi muốn nêu vấn đề này lên để cảnh tỉnh thế giới không phải vì quyền
lợi của đất nước Việt Nam chúng tôi không thôi, mà vì là Hiểm Họa
Liên Hệ Ðến Toàn Cầu Ðang Tiến Tới Gần Kề Do Bắc Kinh Gây Ra. Trường
hợp Việt Nam hiện nay chỉ là điển hình cho sách lược thâm hiểm này
thôi. Âm mưu thôn tính Việt Nam và các nước Ðông Nam Á của Bắc Kinh:
Năm
1978 khi Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ theo Liên Xô và hăm he xuất cảng cách
mạng đỏ sang Ðông Nam Á, đe dọa an ninh của các đồng minh Mỹ và quyền
lợi của Mỹ tại đó, thì Ðặng Tiểu Bình coi đó là hành động đe dọa an
ninh của Tàu và sau đó xua quân sang đánh Việt Nam gọi là dạy cho Việt
Nam 1 bài học (Ðặng bắn 1 mũi tên mà giết chết 2 con chim: Tỏ ra
nhiệt tình với Mỹ, nhưng cũng là cách để diệt nhóm Tứ Nhân Bang và
những người theo Giang Thanh). Khi Liên Xô sụp đổ thì đảng Cộng sản
Việt Nam bị bơ vơ, thế là Tàu lôi kéo cộng sản Việt Nam quay về với
Tàu với lời nói đường mật là “Mỹ luôn luôn muốn lật đổ các đồng chí
đấy”. Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, v.v.v. vì đầu
óc hẹp hòi và thiển cận, chỉ lo đặt quyền lợi của đảng họ mà quên
quyền lợi của dân tộc, cho đến năm 1990 họ vẫn không biết được “tối
hậu địch nhân, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta là Tàu chứ không phải
Mỹ”. Vì vậy, sợi dây thòng lọng của Trung cộng cứ thế mà xiết cổ đảng
Cộng sản Hà Nội ngày càng chặt để đến nay, sau 15 năm bị Trung cộng
chi phối, toàn dân Việt Nam đã trở thành nô lệ cho Tàu, giang sơn gấm
vóc Việt Nam đã bị Tàu chiếm đất, nền kinh tế èo uột của Việt Nam hiện
nay đang bị Tàu chi phối toàn diện, văn hóa Việt Nam nay đang bị Hán
hóa trên mọi mặt, mọi cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương đều
có cán bộ tình báo người Tàu gài vào điều khiển. Như vậy, trên thực
tế, Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Tàu. Nước Việt Nam đã mất vào
bàn tay tham lam của Bắc Kinh. Người Tàu nay được quyền đi lại tự do
trên khắp lãnh thổ Việt Nam . Số người Tàu hiện nay tại Việt Nam được
ước tính là khoảng trên 3 triệu người đang có mặt thường trực và đang
nhập “hộ khẩu” ào ạt vào Việt Nam để hợp thức hóa tình trạng cư trú.
Trong vòng 5 năm tới, số này có thể lên đến 10 triệu người. Chợ Lớn
nay đã thành một thành phố Tàu, đảo Phú Quốc chỉ trong vòng 10 năm nữa
có thể trở thành một Singapore thứ hai. Tình hình này không những
đang xảy ra tại Việt Nam, Lào, Campuchia mà còn đang xảy ra tại Miến
Ðiện, Nepal, Bhutan, Kyrgystan, Bắc Hàn, Phi Luật Tân và các hòn đảo
tại Thái Bình Dương nữa.
Song
song với nỗ lực biến Phú Quốc thành một Singapore thông qua bàn tay
người Tàu ở Hong Kong, Thái Lan hay Singapore, thậm chí cả từ Ðài Loan,
thì nay Bắc Kinh cũng đang thực hiện một nỗ lực vô cùng quan trọng
khác là: “Sẽ tìm cách chiếm lưu vực sông Hồng Hà ở Bắc Việt Nam và khu
vực Biển Hồ của Campuchia”. Với đà lấn chiếm này thì chỉ trong vòng
15 năm nữa thôi Trung cộng sẽ kiểm soát 2 vùng quan trọng này ở Ðông
Dương. Tại sao chúng tôi tiên đoán như vậy ? Xin thưa: Về phương diện
phong thủy thì đảo Hải Nam của Tàu và Biển Hồ có vị trí đối xứng, vùng
châu thổ sông Hồng có thể trấn áp vùng Hoa Nam của Tàu (có nguồn gốc
từ dãy Hy Mã Lạp Sơn) và toàn thể nước Tàu. Vì vậy, Bắc Kinh tìm mọi
cách phải chiếm Bắc Việt đầu tiên để phá thế phong thủy nguy hiểm cho
nước Tàu, sau đó sẽ từng bước chiếm toàn thể Việt Nam và cả vùng Ðông
Nam Á, theo đúng như những điều Cụ Lý Ðông A đã tiên đoán cách đây hơn
60 năm.
Một
vài hòn đảo của Campuchia dành cho Tàu xử dụng, dự án làm kinh đào ở
Nam Thái Lan ký kết với Tàu và một số hòn đảo của Miến Ðiện hiện đang
được Tàu cho xây cất các công sự hạ tầng về kinh tế, quân sự, tiếp
vận, phòng thủ, tất cả đều nằm trong ý đồ chiến lược đen tối xâm chiếm
Á Châu của Bắc Kinh.
Con
đường muôn thuở của sách lược Hán hóa của lãnh đạo Tàu là như thế này
“kết hợp kinh tế, quân sự, ngoại giao, di dân”, để ép buộc các lân
bang phải tương nhượng một vùng lãnh thổ chiến lược nào đó, rồi đưa
thêm dân Tàu tới đó để biến các vùng đó thành các vùng do người Tàu
thống trị, trong tường kỳ hủy diệt văn hóa của người bản xứ, biến vùng
ấy, nước ấy thành một tỉnh của Trung Hoa.
Tất
cả điều đó, Trung cộng đang dốc toàn lực tiến hành trên quy mô lớn
nhờ Bắc Kinh có nhiều tiền do thặng dư mậu dịch của Tàu với thế giới
đang gia tăng từng ngày, đến khi thế giới nhìn thấy thì đã trễ. Tàu
đang tuôn hàng hóa ồ ạt sang Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Ðiện,
Nepal, Bắc Hàn, Krygystan qua đường biên giới với giá rẻ mạt nhằm hủy
diệt nền “kinh tế quốc dân” của các lân bang, đồng thời gây bất ổn
trong vùng biên giới, nắm chặt các nhóm lãnh đạo thân Tàu tại các nước
này, nhằm gây sức ép buộc các chính quyền thân Tàu này cắt đất, dâng
biển cho Tàu và phải mở cửa biên giới để người Tàu có quyền đi lại tự
do trên lãnh thổ các nước này. Ðây là sách lược “trộn lẫn một số nhỏ
với khối lớn là 1 tỷ 3 người Tàu” nên chẳng bao lâu nữa, các quốc gia
ấy sẽ trở thành tỉnh lỵ của Tàu là vậy.
Nếu
xét về phương diện chiến lược thì: Tàu rất hãnh diện là đã kết hợp
mọi cách đánh cao siêu nhất mà không phải nổ súng, không phải gây chú ý
nơi dư luận quốc tế. Ta có thể gọi sách lược này của Tàu là “lấy nông
thôn bao vây thành thị (Phương Tây-Mỹ) bằng kinh tế, dân số, kết hợp
với quân sự, ngoại giao”.
Nhưng Bắc Kinh đã lầm lớn!
Thái Ðộ Của Chúng Ta Với Tàu
Không
một dân tộc nào trên thế giới hiểu rõ dã tâm thâm độc của Tàu bằng
chính người Việt Nam và cũng chẳng có dân tộc nào trên thế giới có nhiều
kinh nghiệm xương máu với Tàu hơn dân Việt. Cho nên Tàu rất úy kỵ và
muốn tiêu diệt Việt Nam là lẽ tất nhiên.
Với
tư cách là một nạn nhân lâu đời của Tàu và trước thảm cảnh là đất
nước chúng tôi đang bị Tàu chiếm đóng thông qua nhóm bù nhìn tay sai
của Tàu là đảng Cộng sản Hà Nội đang thi hành mọi chỉ đạo từ Bắc Kinh,
chúng tôi long trọng lên tiếng cảnh tỉnh toàn thế giới về các âm mưu
thâm độc của Bắc Kinh đối với toàn thể nhân loại.
1)
Ðối với các nước Ðông Nam Á: Chúng tôi phải nhấn mạnh rằng: “Chúng ta
đều là dân Bách Việt cả”. Nay Việt Nam đang bị Tàu xâm lấn thì chẳng
mấy chốc cả Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Ðộ,
v.v.v. cũng sẽ rơi vào bàn tay tham lam của Bắc Kinh mà thôi. Vì thế,
các quốc gia nằm trong vùng Ðông Nam Á, Nam Á hãy nhớ một điều là: Quý
vị đang là mục tiêu kế tiếp trong tiến trình nô dịch toàn cầu của Bắc
Kinh. Vậy quý vị cần xác định “tối hậu địch nhân của quý vị và của dân
tộc Việt Nam chúng tôi chính là giới lãnh đạo Bắc Kinh”. Do đó, các
bạn phải hợp tác với Hoa Kỳ, để kiên quyết và nhất định chống lại chủ
nghĩa bành trướng Hán tộc do Bắc Kinh chủ trương.
2)
Ðối với thế giới Hồi Giáo: Chúng tôi cần phải nói thế này: Nói chung,
tôn giáo là để phục vụ con người, cho nên quý vị đừng để tôn giáo
hoặc những kẻ lợi dụng tôn giáo cấu kết với Trung cộng, để giúp Bắc
Kinh thực hiện được ý đồ bành trướng Hán tộc đi khắp nơi trên thế
giới, để rồi chính các quốc gia của quý vị, tôn giáo của quý vị sẽ là
mục tiêu thôn tính kế tiếp của Bắc Kinh. Chuyện này chắc chắn sẽ xảy
ra vì Trung cộng đang rất đói khát về năng lượng dầu hỏa và Bắc Kinh
rất muốn chiếm các mỏ dầu hoả trên đất nước của quý vị khi thời cơ đến
(nhất là chiếm các mỏ dầu của Iran ). Vì thế, chúng tôi kêu gọi khối Ả
Rập hãy cảnh tỉnh trước âm mưu thâm độc của Bắc Kinh và đừng để mình
phải làm con vật tế thần của Bắc Kinh trong công cuộc chống Mỹ. Nếu
mất Hoa Kỳ thì mưu đồ thôn tính toàn cầu của Trung Cộng coi như đã
hoàn tất.
3)
Ðối với Âu Châu: Chúng tôi cần nhấn mạnh thế này: Nếu Trung cộng
thống trị thế giới thì cả Âu Châu sẽ bị Tàu chiếm đoạt cho bằng hết,
ngọn cỏ cũng chẳng còn chứ nói gì đến giá trị văn hóa La-Hy, chủ nghĩa
cá nhân hưởng thụ. Vì thế, Âu Châu cần hợp tác mật thiết với Hoa Kỳ
trong việc ổn định thế giới mới. Nhất là Pháp quý vị đừng vì một chút
tư lợi nho nhỏ trước mắt do Bắc Kinh đem đến cho quý vị, để rồi quý vị
trở thành công cụ cho Bắc Kinh hủy diệt nhân loại và cả quý vị nữa
trong tương lai rất gần.
4)
Với toàn thể nhân loại: Chúng tôi cần phải nói thế này: Hoa Kỳ không
phải là quốc gia đế quốc như nhiều người lầm tưởng, quá khứ và hiện
tại đã chứng minh như vậy và tương lai “Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một
nước Tiền Duy Dân đang dẫn loài người tiến lên nền Nhân Chủ Pháp Trị”.
Nếu quyền lợi của Hoa Kỳ và của quốc gia quý vị có mâu thuẫn thì đó
cũng chỉ là mâu thuẫn tạm thời. Tối hậu địch nhân của nhân loại chính
là giới lãnh đạo tham lam, tàn ác Bắc Kinh. Vì thế, chúng tôi kêu gọi
toàn thể loài người văn minh tiến bộ trên thế giới, không phân biệt
màu da, tôn giáo, chủng tộc, tất cả hãy sát cánh cùng Hoa Kỳ trong sứ
mệnh cao cả – “tiêu diệt âm mưu nô lệ hoá con người” của Bắc Kinh hầu
đưa nhân loại tiến vào thời kỳ Nhân Chủ Pháp Trị đầy tốt đẹp.
*
Chúng tôi cũng kêu gọi dân chúng hiện nay đang sống dưới các chế độ
độc tài, độc đảng các bạn hãy can đảm, mạnh mẽ đứng lên lật đổ các chế
độ độc tài, độc đảng, tham lam, tham nhũng, phản dân hại nước ấy, nhằm
thiết lập một chế độ dân chủ tự do thật sự trên quê hương của các
bạn. Không ai có thể làm việc này thay cho các bạn được. Các bạn phải
làm trước rồi sự trợ giúp mới tới sau. Dân Chủ – Tự Do là sản phẩm tư
tưởng và quyền căn bản của con người chứ không phải của riêng ai, nó
cũng không phải là của riêng Âu Châu hay Mỹ Châu. Chỉ có các chế độ
độc tài, độc đảng, tàn ác, tham lam, tham nhũng mới sợ tiếng nói Tự Do
– Dân Chủ. Cho nên các chế độ độc tài, độc đảng, tham lam, tham nhũng
này đang là đồng minh hay tay sai thân tín của chủ nghĩa bành trướng
Ðại Hán của Bắc Kinh.
5)
Ðối với lãnh đạo đảng Cộng sản Trung cộng ở Bắc Kinh: Hôm nay đây,
chúng tôi gởi đến cho các ông một tính hiệu rất rõ ràng. Ðó là: Các ông
đừng tưởng rằng dã tâm nham hiểm của các ông đã lừa bịp được hơn 80
triệu người Việt tại Việt Nam và hơn 2 triệu người Việt tại hải ngọai.
Các ông đã lầm to! Ðã có một nhóm người Việt Nam với trí tuệ siêu quần
họ thấy dã tâm ấy của các ông từ hơn 60 năm trước. Ngày nay, lực lượng
bí mật ấy ngày càng lớn mạnh và đang kết hợp với Trung Tâm Quyền Lực
Hoa Kỳ trong cuộc chiến tối hậu, hầu đem lại sự tốt đẹp cho nhân loại
mà các ông đang tìm cách phá hủy đi để thỏa mãn tham vọng điên cuồng,
không tưởng của các ông là: Khống chế thế giới.
Hôm
nay đây chúng tôi thành thật nói với nhóm lãnh đạo Bắc Kinh rằng
(nhân dân Trung Hoa với dân số 1 tỷ 3, nếu kể thêm người Tàu hải ngoại
thì khoảng 1 tỷ 360 triệu): Các anh không sợ sức mạnh của Hoa Kỳ à ?
Các anh nghĩ rằng Hoa Kỳ không biết gì về các ý đồ thâm độc của các
anh sao ? Các anh quá lầm lẫn! Nếu các anh không biết hoặc cố tình
không biết, chúng tôi sẽ nói cho các anh biết: Khi cuộc chiến nổ ra
thì không một chiếc máy bay, hỏa tiễn nào của các anh có thể cất cánh
hay phóng lên được cả. Cũng chẳng có chiếc tàu ngầm, tàu nổi nào của
“Hồng Quân” các anh có thể rời khỏi cái hồ nhỏ ở vùng biển Hoàng Hải
hay Nam Hải được đâu. Và tệ hại hơn nữa, nếu cần thiết để cứu nhân
loại này thì “người ta” cũng sẽ sẵn sàng cho nổ tung đập Tam Khẩu ngay
lập tức. Lúc đó các anh sẽ chết ít nhất cũng hàng trăm triệu người.
Các anh nên biết người biết ta mà liệu sức mình! Các anh muốn chết 500
triệu thì “Người Ta” sẽ cho các anh chết 700 triệu mà họ chẳng hối
hận gì cả, vì các anh muốn đánh chiếm và thống trị toàn thế giới.
Chúng tôi cũng nói thật cho các anh rõ: Hiện tại sách lược đã có vấn
đề chỉ còn là cân nhắc về mặt đạo đức đấy thôi. Không ai muốn chiến
tranh, vì chiến tranh đem đến cho con người quá nhiều tang thương,
chết chóc hẳn nhiên là những người có lương tâm trong sáng không ai
muốn chiến tranh xảy ra, nhưng nếu lấy chiến tranh để giải quyết chiến
tranh hầu đem đến một nền hòa bình muôn thuở cho nhân loại này, cho
thế giới này không bị diệt vong, thì Hoa Kỳ sẽ phải đi vào chiến tranh
bằng tất cả sức mạnh và sự khôn ngoan của họ vậy
Chúng
tôi cũng nói rõ với hai ông Giang-Hồ (Giang Trạch Dân-Hồ Cẩm Đào) và
toàn ban lãnh đạo của đảng cộng sản Trung cộng là: Khi chúng tôi đã
vạch mặt chỉ tên kẻ thù thì không còn gì để khoan nhượng nữa. Bắc Kinh
mới chỉ hiểu và nắm Việt Nam thông qua những đám Cộng sản Hà Nội tự
nhận là lãnh đạo Việt Nam đang làm tay sai bù nhìn cho Bắc Kinh mà
thôi. Ngoài ra, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam vô cùng phẫn nộ
trước hành động bán nước, làm tay sai cho Trung cộng của nhóm Việt
gian Cộng sản Hà Nội! Người dân Việt Nam nguyện đem hết sức mình để
chống lại đường lối xâm chiếm, xâm lăng đồng hóa Việt Nam của Bắc
Kinh. Chúng tôi rất hiểu nhân dân Việt Nam chúng tôi. Bình thường thì
người Việt Nam rất hiền hoà và hiếu khách, rất bền bĩ và chịu đựng,
nhưng một khi đã phải phản ứng, thì họ phản ứng rất mãnh liệt đến độ
không ai có thể ngờ được. Lịch sử đã chứng minh: Tôn Sĩ Nghị đem hơn
hai trăm ngàn quân (200 ngàn) vào xâm lăng Việt Nam nhưng khi thất
bại, trốn chạy về Tàu chỉ còn chừng 200 quân còn sống sót. Thoát Hoan
cũng đem cả trên mấy trăm ngàn quân thôn tính Việt Nam nhưng thua trận
tả tơi, trốn thoát về Tàu với chừng 100 quân còn sống. Ngày hôm nay
đây, tình báo (và hồng quân) Trung cộng đang giả dạng làm người Việt
Nam để chiếm đất Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, tiêu tiền giả Việt Nam và
dùng chất độc để đầu độc người dân Việt Nam, để lần hồi biến Việt Nam
thành một tỉnh của Trung Hoa. Chúng tôi xin nói rõ: Khi nhân dân Việt
Nam chúng tôi đã phản ứng thì dù có 10 triệu người Tàu đến Việt Nam
cũng sẽ bị diệt sạch. Lúc đó người dân Việt chúng tôi chẳng có lỗi lầm
gì cả, vì chính Trung cộng là kẻ xâm lăng và muốn tiêu diệt dân tộc
chúng tôi, vì sự sống còn buộc lòng chúng tôi phải tự vệ.
6)
Chúng tôi kêu gọi nhân dân Trung Hoa: Chỉ có các bạn mới cứu được
chính các bạn và con cháu các bạn. Cuộc chiến tranhh toàn diện này (một
bên là thế giới tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo và bên kia là tập đoàn Cộng
sản và khủng bố do Bắc Kinh lãnh đạo) không phải là “không thể tránh
được”. Nếu các bạn biết đứng lên lật đổ tiêu diệt chế độ Cộng sản Bắc
Kinh, thì các bạn sẽ tiết kiệm được xương máu của chính các bạn và con
cháu các bạn rất nhiều, nếu không thì hậu quả sẽ không sao lường được
cho dân tộc và cho đất nước các bạn.
*
Ðặc biệt với các dân tộc Hoa Nam : Các bạn và dân tộc Việt Nam chúng
tôi và các dân tộc ở vùng Ðông Nam Á, chúng ta có chung một nguồn gốc
tổ tiên là Bách Việt. Sự sung mãn của Hoa Nam sẽ biến mất mau chóng
với những tàn phá, mất mát vô cùng lớn lao, khi chiến tranh toàn diện
giữa thế giới và Bắc Kinh xảy ra. Vì thế các bạn phải tự cứu mình
trước, đừng tin hay trở thành vật thí thân cho giới lãnh đạo Bắc Kinh
nòi Hán tộc. Lãnh đạo Bắc Kinh chỉ luôn luôn tìm cách đồng hóa và tiêu
diệt dòng Bách Việt chúng ta mà thôi. Vậy các bạn hãy đứng lên, sát
cánh cùng nhân loại trên thế giới nhằm tách rời khỏi bàn tay thâm độc
của Bắc Kinh và thiết lập một chính phủ Hoa Nam – Bách Việt, tách biệt
ra khỏi bàn tay cai trị tàn ác của Hán tộc phương Bắc.
7)
Với Hoa Kỳ: Trước dã tâm thâm độc, tàn ác của giới lãnh đạo Bắc Kinh
đối với nhân loại, hôm nay đây chúng tôi chính thức yêu cầu: Hoa Kỳ xử
dụng tất cả sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự của mình để ngăn chặn
các âm mưu thâm hiểm này của Bắc Kinh trong ý đồ xâm lược thế giới,
đồng hóa các nước nhỏ, tiêu diệt các nền văn minh khác và Hán hóa toàn
cầu. Nếu vạn bất đắc dĩ không thể tránh được, thì Hoa Kỳ cần phải xử
dụng sức mạnh quân sự tối ưu của mình để đập tan chế độ độc tài, tham
lam, tàn ác của Bắc Kinh để cứu chính dân Trung Hoa và cứu loài người
yếu. Tội ác chống nhân loại của nhóm lãnh đạo Bắc Kinh đã đến thời
điểm cực kỳ nghiêm trọng. Nó tội lỗi và tàn độc hơn bất cứ chế độ độc
tài, tàn ác nào từ xưa tới nay trong lịch sử nhân loại.
Ðối với nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước: Chúng tôi kêu gọi mọi
người cần ý thức thật rõ ràng về việc Trung cộng đã thực sự chiếm lĩnh
Việt Nam qua bọn tay sai, bù nhìn, tội đồ của dân tộc Việt Nam là
đảng Cộng sản Hà Nội, do đó đảng Cộng sản Hà Nội chỉ còn là công cụ để
cho Bắc Kinh thao túng Việt Nam và đồng hóa dân ta một cách âm thầm
mà thôi. Trong tình huống này, sắp tới đây, Bắc Kinh sẽ kiểm soát quân
đội Cộng sản Việt Nam từ cấp trung đội trở lên. Mọi người Việt Nam
bất cứ ở đâu, cũng sẽ bị Bắc Kinh khống chế chặt chẽ. Nguồn sống của
dân ta sẽ bị tước đoạt hết. Dân ta chỉ còn là những kẻ nô lệ trên
chính quê hương mình, phục vụ cho những ông chủ mới là những người Tàu
trá hình làm người Việt Nam , đang “lãnh đạo” đất nước Việt Nam .
Lịch sử đã dạy cho chúng ta thấy, gần 700 năm trước đất nước chúng đã
gần như bị tiêu diệt bởi nhà Minh. Vậy chúng ta có thể nào an tâm
hưởng thụ, bịt mắt che tai ngồi im nhìn thảm cảnh đau thương này xảy
ra cho chúng ta và dân tộc chúng ta một lần nữa hay không? Không! Ngàn
lần không phải không các bạn ?
Vì vậy, chúng tôi kêu gọi tất cả mọi người Việt Nam trong và ngoài nước: Không phân biệt đảng phái, chính kiến, tôn giáo
Chúng
ta có bất cứ thứ vũ khí gì thì xử dụng vũ khí ấy, để tiêu diệt hết
mọi thành phần làm tình báo, gián điệp, tay sai cho Trung cộng, được
Bắc Kinh gài vào trá hình làm người Việt sinh sống tại Việt Nam, để
thực hiện ý đồ bành trướng Hán tộc và tiêu diệt văn hóa cũng như đồng
hóa dân tộc Việt Nam.
Chúng
ta nhất định không để chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu tái diễn một lần
nữa trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Tiêu diệt nhóm tình báo, gián
điệp và làm tay sai bán nước cho Bắc Kinh chúng ta không có lỗi gì
cả, vì sự tồn vong của dân tộc buộc lòng chúng ta phải hành động, để
cứu lấy quê hương thoát khỏi ách nô lệ của người Tàu và dân tộc chúng
ta không bị diệt chủng bởi họa Bắc Phương.
Nhưng
trước hết, nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước, chúng ta phải nhanh
tay kết hợp nhau lại để lật đổ bọn cầm quyền bán nước nguy hiểm là
nhóm Cộng sản Hà Nội hiện đang làm tay sai cho Bắc Kinh để thực hiện
các đường lối Hán hóa Việt Nam của Bắc Kinh.
Thế
giới sẽ cứu giúp chúng ta nhưng chúng ta phải tự cứu mình trước đã.
Do đó chỉ có chúng ta mới cứu dân tộc chúng ta được. Hoa Kỳ sẽ sát
cánh cùng dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trong cuộc chiến tranh
thần thánh này để “đập tan âm mưu bành trướng để thống trị toàn thế
giới của Hán tộc của Bắc Kinh” hầu đem lại vinh quang, hạnh phúc, ấm
no cho xứ sở Việt Nam và cho cả loài người nữa.
Lê Văn Xương
Viethoc
*
Saturday, July 31, 2010
TRUNG CỘNG KHỐNG CHẾ VIỆT NAM
Âm mưu khống chế hoàn toàn Việt Nam của Trung QuốcPosted: Tháng Mười Hai 13, 2009 by BÁO TỔ QUỐC
Kể từ sau sự kiện Trung Quốc chiếm đóng một phần Quần Đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988, trong những năm gần đây, vấn để hải đảo biên giới khiến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trở nên căng thẳng một cách đáng lo ngại. Tuy quan hệ ngoại giao căng thẳng nhưng quan hệ giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc vẫn nồng ấm một cách lạ thường, Trung Quốc tiếp tục dành được nhiều dự án lớn, trọng điểm quốc gia, trong đó có dự án Bauxite Tây Nguyên, dự án xây dựng các nhà máy điện, xí nghiệp, cải tạo hệ thống cống thoát nước… Đặc biệt gần đây Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam xây dựng Ký túc xá ở học viện chính trị & hành chính Hồ Chí Minh, Cung hữu nghị Việt Trung.
Trong bối cảnh căng thẳng giữa hai nước khi ngư dân Việt Nam liên tục bị Hải Quân Trung Quốc sách nhiễu trên biển Đông, tàu Việt Nam thường xuyên bị “Tàu lạ” đâm chìm ngay trên lãnh thổ Việt Nam. Các trang mạng, báo chí chính thống của Trung Quốc liên tục khiêu khích, kích động đòi chiến tranh với Việt Nam, Hải Quân Trung Quốc thường xuyên công khai vi phạm lãnh hải Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa đặc biệt Trung Quốc còn xúc tiến việc thăm dò khai thác dầu khí tại những vùng biển đang tranh chấp thì mối quan hệ nồng ấm giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc rõ ràng là không được bình thường.
Nếu nói rằng hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc chỉ “bằng mặt mà không bằng lòng” thì thiếu thuyết phục vì một nước lớn như Trung Quốc chẳng có lý do gì để phải “nể mặt” một nước nhỏ như Việt Nam. Và một mối quan hệ hình thức bề ngoài thì không thể giúp cho Trung Quốc liên tiếp dành được nhiều dự án quan trọng như dự án Bauxite Tây Nguyên; nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam không bằng lòng với Đảng Cộng Sản Trung Quốc thì không thể nào họ lại không đề phòng sự xâm nhập của Trung Quốc vào một khu vực chiến lược quan trọng như Tây Nguyên, không đề phòng việc giao cho Trung Quốc thi công những công trình, những dự án lớn trên khắp nước Việt Nam.
Rõ ràng là bất chấp sự bá quyền của Trung Quốc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhượng bộ một cách thái quá, bất thường đến mức tỏ ra nhu nhược mất hết tinh thần độc lập của dân tộc.
Nhiều nhà khoa học và giới trí thức cũng như các cán bộ lão thành Cách mạng đã bày tỏ mối lo ngại sâu sắc về sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực nhưng chính quyền Đảng Cộng Sản đã làm ngơ và thậm chí ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, to lớn và sâu đậm hơn. Từ đây có một câu hỏi lớn được đặt ra? Trung Quốc với tư tưởng bá quyền từ hàng ngàn năm nay muốn thôn tính Việt Nam và họ luôn coi Việt Nam là một phần lãnh thổ của họ đã bị tách ra điều này hầu như người dân Việt Nam nào cũng biết huống chi là tầng lớp lãnh đạo, vậy vì lý do gì mà những người lãnh đạo đã không ngăn cản ảnh hưởng của Trung Quốc mà thậm chí họ còn tiếp tay cho Trung Quốc? Phải chăng Trung Quốc đã khống chế được một bộ phận lãnh đạo trong chính quyền Việt Nam? Và Trung Quốc đã khống chế được lĩnh vực nào của Việt Nam từ việc bành trướng ảnh hưởng của họ trong thời gian vừa qua?
Bài viết này tôi xin được viết với tất cả tấm lòng đối với quê hương đất nước, tôi viết vì lo ngại cho vận mệnh của dân tộc đang rơi vào cảnh lâm nguy. Tôi viết để kêu gọi mọi người dân Việt Nam cho dù theo chủ nghĩa nào, hay ở đất nước nào đi nữa cũng phải quan tâm đến vận mệnh của dân tộc vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta. Có lẽ những nhận định trong bài viết của tôi không hoàn toàn chính xác vì những quan điểm chủ quan của tôi nhưng tôi nghĩ nó sẽ không trở nên dư thừa khi những cảnh báo về một cuộc chiến tranh ra giữa Việt Nam và Trung Quốc không thể nào không xẩy trong tương lai, chỉ có điều chưa ai rõ nó sẽ diễn ra như thế nào mà thôi!
Trở lại vấn đề Trung Quốc đã khống chế Việt Nam, vậy Trung Quốc đã khống chế được lĩnh vực gì của Việt Nam và nếu xẩy ra chiến tranh thì việc khống chế lĩnh vực đó giúp ích gì cho Trung Quốc?
1) Lĩnh vực tư tưởng văn hóa:
Sự xâm lấn của các văn hóa phẩm Trung Quốc như phim truyện, điện ảnh đã từ lâu luôn trở thành vấn đề bức xúc của dư luận dẫn đến tình trạng người Việt Nam giỏi sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam, người Việt Nam thần tượng các anh hùng vua chúa Trung Quốc hơn cả các anh hung vua chúa Việt Nam. Những điều đó không tai hại hằng việc học sinh thanh niên Việt Nam tập trung chơi game Online Trung Quốc như một trào lưu, đến nỗi nhà nhà chơi game, người người chơi game; điều này thật sự hết sức tai hại khi tuổi trẻ Việt Nam bị game Trung Quốc đầu độc mà bỏ bê trách nhiệm học tập, trách nhiệm quan tâm đến xã hội, đất nước. Thậm chí một số công ty game như VinaGame có các nhà đầu tư Trung Quốc đứng đằng sau còn cấm dung những từ “Hoàng Sa hay Trường Sa” trong các game và mạng xã hội của họ.
Báo chí thì hoàn toàn bị khống chế khi viết về Trung Quốc, điển hình là cuộc chiến tranh biên giới 1979 báo chí Việt Nam hầu như hoàn toàn im lặng trong khi báo chí Trung quốc vẫn kỷ niệm cuộc chiến 1979 dưới nhiều hình thức, điều lạ đời ở đây là một đất nước có hàng chục ngàn người đã hi sinh để bảo vệ độc lập toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc lại không hề được tưởng nhớ đến trong khi một đất nước hi sinh hàng chục ngàn người để đi “dạy cho dân tộc khác một bài học” thì lại được tưởng nhớ như những anh hùng?
Vậy công lý hóa ra thuộc về Trung Quốc chăng nên Việt Nam phải im lặng như vậy? Ngoài vấn đề Hoàng Sa Trường Sa thì những nội dung khác về Trung Quốc đều rất nhạy cảm trên báo chí Việt Nam, có nhiều nhà thơ nhà văn viết về Ải Nam Quan, tinh thần yêu nước khi xuất bản đều bị xóa đi hoặc bị đình bản như Báo Du lịch với lý do “gây tổn hại đến quan hệ ngoại giao” với Trung Quốc?
Trong khi báo chí Trung Quốc chẳng bao giờ sợ gây “tổn hại quan hệ ngoại giao” với Việt Nam. Điều đáng báo động là thậm chí báo chí Việt Nam lại tỏ ra ủng hộ quan điểm của Trung Quốc như trường hợp của ông Đào Duy Quát, tổng biên tập báo điện tử ĐCSVN cho đăng tin Trung Quốc tập trận “trên biển của Trung Quốc”, nhiều tờ báo không cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam một cách “vô ý” kỳ lạ.
2) về lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế:
Hàng hóa Trung Quốc xuất hiện dầy đặc ở thị trường Việt Nam làm nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị sụp đổ. Sản phẩm Trung Quốc thì vô cùng độc hại nhưng vẫn cứ vô tư xuất sang Việt Nam dưới sự bất lực của các cơ quan chức năng. Quan trọng hơn nữa là Trung Quốc trúng thầu hầu hết các dự án lớn xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, đường xá, hệ thống thoát nước, viễn thông, nhà máy điện, sân vận động, khu chung cư, các khu mỏ, quặng…
Ngoài vấn đề chất lượng của các công trình Trung Quốc là vấn đề không cần phải bàn cãi thì ít ai nghĩ đến những âm mưu thâm độc của Trung Quốc trong các công trình mà họ thực hiện. Trong quá khứ Trung Quốc đã từng lợi dụng việc xây dựng nhà máy, xí nghiệp, đường xá để đưa tình báo vào nước ta do thám địa hình nước ta, chiếm lấy đất của chúng ta. Những bài học đó vẫn còn rất mới trong cuộc chiến 1979 vậy mà Đảng Cộng Sản Việt Nam lại để Trung Quốc khai thác Bauxite ở Tây Nguyên bất chấp sự phản đối gây gắt của dư luận.
Có một sự trùng hợp khá kỳ lạ lạ sau khi cho TQ khai thác Bauxite ở Tây Nguyên ĐCSVN lại nhanh chóng thông qua việc xây dựng các nhà máy điện Hạt Nhân với kinh phí rất lớn mặc dù vẫn chưa được sự đồng tình của dư luận, điều này đặt ra một giả thuyết khai thác Bauxite ở Tây Nguyên chỉ là phụ chứ mục đích chính của dự án là khai thác quặn phóng xạ? Việc Tây Nguyên có tìm ẩn những mỏ Phóng xạ là điều rất có cơ sở vì không phải vô tình mà Pháp lại đặt Lò Phản Ứng Hạt nhân duy nhất của Việt Nam ở Đà Lạt mà không đặt ở những nơi khác.
Vừa qua Tiến Sĩ Mai Thanh Tuyết cũng có đề cập đến vấn đề này trong bài “Quặng Bauxite hay quặng phóng xạ?” và trong bài cũng đề cập đến việc công ty NWT Uranium Corp. ở Toronto Canada đồng ý chia sẻ việc triển khai và khai thác quặng mỏ Uranium ở Việt Nam đồng thời vào ngày 06/08/2009 chính ông Trần Xuân Hương Bộ Trưởng Bộ Môi Trường và Tài Nguyên đã chính thức thừa nhận Việt Nam sẽ thăm dò và khai thác quặng mỏ Phóng Xạ ở Nông Sơn và ông có nhắc đến cả Lâm Đồng trong tương lai.
Như vậy phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam đang ầm thầm bán rẻ một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có giá trị về mặt quân sự là quặng phóng xạ Uranium cho Trung Quốc để đổi lại Trung Quốc sẽ cung cấp nguyên liệu cho các lò phản ứng Hạt Nhân của Việt Nam trong tương lai? Liệu âm mưu này có dừng lại ở đó hay nó còn ẩn khúc nào khác nữa?
Phải nói là giả thuyết này là rất có cơ sở vì không thể trùng hợp đến mức Đảng Cộng Sản Việt Nam thông qua việc xây dựng các nhà máy điện nguyên tử ngay sau khi đã sắp đặt yên ổn các dự án bauxite ở Tây Nguyên mà tại sao không thông qua trước hoặc đợi một thời gian sau mới đặt vấn đề xây dựng các nhà máy điện nguyên tử. Phải chăng đây mới chính là “chủ trương lớn của Đảng” mà Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu trên báo chí để nhân dân không thể bàn cãi và không thể giám sát các dự án đang diễn ra?
Sự khống chế về kinh tế còn thể hiện ở việc rất nhiều nhà đầu tư Trung Quốc đang làm mưa làm gió trên thị trường Việt Nam, góp phần với các công ty đại gia của người Hoa trong giới làm ăn người ta thường bàn tán về rất nhiều “đại gia lạ” có vốn rất mạnh họ có thể huy động vài trăm đến vài ngàn tỷ ngay khi cần đến! Đặc biệt nguồn gốc của các “đại gia lạ” này không rõ ràng chỉ biết rằng đứng đằng sau họ là các công ty ở Đài Loan và Trung Quốc. Nếu cùng hợp sức lại họ có thể tạo nên những đợt biến động giá cả ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của Việt Nam, nhưng qua những đợt biến động giá cả vừa qua chỉ nghe báo chí nhắc đến “nhà đầu cơ” mà các cơ quan chức năng tuyệt nhiên không thể tìm ra bất cứ “nhà đầu cơ” nào âu cũng là điều khó hiểu?
3) Về lĩnh vực chính trị tôn giáo:
Về lĩnh vực chính trị và tôn giáo ĐCS Trung Quốc đã thành công khi gây áp lực lên ĐCS Việt Nam trục xuất các Tăng Ni Làng Mai tại Bát Nhã vì Thiền Sư Nhất Hạnh đã công khai ủng hộ Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một cuộc phỏng vấn. Thiền Sư Nhất Hạnh được xem là người Phật Giáo nổi tiếng thứ nhì thế giới chỉ sau Đức Đạt Lai Lạt Ma. Năm 2005 Thiền Sư Nhất Hạnh đã về Việt Nam lập trai đàn cầu siêu điều đó chứng tỏ chính quyền Việt Nam không coi Tổ chức Làng Mai của Thiền Sư là một tổ chức chống đối, vì thế việc trấn áp các Tăng Ni Làng Mai ở Bát Nhã rõ ràng chỉ có một lý do duy nhất là cách mà Hà Nội làm vui lòng Bắc Kinh chứ không thể vô duyên vô cớ ĐCS Việt Nam lại dính vào chuyện đàn áp tôn giáo đối với vài trăm Tăng Ni chẳng làm gì bất lợi với họ cho thêm chuyện rắc rối.
Thời gian gần đây không có nhiều bằng chứng về áp lực của Trung Quốc trong quan hệ đối ngoại với Việt Nam, tuy nhiên nếu đọc lại hồi ký của Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ chúng ta thấy rằng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước khác nhất là Mỹ luôn chịu áp lực rất lớn từ Trung Quốc nhất là trong quá khứ khi Việt Nam đáng lẽ có thể gia nhập WTO trước Trung Quốc lại phải đợi Trung Quốc gia nhập WTO xong Việt Nam mới có thể tham gia đã khiến Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi trong quá trình đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc.
Dĩ nhiên là hiện nay Trung Quốc vẫn tiếp tục áp lực Việt Nam chỉ có điều chưa có người nào kể lại cho chúng ta nghe nên chúng ta không biết nhưng không phải vì thế mà chúng ta không nhận ra những dấu hiệu bất thường, và vấn đề này chúng ta sẽ đề cập đến vào một bài viết khác.
4) Về lĩnh vực quốc phòng tình báo:
Mối quan hệ giữa giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc là một tập hợp một chuỗi gồm những câu chuyện hết sức bí ẩn bất thường. Một bí ẩn rất lớn được đặt ra trong ngành quốc phòng tình báo đến nay vẫn chưa có câu trả lời.
Mặc dù trong thời gian vừa qua Việt Nam đã tích cực mua sắm các phương tiện quốc phòng tối tân như tàu ngầm, máy bay để đối phó với sự tăng cường lực lượng hải quân của Trung Quốc trên biển đông điều đó tạo ra cảm giác cho nhân dân Việt Nam rằng lĩnh vực quốc phòng của Việt Nam luôn vững mạnh và luôn được đầu tư tăng cường. Nhưng hầu hết ít ai chú ý rằng cho dù quân đội của ta có hiện đại hay có mạnh đến đâu nếu bị gián điệp của Trung Quốc kiểm soát thì chúng ta sẽ thua thảm hại trước khi cuộc chiến xẩy ra. Ví dụ như nếu Trung Quốc biết được vị trí các trạm rada đi động của ta, nơi cất giấu máy bay, tên lửa chủ lực hay đơn giản hơn là cách hoạt động và thông số kỹ thuật của các vũ khí hiện đại thì họ sẽ có cách để tiêu hủy hay chế ngự khả năng quốc phòng của nước ta.
Vì vậy việc phát hiện và truy tìm gián điệp của địch là một công việc cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực quốc phòng nếu không làm tốt được vấn đề này thì không thể nào nói rằng quốc phòng ta đã vững mạnh, nhất là khi nước ta có sự hiện điện đông đảo một bộ phận người Việt gốc Hoa nữa. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua kể từ sau hai nước Việt Nam Trung Hoa bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1991 đến nay chưa hề có trường hợp nào Việt Nam phát hiện được gián điệp tình báo của Trung Quốc.
Trong khi các nước Châu Âu, Mỹ chỉ trong chục năm trở lại đây họ đã phát hiện ra hàng trăm hàng ngàn gián điệp Trung Quốc còn Việt Nam một nước sát biên giới với Trung Quốc luôn nằm trong tầm ngắm của Trung Quốc lại không tìm ra được 1 tên gián điệp nào trong 20 năm? Đó có phải là một điều kỳ lạ hay không?
Trong khi thành tích của ngành tình báo phản giản Việt Nam đâu phải là tồi khi những chiến công chống lại “bọn phản động” và “diễn biến hòa bình” của phương Tây đã bị dập tắt từ trong trứng nước. Nhất là vụ Tổng Cục 4 phát hiện nhiều lãnh đạo cao cấp trong Đảng và chính phủ là người của CIA vậy mà họ không phát hiện được tên gián điệp nào của cục tình báo Hoa Nam?
Và không biết ĐCS Việt Nam có nhận thức được rằng bọn “phản động” cùng lắm chỉ đòi đa đảng, đòi chính quyền còn Trung Quốc sẽ đòi cả nước Việt Nam, và bọn “phản động” đòi là một chuyện còn Đảng có chấp nhận hay không lại là chuyện khác nhất là khi ĐCS luôn tự tin rằng họ được sự ủng hộ và tin yêu của phần lớn người dân thì việc “chống phản động” và “diễn biến hòa bình” đâu có cấp thiết bằng chống ngoại xâm? Nhưng tại sao trong thời gian qua chiến công của ngành tình báo chỉ tập trung vào chống “phản động” chứ không hề có bất kỳ vụ nào “chống ngoại xâm”?
Trong khi tôi biết được hiện tại ở Việt Nam có một vài tổ chức người Việt gốc Hoa, họ có hai quốc tịch cùng một lúc trong đó một quốc tịch Việt Nam một quốc Tịch Trung Quốc hay Hồng Kông, nhiệm vụ của họ là đi khắp nơi thu thập tất cả các thông tin trên báo chí và những gì diễn ra trong xã hội đến cả những chuyện tâm linh của Việt Nam làm báo cáo gửi về cho tổ chức họ. Chuyện này là có thật 100% tuy nhiên vì lý do an ninh của cá nhân tôi nên tôi rất tiếc không thể nói rõ hơn về tổ chức này vì có thể họ sẽ nhận ra tôi là ai. Điều này làm tôi thực sự lo ngại về tình hình gián điệp Trung Quốc tại Việt Nam.
5) Về lĩnh vực tổ chức nhân sự trong chính quyền:
Nếu chúng ta tinh tường một chút chúng ta sẽ thấy rằng bất kỳ Đại Hội Đảng lần nào Trung Quốc cũng cử cán bộ cao cấp sang Việt Nam tham dự hội nghị, thậm chí họ còn cử đại diện sang trước khi đại hội diễn ra. Nhiều tài liệu cho chúng ta biết rằng Trung Quốc bày tỏ quan điểm công khai ủng hộ hay bất ủng hộ đối với một nhân vật nào đó vào cách chức vụ cao cấp trong chính phủ của ta khi họ tham gia hội nghị và dĩ nhiên sự ủng hộ của Trung Quốc rất có trọng lượng. Trong Hồi Ký ngoại giao của Thứ trưởng Trần Quan Cơ đã chứng minh Trung Quốc nhiều lần can thiệp vào việc xắp xếp nhân sự của chúng ta và gây áp lực đòi ĐCS phải sắp xếp những nhân vật thân Trung Quốc.
Và chúng ta biết rằng Trung Quốc không vô duyên vô cớ ủng hộ một ai đó nếu người đó không đem lại lợi ích cho Trung Quốc và các lãnh đạo của ta muốn tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc không thể nào không làm đẹp lòng Trung Quốc điều đó đã dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại cho Việt Nam khi ký kết những hiệp định, những dự án hết sức bất bình đẳng và gây hậu quả nghiêm trọng về lâu dài cho đất nước như dự án bauxite Tây Nguyên, hiệp định gia nhập WTO của Việt Nam được ký giữa Việt Nam và Trung Quốc…
Vậy hiện nay với cách tổ chức và sắp đặt nhân sự lãnh đạo chỉ dựa vào uy tín trong Đảng, sự ủng hộ của Trung Quốc và sức mạnh bè phái của nhân vật đó thì liệu đã có bao nhiêu tên gián điệp Trung Quốc đứng trong hàng ngũ lạnh đạo của chính phủ Việt Nam? Và liệu có bao nhiêu lãnh đạo đã vô tình tiếp tay làm lợi cho Trung Quốc mà bán rẻ lợi ích dân tộc để đổi lấy quyền lực cho bản thân mình?
6) Về vấn đề biên giới lãnh thổ:
Về biên giới lãnh thổ Trung Quốc đã thành công và được rất nhiều lợi thế khi ký kết hiệp định biên giới với Việt Nam. Đến tận ngày nay bất chấp áp lực của dư luận yêu cầu Đảng Cộng Sản phải công khai bản đồ phân mốc cắm giới với Trung Quốc, nhưng bản đồ cắm mốc phân giới vẫn được giấu kín làm nhiều người bày tỏ mối nghi ngờ Việt Nam bị mất rất nhiều đất vào tay Trung Quốc như mất một phần Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, Bãi Tục Lãm…
Việc ký kết hiệp định biên giới với Trung Quốc mà không công bố bản đồ phân giới cắm mốc là việc làm không minh bạch rõ ràng và mờ ám, huống chi bản đồ phân giới cắm mốc phân giới các quốc gia đều công khai thì lý gì ĐCS Việt Nam lại phải giấu đi? Phải chăng giống như lời nói của ông Lê Công Phụng Việt Nam chúng ta “được” thêm nhiều đất của Trung Quốc nên không dám công bố chăng?
Về thác Bản Giốc ông Lê Công Phụng từng nói toàn bộ thác phụ thuộc Việt Nam ta ngoài ra chúng ta còn lấy “được” phân nửa thác chính và cho đó là một thành công trong đàm phán thì rõ ràng ông đang đùa với mọi người rồi còn gì, chẳng lẽ Trung Quốc tốt bụng đến nỗi nhường phân nửa cái Thác Bản Giốc đẹp như vậy cho Việt Nam trong khi Việt Nam đã có toàn bộ thác phụ?
7) Và cuối cùng, viễn tưởng một cuộc chiến tranh với Trung Quốc trong tương lai:
Như tôi đã đề cập ở trên Trung Quốc đã và đang âm mưu khống chế hoàn toàn Việt Nam trong tương lai và việc Trung Quốc đang gia tăng sức ảnh hưởng đã chứng minh điều đó, đây đã là một vấn đề rất rõ ràng. Nhưng nếu chúng ta cho rằng mục đích chính của Trung Quốc là xâm lược Việt Nam thì điều đó chưa hẳn đã chính xác hoặc chưa chính xác vào thời điểm hiện tại hay chưa chính xác về cách thức diễn ra cuộc xâm lược ấy.
Chúng ta biết rằng giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có một lịch sử không được tốt đẹp cho lắm khi nhân dân Việt Nam luôn phải đấu tranh chống lại quân xâm lược phương Bắc, còn Trung Quốc đã nhiều lần thảm bại tại Việt Nam và đến tận bây giờ họ vẫn chưa chiếm được một nước Việt Nam nhỏ bé. Nói không chiếm được cũng không chính xác, Trung Quốc từng đã chiếm được Việt Nam nhưng họ không giữ được Việt Nam, và có lẽ sau cuộc chiến tranh biên giới 1979 người Trung Quốc đã học được một bài học rằng việc trực tiếp đem quân đánh chiếm Việt Nam không phải là một cách làm khôn ngoan và sẽ không có kết quả tốt đẹp.
Huống chi thời đại bây giờ đã khác, thế giới sẽ không ngồi yên nhìn Trung Quốc “dương oai diễu võ”, thay vì phải tốn công sức đánh chiếm Việt Nam cho dù có chiếm được cũng chưa chắc giữ được đất Việt Nam lại bị áp lực quốc tế nên Trung Quốc sẽ tìm cách kiểm soát Việt Nam biến Việt Nam trở thành một nước chư hầu, một sân sau của Trung Quốc và đó là cách xâm lược Việt Nam hiệu quả nhất trong thời điểm hiện tại mà không phải tốn nhiều công sức.
Mao Trạch Đông từng nói chấp nhận hi sinh phân nửa dân số Trung Quốc để chiếm lấy cả thế giới và Trung Quốc với tư tưởng Hán quyền hàng ngàn năm nay, khi họ luôn xem mình là trung tâm của thế giới và luôn muốn đứng trên đầu tất cả các nước khác thì lời nói của Mao Trạch Đông rất có thể trở thành sự thật trong tương lai không xa khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc còn cầm quyền.
Chúng ta nên nhớ rằng liên quân phát xít chỉ có Đức – Ý – Nhật, dân số của cả 3 nước trước khi xẩy ra Thế Chiến thứ 2 cũng chỉ cỡ một trăm triệu người mà Liên Minh Phát Xít đã tạo nên một cuộc chiến tranh tàn khốc nhất lịch sử thế giới thì Trung Quốc hiện tại với hơn một 1,2 tỷ dân, nếu đem phân nửa 600 triệu dân Trung Quốc ra đánh chiếm thế giới thì Liên Minh Phát Xít trong thế chiến thứ 2 chẳng đáng là gì cả.
Như vậy cho dù Trung Quốc có muốn thôn tính thế giới hay không thì trước khi chiếm được thế giới Trung Quốc vẫn cần có đồng minh, việc Trung Quốc ngày càng tạo ảnh hưởng và đứng đằng sao những nước độc tài ở Châu Phi, Miến Điện, Bắc Hàn và tạo mối quan hệ chặt chẽ với các nước XHCN như Venezuela đã cho thấy Trung Quốc đang tập trung xây dựng một lực lượng chư hầu, đồng minh khắp thế giới. Qua đó ta thấy rằng Trung Quốc có tham vọng rất lớn trong việc bành trướng sự ảnh hưởng của họ ra khắp thế giới. Dĩ nhiên Trung Quốc cũng muốn Việt Nam trở thành một chư hầu của Trung Quốc tương tự như Bắc Hàn, Miến Điện… nhưng phải nói Việt Nam luôn là nước phức tạp nhất và khó khăn nhất trên bàn cờ chiến lược của Trung Quốc, cái khó khăn lớn nhất ở đây chính là “chủ nghĩa dân tộc” mà Trung Quốc đã nhiều lần bày tỏ lo ngại với chính quyền Việt Nam.
Trung Quốc sẽ không xâm lược Việt Nam bằng một cuộc chiến tranh quy mô nhưng sẽ xâm lược Việt Nam bằng một cuộc chiến tranh phá hoại dựa đã chuẩn bị từ trước và sau cuộc chiến tranh đó Trung Quốc sẽ khống chế hoàn toàn Việt Nam để Việt Nam ngoan ngoãn trở thành một chư hầu của Trung Quốc. Trường Sa hiện tại chỉ là con bài của Trung Quốc dung để đối phó với Việt Nam, khiến Việt Nam tập trung vào Trường Sa mà lơ là sự quan tâm trên đất liền, nếu khống chế được Việt Nam thì việc chiếm được Trường Sa đâu có cần thiết nữa.
Vậy việc khống chế các lĩnh vực kinh tế xã hội chính chị ở Việt Nam sẽ giúp gì cho một cuộc “xâm lược kiểu mới” của Trung Quốc và sau cuộc xâm lược Trung Quốc sẽ điều kiển Việt Nam như thế nào? Chúng ta đừng quên rằng người Việt Nam mặc dù rất yêu nước nhưng những người như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắt cũng từng là người Việt Nam, thời Pháp cũng có nhiều người Việt Nam làm Việt Gian cho Pháp và Trung Quốc sẽ dùng những người như Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắt hay nói gọn là bọn Việt Gian mà chúng đã đào tạo được để điều kiển Việt Nam và cuộc chiến tranh phá hoại Việt Nam ngoài mục đích đưa Việt Nam trở lại thời kỳ nghèo nàn lạc hậu còn là cách Trung Quốc đưa những tên Việt Gian lên cầm quyền.
Cuộc chiến tranh ban đầu sẽ được bắt đầu bằng việc Trung Quốc đánh vào nội bộ Việt Nam, Trung Quốc sẽ kích động các lực lượng chính quyền thân Trung Quốc đàn áp các tôn giáo, kích động chia rẽ tôn giáo gây rối loạn tình hình xã hội Việt Nam. (Trung Quốc sẽ không bao giờ kích động lật đổ chế độ Việt Nam).Tiếp theo sau Trung Quốc sẽ dung các “đại gia lạ” của mình tạo nên những cơn sốt về giá cả, tiền tệ nhằm đánh sập nền kinh tế Việt Nam tạo ra khủng hoảng bất ổn trong xã hội, rồi chính lúc này Trung Quốc sẽ tìm lý do gây chiến với Việt Nam có thể là đánh chiếm Trường Sa, lợi dụng sự phản khán của Việt Nam để có cớ gây chiến tranh.
Trung Quốc trong khi thi công các công trình đường xá, hệ thống cống ngầm, ống thoát nước, các nhà máy xí nghiệp đã có nắm được toàn bộ các cơ sở hạ tầng ở các thành phố lớn của Việt Nam như Sài Gòn và Hà Nội.
Hàng trăm hàng ngàn quân đội của Trung Quốc giả dạng công nhân sẽ biến những ống cống thoát nước thành những trái bom khổng lồ lòng các thành phố tương tự như những vụ nổ ở Guadalajara Mexico vào năm 1992 gây thiệt hại khủng khiếp cho các thành phố lớn. Ngoài ra quân đội Trung Quốc còn đặt bom phá hoại cách cơ quan xí nghiệp, các nhà máy điện, phá hoại hệ thống viễn thông, cáp ngầm… do Trung Quốc xây dựng (có thể ngay trong quá trình xây dựng họ đã đặt bom ở đâu đó chỉ chờ ngày kích hoạt) khiến toàn bộ Việt Nam bị cắt điện bị mất liên lạc với thế giới bên ngoài. Cũng có trường hợp trong quá trình xây dựng Trung Quốc đã để lại những thiết bị định vị cho tên lửa để tên lửa của Trung Quốc có thể rơi chính xác vào những vị trí mà Trung Quốc mong muốn khi tấn công Việt Nam gây thiệt hại lớn nhất cho Việt Nam ta.
Dựa vào lực lượng tình báo và gián điệp mấy chục năm hoạt động thuận lợi tại Việt Nam Trung Quốc có thể dễ dàng thủ tiêu hệ thống phòng thủ của Việt Nam, dùng máy bay tên lửa tiêu diệt các sân bay, trạm rada, các khu vực chứa tên lửa, thiết bị quân sự chiến lược khiến Việt Nam không thể chống trả.
Như vậy chỉ trong một ngày cách lãnh đạo Trung Quốc chỉ ngồi một chỗ nhấn nút điều kiển các tên lửa, máy bay và gọi điện thoại để chỉ huy một cuộc chiến tranh phá hoại Việt Nam mà không phải mất một binh một tướng nào trong khi vẫn đem lại những hậu quả hết sức nặng nề cho Việt Nam. Sau đó hàng ngàn quân đội Trung Quốc giả danh các công nhân khai thác Bauxite sẽ kích động đồng bào thiểu số vốn có mâu thuẩn với chính quyền trong quá khứ, hậu thuẫn vũ khí cho họ thông qua cao nguyên bên Lào giáp ranh cao nguyên với Việt Nam đã được Trung Quốc thuê trong 50 năm để chiếm lấy Tây Nguyên thành lập một nhà nước khác ngay trong lãnh thổ Việt Nam, chiếm được Tây Nguyên thì Trung Quốc có thể tách đôi nước Việt Nam ta ra làm hai.
Hoàn cảnh bây giờ Việt Nam đã mất khả năng tự vệ do nội bộ rối loạn và những thiệt hại nặng nề sau sự phá hoại của Trung Quốc buộc phải đầu hàng nhượng bộ Trung Quốc để đổi lại Trung Quốc sẽ không đem quân qua đánh Việt Nam, các lãnh đạo không thuận theo Trung Quốc buộc phải từ chức, những gián điệp Việt Gian của Trung Quốc được đưa lên để bảo đảm “hòa bình” cho Việt Nam và Việt Nam buộc phải chịu nhiều thiệt thòi để được hưởng hòa bình với Trung Quốc.
Dĩ nhiên thế giới sẽ chỉ trích mạnh Trung Quốc nhưng Trung Quốc đã khá quen với việc “chỉ trích” rồi, cuộc chiến tranh sẽ được giải thích theo nhiều cách, chẳn hạn như cuộc chiến tranh 1979 và sau này sẽ không có người Việt Nam nào được nhắc lại vì “quan hệ tốt đẹp giữa hai Đảng và nhân dân hai nước”. Cũng không loại trừ Trung Quốc sẽ thiết lập một chiến quyền tương tự như Miến Điện hay Bắc Hàn ở Việt Nam để ngu hóa dân Việt Nam cho bọn Việt Gian dễ cai trị và Trung Quốc đã hoàn toàn khống chế được Việt Nam là đều không còn gì phải nghi ngờ.
Lời Kết
Sự phân tích của tôi trong bài viết này nhất là việc suy đoán những âm mưu của Trung Quốc cũng như viễn tưởng một cuộc chiến tranh phá hoại của Trung Quốc trong tương lai rõ ràng là không đủ cơ sở, nhưng tương lai không thể biết trước được nhất là đối với Trung Quốc thì không có chuyện gì là không thể xẩy ra, do đó có thể mười điều tôi viết chỉ có một điều đúng thì ít ra nó cũng đóng góp phần nào cho những tiếng nói tâm huyết đang hết sức lo lắng cho vận mệnh của dân tộc trong tương lai khi Trung Quốc ngày càng thể hiện rõ tư tưởng bá quyền của họ.
Vấn đề quan trọng bây giờ là chúng ta phải làm sao tìm ra trong hàng ngũ lãnh đạo ai là những người Cộng Sản hết lòng hết tâm vì quê hương, ai là Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc để đề phòng và ủng hộ đúng người đúng việc. Chúng ta phải thuyết phục Đảng Cộng Sản Việt Nam rằng “chống ngoại xâm” quan trọng hơn hẳn “chống phản động” và “chống diễn biến hòa bình” và kêu gọi các Đảng Viên phải đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của Đảng trong quan hệ với Trung Quốc để tránh thiệt thòi và những hậu quả về sau.
Sau cùng là cần phải có một cuộc kiểm tra và đánh giá chi tiết sự ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt Nam, kiểm tra lại những công trình quan trọng như các nhà máy điện, xí nghiệp, các hệ thống thoát nước viễn thông do các nhà thầu Trung Quốc thi công có gì mờ ám không, ngưng ngay trái bom Bauxite đang được cài đặt trên Tây Nguyên chỉ còn chờ ngày kích hoạt.
Vì đất nước vì tương lai của chúng ta đã đến lúc mọi người quan tâm một cách thiết thực hơn!
http://baotoquoc.com/2009/12/13/am-m%C6%B0u-kh%E1%BB%91ng-ch%E1%BA%BF-hoan-toan-vi%E1%BB%87t-nam-c%E1%BB%A7a-trung-qu%E1%BB%91c/
*
LÝ ĐẠI NGUYÊN * VIỆT CỘNG, MỸ & TRUNG CỘNG
QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG TRONG MƯU TÍNH CỦA HÀNỘI, HOA THỊNH ĐỐN, BẮC KINH
Khác với các quốc gia dân chủ trọng pháp tiên tiến, quân đội được đào tạo thành lính chuyên nghiệp, phục vụ cho quốc gia, bảo vệ cho toàn dân và tuyệt đối trung thành với luật pháp dân chủ của quốc gia mình. Còn ở các nước có nạn độc tài, hay dân chủ non yếu, thì quân đội đều là của đảng nắm chính quyền, hay của những nhà lãnh đạo độc tài, dùng quân đội làm phương tiện bảo vệ quyền lực của đảng, hay nhà cầm quyền, nhằm chống lại ý nguyện tự do, công lý của toàn dân và đôi khi đi ngược lại với quyền lợi của tổ quốc. Cuối cùng dẫn đến tình trạng quân đội trở thành chỗ dựa cho quyền lực chính trị, biến quân đội thành lực lượng chính trị quyết định vận mệnh quốc gia. Như trường hợp ở Tháilan hiện nay, chính phủ phải trông vào sức mạnh quân đội để vãn hồi trật tự đường phố, trước sự đối kháng của phe Áođỏ, rồi sự phản ứng của phe Áovàng…Ngược lại trường hợp của nước Kyrgyzstan, ngày 07/04/2010, dân chúng nổi lên chống tổng thống lạm dụng quyền lực là Kurmanbek Bakiyev. Ông đã ra lệnh cho quân đội bắn chết 84 người biểu tình. Rồi ông bị lật đổ, chạy trốn và bị kết tội “giết người hàng loạt”.
Ở Việtnam hiện nay, thì quân đội là của đảng Cộngsản. Tổng bí thư là Bí Thư Quân Ủy Trung Ương, trực tiếp lãnh đạo quân đội. Quân đội Việtcộng tuyệt đối “Trung với Đảng”. Nhiệm vụ hàng đầu của quân đội Việtcộng là bảo vệ cho sự tồn tại của đảng. Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc của người quân nhân thì phải chờ lệnh đảng. Còn “Hiếu với Dân” thì hậu xét. Chính vì vậy, mà trước sự uy hiếp của Trungcộng trên khắp biển Đông, quân đội Việtcộng vẫn phải câm nín, coi như Trungcộng đang xâm phạm lãnh hải của một nước khác. Nào là Trungcộng bắt, giết ngư dân Việtnam trong vùng Hoàngsa, nhằm khẳng định chủ quyền của họ ở Hoàngsa, mà năm 1974, chúng đã đánh chiếm từ tay quân đội Việtnam Cộnghòa. Giờ đây Trungcộng laị bắt đầu đưa tàu Ngưchính tuần tra thường xuyên vùng biển Trườngsa, để hộ tống các tàu đánh bắt cá của chúng, với mục đích xác lập chủ quyền của họ không rìêng đối với Việtnam, mà còn với toàn khối ASEAN và thế giới. Bộ ngoại giao Việtcộng chỉ lên tiếng phản đối lấy lệ, cho rằng làm việc đó là “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việtnam đối với đảo này”. Không dám triệu tập Đại Sứ Trungcộng ở Hànội tới trao công hàm phản đối.
Đây là mối đau của toàn dân, mối nguy của đất nước, mối nhục của những người đã từng một thời chiến đấu cho nền độc lập dân tộc. Nhất là đối với các cựu tướng tá trong quân đội Việtcộng, nên giới này là những người lên tiếng mạnh bạo nhất trong đợt Trungcộng mở cuộc xâm lăng toàn diện cả về quốc phòng, chính trị, kinh tế, văn hóa tại Việtnam. Họ và những đồng đội tại chức đang ra sức thúc đẩy Việtnam “Quốc Tế Hóa Biển Đông”. “Đa Phương Hoá Quốc Phòng” với thế giới. Theo báo Pháp Luật trong nước, thì dự thảo đề án Hợp Tác Tăng Cường Năng Lực cho Hệ Thống Quản Lý về Biển do Tổng Cục Biển và Đảo Việtnam soạn thảo thì: “Việtnam cần ưu tiên hợp tác quốc tế với một số nước có trình độ quản lý biển tiên tiến như Mỹ, Đức, Hàlan, Nhậtbản…để khắc phục các hạn chế trên. Trong đó, Mỹ được đánh giá là một trong số những nhà tài trợ tiềm năng. Việtnam sẽ tiếp cận với chính phủ Mỹ, nhằm lồng ghép việc tăng cường năng lực quản lý vùng ven biển, đặc biệt ở khu vực duyên hải miền Trung và vịnh Tháilan, vào các hoạt động trong khuôn khổ chiến lược môi trường của chính phủ Mỹ tại Việtnam trong năm tới. Được biết, Tổng Cục Khí Quyển và Đại Dương Quốc Gia Mỷ đã đang hỗ trợ cho Việtnam trong việc quản lý vùng ven biển vịnh Bắcbộ”.
Từ khi nhập nội Việtnam, Hoakỳ đã đặt nặng Quốc Phòng tại đây ngang với Kinh Tế. Nếu không xây dựng được một hệ thống quốc phòng cho Việtnam vững mạnh đủ sức làm nản lòng bành trướng của Bắckinh, thì việc đầu tư của Mỹ ở đây rất phiêu lưu, mà toàn vùng Đông Nam Á cũng sẽ bị Trungcộng khống chế. Thế nhưng sự quá khác biệt, đến trái ngược giữa 2 hệ thống Quân Đội của Đảng Việtcộng với Quân Đội của Nước Hoakỳ. Thêm vào đó Việtcộng không dám qua mặt đàn anh Trungcộng, và ngay cả Hoakỳ chưa muốn tạo cho Trungcộng mối lo ở phương Nam. Nên Mỹ phải từng bước thận trọng, đi từ sự hiện diện, đến huấn luyện, trợ giúp kỹ thuật không sát thương…Nhưng Trungcộng lại được thế, hung hăng nhận chủ quyền khắp biển Đông, khiến cho lãnh đạo Việtcộng bị trói tay, khoá miệng. Thanh Niên, Trí Thức, Toàn Dân phẫn nộ ra mặt, kết án đảng bán nước. Quân đội Việtcộng cũng muốn có ngay những chiến cụ và vũ khí tối tân của Mỹ để chống giặc Tầu xâm lăng. Chuyến đi Mỹ của tướng Phùng Quang Thanh đã đề nghị Mỹ bán cho Việtnam những vũ khí chiến đấu kỹ thuật cao. Nhưng Mỹ đã nhường cho Nga cung cấp tàu ngầm, máy bay cho Việtnnam, để Ấnđộ giúp huấn luyện, nhằm kéo Nga vào cuộc chơi ‘toàn cầu mới’, mà Trungcộng trở thành “đối trọng chiến lược” có công dụng dồn các nước Á Châu và cả Âu Châu vào vị thế phòng thủ chung với Mỹ.
Vấn đề quốc phòng Việtnam, do đó trở thành mối quan tâm hàng đầu của Hànội, Washington và Bắckinh. Hànội phải cho Phùng Quang Thanh, bộ tưởng quốc phòng, ngày 21/04 đến 28/04/2010, cầm đầu một phái đoàn hùng hậu, gồm một số cơ quan quốc phòng, bộ tư lệnh quân khu 1, quân khu 2, quân khu 3, bộ tư lệnh hảiquân, biên phòng, quân chủng phòng không- không quân…sang Tầu gặp bộ trưởng quốc phòng Trungcộng Lương Quang Liệt, sau đó gặp Tập Cận Bình, phó chủ tịch nước, và Từ Tài Hậu, phó chủ tịch quân ủy trung ương Trungcộng. Trungcộng muốn mở rộng hợp tác quân sự với Việtnam. Tập Cận Bình nhắc lại rằng: Theo kế hoạch hợp tác chiến lược, quân đội 2 bên phải tăng cường hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, thảo luận các giải pháp về quản lý, bảo vệ biên giới và thẳng thắn trình bày, giải quyết những trở ngại có thể tạo bất lợi cho quan hệ song phương”. Phái đoàn quốc phòng Việtcộng Phùng Quang Thanh chưa kịp về nước, thì ngày 24/04 đến 03/05/10 một phái đoàn Ủy Ban Quốc Phòng và An Ninh của Quốc Hội Việtcộng đã sang Bắckinh, nhằm hội kiến với Ủy Ban Đối Ngoại Quốc Hội Trungcộng, cùng bàn bạc cụ thể hóa việc phát triển quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện giữa 2 nước, nhất là trong lãnh vực an ninh và quốc phòng.
Xem vậy, Trungcộng đang gấp rút tìm mọi cách để khống chế toàn diện Việtnam, nhất là nắm chặt quân đội Việtcộng, để cho Viêtnam không thể “đa phương hoá” quốc phòng, không còn cơ hội “quốc tế hóa” biển Đông, không thể dựa vào Mỹ, nhằm ngăn cuộc bành trướng xâm lăng của Bắckinh đối với Việtnam. Hànội hãy mau tỉnh thức. Hoakỳ và NATO dự tính kết thúc cuộc chiến Afghanistan nội trong năm nay. Riêng Hoakỳ đang dồn lực lượng Hải Quân và tiềm thủy đĩnh từ Trungđông sang vùng Đông Nam Á, để mở ra phòng tuyến mới, một trận thế mới, nhằm chấm dứt tình trạng “nước lớn hiếp nước nhỏ”, tạo nhiều cơ hội cho các nước trong vùng dân chủ hóa chế độ để phát triển kinh tế, phát huy văn hóa, quân bằng xả hội. Little Saigon ngày 27/04/2010.
Đăng trong: Lý Đại Nguyên
Thursday, July 29, 2010
ĐỖ THÁI NHIÊN * SỨC MẠNH CHỐNG BẮC XÂM
Feb 23, 2009.
Sức mạnh chống Bắc xâm
Tác giả: Đỗ Thái Nhiên
Sức mạnh chống Bắc xâm
Tác giả: Đỗ Thái Nhiên
Có thể nói lịch sử Việt Nam là lịch sử chống xâm lược Trung Quốc. Mặt khác, chính lịch sử chống Bắc xâm của dân tộc Việt Nam đã là những bức tranh giúp thế giới thấy được lòng yêu nước của dòng giống Lạc Hồng. Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ… là những thanh âm vang vọng muôn đời rằng hàng rào phòng thủ bao quanh đất nước Việt Nam chính là lòng yêu nước và rằng không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác, nam nữ, mọi người Việt Nam đều yêu nước nồng nhiệt.
Câu hỏi được đặt ra là: Liệu chừng có sự khác biệt hay không giữa lòng yêu nước của người Việt xưa và người Việt nay?
Phát âm hai chữ yêu nước rất dễ. Dùng chính xương máu của mình để biểu lộ lòng yêu nước không phải là chuyện đơn giản. Yêu nước phải có sức mạnh. Sức mạnh của một dân tộc được qui định bởi hai yếu tố: tinh thần và vật chất.
Đời sống thể chất của người dân sẽ lớn mạnh nếu trẻ em không bị nuôi dưỡng bằng sữa pha melamine hoặc sữa giả chỉ có dưới 2% chất đạm (Tin báo chí trong nước: Từ 08/2008 cho đến nay 02/2009 sữa giả bị khám phá nhưng vẫn tràn ngập thị trường Việt Nam, CSVN bất động(1)). Câu chuyện về sữa dành cho trẻ em chỉ là sự nhấn mạnh: đời sống thể chất của người dân chỉ đươc chăm sóc hợp lý trong trường hợp nhà cầm quyền không thối nát.
Đời sống tinh thần hay nói rõ hơn, lòng yêu đồng bào, yêu nước của người dân chỉ cất cánh bay cao nếu người dân được sinh sống trong một môi trường văn hóa truyền thống và lành mạnh. Muốn vậy văn hóa phải được rao giảng từ giáo dục học đường và giáo dục truyền thông xã hội. Cả hai nguồn cội giáo dục trọng yếu kia đều bị què quặt dưới ách cai trị của nhà cầm quyền phi chính thống: CSVN.
Năm 1954 Miền Bắc Việt Nam, sau đó năm 1975 toàn thể Việt Nam bị tràn ngập bởi một hình thái văn hóa quái dị: tham ô và hối lộ được nâng lên hàng phong tục. Khi nhà nước muốn cướp đất của dân thì lập tức đất của dân biến thành công viên cây xanh. Sau đó chẳng bao lâu công viên cây xanh trở thành đất làm nhà cho cán bộ thống trị. Khi nhà nước muốn “ổn định chính trị” thì lập tức nhà riêng của những công dân yêu chuộng tự do dân chủ bị bôi trét bởi khối lượng lớn phân người pha trộn dầu nhớt.
Hành động pha trộn kia nhằm làm cho công việc tẩy rửa mùi xú uế cực kỳ khó khăn. Khi CSVN muốn bảo vệ “uy tín” của đảng thì tội nhận hối lộ 2 triệu 600 ngàn Mỹ Kim của một công ty Nhật Bản lập tức biến thành tội cho thuê công ốc để bỏ túi riêng 70.000 Mỹ Kim… Sau nhiều thập niên ngụp lặn trong văn hóa đá cá lăn dưa như vừa mô tả dân tộc tình và dân tộc tính của một số người Việt quốc nội đã có những thoái trào nào chăng? Câu trả lời nằm trong các thảm cảnh điển hình sau đây.
Thảm cảnh một − Ngày 1 tháng Giêng, 2009, nhà cầm quyền Hà Nôi long trọng mở lễ hội Hoa Xuân 2009. Sau giờ khai mạc chẳng bao lâu, người Hà Nội, đặc biệt là đông đảo giới trẻ Hà Nội, đã thô bạo nhảy vào hội hoa. Người bẻ cành hoa, kẻ ôm nguyên chậu cây kiểng, mạnh ai nấy cướp hoa, trộm lá. Họ hiên ngang hành động như hội hoa bỗng nhiên hiện ra ở chốn rừng xanh không người. Chỉ thoáng chốc hoa chưa kịp nở đã vội tàn. Nhìn cảnh hội hoa bi tấn công tàn tệ có người thở dài cho rằng văn hóa Hà Nội ngày nay đang bị “Văn hóa của bầy ruồi” đè bẹp.
Một khi quần chúng phải ứng xử với nhau và với xã hội bằng văn hóa của bầy ruồi làm gì quân chúng kia còn có được ý thức yêu nước.
Thảm cảnh hai ─ Tin từ Vietnamnet, báo điện tử của CSVN, cho biết: tối ngày 20/01/2009, trên quốc lộ I, xe vận tải mang bảng số 29z-0495, chở gỗ tràm theo hướng Bắc Nam, khi tới xã Kỳ Đồng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã đâm thẳng vào một xe chạy ngược chiều. Xe này chở trái cây mang bảng số 34l-2265. Tai nạn xảy ra làm hai tài xế cùng hai phụ xe bị thương rất nặng. Xác người bị thương, trái cây hòa với máu văng tung tóe trên quốc lộ I, tạo thành cảnh tượng tan nát đến rợn người. Ngay khi tai nạn vừa xày ra, dân chúng từ các làng xã chung quanh vội vàng kéo tới. Thế nhưng thay vì cấp cứu những người bị thương, đám dân chúng kia chỉ biết cướp trái cây, mang chạy về nhà.
Đồng bào không thương yêu đồng bào. Làm gì có sự việc đồng bào yêu nước.
Thảm cảnh ba ─ Tin từ Hà Nội cho biết ngày 05/02/2009, lúc 04 giờ sáng trạm kiểm dịch Hà Đông đã bắt giữ một xe vận tải chuyên chở 1500 gà vịt với giấy kiểm dịch bị cạo sửa. Vì vậy nhà cầm quyền thú y quyết định tiêu hủy số gà vịt vừa kể. Buổi chiều cùng ngày, 30 nhân viên y tế mang số gia cầm bị bắt tới bãi cát Hồng Vân, Thường Tín để thực hiện lệnh tiêu hủy. Khi nhân viên hữu trách bắt đầu ném gà vịt xuống hố và châm lửa hỏa thiêu thì dân chúng địa phương ào ạt nhảy vào cướp gà vit. Ngay cả khi 20 lít xăng đã đổ xuống hố và châm lửa, dân chúng vẫn nhảy xuống hố để cướp gà vịt. Có người bỏ gia cầm cướp được vào bao bố. Có người nhảy xuống hố ném gia cầm ngược lên miệng hố để cho người nhà chụp bắt. Có người leo lên xe chở gà vịt và lái xe ra giữa bãi cát để hành động cướp giật được thực hiện dễ dàng hơn… Kết quả chỉ có khoảng 300 gà vịt bị tiêu hủy 1200 con còn lại chạy vào bụng quần chúng địa phương.
Bản tin về vụ cướp gà ngay giữa huyện Thường Tín, Quận 10 Hà Nội cho thấy một số người Hà Nội ngày nay chủ trương thà ăn gà vịt bệnh còn hơn sống trong đói khổ.
Đứng giữa tình huống người dân quyết định “Vì vịt quên mình, vì gà bỏ mạng”, nhóm chữ “Vị quốc vong thân” nghe thật là mơ hồ và xa lạ!
Chỉ trong vòng 36 ngày Miền Bắc Việt Nam đã bộc lộ ba thảm trạng nói lên ba điểm xấu chính của văn hóa hiện tại. Một là người dân phủ định giá trị của đời sống xã hội. Hai là người dân chỉ yêu trái cây vấy máu chứ không xót thương đồng bào lâm nạn. Ba là người dân xem miếng thịt gà H5N1 quan trọng hơn mạng sống của chính mình. Đọc đến đây hẳn nhiên đảng CSVN sẽ lớn tiếng tố cáo bài viết này là bài viết có mục đích “Nói xấu người Việt Nam”.
Chẳng ai có quyền lợi gì khi phải làm cái công việc bị gọi là “Người Việt nói xấu người Việt”. Vấn đề không là nói xấu hay nói tốt. Vấn đề chính là những tin tức được viện dẫn là những tin tức tuyệt đối chính xác. Vấn đề chính là muốn trị bệnh, bệnh nhân phải nói thật, nói rất thật cho bác sĩ biết mọi chi tiết về diễn tiến của bệnh trạng.
Nói thật như thế kia không có nghĩa là bệnh nhân đã “nói xấu” cơ thể của chính đương sự. Một người muốn trị bệnh nhưng lại né tránh nói về bệnh lý của mình, người đó chẳng khác nào loài chim đà điểu. Có truyền thuyết cho rằng chim đà điểu trốn bảo cát bằng cách cắm đầu vào những đống cát. CSVN hãy từ giả bộ óc của chim đà điểu, hãy bình tĩnh đối diện với hiện tượng “văn hóa của bầy ruồi”.
Ba tin tức về văn hóa quần chúng cộng với những tin tức về đời sống cơm áo của người dân đặt cạnh những tin tức về ải Nam Quan, thác Bản Giốc, về Hoàng Sa, Trường Sa, vể bauxite Tây Nguyên… một người dầu lạc quan tới đâu cũng không thể phủ nhận sự thực rằng lịch sử Viêt Nam hiện đang chìm sâu trong đêm đen mênh mông và bất tận. Trong đêm đen kia đi tìm sức dân để chống ngoại xâm Trung Quốc quả là việc làm của một kẻ nhảy xuống đáy giếng để tìm đường tiếp cận với mặt trăng.
Sức dân được trình bày như một tổng hợp của hai yếu tố tinh thần và thể chất. Tuy nhiên, không người nào không nhận biết rằng: ngày nào “văn hóa của bầy ruồi” còn tồn tại ngày đó sức dân chỉ là sức sống héo mòn của những người bị bệnh liệt kháng. Liệt kháng tim óc là trọng tâm. Liệt kháng thể xác là hệ lụy. Vì vậy vấn đề tiên quyết là sự phục hồi dân tộc tình, dân tộc tính. Phục hồi văn hóa Việt. Câu hỏi cần nêu lên là: Làm thế nào để có thể xác nhận đâu là nguyên nhân của sự việc văn hóa Việt Nam biến đổi thành văn hóa của bầy ruồi?
Câu trả lời nằm ở bài toán trừ. Thực vậy, cùng là người Việt Nam tại sao người Việt ở Nam vỹ tuyến 17 (gọi tắt là người Nam) lễ độ và lịch sự hơn rất nhiều lần so với người Việt sanh ra và lớn lên ở bắc vỹ tuyến 17 (gọi tắt là người Bắc)? Xin thưa rằng: 1975 trừ đi 1954 chúng ta có đáp số là 20 năm. Nói rõ ra: người Bắc đã phải ngụp lặn trong guồng máy giáo dục của đảng CSVN hơn người Nam 20 năm. Đó là lý do giải thích tại sao người Bắc “dữ dằn” hơn người Nam.
Không còn nghi ngờ gì nữa, giáo dục Marx Hồ chính là cội nguồn sản sinh ra “văn hóa của bầy ruồi”. Muốn phục hồi văn hóa Việt, muốn phục hồi sức dân để đương đầu với Bắc xâm, người Việt Nam trong cũng như ngoài nước không còn chọn lựa nào khác hơn là cùng nhau nổ lực đẩy đảng CSVN rơi vào hố đào thải của lịch sử. http://cuantunguy.com/diendan1/viewtopic.php?p=3719&
sid=0bc7a5231be92cfec5fb6158a333bdf0
*
QUỐC PHƯƠNG * HOÀNG VĂN HOAN
Nhìn lại nhân vật Hoàng Văn Hoan & Số phận ông Hoàng Văn Hoan
Tác giả: Quốc Phương
Tác giả: Quốc Phương
Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn xung đột Trung - Việt hồi năm 1979 là vụ bỏ trốn của ông Hoàng Văn Hoan mà đến nay vẫn ít được nói đến.
Không chỉ với chính quyền Việt Nam và cả với dư luận quốc tế, việc một nhân vật cao cấp, công thần của chế độ bỏ đi theo kẻ thù của Hà Nội hồi đó là chuyện 'động trời'.
Báo Time 20/08/1979 có bài đặc biệt về cuộc bỏ trốn của ông Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc.
Bài 'Hanoi's Push' cho rằng vụ ông Hoàng Văn Hoan (1905-1991), nguyên phó chủ tịch Quốc hội, một đồng chí cũ của Hồ Chí Minh bỏ đi vào tháng 7/1979 và tố cáo chế độ là 'cú giáng thứ nhì vào hình ảnh của họ'.
Cú giáng thứ nhất, như tờ báo Mỹ, là 'cuộc tháo chạy của 900 nghìn người' trong vòng bốn năm trước đó, nhắc đến các đợt thuyền nhân bỏ nước ra đi.
Về với Trung Quốc
Time đưa tin rằng tuần trước đó, ông Hoàng Văn Hoan, 74 tuổi, phát biểu tại Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội đối xử với người Hoa 'tệ hơn Hitler đối xử người Do Thái'.
Ông Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị cho đến 1976, cũng cho rằng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Lê Duẩn, đã 'trở thành tay sai ngoại bang', ám chỉ Liên Xô.
Bỏ trốn sang Trung Quốc, ông Hoan như trở về với những đồng chí chia sẻ quan điểm cộng sản kiểu Trung Quốc của ông.
Các tài liệu của Phương Tây từ 1966 đã xác định ông, cùng những ủy viên BCT khác như Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh là 'phái thân Trung Quốc' (pro-Chinese).
Đại tá Bùi Tín, cựu Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân, người cũng bỏ Việt Nam nhưng sang Phương Tây để vận động cho dân chủ, thì quan điểm 'đặc sệt thân Tàu' của ông Hoan đã được biết đến từ trước năm 1979.
Ông Bùi Tín nói ông Hoan xuất thân từ một gia đình Hán học, hoạt động nhiều năm ở Hoa Nam và 'tiếp thu văn hóa, tư tưởng Trung Quốc trực tiếp từ nguồn':
"Ông không đồng tình với quan điểm đứng giữa Liên Xô và Trung Quốc, ông theo phái nghiêng hẳn về Trung Quốc".
"Ông không thấy Trung Quốc có hai mặt: cách mạng và bành trướng".
Từng sang Trung Quốc hoạt động với bí danh Lý Quang Hoa cùng các ông Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan trở thành nhân vật cao cấp phụ trách ngoại giao của Việt Minh.
Lê Duẩn đã phản bội đường lối Hồ Chí Minh và làm hại tình hữu nghị với Trung Quốc
Quan điểm của Hoàng Văn Hoan
Sau đó ông được Hồ Chí Minh, người đồng hương Nghệ An, cử làm đại sứ đầu tiên của VNDCCH tại Bắc Kinh.
Các tài liệu nước ngoài mô tả ông Hoan có vị trí hơn một đại sứ bình thường vì thường được Mao Trạch Đông tiếp riêng để bàn thảo các vấn đề hai nước, kể cả chiến lược đánh miền Nam của Ban lãnh đạo Hà Nội.
Số phận của ông sau khi sang Trung Quốc qua ngả Pakistan vào tháng 7/1979 cùng gia đình cũng phản ánh thái độ của Trung Quốc với Việt Nam và quan hệ hai bên.
Xuất bản cuốn 'Giọt nước trong biển cả', ông đưa ra quan điểm 'tố cáo tập đoàn Lê Duẩn' đã phản bội đường lối Hồ Chí Minh và làm hại đến 'tình hữu nghị với Trung Quốc'.
Cuốn sách được dịch sang tiếng Anh 'A Drop in the Ocean: Hoang Van Hoan's Revolutionary Reminiscences' do Bắc Kinh xuất bản năm 1988, xác định tư cách của ông như một nhân vật Mao-ít đến cùng.
Ông cũng đưa ra cáo buộc rằng Trung ương Đảng ở Việt Nam từ 1982 đã chỉ đạo việc trồng nha phiến để bán ra quốc tế lấy đôla.
'Không giống Hồ Chí Minh'
Ông Bùi Tín, hiện sống tại Paris cho hay ông Hoan khá đơn độc trong đường lối thân Trung Quốc và bác bỏ cách tuyên truyền của Trung Quốc rằng ông Hoan là người duy nhất 'trung thành với đường lối Hồ Chí Minh'.
Ông nói:
"Ông Hồ khéo léo với Trung Quốc hơn nhiều và luôn cố gắng cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc"
Ông Hồ khéo léo với Trung Quốc hơn nhiều và luôn cố gắng cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc.
"Một lần ra đón ông Hồ tại sân bay chúng tôi thấy ông mặc áo khoác có huy hiệu Mao sau chuyến đi thăm Trung Quốc về. Ông hiểu ý và cười rằng 'chỉ đeo ở áo ngoài thôi đấy nhé".
Trái lại, theo ông Tín, Hoàng Văn Hoan hoàn toàn theo đường lối Maoist, ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến 1979, chế độ Pol Pot và phái bảo thủ tại Trung Quốc.
Ở Việt Nam, ông bị tuyên án tử hình vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự phản bội.
Đài báo so sánh Hoàng Văn Hoan với Lê Chiêu Thống và dùng hình ảnh ông để nói về các kẻ thù bên trong.
Đảng cộng sản đã thực hiện một cuộc thanh lọc nội bộ để loại bỏ tất cả những ai bị nghi là có dính líu đến ông Hoàng Văn Hoan.
Trong khi đó, Trung Quốc quyết tâm bảo vệ ông Hoan và coi việc đối xử với ông như một điều kiện để bình thường hóa quan hệ.
Năm 1991, Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước dành cho ông Hoàng Văn Hoan tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi an nghỉ của nhiều cố lãnh tụ cao cấp nhất của Đảng, Nhà nước, và quân đội Trung Quốc.
Việc chấp nhận vị trí của ông Hoan trong lịch sử đầy biến động của Việt Nam xem ra vẫn còn là điều khó khăn ở trong nước dù gần đây, nhà chức trách đã có động tác để hình ông trên trang web của Quốc hội.
Nhưng cho đến nay, số phận của gia đình ông (xem bài đi kèm) cũng là câu chuyện đáng nói và phản ánh cách giải quyết chuyện nội bộ với những người bị coi là 'phản bội' trong lòng một hệ thống đóng kín.
Quốc Phương
BBC Việt ngữ
Số phận ông Hoàng Văn Hoan
Sau 30 năm kể từ Chiến Tranh Biên Giới, Trung Quốc và Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá... sau một cuộc xung đột vũ trang được cho là lần đầu tiên xảy ra giữa hai quốc gia cùng ý thức hệ cộng sản.
Nhưng câu chuyện về ông Hoàng Văn Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc, người bỏ trốn theo Trung Quốc vào tháng 7/1979 vẫn chưa được bàn đến công khai.
Trong cuộc trao đổi dành riêng cho BBC hôm 13/2/2009, một trong những người cháu của ông Hoàng Văn Hoan xin không nêu tên, đã kể nhiều chi tiết 'đầy sóng gió' về số phận của họ.
'Bình phản án tử hình'
Người cháu ông Hoan cho biết:
"Ông Hoan có một người con trai duy nhất là ông Hoàng Nhật Tân, năm nay đã ngoài 80 tuổi, sức khoẻ đã rất kém, mà do mới đột quỵ hồi Tết, hiện không nghe, nói được. Trước đây, năm nào ông Tân cũng đề nghị Nhà nước bình phản lại án tử hình với cha ông nhưng đều không được."
"Hồi cụ Đồng (Phạm Văn Đồng) còn sống, ông đến kêu cụ Đồng, hồi cụ Trường Chinh còn sống, thì kêu với cụ Trường Chinh. Bây giờ các ông khác già hết rồi, chẳng biết kêu ai."
"Trước đây, các ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng có hứa với gia đình rằng 'Để rồi bác sẽ bàn, đề nghị với Bộ Chính trị', nhưng cũng nói rằng khó lắm vì đó là tương quan với ông Lê Duẩn".
Cuộc chạy trốn bí mật
Cuốn sách 'Giọt nước trong biển cả' của ông Hoan, có đoạn, nói rằng ông đã không theo quyết định của Bộ Chính trị vốn quyết rằng ông bị ung thư phổi và phải bay đi Đức để chữa bệnh.
Người cháu nay thuật lại ông Hoan tin rằng "nếu bay đi Đức thì chắc rằng chỉ một liều thuốc là xong".
Vì thế ông quyết định khi tới Karachi, tìm cách trốn sang sứ quán Trung Quốc và được đưa tới Trung Quốc. Trung Quốc đã mổ thành công và ông đã sống thêm 12 năm nữa. Trong 12 năm này, ông đã viết nhiều công trình mà một trong đó là cuốn 'Giọt nước trong biển cả.'
Trong cuốn sách, ông Hoan cũng nói rằng việc làm của ông là 'thiên thu định luận', tức một nghìn năm sau thì sẽ rõ. Sau đó, ông Hoàng Nhật Tân có viết một cuốn là 'Thiên thu định luận', 500-600 trang, thuyết minh rằng cha ông là một nhà yêu nước vĩ đại, nhưng cuối cùng cũng không được phát hành.
Vẫn theo lời chứng̉, vào năm 1991, khi gia đình được phép sang thăm ông trong vòng bốn tháng liền tại khu Ngọc Trường Sơn, trong Di Hoà Viên, nơi trước đây ông Lâm Bưu từng sống, khi ông già yếu và sắp mất, thì ông vẫn còn rất tỉnh táo, tỉnh táo cho đến phút chót.
"Người nhà cứ hai, ba ngày thay phiên nhau vào chăm sóc ông. Ông hỏi về tình hình Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam vào thời điểm đó. Ông rất tỉnh táo, câu hỏi sắc sảo. Ông không bình luận gì nhưng chịu khó nghe. Ông hỏi về so sánh Liên Xô đang cải tổ, Trung Quốc đang cải cách và Việt Nam đang đổi mới lúc đó, có gì giống nhau, khác nhau,"
"Sự chăm sóc của Trung Quốc đối với ông không có gì để bàn. Lúc đó, ông Giang Trạch Dân là Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước, ông Lý Bằng là Thủ tướng Quốc vụ Viện, các ông coi ông Hoan là người bạn lớn của nhân dân Trung Quốc."
Nghĩa tử, nghĩa tận
Lễ tang của ông Hoan được coi như một lễ tang cấp cao của Đảng và của Nhà nước Trung Quốc vì ông được coi như một lãnh tụ của Đảng Cộng sản TQ. Không có chuyện Đại sứ quán Việt Nam tham dự.
Theo lời kể, khi đó do quan hệ hai bên còn căng thẳng, khi gia đình đi thăm ông Hoan, đều có an ninh của Việt Nam đi cùng.
"Lý do Việt Nam lúc đó đồng ý cho gia đình sang thăm là dàn xếp quan hệ cấp cao và nghĩa tử là nghĩa tận theo truyền thống, cho nên họ phải đồng ý. Khi đi, gia đình hứa là sẽ quay về."
"Gia đình cũng cam kết đảm bảo là không làm điều gì liên quan tới chính trị khi sang Trung Quốc mà đây chỉ là chuyện gia đình. Do đó không có vấn đề gì,"
"Ông Hoan không bao giờ dặn dò gì gia đình về chuyện chính trị hay sự nghiệp. Cùng thời gian đó, có việc Việt Nam chuẩn bị kỷ niệm 100 năm sinh Hồ Chí Minh. Một nhà nghiên cứu có tiếng của Việt Nam đã sang Trung Quốc và đề nghị gặp trực tiếp ông Hoàng Văn Hoan để tìm hiểu về Hồ Chí Minh, đặc biệt tìm hiểu các chi tiết đời tư chứ không phải với tư cách một chính khách."
Người cháu của ông kể tiếp:
"Khi ấy, ông Hoan đã cho thư ký là một cựu sinh viên người Hoa gốc Việt từng tốt nghiệp Đại học Tổng hợp ở Hà Nội, giỏi cả tiếng Việt và tiếng Trung, tiếp. Thư ký sau đó thuật lại việc nhà nghiên cứu này định hỏi ông Hoan về chuyện 'cụ Hồ có con riêng' có đúng hay không,"
Yêu đảng, yêu nước
Ông Hoan bảo: "Bảo ông ta về nước đi, không hỏi những chuyện linh tinh đó làm gì!." Ông Hoan là người rất kín kẽ, ông không bao giờ tuỳ tiện cho ai biết những chuyện quan trọng. Ông thường chỉ làm việc ở cấp cao, còn gia đình thì cứ đi thăm, nói chuyện vui vẻ thôi, không nói chuyện gì về chính trị cả.
Vẫn theo lời thân nhân của ông, "Tuyệt đối không có chuyện họp gia đình, bàn chuyện này, chuyện kia, như là người ta đồn ông Hoan có cả quân đội, đài phát thanh. Đó là xuyên tạc! Ông Hoan ông không làm thế. Ông là nhà yêu nước đứng đắn, ông không làm chuyện gì khuất tất."
Ông Đặng và ông Hoan gặp nhau rất đơn giản vì ông Hoan có khả năng nói tiếng Trung trực tiếp không qua phiên dịch. Quan hệ rất tốt, vừa là đồng chí, vừa là anh em
Lời kể của thân nhân
Ông Hoan muốn giải thích trong sách rằng ông vẫn yêu Đảng, yêu nước và ông muốn sống thêm để chứng minh rằng đã có người phản bội, nhưng ở Việt Nam vẫn không nhận ra, hoặc nhận thức lầm. Có vẻ ông đã cố chứng minh bằng những dữ liệu, số liệu, bằng chứng, quan điểm.
Người cháu kể ông có sự hỗ trợ của Trung Quốc, họ cung cấp mấy người thư ký, văn phòng làm việc, ô tô đi lại, điều kiện rất tốt.
"Phản biện lại những dư luận từ nhà nước Việt Nam, trong đó nhiều ý nói rằng ông là Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống v.v..., ông đã chứng minh trong công trình của mình rằng ông không phản bội lợi ích của nhân dân mà chính người khác đã phản bội. Nhưng ông nói chuyện của ông 1.000 năm sau mới định được, còn định ngay lúc đó thì khó," người cháu ông Hoan kể.
'Chính trị phải thế'
"Ông nói rằng bản thân rơi vào tình trạng rắc rối và phải đi, mà bây giờ người ta gọi là bất đồng quan điểm. Ông không thể đi một nước thứ ba, như là Liên Xô, vì quan điểm của ông với Liên Xô không gần nhau,"
"Đúng là Trung Quốc tiếp đãi ông Hoan như thế vì ông thân Trung Quốc và có lợi cho Trung Quốc vào thời điểm bấy giờ. Chính trị phải thế! Trung Quốc coi ông có lợi cho họ. Nhưng đồng thời họ cũng nuôi dưỡng nhiều lực lượng cách mạng thực sự cho Việt Nam," người cháu nhận xét.
Về câu hỏi rằng liệu Việt Nam có thể tránh được cuộc chiến tranh năm 1979 với Trung Quốc, nếu quan điểm, đường lối của ông Hoan trong quan hệ với Trung Quốc được Việt Nam lắng nghe hoặc điều hoà như thế nào đó, người nhà ông Hoan cho rằng cục diện trước đó quá rõ ràng. Hoàn toàn có thể tránh cả hai cuộc chiến Tây Nam và cuộc chiến 79.
"Đường lối của ông Hồ là sau hoà bình, sau cuộc chiến quá dài với Mỹ, mọi người kiệt quệ, là phải an dân, phải tránh chiến tranh, phải khoan sức dân, phải giảm thuế v.v... Ông Hoan rất phản đối và phê bình việc dẫn đến sự thể phải phát động cả hai cuộc chiến."
Người cháu ông Hoan cho BBC biết quan hệ giữa ông Đặng Tiểu Bình và ông Hoàng Văn Hoan rất tốt. "Cả hai ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng đều là người của ông Đặng. Trong đám tang ông Hoàng Văn Hoan ông Giang Trạch Dân và ông Lý Bằng đều đến viếng. Ông Đặng Tiểu Bình có gửi vòng hoa, viết rất nhiệt tình, đề cao ông Hoan."
"Ông Đặng và ông Hoan gặp nhau rất đơn giản vì ông Hoan có khả năng nói tiếng Trung trực tiếp không qua phiên dịch. Quan hệ rất tốt, vừa là đồng chí, vừa là anh em."
Bi kịch cha con
Về quan hệ giữa hai cha con mà có dư luận rằng có sự mâu thuẫn, theo đó, ông bố thì được cho là thân Trung Quốc, ông con, Hoàng Nhật Tân, thân Nga Xô, trường hợp ông Tân được cho là một bi kịch.
Thân nhân ông Hoan kể rằng ông Tân học giỏi, ông được cử đi Nga học tập. Sang Nga, ông thấy đường lối của Khrushchev hay, ông có những phát biểu. Vì thế ông Hoan gọi về Việt Nam, thi hành kỷ luật, cho 'đi đầy' một năm, hai năm gì đó, xong rồi cho phục hồi.
"Vừa được phục hồi, nghe đâu đang làm thủ tục làm Phó Viện trưởng Viện Sử học, thì ông Hoan lại bỏ đi Trung Quốc (1979), cho nên người ta ép ông con ra khỏi Đảng, rồi ép đủ thứ. Nghe nói ông Tân đến tận bây giờ vẫn còn có người theo dõi,"
"Trong nhà hiện nay, chỉ có ông Tân là người bị theo hàng ngày, về lý do thì có thể là do họ sợ rò rỉ thông tin hoặc thế nào đó,"
"Thời các năm 1991, 1992 cho tới 1996, 1997, nhiều lúc con cháu của ông Hoan trong gia đình ở Hà Nội đi đâu, cũng có ít nhất một nhân viên công an đi theo sau. Bây giờ thì cũng thoáng rồi vì họ sống cũng đứng đắn, sống đúng theo tư cách công dân."
'Chăm sóc đặc biệt'
Cuộc sống gia đình rất phức tạp và là một câu chuyện dài với việc mỗi thành viên phải tự lo công việc của mình. Một người con gái của ông Hoàng Nhật Tân, cháu nội ruột của ông Hoan, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, ra không có việc làm. Bà phải xin mãi mới về được Viện Triết học làm thư viện.
Theo người nhà ông Hoan thì ông Phạm Như Cương, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Trung và Viện trưởng, phải đứng ra bảo lãnh thì bà mới về làm việc được, chứ không phải tự nhiên mà vào làm nhà nước được, đó là ngay sau khi cụ Hoan ra đi (1979).
Người con trai cả của ông Hoàng Nhật Tân, là đảng viên, phải ra khỏi quân đội. Trong nhà có mấy người là đảng viên đó là bà Tân và ông con cả. Có một người con dâu của ông Tân mới kết nạp mấy năm nay. Còn lại đều không là đảng viên.
Về lý do người ta đưa ông con trai cả của ông Tân ra khỏi quân đội, người nhà ông Hoan tin rằng đó có thể do lý do 'an toàn' nào đó. "Có một sự chăm sóc đặc biệt. Như ông Tân bị ép ra khỏi đảng. Ông phải chủ động viết đơn để ra khỏi đảng."
"Về kinh tế, tài chính thì những năm đó rất khó khăn, mọi người phải tự lo lấy mà sống. Nhưng có một việc không biết ở các gia đình khác ra sao, còn tại gia đình mình, ông Hoan có một đạo đức rất rõ ràng, tức là không ai được sống dựa vào ông ấy."
"Cho nên mọi người phải tự lực từ lâu. Khi ông đi, thì mọi người chẳng làm sao cả."
Ông bà Tân đều là cán bộ nhà nước. Các con cháu về sau cũng dần có được việc làm, với mức lương tối thiểu sống được. Bà Tân, con dâu cụ Hoan, từng làm ở Đảng uỷ Quận Hoàn Kiếm và làm cho đến lúc về hưu.
Khi ông Hoan đi, ông không hề cho ai trong gia đình biết, sau đó ông Tân gần như bị bắt.
"Nhưng người ta cứ nghĩ là ông Tân biết. Thực ra ông không hề biết và cũng chẳng ai biết. Nếu biết là rắc rối ngay. Khi tới Karachi (thủ đô Pakistan), ngay cả ba người tháp tùng ông Hoan là bảo vệ, thư ký và y tá đều không biết," người cháu ông Hoan kể tiếp.
Ở khách sạn tại Karachi, ông Hoan đi ra ngoài đi dạo, ông gọi xe taxi và đi về sứ quán của Trung Quốc. Ba người này về sau bị bắt, và vẫn theo lời kể, nhóm thư ký của ông Hoan đã bị tù mấy năm.
'Không có bản án?'
Đến tận hôm nay, có một điều gia đình vẫn không rõ. Đó là vì sao khi hai nước Trung Quốc, Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ, thậm chí hai Đảng và hai Nhà nước đã hữu hảo hơn, mà bản án tử hình của nhà nước Việt Nam dành cho ông Hoan chưa được huỷ bỏ.
"Hình như năm ngoái, khi còn khoẻ, ông Hoàng Nhật Tân có tới Toà án để xin một bản sao bản án 'xử tử vắng mặt' đối với cha mình. Mục đích là để làm bằng chứng khi đi trình bày với các nơi và xin được hết án này với ông Hoan, thì được họ trả lời rằng không có văn bản nào cả."
"Nhưng đây không phải là Toà án Tối cao hoặc Toà án nhà nước nào khác, mà dường như đây liên quan tới Toà Án Nhân dân TP Hà Nội. Nhưng họ nói là chẳng có văn bản gì cả. Sau đó, ông Tân cũng thôi không làm nữa. "
"Hồi đó người ta cũng không thông báo gì về bản án tử hình vắng mặt đó. Chỉ là thông báo, công bố trên đài báo, không có thông báo gì cho gia đình cả. Còn về kế hoạch có làm tiếp việc xin huỷ bỏ bản án trong tương lai, thì trong gia đình chỉ có một mình cụ Tân làm. Ngoài ra, không có ai nghĩ làm việc đó cả."
Trong lòng quê hương
Theo di chúc, hài cốt hoả táng của ông Hoan được chia thành ba phần. Một phần để ở nghĩa trang Bát Bảo Sơn, tương tự nghĩa trang Mai Dịch ở Hà Nội. Đó là một nghĩa trang dành cho các quan chức cao cấp của Đảng và Nhà nước Trung Quốc.
Ở đó, họ xây một cái mộ, hàng năm họ vẫn cho tiền gia đình, ít nhất hai người, sang đó để viếng thăm. Ông Hoan được để ở một chỗ rất long trọng. Một phần tro cốt được đưa đi Côn Minh để rắc trên đầu nguồn sông Hồng. Vì ông Hoan muốn về nước bằng con đường sông Hồng.
Vẫn theo lời kể của người cháu, một hộp tro nữa sau khi mang về nhà thờ mấy năm, nay được đưa về quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Trung Quốc cho một ít tiền để xây một cái mộ tương đối lịch sự. Tất nhiên là mộ đó không bằng mộ của ông Hồ Tùng Mậu, mà nhà nước xây rất lớn. Ở đó có hai dòng họ là họ Hồ, lớn nhất, rồi đến họ Hoàng.
Hàng năm con cháu về đây viếng thăm. Trong nhà thờ họ Hoàng, đã có thờ ông Hoan. Họ không thờ ông là uỷ viên bộ chính trị, phó chủ tịch quốc hội mà tấm bia thờ chỉ đề ông Hoàng Ngọc Ân (tên tục của ông Hoan) là nhà yêu nước lớn.
Kết luận, người cháu của ông Hoan nói:
"Gần đây có một diễn biến và biểu hiện mới, mà chính sứ quán Trung Quốc nói với gia đình, là một vài hình ảnh của ông Hoan hồi làm Phó Chủ tịch ở Quốc hội, trước đây bị xoá hoặc bỏ đi, nay đã được phục hồi. Còn các hình ảnh ông Hoan bên cạnh ông Hồ thì họ xoá sạch."
http://cuantunguy.com/diendan1/viewtopic.php?p=3719&sid=0bc7a5231be92cfec5fb6158a333bdf0
*
GREG TORODE * HOA KỲ &TRUNG QUỐC
Hoa Kỳ đã phục kích tại sân sau của Trung Quốc như thế nào và điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
http://www.x-cafevn.org/node/720
Submitted by TongBienTap on Tue, 07/27/2010 - 22:27
Nguồn: Greg Torode, South China Morning Post
Hoàng Quân, X-Cafe chuyển ngữ
25.07.2010
Cuộc phục kích do Washington chỉ đạo nhắm vào Trung Quốc về vấn đề tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông xảy ra ngay tại diễn đàn an ninh cấp cao của khu vực hôm thứ Sáu đã đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong quan hệ Mỹ -Trung đồng thời để lộ những thiếu sót có tính chiến lược ngày càng sâu sắc ở Á Châu.
Trong khi bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ được ví như đang lội vào Biển Đông tại Hà Nội, những hạm đội hải quân của Mỹ và Nam Hàn đang chuẩn bị tham gia cuộc tập trận qui mô lớn trên Biển Nhật Bản, còn gọi là Đông Hải, gần sát với vùng Đông Bắc Trung Quốc – làm tăng thêm căng thẳng của cục diện mới này.
Những gì đã xảy ra ở Hà Nội đặc biệt có ý nghĩa. Khi bà Ngoại Trưởng Clinton tuyên bố rằng việc giải quyết những tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông bây giờ là một “ưu tiên ngoại giao” và thuộc “lợi ích quốc gia” của Hoa Kỳ, bà Ngoại Trưởng không đơn thuần phản ánh mối quan ngại ngày càng lớn của Hoa Kỳ đối với khả năng thống trị của hàng hải Trung Quốc. Động thái này còn cho thấy rằng Washington đã tóm chặt một cơ hội lịch sử.
Suốt nhiều tháng qua, những tiếng nói đồng thanh bày tỏ quan ngại ngày một gia tăng từ các nước trong vùng Đông Á đối với thái độ quyết đoán của Trung Quốc được cất lên ở Washington, trong khi chính quyền non trẻ của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama đang phác họa những lộ trình để quay trở lại khu vực đã bị bỏ rơi khá lâu. Quan ngại trước điệp khúc luôn ca thán rằng Hoa Kỳ là một cường quốc đang suy tàn, những giới chức Hoa Kỳ thường kín đáo trao đổi với nhau về nhu cầu cần tái khẳng định vị thế chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á.
Trung Quốc không ngừng tăng cường khẳng định với lời lẽ khó nghe dựa trên căn cứ lịch sử, và bây giờ là trên cơ sở luật pháp, về chủ quyền của mình đối với gần như toàn bộ vùng biển này – thể hiện qua việc đã nhiều lần bắt giữ hằng trăm ngư dân Việt Nam, quấy rối những tàu thuyền của Hoa Kỳ và những tàu hải quân khác đồng thời hăm dọa những công ty dầu hỏa khổng lồ của quốc tế nhằm buộc họ phải chấm dứt hợp đồng khai thác với Hà Nội – đã tạo ra cơ hội đó.
Động thái này của Hoa Kỳ không chỉ làm vui lòng những đối thủ đang tranh chấp với Trung Quốc ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa như Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei – mà còn làm trấn an đối với những nước lớn hơn như Nam Hàn, Nhật Bản và Indonesia qua việc gởi đến Trung Quốc một thông điệp rõ ràng như thế.
Gần như suốt 15 năm qua, Washington vẫn kiên định lập trường đứng ngoài cuộc tranh chấp căng thẳng ở Biển Đông, một vùng biển chiến lược giàu khoáng sản nối Đông Á với Trung Đông và châu Âu. Những phái đoàn ngoại giao của Hoa Kỳ đôi khi cũng bày tỏ quan ngại yêu cầu cần có một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp lãnh hải này nhưng không chọn đứng về phe nào trong các phe tranh chấp.
Bây giờ những tuyên bố của Bà Ngoại Trưởng Clinton làm thay đổi tất cả. Chúng đặt Hoa Kỳ vào vị trí hàng đầu trong vấn đề tramh chấp chủ quyền này của Trung Quốc – mà mới đây nó được Trung Quốc tuyên bố là “quyền lợi cốt lõi”, theo qui tắc ngoại giao nó được xếp ngang với vấn đề Đài Loan và Tibet ở cấp độ nhạy cảm.
Đầu năm nay, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Tiến sỹ Robert Gates phát biểu tại một diễn đàn an ninh ở Singapore rằng Washington phản đối tất cả mọi nổ lực nhằm hăm dọa những công ty dầu hỏa của Hoa Kỳ tham gia với hợp đồng hợp pháp trong khu vực.
Bà Clinton đưa ra những lời bình luận trong khung cảnh chính thống của Diễn Đàn Khu Vực Asean, tại những cuộc họp song phương và cả trong những bản tuyên bố đại chúng. Trong khi đó, những viên chức của bà thông báo ngắn gọn với đoàn báo chí tháp tùng từ Washington để họ không bỏ sót điểm quan trọng này.
Mặc dù bị kẹt bởi nội dung của kịch bản cũ là Hoa Kỳ không đứng về phe nào, bà Clinton đã trình bày rõ ràng rằng Washinton muốn ủng hộ những cuộc thảo luận và giải pháp trên bình diện toàn khu vực – một thách thức trực tiếp đối với Bắc Kinh, quốc gia đã cố công, kín đáo nhưng quyết liệt, ngăn cản thảo luận cấp khu vực Asean đối với vấn đề này, và những đoàn ngoại giao của họ luôn khư khư muốn giải quyết vụ việc theo đường hướng song phương – nói một cách khác Trung Quốc muốn từng quốc gia tranh chấp một lần lượt giải quyết tranh chấp riêng với họ.
“Hoa Kỳ hỗ trợ tiến trình phối hợp ngoại giao của tất cả các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không có bất cứ sự cưỡng bức nào,” Bà Clinton nói. “Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ quốc gia tranh chấp nào”.
Những phát biểu của bà Ngoại Trưởng là một thắng lợi ngoại giao đáng kể cho Việt Nam, một món quà Washington dành cho Việt Nam nhân dịp hai nước kỷ niệm 15 năm kể từ khi hai nước chính thức khôi phục các quan hệ ngoại giao từ sau cuộc chiến Việt Nam và gần 20 năm cấm vận kinh tế.
Suốt nhiều tháng trời, Việt Nam đã cố tìm cách khai thác vai trò chủ tịch luân phiên Hiệp hội mười nước Đông Nam Á của mình để giữ cho vấn đề Biển Đông nóng bỏng. Nổ lực nhằm thiết lập một nguyên tắc ứng xử với ràng buộc pháp lý cho tất cả các bên tranh chấp đối với vùng biển giàu có này đã rơi vào tình thế tuyệt vọng không mang lại một tiến bộ nào– một cam kết trong tuyên bố năm 2002 được ký kết giữa Asean và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông chỉ kêu gọi các bên nên tự kềm chế. Tuyên bố này khởi thủy được cổ súy như là một bước tiến quan trọng, nhưng nó ngày càng trở nên như một tờ giấy lộn trước những hành động quyết đoán của Trung Quốc.
Bà Clinton nhiều lần đề cập đến những nguyên tắc của tuyên bố đó; hành động này khiến nhiều giới chức Việt Nam hài lòng.
Chỉ cách đây một năm, Trung Quốc bị nhiều người xem như là đang gây chia rẽ trong khối Asean, với từng nước thành viên xem trọng mối quan hệ riêng của mình với Bắc Kinh cao hơn cả sự nhất trí trong khối Asean. Tại những cuộc họp chính thức rất ít thấy nước nào nêu lên động cơ thúc dục cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Trái lại trên mọi phương diện, Trung Quốc không ngừng tạo áp lực, theo quan điểm của một số nhà ngoại giao Asean cho hay. Ngay cả Campuchia, quốc gia với chế độ đã từng là liên minh chặt chẽ với Hà Nội, nay nhân danh Bắc Kinh quay ra bác bỏ các nỗ lực của Việt Nam.
Thái độ dè dặt đó vẫn còn biểu hiện rõ nhiều giờ trước khi bà Clinton đến. Hôm trước khi Diễn Đàn Khu Vực Asean khai mạc, các ngoại trưởng của khối đã có cuộc họp thường niên chính thức với Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì. Chỉ có một mình Philippines nêu ra vấn đề Biển Đông. Sự dè dặt như thế phản ánh cách thể truyền thống của Asean. Những cuộc họp và những tuyên bố chính thức nói chung là thường nhạt nhẽo đến mức tệ hại.
Ngay cả Việt Nam hiếm khi nào dám công khai trách cứ Trung Quốc trước bàn dân thiên hạ, viện cớ là để giữ thể diện cho tình nghĩa anh em. Hôm qua, ngập tràn trước một chiến thắng hiếm hoi, báo chí nhà nước với tính dè dặt cố hữu vẫn tiếp tục bám theo những lời lẽ tâng bốc theo kiểu nghi thức đối với những cuộc họp.
Một quan sát viên ngoại giao cho biết: “Đó là điều đáng chú ý. Không ai muốn ngoi lên dẫn đầu. Tất cả mọi người đều chờ đợi để cùng nhau được an toàn”.
Sự xuất hiện của bà Clinton hôm thứ Năm đã đem đến cảm giác an toàn đó, khi những lời truyền về thái độ cứng rắn mới của bà lan rộng.
Ngay trước lúc diễn đàn khai mạc hôm thứ Sáu, 11 thành viên khác đã sẵn sàng với các báo cáo, bao gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam – những nước có phần tranh chấp chính yếu – cũng như Indonesia, đại diện EU, Úc và Nhật Bản. Những gì xảy ra tiếp theo có thể ví như một trận đấu võ tiếp ứng theo một mô thức hiếm thấy.
Liền sau đó, trong khi ông Dương Khiết Trì bày tỏ sự bực tức cùng cực, những gì đã xảy ra ắt nhiên không khiến Bắc Kinh ngỡ ngàng chút nào. Trong hơn một năm, những thao diễn từ ngoại giao đến chính trị và cả quân sự đều là những chỉ dấu cho thấy các mối quan ngại ngày càng gia tăng trong khu vực.
Một số giới chức quân sự Việt Nam đã được kín đáo đưa bằng máy bay ra thăm tàu sân bay Hoa Kỳ ở Biển Đông và được mời lên thăm quan chiếc tàu ngầm của Hoa Kỳ đậu ở Hawaii. Và Việt Nam đã cho phép các tàu chiến Hoa Kỳ vào sửa chữa tại những bến cảng địa phương.
Hà Nội cũng đã hoàn tất một thỏa thuận với Moscow, một đồng minh từ thời chiến tranh lạnh để mua sáu tàu ngầm hiện đại loại Kilo.
Trong khi đó, Lầu Năm Góc và các giới chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ không ngừng thẳng thắn bày tỏ tại những buổi điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về sự cần thiết để khẳng định quyền hàng hải của Hoa Kỳ tại vùng biển quốc tế này bất chấp những quan ngại từ phía Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc tuyên bố phần lớn Biển Đông là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của họ, Hoa Kỳ và những quốc gia khác khẳng định rằng nó vẫn thuộc vùng biển quốc tế và vì thế các hoạt động quân sự theo lệ thường, gồm cả hoạt động giám sát, đều được cho phép.
Những căng thẳng do sự kiện này tạo ra đã hiện rõ khi ông Gates lức ấy đang có mặt ở Singapore nói với một cử tọa trong đó có cả những sĩ quan cao cấp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Một sỹ quan của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã nổi giận tuyên bố liền sau đó: “Chúng tôi không xem đó là ‘cái hồ của Trung Quốc’, chúng tôi cho phép tàu thuyền vô hại đi qua. Nhưng tôi xin lỗi, sự giám sát của Hoa Kỳ không phải là vô hại. Sự quan tâm của Trung Quốc phải không được đánh giá thấp”.
Việc có hay không chuyện Washington đánh giá thấp các mối quan ngại kia vẫn còn có thể kiểm chứng. Nhưng chắc chắn là Bắc Kinh sẽ xem những sự kiện xảy ra ở Hà Nội như là một sự khiêu khích đáng kể. Còn có một nhận thức ngày càng lan rộng trong khu vực cho rằng, vùng biển này là tối thiết yếu đối với tham vọng vươn ra “đại dương” của hải quân Trung Quốc vì nhờ qua nó hải quân Trung Quốc mới có thể thực hiện được những hoạt động xa bờ, bởi vì vùng biển này là cửa ngõ duy nhất có độ sâu lớn ăn thông với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Điều rõ ràng là Hoa Kỳ hiện đang chuẩn bị để giải quyết một trong những vấn đề khó khăn nhất trong khu vực – một sự thay đổi chính sách mà sẽ không dễ dàng quay ngược trở lại. Và với Trung Quốc, tuần trăng mật với các nước Asean xem như đã qua.
Trước tất cả mọi rủi ro, Washington luôn nhìn thấy cơ hội.
Hoàng Quân, X-Cafe chuyển ngữ
25.07.2010
Cuộc phục kích do Washington chỉ đạo nhắm vào Trung Quốc về vấn đề tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông xảy ra ngay tại diễn đàn an ninh cấp cao của khu vực hôm thứ Sáu đã đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong quan hệ Mỹ -Trung đồng thời để lộ những thiếu sót có tính chiến lược ngày càng sâu sắc ở Á Châu.
Trong khi bà Ngoại Trưởng Hoa Kỳ được ví như đang lội vào Biển Đông tại Hà Nội, những hạm đội hải quân của Mỹ và Nam Hàn đang chuẩn bị tham gia cuộc tập trận qui mô lớn trên Biển Nhật Bản, còn gọi là Đông Hải, gần sát với vùng Đông Bắc Trung Quốc – làm tăng thêm căng thẳng của cục diện mới này.
Những gì đã xảy ra ở Hà Nội đặc biệt có ý nghĩa. Khi bà Ngoại Trưởng Clinton tuyên bố rằng việc giải quyết những tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông bây giờ là một “ưu tiên ngoại giao” và thuộc “lợi ích quốc gia” của Hoa Kỳ, bà Ngoại Trưởng không đơn thuần phản ánh mối quan ngại ngày càng lớn của Hoa Kỳ đối với khả năng thống trị của hàng hải Trung Quốc. Động thái này còn cho thấy rằng Washington đã tóm chặt một cơ hội lịch sử.
Suốt nhiều tháng qua, những tiếng nói đồng thanh bày tỏ quan ngại ngày một gia tăng từ các nước trong vùng Đông Á đối với thái độ quyết đoán của Trung Quốc được cất lên ở Washington, trong khi chính quyền non trẻ của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama đang phác họa những lộ trình để quay trở lại khu vực đã bị bỏ rơi khá lâu. Quan ngại trước điệp khúc luôn ca thán rằng Hoa Kỳ là một cường quốc đang suy tàn, những giới chức Hoa Kỳ thường kín đáo trao đổi với nhau về nhu cầu cần tái khẳng định vị thế chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á.
Trung Quốc không ngừng tăng cường khẳng định với lời lẽ khó nghe dựa trên căn cứ lịch sử, và bây giờ là trên cơ sở luật pháp, về chủ quyền của mình đối với gần như toàn bộ vùng biển này – thể hiện qua việc đã nhiều lần bắt giữ hằng trăm ngư dân Việt Nam, quấy rối những tàu thuyền của Hoa Kỳ và những tàu hải quân khác đồng thời hăm dọa những công ty dầu hỏa khổng lồ của quốc tế nhằm buộc họ phải chấm dứt hợp đồng khai thác với Hà Nội – đã tạo ra cơ hội đó.
Động thái này của Hoa Kỳ không chỉ làm vui lòng những đối thủ đang tranh chấp với Trung Quốc ở vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa như Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei – mà còn làm trấn an đối với những nước lớn hơn như Nam Hàn, Nhật Bản và Indonesia qua việc gởi đến Trung Quốc một thông điệp rõ ràng như thế.
Gần như suốt 15 năm qua, Washington vẫn kiên định lập trường đứng ngoài cuộc tranh chấp căng thẳng ở Biển Đông, một vùng biển chiến lược giàu khoáng sản nối Đông Á với Trung Đông và châu Âu. Những phái đoàn ngoại giao của Hoa Kỳ đôi khi cũng bày tỏ quan ngại yêu cầu cần có một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp lãnh hải này nhưng không chọn đứng về phe nào trong các phe tranh chấp.
Bây giờ những tuyên bố của Bà Ngoại Trưởng Clinton làm thay đổi tất cả. Chúng đặt Hoa Kỳ vào vị trí hàng đầu trong vấn đề tramh chấp chủ quyền này của Trung Quốc – mà mới đây nó được Trung Quốc tuyên bố là “quyền lợi cốt lõi”, theo qui tắc ngoại giao nó được xếp ngang với vấn đề Đài Loan và Tibet ở cấp độ nhạy cảm.
Đầu năm nay, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Tiến sỹ Robert Gates phát biểu tại một diễn đàn an ninh ở Singapore rằng Washington phản đối tất cả mọi nổ lực nhằm hăm dọa những công ty dầu hỏa của Hoa Kỳ tham gia với hợp đồng hợp pháp trong khu vực.
Bà Clinton đưa ra những lời bình luận trong khung cảnh chính thống của Diễn Đàn Khu Vực Asean, tại những cuộc họp song phương và cả trong những bản tuyên bố đại chúng. Trong khi đó, những viên chức của bà thông báo ngắn gọn với đoàn báo chí tháp tùng từ Washington để họ không bỏ sót điểm quan trọng này.
Mặc dù bị kẹt bởi nội dung của kịch bản cũ là Hoa Kỳ không đứng về phe nào, bà Clinton đã trình bày rõ ràng rằng Washinton muốn ủng hộ những cuộc thảo luận và giải pháp trên bình diện toàn khu vực – một thách thức trực tiếp đối với Bắc Kinh, quốc gia đã cố công, kín đáo nhưng quyết liệt, ngăn cản thảo luận cấp khu vực Asean đối với vấn đề này, và những đoàn ngoại giao của họ luôn khư khư muốn giải quyết vụ việc theo đường hướng song phương – nói một cách khác Trung Quốc muốn từng quốc gia tranh chấp một lần lượt giải quyết tranh chấp riêng với họ.
“Hoa Kỳ hỗ trợ tiến trình phối hợp ngoại giao của tất cả các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không có bất cứ sự cưỡng bức nào,” Bà Clinton nói. “Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ quốc gia tranh chấp nào”.
Những phát biểu của bà Ngoại Trưởng là một thắng lợi ngoại giao đáng kể cho Việt Nam, một món quà Washington dành cho Việt Nam nhân dịp hai nước kỷ niệm 15 năm kể từ khi hai nước chính thức khôi phục các quan hệ ngoại giao từ sau cuộc chiến Việt Nam và gần 20 năm cấm vận kinh tế.
Suốt nhiều tháng trời, Việt Nam đã cố tìm cách khai thác vai trò chủ tịch luân phiên Hiệp hội mười nước Đông Nam Á của mình để giữ cho vấn đề Biển Đông nóng bỏng. Nổ lực nhằm thiết lập một nguyên tắc ứng xử với ràng buộc pháp lý cho tất cả các bên tranh chấp đối với vùng biển giàu có này đã rơi vào tình thế tuyệt vọng không mang lại một tiến bộ nào– một cam kết trong tuyên bố năm 2002 được ký kết giữa Asean và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông chỉ kêu gọi các bên nên tự kềm chế. Tuyên bố này khởi thủy được cổ súy như là một bước tiến quan trọng, nhưng nó ngày càng trở nên như một tờ giấy lộn trước những hành động quyết đoán của Trung Quốc.
Bà Clinton nhiều lần đề cập đến những nguyên tắc của tuyên bố đó; hành động này khiến nhiều giới chức Việt Nam hài lòng.
Chỉ cách đây một năm, Trung Quốc bị nhiều người xem như là đang gây chia rẽ trong khối Asean, với từng nước thành viên xem trọng mối quan hệ riêng của mình với Bắc Kinh cao hơn cả sự nhất trí trong khối Asean. Tại những cuộc họp chính thức rất ít thấy nước nào nêu lên động cơ thúc dục cho việc giải quyết vấn đề Biển Đông. Trái lại trên mọi phương diện, Trung Quốc không ngừng tạo áp lực, theo quan điểm của một số nhà ngoại giao Asean cho hay. Ngay cả Campuchia, quốc gia với chế độ đã từng là liên minh chặt chẽ với Hà Nội, nay nhân danh Bắc Kinh quay ra bác bỏ các nỗ lực của Việt Nam.
Thái độ dè dặt đó vẫn còn biểu hiện rõ nhiều giờ trước khi bà Clinton đến. Hôm trước khi Diễn Đàn Khu Vực Asean khai mạc, các ngoại trưởng của khối đã có cuộc họp thường niên chính thức với Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì. Chỉ có một mình Philippines nêu ra vấn đề Biển Đông. Sự dè dặt như thế phản ánh cách thể truyền thống của Asean. Những cuộc họp và những tuyên bố chính thức nói chung là thường nhạt nhẽo đến mức tệ hại.
Ngay cả Việt Nam hiếm khi nào dám công khai trách cứ Trung Quốc trước bàn dân thiên hạ, viện cớ là để giữ thể diện cho tình nghĩa anh em. Hôm qua, ngập tràn trước một chiến thắng hiếm hoi, báo chí nhà nước với tính dè dặt cố hữu vẫn tiếp tục bám theo những lời lẽ tâng bốc theo kiểu nghi thức đối với những cuộc họp.
Một quan sát viên ngoại giao cho biết: “Đó là điều đáng chú ý. Không ai muốn ngoi lên dẫn đầu. Tất cả mọi người đều chờ đợi để cùng nhau được an toàn”.
Sự xuất hiện của bà Clinton hôm thứ Năm đã đem đến cảm giác an toàn đó, khi những lời truyền về thái độ cứng rắn mới của bà lan rộng.
Ngay trước lúc diễn đàn khai mạc hôm thứ Sáu, 11 thành viên khác đã sẵn sàng với các báo cáo, bao gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam – những nước có phần tranh chấp chính yếu – cũng như Indonesia, đại diện EU, Úc và Nhật Bản. Những gì xảy ra tiếp theo có thể ví như một trận đấu võ tiếp ứng theo một mô thức hiếm thấy.
Liền sau đó, trong khi ông Dương Khiết Trì bày tỏ sự bực tức cùng cực, những gì đã xảy ra ắt nhiên không khiến Bắc Kinh ngỡ ngàng chút nào. Trong hơn một năm, những thao diễn từ ngoại giao đến chính trị và cả quân sự đều là những chỉ dấu cho thấy các mối quan ngại ngày càng gia tăng trong khu vực.
Một số giới chức quân sự Việt Nam đã được kín đáo đưa bằng máy bay ra thăm tàu sân bay Hoa Kỳ ở Biển Đông và được mời lên thăm quan chiếc tàu ngầm của Hoa Kỳ đậu ở Hawaii. Và Việt Nam đã cho phép các tàu chiến Hoa Kỳ vào sửa chữa tại những bến cảng địa phương.
Hà Nội cũng đã hoàn tất một thỏa thuận với Moscow, một đồng minh từ thời chiến tranh lạnh để mua sáu tàu ngầm hiện đại loại Kilo.
Trong khi đó, Lầu Năm Góc và các giới chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ không ngừng thẳng thắn bày tỏ tại những buổi điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về sự cần thiết để khẳng định quyền hàng hải của Hoa Kỳ tại vùng biển quốc tế này bất chấp những quan ngại từ phía Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc tuyên bố phần lớn Biển Đông là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của họ, Hoa Kỳ và những quốc gia khác khẳng định rằng nó vẫn thuộc vùng biển quốc tế và vì thế các hoạt động quân sự theo lệ thường, gồm cả hoạt động giám sát, đều được cho phép.
Những căng thẳng do sự kiện này tạo ra đã hiện rõ khi ông Gates lức ấy đang có mặt ở Singapore nói với một cử tọa trong đó có cả những sĩ quan cao cấp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Một sỹ quan của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã nổi giận tuyên bố liền sau đó: “Chúng tôi không xem đó là ‘cái hồ của Trung Quốc’, chúng tôi cho phép tàu thuyền vô hại đi qua. Nhưng tôi xin lỗi, sự giám sát của Hoa Kỳ không phải là vô hại. Sự quan tâm của Trung Quốc phải không được đánh giá thấp”.
Việc có hay không chuyện Washington đánh giá thấp các mối quan ngại kia vẫn còn có thể kiểm chứng. Nhưng chắc chắn là Bắc Kinh sẽ xem những sự kiện xảy ra ở Hà Nội như là một sự khiêu khích đáng kể. Còn có một nhận thức ngày càng lan rộng trong khu vực cho rằng, vùng biển này là tối thiết yếu đối với tham vọng vươn ra “đại dương” của hải quân Trung Quốc vì nhờ qua nó hải quân Trung Quốc mới có thể thực hiện được những hoạt động xa bờ, bởi vì vùng biển này là cửa ngõ duy nhất có độ sâu lớn ăn thông với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Điều rõ ràng là Hoa Kỳ hiện đang chuẩn bị để giải quyết một trong những vấn đề khó khăn nhất trong khu vực – một sự thay đổi chính sách mà sẽ không dễ dàng quay ngược trở lại. Và với Trung Quốc, tuần trăng mật với các nước Asean xem như đã qua.
Trước tất cả mọi rủi ro, Washington luôn nhìn thấy cơ hội.
- 1344 reads
CÙ HUY HÀ VŨ * VIỆT NAM CẦN ĐỒNG HÀNH QUÂN SỰ VỚI MỸ
VOA Tiếng Việt Cập nhật Thứ Hai, 26 tháng 7 2010
RSS
TS Cù Huy Hà Vũ: Ðồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại
Các
hành vi quân sự của Trung Quốc ở biển Đông ngày một gia tăng, tàu
chiến Cheonan của Hàn Quốc bị Bắc Triều Tiên đánh chìm một cách vô cớ…
đang biến Đông Á thành khu vực nổi sóng. Vậy thì Việt nam phải làm
gì? Sau đây là một số nhận định của Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ từ Hà
Nội dành cho VOA nhân dịp Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) vừa chấm dứt
tại Hà Nội.
Huy Phương | Washington
Thứ Hai, 26 tháng 7 2010
Hình: Cù Huy Hà Vũ
Chia sẻ
Tin liên hệ
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Phải nói ngay rằng, bước sang thế kỷ 21, an ninh thế giới đã chuyển trọng tâm từ châu Âu sang Đông Á.
Một cách khái quát, an ninh thế giới từ sau Chiến tranh thế giới II được mặc định bởi nỗ lực ngăn chặn chiến tranh nóng mang tính hủy diệt hàng loạt giữa các nước phương Tây và khối cộng sản Đông Âu do Liên Xô đứng đầu và nỗ lực này đã thành công với sự sụp đổ ngoạn mục và được báo trước của khối cộng sản trên lục địa cũ vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20.
Ngày nay bất an thế giới lại đến từ Đông Á, hay chính xác hơn, từ Trung Hoa cộng sản.
Thực vậy, chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc “hậu Đông Âu” đang biến tướng thành chủ nghĩa đế quốc cổ điển hay chủ nghĩa Tân Đại Hán với đặc trưng là bành trướng lãnh thổ.
VOA: Dựa vào đâu Tiến sĩ cho rằng chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc đang biến tướng?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Ở Đông Nam Á, như tôi đã từng đề cập, Trung Quốc đã và đang thực hiện xâm lược cả “cứng” lẫn “mềm”. “Xâm lược cứng” là dùng sức mạnh quân sự để thôn tính như Trung Quốc đã làm đối với quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và đang làm đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam. “Xâm lược mềm” là di dân cùng các dự án kinh tế có thời hạn hàng chục năm đến 99 năm ký với các nước “con mồi’ như cựu bán đảo Đông Dương và Miến Điện.
Ở Đông Bắc Á, Trung Quốc đang thực hiện “xâm lược mềm” đối với Bắc Triều Tiên bằng cách làm cho chế độ Bình Nhưỡng phụ thuộc vào họ đến độ dứt ra là “tắc tử”. Nói cách khác, Bắc Kinh đang thực hiện một cái chết từ từ đối với Bắc Triều Tiên để thời cơ đến sẽ sáp nhập vào Trung Quốc, biến nước này thành một “Nội Triều” theo hình mẫu “Nội Mông”.
VOA: Nếu kịch bản “Nội Triều” là có thật thì nó sẽ xảy ra khi nào, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Theo tôi là vào giai đoạn “hậu Kim Chính Nhật” bởi lớp cháu nội của Kim Nhật Thành chắc chắn sẽ không đủ sức và nhất là không đủ bản lĩnh để cưỡng lại sự thôn tính của Bắc Kinh được chuẩn bị một cách công phu và cực kỳ thâm hiểm như đã phân tích.
Vả lại ở giai đoạn đó nếu Trung Quốc không “ra tay” trước thì một Bắc Triều Tiên kiệt quệ cả về kinh tế lẫn chính trị tất bị hút vào một Nam Triều Tiên thịnh vượng chẳng khác gì số phận của Đông Đức khi bức tường Berlin bị phá dỡ cách nay hai thập kỷ.
Để nói kịch bản “Nội Triều” tất yếu xảy ra nhưng Trung Quốc có thực hiện được chót lọt kịch bản này hay không lại là chuyện khác.
Ở Việt Nam phong kiến có câu: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” nên thêm một lý do nữa để tôi tin lớp kế ngôi Kim Chính Nhật không thể nào giữ được Bắc Triều Tiên như “lãnh địa” của họ Kim và tôi cũng tin rằng không chóng thì chầy hai miền Nam – Bắc Triều Tiên sẽ xum họp một nhà, tức bán đảo này sẽ được thống nhất một cách hòa bình như đã diễn ra với nước Đức.
VOA: Thưa Tiến sĩ, ông có quá chủ quan không khi chế độ Bình Nhưỡng luôn khoe sở hữu vũ khí hạt nhân và sẵn sàng gây chiến tranh, như đã thể hiện bằng việc dùng ngư lôi đánh đắm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc vào tháng ba vừa qua, theo kết luận của một điều tra quốc tế do Hàn Quốc đứng đầu; và mới đây còn dọa sẽ mở “thánh chiến” với Mỹ và Hàn Quốc?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Tôi cho rằng vũ khí hạt nhân nếu có chỉ đáng gờm khi còn nằm trong tay thế hệ “chiến tranh lạnh” như Kim Chính Nhật.
Về vụ tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc bị bắn chìm thì không nghi ngờ gì nữa, đó là một thách thức cực kỳ nghiêm trọng không chỉ đối với an ninh Đông Bắc Á mà đối với an ninh thế giới nói chung bởi nó diễn ra một cách vô cớ, không trong bối cảnh có xung đột quân sự công khai.
Chính vì tính chất siêu nghiêm trọng của vụ việc nên việc điều tra phải khách quan nhất có thể.
VOA: Ý ông muốn nói là cuộc điều tra do quốc tế tiến hành vẫn chưa được khách quan?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đúng vậy. Chưa kể tính khách quan khó có thể đứng vững khi Hàn Quốc là nạn nhân lại lãnh đạo nhóm điều tra thì một trong những nguyên tắc giải quyết vụ việc hình sự dù quốc nội hay quốc tế là không được làm oan người vô tội bằng cách tìm cho hết chứng cứ gỡ tội chứ không được nhăm nhăm tìm chứng cứ buộc tội đương sự như nhóm điều tra quốc tế vụ Cheonan đã làm đối với Bắc Triều Tiên cho đến thời điểm này.
Cụ thể là nhóm điều tra quốc tế, tất nhiên không phải do Hàn Quốc lãnh đạo, phải mời Bắc Triều Tiên cùng điều tra theo một trong hai phương thức: hoặc là ngay từ đầu khi lập nhóm điều tra quốc tế, hoặc là sau khi nhóm điều tra quốc tế đã có kết luận sơ bộ về vụ Cheonan, cốt để nước này phản bác bằng cách đưa ra những chứng cứ chứng minh họ không dính líu. Rồi trên cơ sở xem xét một cách nghiêm túc mọi chứng cứ cả buộc tội lẫn gỡ tội cho Bình Nhưỡng nhóm điều tra quốc tế mới có thể đưa ra kết luận về vụ này.
Trong trường hợp kết luận điều tra xác định Bắc Triều Tiên là thủ phạm đánh chìm tàu chiến Cheonan mà nước này vẫn không chịu thì kết luận này vẫn được đệ trình Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc xem xét kèm bảo lưu phản bác của nước này. Tiếp đó nếu Hội đồng bảo an đồng ý với kết luận điều tra mà ra nghị quyết xử lý Bắc Triều Tiên theo công pháp quốc tế thì cũng không mang tiếng là áp đặt và nếu thành viên nào phản đối thì đó sẽ là hành vi “lạy ông tôi ở bụi này”, tự bộc lộ mình là đồng phạm.
Do đó việc Bắc Triều Tiên đề nghị tham gia điều tra là một cơ hội trời cho để có được một cuộc điều tra công bằng dẫn đến một kêt luận công bằng. Thành thử việc Hàn Quốc bác bỏ đề nghị theo tôi là thiện chí này không những đẩy việc giải quyết vụ việc vào thế bế tắc mà nguy hiểm hơn, gia tăng sự đối đầu của Bình Nhưỡng đến mức không ai có thể kiểm soát.
Tóm lại, bằng mọi giá Hội đồng bảo an phải vạch ra được thủ phạm đánh chìm tàu Cheonan không chỉ để trừng trị theo công pháp quốc tế mà còn để phòng ngừa một cách có hiệu quả những vụ tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Còn nếu tổ chức quyền lực nhất thế giới này không làm được như vậy thì điều này sẽ tạo ra tiền lệ xấu, vô cùng nguy hiểm ngay cả và trước hết đối với Bắc Triều Tiên. Thực vậy, nước này làm sao có thể kêu ai nếu tàu chiến của họ cũng bị đánh chìm một cách vô cớ như đã xảy ra với Cheonan!
VOA: Ông có nhận xét gì về lập trường của Hoa Kỳ trong vụ Cheonan, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đáng tiếc là Hoa Kỳ không có lập trường nhất quán trong vụ này khi vừa cáo buộc Bắc Triều Tiên gây ra vụ Cheonan vừa tuyên bố đây “không phải là hành vi khủng bố quốc tế” cũng như không có tuyên bố nào coi đây là hành vi chiến tranh của Bình Nhưỡng, trong khi tàu chiến bị đánh chìm chỉ có thể là sản phẩm hoặc của chiến tranh hoặc của hoạt động khủng bố chứ không thể của cái gì khác!
Tóm lại theo tôi Hoa Kỳ cần thay đổi thái độ, tuyên bố dứt khoát việc Bắc Triều Tiên phóng ngư lôi đánh chìm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc là hành vi chiến tranh và yêu cầu Hội đồng bảo an xử lý.
Mặc dầu vậy, điều quan trọng trọng hơn rất nhiều là phải lần cho được nguyên cớ gì khiến Bình Nhưỡng có thể hành xử một cách nguy hiểm và ngạo mạn đến như vậy.
VOA: Theo Tiến sĩ, do đâu mà Bắc Triều Tiên có lối hành xử hiếu chiến đến như vậy?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Hỏi tức trả lời, chính Trung Quốc - chứ không phải ai khác - “chống lưng” Bắc Triều Tiên làm vụ này.
Thực vậy, vấn đề không chỉ là với tư cách ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc Trung Quốc hoàn toàn có thể bảo đảm cho Bắc Triều Tiên thoát khỏi sự lên án và trừng phạt của Liên Hiệp Quốc như thực tế đã diễn ra mà là ở chỗ Bắc Kinh thông qua Bình Nhưỡng thách thức Mỹ về quân sự ở Tây Thái Bình Dương.
Tóm lại, cần phải đặt vụ Cheonan trong “hồ sơ Bắc Kinh” theo đó vụ này chỉ là “phép thử” mạnh mẽ đầu tiên của Trung Quốc đối với độ tin cậy của Mỹ trong việc bảo vệ đồng minh quân sự của mình nói riêng, độ tin cậy của các liên minh quân sự mà Mỹ là một bên nói chung, nhằm thực hiện chiến lược “Trung quốc hóa Đông Á” bằng vũ lực mà Bắc Kinh hẳn đã hoạch định cho thế kỷ 21 này.
Điều rất cần lưu ý là tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc dẫu hạn chế ở Đông Á nhưng vì nước này là cường quốc hạt nhân cũng như 1/3 lượng hàng hóa thương mại quốc tế và 50% số tàu chở dầu của thế giới qua lại trong khu vực nên chiến tranh xâm lược mà Bắc Kinh tiến hành tại đây tự nó mang tính toàn cầu. Bất an của thế giới ở thế kỷ 21 chính là chỗ đó.
Nói cách khác, an ninh thế giới mới phụ thuộc vào an ninh Đông Á.
VOA: Vậy theo Tiến sĩ, làm thế nào để hóa giải tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc ở Đông Á?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Để có thể chống lại một mối đe dọa quân sự có tính toàn cầu như Trung Quốc tất không thể “tự lực cánh sinh” mà phải dựa vào liên minh quân sự với cường quốc hạt nhân khác. Tuy nhiên, như tôi đã từng đề cập trong một cuộc phỏng vấn của VOA về tham vọng của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp biển Đông, chỉ có Hoa Kỳ với tư cách cường quốc duy nhất trên thế giới sẵn sàng đối mặt với Trung Quốc về quân sự mới có thể giúp Việt Nam nói riêng, các nước trong khu vực Đông Á nói chung, giải nổi bài toán an ninh lãnh thổ.
Cụ thể là liên minh quân sự với Mỹ sẽ giúp Việt Nam khẳng định và bảo vệ thành công chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
Tuy nhiên để có thể vô hiệu hóa một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất các cuộc tấn công quân sự từ phía Trung Quốc cần phải có một tư duy phòng thủ mới trong khu vực.
VOA: Điều này rất quan trọng, xin Tiên sĩ nói rõ thế nào là “tư duy phòng thủ mới”?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Các liên minh quân sự song phương hiện có giữa Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Phillippines, Thái Lan với Mỹ là để đối phó với những nguy cơ của thế kỷ 20 chủ yếu bắt nguồn từ chủ nghĩa cộng sản. Nói cách khác, sự có mặt quân sự của Mỹ ở các nước đó là nhằm duy trì chính quyền sở tại phi cộng sản hay nói cách khác, mang tính chất đối nội, “nhà ai nấy lo”.
Nay thì nguy cơ khác hẳn, bắt nguồn từ tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc mà để hiện thực hóa nước này sử dụng chiêu “giải quyết tranh chấp trên cơ sở song phương” hay “chia để trị”. Vậy để hóa giải thành công chiêu “chia để trị” thì “kế liên hoàn” ắt là thượng sách. Cụ thể là phải tổ chức phòng thủ tập thể trên cơ sở liên kết các liên minh quân sự sẵn có và sẽ có với Mỹ trong đó liên minh quân sự Việt – Mỹ là không thể thiếu.
Tôi tạm gọi tổ chức phòng thủ mới này là Phòng thủ chung Đông Á (EACD - East Asia Common Defense).
VOA: Tại sao ông lại quả quyết rằng liên minh quân sự Việt – Mỹ là không thể thiếu trong hình thái phòng thủ chung chống lại đe dọa xâm lược từ phía Trung Quốc, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đơn giản là Việt Nam là nước có kinh nghiệm dày nhất và thành công nhất trong kháng chiến chống xâm lược Trung Hoa và kinh nghiệm này một khi chia xẻ chắc chắn sẽ rất hữu ích cho phòng thủ của các nước khác cũng trong “tầm ngắm” của Trung Quốc.
Thực tình mà nói, Việt Nam là nước Trung Quốc sợ phải giao chiến nhất.
VOA: Liệu có trở ngại gì không khi Việt Nam liên minh quân sự với Hoa Kỳ, đối tượng mà Hà Nội coi là “xâm lược” trong cuộc chiến tranh Việt Nam, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù huy Hà Vũ: Để cứu nước thì dù có phải liên minh với quỷ dữ cũng vẫn phải làm. Với Hiệp định 6 tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh chẳng đã “rước” quân Pháp lăm le tái chiếm Đông Dương từ miền Nam ra miền Bắc Việt Nam để thay thế 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc chẳng phải là bài học lớn đó sao?
Thành thử liên minh quân sự với cựu thù hay “quân xâm lược” trong quá khứ để bảo vệ Độc lập và Chủ quyền lãnh thổ quốc gia đâu có phải là vấn đề!
Huống hồ quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam không phải là những kẻ xâm lược. Thực vậy, “xâm lược” là hành vi xâm chiếm lãnh thổ của nước khác trong khi cuộc chiến mà Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam là nhằm đánh chặn chủ nghĩa cộng sản chứ không nhằm mục đích chiếm đất. Nói cách khác, cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến “ý thức hệ”.
Tương tự như vậy, nếu mục đích của Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên những năm đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước là lãnh thổ chứ không phải để chống “cộng sản hóa” bán đảo này thì không loại trừ lá cờ của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thêm một ngôi sao thay vì Hàn quốc bây giờ.
Vả lại, nếu ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam khăng khăng tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ nước khác là “xâm lược” để duy trì quan điểm “Mỹ xâm lược Việt Nam” thì cuộc chiến 10 năm của Việt Nam ở Căm Pu Chia, từ 1979 đến 1988, phải được gọi là gì?!
Nói cách khác, quan điểm “Mỹ xâm lược Việt Nam” thực sự “hết thiêng” với việc quân đội Việt Nam đánh thẳng vào Phnompenh để lật đổ chế độ diệt chủng của “cựu đồng chí” Khmer Đỏ.
VOA: Mới đây khi trả lời báo chí phỏng vấn về Hội nghị Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tuyên bố: “Không để các lực lượng xấu sử dụng vấn đề Biển Đông để kích động, chia rẽ quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, chia rẽ quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân Việt Nam”. Phải chăng đây lại là trở ngại khác cho việc Việt Nam và Hoa Kỳ trở thành đồng minh quân sự của nhau, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Hoàn toàn không phải như vậy, ngược lại là đằng khác.
Thứ nhất, phải khẳng định rằng không có đảng phái chính trị nào, không có Nhà nước nào, không có nhân dân nào phi quốc gia và không có quốc gia nào lại có thể tồn tại không trên lãnh thổ cụ thể. Do đó bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là chính là bảo vệ quốc gia, tức bảo vệ lợi ích của nhân dân và mọi thể chế chính trị tồn tại trong quốc gia đó. Nói cách khác, không bảo vệ được lãnh thổ là mất hết!
Vì vậy, không thể có chuyện ngược đời là hy sinh lãnh thổ mà ở đây là chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc lại có thể bảo vệ được lợi ích của đảng phái chính trị, Nhà nước hay nhân dân Việt Nam.
Thứ hai, phải nói thẳng là quan hệ “đồng chí” hay quan hệ “hữu cơ” phải bảo vệ bằng mọi giá giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc đã không còn lý do tồn tại.
Thực vậy, mục đích của chủ nghĩa cộng sản là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản và xây dựng một thế giới phi quốc gia. Thế nhưng có lẽ trừ thời kỳ trước khi nắm chính quyền, cả Đảng cộng sản Việt Nam lẫn Đảng cộng sản Trung Quốc không đảng nào còn công khai “chí hướng” xây dựng một thế giới phi quốc gia và hiện nay thì cả hai đảng không những loại hẳn “đấu tranh giai cấp” ra khỏi cương lĩnh của đảng mà ngược lại, hối hả thực hành chủ nghĩa tư bản như thể lấy lại thời gian đã mất!
Thứ ba, nếu các chính khách như quan chức Đảng cộng sản hay Chính phủ Việt Nam mà tuyên bố như vậy thì hẳn nhiên đó là lời lẽ của những kẻ phản bội Tổ quốc và với loại người này mà bàn tính liên minh quân sự với nước ngoài để bảo vệ Tổ quốc thì quả thật hơn cả nhạo báng, là một sự sỉ nhục!
Tuy nhiên đây là phát ngôn của một tư lệnh quân sự mà phép quân thì được quyền nói dối, được quyền “nói một đằng, làm một nẻo”, mà theo binh pháp Tôn Tử là chiêu “Dương Đông kích Tây”. Nghĩa là phát ngôn trên của Tướng Phùng Quang Thanh nhằm che dấu nỗ lực ngày một gia tăng của quân đội Việt Nam trong việc chống lại hiểm họa xâm lăng từ Trung Quốc mà liên minh quân sự với Mỹ dù muốn hay không vẫn là sự lựa chọn hàng đầu.
Về phía ban lãnh đạo Bắc Kinh, tôi cho rằng họ, nhất là với tư cách hậu duệ của Tôn Tử, không dễ gì mắc kế “Dương Tây kích Đông” của tướng lĩnh Việt Nam nhưng cũng không dễ gì thoát khỏi như lịch sử chiến tranh giữa hai nước đã chứng minh.
VOA: Như tiến sĩ đã nói, liên minh quân sự với Mỹ là để cứu nước, cụ thể và trước mắt là để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Thế nhưng vào năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã gửi cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai Công hàm coi như tán thành Tuyên bố của Trung Quốc về lãnh hải của Trung Quốc, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một sự kiện bị nhiều người Việt coi là “bán nước”. Vậy ý kiến của Tiến sĩ về Công hàm này như thế nào?
TS Cù Huy Hà Vũ: Năm 1979 trong Tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định sự diễn giải của Trung quốc về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung quốc trên các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc. Biên niên các hoạt động đối ngoại của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong sách “Phạm Văn Đồng và Ngoại giao Việt Nam” do Bộ Ngoại giao Việt Nam biên soạn năm 2006 đã không liệt kê văn kiện này.
Ngoài ra có ý kiến cho rằng Công hàm không thể có giá trị vì được ký vào Chủ nhật, tức không phải ở nhiệm sở.
Thế nhưng phản đối cách diễn giải của Trung Quốc, dùng tiểu xảo hay dấu nhẹm Công hàm đều không phải là cách để rũ bỏ văn kiện ngoại giao tai hại này. Theo tôi cách duy nhất để làm việc này là chứng minh Công hàm không có giá trị về mặt pháp luật.
VOA: Muốn chứng minh thì phải chứng minh như thế nào, thưa Tiến sĩ?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là vô hiệu với ba căn cứ sau:
Một là, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có thẩm quyền đàm phán về lãnh thổ.
Hiệp định Genève 1954 đã chia cắt tạm thời Việt Nam làm hai tại vĩ tuyến 17 và dự kiến sự chia cắt tạm thời đó sẽ được xoá bỏ vào năm 1956 sau khi tổng tuyển cử được tiến hành trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra được một Quốc hội thống nhất và trên cơ sở đó định ra được một Chính phủ thống nhất.
Như vậy, cả Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc lẫn Chính phủ Quốc gia Việt Nam và tiếp đó nội các Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam đều là những chính quyền tạm thời nên theo công pháp quốc tế không có thẩm quyền đàm phán lãnh thổ với nước ngoài. Nói cách khác, chỉ có Chính phủ của một nước Việt Nam thống nhất mới có thẩm quyền đó.
Thế nhưng như chúng ta đã thấy, Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tư cách Chính phủ của nước Việt Nam thống nhất, hơn thế nữa, với tư cách Chính phủ Việt Nam duy nhất được Liên Hiệp Quốc công nhận, chưa bao giờ công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc, mà ngược lại, luôn khẳng định hai quần đảo này là lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam.
Hai là, ngay cứ cho rằng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Chính phủ của nước Việt Nam thống nhất thì Công hàm này cũng không mảy may có giá trị pháp lý vì Công hàm này chưa bao giờ được trình Quốc Hội xem xét và phê chuẩn.
Thực vậy, theo thông lệ quốc tế, mọi cam kết quốc tế của Chính phủ, của Thủ tướng hay của người đứng đầu Nhà nước chỉ có giá trị pháp lý hay có hiệu lực thi hành nếu cam kết được Quốc Hội phê chuẩn. Nói cách khác, Công hàm chỉ dừng lại ở mức phản ánh quan điểm của cá nhân Thủ tướng Phạm Văn Ðồng hay của Chính phủ.
Ba là, Công hàm không có giá trị vì bản thân Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ Trung Quốc về lãnh hải của Trung Quốc hoàn toàn không có giá trị đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thực vậy, Trung Quốc chưa bao giờ phủ nhận dưới bất cứ hình thức nào chữ ký của Thủ tướng Chu Ân Lai tại văn bản Hiệp định Genève 1954 công nhận Chính phủ Quốc gia Việt Nam được quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
VOA: Để kết thúc, Tiến sĩ có thông điệp nào nhắn gửi Diễn đàn khu vực ASEAN vừa chấm dứt?
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ: Đồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh lệnh của thời đại vì một an ninh thế giới mới đến từ Đông Á.
VOA: Xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ về sự mạnh mẽ và sâu sắc trong quan điểm cũng như về thời gian mà ông đã dành cho VOA trong cuộc phỏng vấn này.
*
SƠN TRUNG * TÂM ĐỊA & HÀNH ĐỘNG CỦA VIỆT CỘNG
VỀ NẮM TRO TÀN CỦA TƯỚNG PHÁP MARCEL BIGEAR
SƠN TRUNG
Đặng
Tiến đài BBC ngày thứ năm 24-6-2010 loan tin tướng Pháp là Marcel
Bigeard đã mất ngày 18-6-2010 thọ 94 tuổi. Ông là một binh nhì leo dần
lên cấp tướng bốn sao, đã bị bắt làm tù binh tại Điện Biên Phủ năm
1954. Năm 1988, ông dặn vợ con "Hãy rải tro hỏa táng tôi xuống lòng
chảo Điện Biên Phủ."
Ý
tưởng ông thật lạ lùng. Quan điểm này trái với phong tục Pháp và Việt
Nam. Người Việt Nam ta nghĩ rằng " Lá rụng về cội", đa số muốn về
chết ở quê hương hay chôn tro cốt ở quê hương. Tuy nhiên một số người
Việt lại về quê mang hài cốt tổ tiên ra hải ngoại mà chôn cất vì tại
Việt Nam không còn thân nhân, hoặc là sợ nắm xương tàn của thân nhân
không được " mồ êm mả đẹp" vì chính sách của cộng sản luôn dời nghĩa
trang để chiếm đất và bán đất lấy tiền bỏ túi.
Tại Việt Nam
đa số nhân dân muốn ra ngoại quốc sinh sống. Nếu cột đèn biết đi thì
cũng vượt biên. Không những dân miền Nam bỏ nước ra đi mà dân XHCN
nghĩa cũng bỏ nước ra đi bằng cách này hay cách khác.
:Xin cho tôi một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi ..."
Tại sao tướng Marcel Bigeard lại muốn trở lại Việt Nam? Ông là một
sĩ quan anh dũng, đã bị giam cầm, chịu bao tủi nhục với các chiến
hữu của ông. Một số chiến hữu của ông đã nằm lại Điện Biên Phủ và ông
muốn sống chết có nhau, muốn trở lại nằm bên cạnh các chiến hữu của
ông, binh sĩ dưới quyền của ông. Đó là con người thủy chung, có đạo
nghĩa và khí tiết của một quân nhân. Ông khác với những ông tổng
thống hoặc ứng cử viên tổng thống trốn quân dịch , hoặc những ông
tướng tháo chạy bỏ lại đồng đội đàng sau. Ý tưởng của ông cũng giống
Nam Lộc trong bài ca "Người di tản buồn "
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/06/100624_marcel_bigeard.shtml
Tin tức Việt Nam và ngoại quốc đều loan tin bộ Quốc Phòng và Ngoại giao Việt Nam đã từ chối yêu cầu của tướng Marcel Bigear.
Nguồn tin trên gây cho người đọc ngạc nhiên. Tại sao Việt Nam từ chối?
Giới chức Việt Nam không muốn nêu tên nói rằng Bộ Ngoại giao và Bộ
Quốc phòng Việt Nam không ủng hộ ý kiến đó, vì không muốn tạo tiền
lệ.
Theo
trang tin điện tử History News Network cùng ngày, khước từ của Việt
Nam được xem như một ngụ ý đối với các binh sĩ Mỹ có thể sẽ có
những yêu cầu tương tự.
Nguồn: AFP, History News Network
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam-bigeard-07-28-2010-99458129.html
Chúng ta thử tìm hiểu thử xem.
1.Phải chăng Việt Nam ái quốc cực đoan và thù dai?
Nếu
ái quốc thì tại sao bán nước cho Tàu? Nếu anh hùng thì sao lại quỳ
lạy Trung Quốc?Nếu ghét xâm lược tại sao Việt Cộng xây mộ phần và bia
tưởng niệm các lính Trung Quốc xâm lược năm 1979 tại Lạng Sơn?
2.
Phải chăng sợ Tàu? Có thể. Sợ Tàu giận cho nên từ chối. Phải chăng
Việt Nam "nhức đầu " về các xác chết của liệt sĩ Trung Quốc tại Trường
Sơn và miền Nam trong chiến tranh? Phải trả tiền? Bao nhiêu tiền? Bao
nhiêu đất? ?Phải xây lăng mộ, nghĩa trang và cúng tế?
3. Phải
chăng từ chối là để làm tiền? Cộng sản rất khôn lanh trong tiền bạc.
Cải Cách Ruộng Đất, đánh tư sản chẳng qua là cướp tài sản nhân dân.
Quốc doanh, HTX cũng là những cách cướp nguồn sống của nhân dân. Sau
1975, Việt cộng đòi Mỹ bồi thường 50 tỷ Mỹ kim. thì mới được bang giao
với nước Việt Nam anh hùng! Trại tị nạn Hồng Kông đuổi người Việt,
Đông Đức đuổi người Việt cuối cùng phải chi tiền cho Việt Cộng thì
chúng mới cho người về. HO cũng vậy? Việt Cộng nhìn qua vụ tướng
Marcel Bigeard đã thấy một mối làm ăn lớn. Sau này tướng Mỹ, lính Mỹ,
tướng "ngụy" lính ngụy" muốn về nằm ( bằng tro bụi) đều phải chi
tiền! Diệu kế! Diệu kế! Nhìn xa thấy rộng một con đường làm ăn xán
lạn vô cùng!
4. Giả sử việc này là do ghét Pháp thực dân. Nếu ghét
Pháp Mỹ tại sao buôn bán với Âu, Mỹ, nhận viện trợ Pháp Mỹ, và cầu
cạnh Pháp Mỹ? Ngày 18-12-2009, Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin đại
tướng Phùng Quang Thanh đã sang thăm Pháp.
Để
đạt được điều này, hai bộ trưởng quyết định sớm triển khai các thỏa
thuận hợp tác quốc phòng đã được ký kết trong chuyến thăm Việt Nam
mới đây của Thủ tướng Pháp François Fillon.
Cụ
thể, hai bên sẽ xúc tiến thành lập Ủy ban hỗn hợp cấp cao, có nhiệm
vụ triển khai các chương trình chiến lược và hợp tác quân sự
Việt-Pháp. Hai bộ trưởng đã đề cập đến nhiều lĩnh vực có triển vọng
xúc tiến hợp tác trong thời gian tới, đặc biệt trong việc hiện đại hóa
quân đội Việt Nam và hợp tác đào tạo, nhất là trong ngành quân y...
Đại
tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ coi trọng mối quan hệ quốc phòng giữa
Việt Nam và Pháp. Đại tướng đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường
trao đổi kinh nghiệm giữa các đoàn quân sự hai nước, triển khai các
chương trình hợp tác công nghiệp quốc phòng, nâng cấp trang thiết bị
quân sự và đào tạo. Nhân dịp này, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã mời
vị đồng nhiệm của mình sang thăm Việt Nam.
Về
phần mình, Bộ trưởng Hervé Morin cho biết Pháp đánh giá cao vị thế
của Việt Nam trong khu vực châu Á, đồng thời bày tỏ mong muốn hai bên
xây dựng mối quan hệ đối tác dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau và bằng
mối quan hệ sâu rộng và lâu bền.. . .
Trong
thời gian ở thăm Pháp, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã có
buổi làm việc với tập đoàn Hàng không Quốc phòng và Không gian châu
Âu (EADS). Ông Louis Gallois, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc tập đoàn
đánh giá cao mối quan hệ đối tác với Việt Nam, bày tỏ mong muốn quan
hệ này không chỉ phát triển trong lĩnh vực hàng không dân dụng mà cả
trong lĩnh vực công nghệ quốc phòng và không quân.
Sau
khi đại diện tập đoàn giới thiệu các sản phẩm của mình, hai bên đã
trao đổi những khả năng hợp tác trong thời gian tới, đặc biệt là vấn
đề đào tạo phi công và phát triển công nghệ quốc phòng Việt Nam.
Bộ
trưởng Phùng Quang Thanh và đoàn cũng thăm trụ sở Bộ Chỉ huy không
quân Pháp và Trung tâm điều hành các hoạt động không quân của Pháp./.
(TTXVN/Vietnam+)
http://www.vietnamplus.vn/Home/Bo-truong-Quoc-phong-Phung-Quang-Thanh-tham-Phap/200912/28205.vnplus
Đài VOA loan tin Pháp
cũng hy vọng không chỉ cung cấp các thiết bị quốc phòng đơn thuần
theo hợp đồng thương mại cho phía Việt Nam mà kèm theo là gói chương
trình đào tạo, huấn luyện, bảo trì…, tất cả các khâu trong quá trình
sử dụng trang thiết bị quân sự do phía Việt Nam đặt hàng.
Cũng
theo AP, trước khi đặt những đơn hàng này của Pháp thì Nga là nước
cung cấp chính các loại thiết bị quốc phòng cho Việt Nam.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/france-vn-military-07-27-2010-99307079.html
Sự
kiện trên cho chúng ta thấy Việt cộng bao giờ cũng nhỏ nhen, thù dai
và trong mọi vấn đề đều có thái độ cao ngạo và làm tiền. Rõ rệt nhất
là sợ Trung Quốc. Trung Quốc cũng thù dai, làm tiền với Nhật Bản. Có
lẽ Việt cộng muốn chính phủ Pháp thi hành các "thủ tục đầu tiên".
Và
điều này cho chúng ta thấy tâm địa cộng sản là nhỏ nhen, tàn ác,
thiếu suy luận hợp tình hợp lý. Trong đối xử với nhân dân và trong
bang giao quốc tế, bao giờ cộng sản cũng gian manh và thủ lợi.
Tại Việt Nam đa số nhân dân muốn ra ngoại quốc sinh sống. Nếu cột đèn biết đi thì cũng vượt biên. Không những dân miền Nam bỏ nước ra đi mà dân XHCN nghĩa cũng bỏ nước ra đi bằng cách này hay cách khác.
:Xin cho tôi một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi ..."
Tại sao tướng Marcel Bigeard lại muốn trở lại Việt Nam? Ông là một
sĩ quan anh dũng, đã bị giam cầm, chịu bao tủi nhục với các chiến
hữu của ông. Một số chiến hữu của ông đã nằm lại Điện Biên Phủ và ông
muốn sống chết có nhau, muốn trở lại nằm bên cạnh các chiến hữu của
ông, binh sĩ dưới quyền của ông. Đó là con người thủy chung, có đạo
nghĩa và khí tiết của một quân nhân. Ông khác với những ông tổng
thống hoặc ứng cử viên tổng thống trốn quân dịch , hoặc những ông
tướng tháo chạy bỏ lại đồng đội đàng sau. Ý tưởng của ông cũng giống
Nam Lộc trong bài ca "Người di tản buồn "Tin tức Việt Nam và ngoại quốc đều loan tin bộ Quốc Phòng và Ngoại giao Việt Nam đã từ chối yêu cầu của tướng Marcel Bigear.
RFA * HY VỌNG MỚI
*
Hy vọng mới cho vấn đề biển Đông
Việt Hà, phóng viên RFA
2010-07-29
Phát
biểu mới đây của Ngoại trưởng Hoa kỳ Hillary Clinton về thái độ của Mỹ
về biển Đông tại diễn đàn khu vực Asean ở Hà nội hôm 23 tháng 7 đã cho
thấy những biến chuyển trong việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa
Trung quốc và một số nước thành viên Asean.
AFP photo
Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton (P) nhìn Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào
trong phiên khai mạc của vòng thứ hai Đối thoại Chiến lược & Kinh
tế Mỹ-Trung tại Bắc Kinh ngày 24 tháng 5 năm 2010.
Trong khi đó,
các nước trong khu vực này cũng đang trong tiến trình củng cố và hiện
đại hóa quốc phòng, đặc biệt là lực lượng hải quân. Liệu những diễn
biến mới này có ý nghĩa gì và liệu các nước đang có tranh chấp chủ
quyền trên biển Đông với Trung quốc có thể hy vọng gì vào một giải pháp
có thể đang cận kề?
Hoa Kỳ lên tiếng và hy vọng mới
Tranh
chấp chủ quyền trên biển Đông giữa Trung quốc và một số nước thành viên
Asean trong đó có Việt nam dường như đang sang một bước ngoặc mới, sau
khi ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton chính thức bày tỏ quan tâm của
Hoa kỳ đến khu vực này tại diễn đàn khu vực Asean ở Hà nội hôm 23
tháng 7 vừa qua:
"Hoa kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia
trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á, và
tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi
ích không chỉ với các thành viên Asean hoặc những người tham dự Diễn
đàn khu vực Asean, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng
quốc tế rộng hơn."
Hoa kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc
gia trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á,
và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
Bà
ngoại trưởng cũng bày tỏ sự ủng hộ cho việc đa phương hóa trong giải
quyết các tranh chấp trên biển Đông, và khẳng định Hoa Kỳ phản đối việc
sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp tại đây.
Trung quốc
từ trước tới nay vẫn luôn cố gắng tránh việc quốc tế hóa vấn đề biển
Đông và chỉ muốn giải quyết vấn đề này trên cơ sở song phương với từng
nước.
Các nước thuộc Asean đang có tranh chấp với Trung quốc về
chủ quyền các đảo trên biển Đông bao gồm Việt nam, Philippine, Brunei
và Malaysia.
Giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện quốc phòng Úc,
trường đại học New South Wales, chuyên gia về châu Á nhận xét, phát
biểu mới này của ngoại trưởng Mỹ đã cho thấy một thay đổi lớn trong
việc giải quyết vấn đề biển Đông. Ông nói:
"Phát biểu của ngoại
trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton cho thấy một thay đổi lớn trong việc giải
quyết vấn đề biển Đông. Từ năm 2007 đến nay, lập trường của Trung quốc
về chủ quyền trên biển Đông luôn trái ngược với Việt nam. Trung quốc
có nói chuyện hợp tác nhưng họ vẫn giữ thái độ quả quyết. Nhưng khi họ
làm như vậy thì đồng thời cũng dẫm chân lên quyền lợi của Hoa kỳ và các
công ty thương mại Hoa Kỳ. Trung quốc cũng tỏ ra khá căng thẳng với
những nghiên cứu của tàu quân sự Mỹ trên biển gần đảo Hải nam. Cho nên
theo ý kiến của tôi, Hoa Kỳ đã giành lại ưu thế, và sử dụng phương cách
đa phương hóa để đối đầu với Trung quốc."
000_Hkg3591532-250jpg.jpg
Một
máy bay trực thăng CH-46E của thủy quân lục chiến Mỹ cất cánh từ căn
cứ không quân Futenma ở Okinawa hôm 26/4/2010. AFP PHOTO / TOSHIFUMI
KITAMURA
Ngay sau khi tuyên bố này của ngoại trưởng Hoa Kỳ được đưa
ra, Trung quốc đã lên tiếng phản đối. Trong bài bình luận đăng trên
trang web của bộ ngoại giao Trung Quốc, bộ trưởng ngoại giao Trung quốc
Dương Khiết Trì viết:
"Quốc tế hóa vấn đề này thì liệu mang lại được kết quả gì hay chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?"
Ông
tiếp tục nhấn mạnh lập trường của Trung quốc là đàm phán song phương:
"Thực tế cho thấy cách thức tốt nhất để giải quyết các tranh chấp dạng
này là thông qua thảo luận trực tiếp song phương giữa các nước liên
quan."
Lịch sử đã cho thấy Trung quốc cũng đã từng từ chối đa
phương hóa các đàm phán về vấn đề biển Đông trước kia, thể hiện trong
đàm phán về tuyên bố chung của các bên liên quan về cách ứng xử trên
biển Đông. Tuyên bố này phải mất một khoảng thời gian dài từ năm 1995
đến 2002 mới được các bên phê chuẩn và Trung quốc cũng phải đồng ý tham
gia một cách miễn cưỡng. Giáo sư Carl Thayer nhận xét lịch sử cho thấy
Trung quốc dù muốn hay không cũng không muốn bị cô lập về ngoại giao.
Liệu có phải là quá sớm?
Theo
giáo sư Carl Thayer, tuyên bố mới của ngoại trưởng Hillary Clinton
cũng đồng thời giải quyết được vấn đề cho Việt nam, là nước vẫn đang cố
gắng tìm cách quốc tế hóa vấn đề biển Đông thay vì phải đối đầu trực
tiếp với Trung quốc. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng hy vọng sớm có được
một giải pháp cho vấn đề biển Đông bây giờ là quá lạc quan:
Quốc tế hóa vấn đề này thì liệu mang lại được kết quả gì hay chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?"
Bộ trưởng ngoại giao TQ Dương Khiết Trì
"Nếu
nói là hy vọng nhiều thì theo tôi có vẻ hơi quá lạc quan, nhưng logic
của tình huống bây giờ dù là qua đối đầu hay ngoại giao đều khiến Trung
quốc phải đối diện với Mỹ và có ngày càng nhiều các bên cùng lên tiếng
về quyền lợi của họ. Điều này theo tôi làm cho Trung quốc thấy rằng vì
quyền lợi của chính mình Trung quốc phải nhấn mạnh ngoại giao hơn là
quốc phòng."
Giáo sư Carl Thayer cho rằng điều mà các nước đang
cố gắng đạt được là để kéo Trung quốc vào các đàm phán đa bên tích cực
hơn chứ không phải là ép Trung quốc phải từ bỏ các chủ quyền của mình.
Và mong muốn đầu tiên đó là để có một sự hợp tác nghiên cứu phát triển
chung, tuân thủ tuyên bố chung của các bên liên quan về cách ứng xử trên
biển đông. Ông nói thêm:
"Vấn đề của biển Đông là nếu quy tắc
về ứng xử trên biển Đông được thực hiện thì không một nước nào đã ký
vào tuyên bố đó có thể làm gì để gây bất ổn, và sẽ phải tham gia vào
các họat động hợp tác, và thỏa thuận để giữ thể diện cho các nước là đi
theo hướng đó."
Tranh chấp trên biển Đông như vậy đã được đề
cập một cách rõ ràng trong diễn đàn Cấp vùng Asean, còn gọi là ARF với
12 nước thành viên. Một điều mà Trung quốc một mực phản đối. Bộ trưởng
ngọai giao Trung quốc Dương Khiết Trì viết rằng biển Đông cho tới nay
vẫn là một khu vực hòa bình và Asean không phải diễn đàn thích hợp để
giải quyết tranh chấp biển Đông.
Bất chấp những phản đối từ phía
Trung quốc, khả năng các vấn đề của biển đông được đề cập đến nhiều
hơn nữa trong một diễn đàn rộng hơn nữa là điều khó tránh khỏi đối với
Trung quốc khi diễn đàn Đông Á được thành lập năm 2005 mở rộng các
thành viên của mình là Nga, Mỹ và có thể là Ấn độ và các nước khác.
Chính ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đã nói rằng tổng thống Hoa kỳ
cũng sẽ có thể tham gia thượng đỉnh này vào năm 2011, cho thấy cam kết
tham gia tích cực hơn của Hoa kỳ vào an ninh khu vực.
Gia tăng quốc phòng khu vực và an ninh trên biển
000_Was3182055-250.jpg
Bộ
trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M. Gates (P) trò chuyện với Đô đốc Mike
Mullen, tham mưu trưởng liên quân trong một phiên điều trần về dự toán
ngân sách cho Bộ Quốc phòng, tại Washington, DC hôm 16/6/2010. AFP PHOTO
/ Rod LAMKEY JR
Với tuyên bố mới của Hoa kỳ khẳng định mối quan tâm
của Mỹ vào an ninh khu vực và phản đối giải quyết tranh chấp bằng vũ
lực, các phân tích gia cho rằng Trung quốc giờ đây phải tích cực hơn nữa
trong việc tìm giải pháp ngoại giao với các nước khác và hợp tác phát
triển. Tuy nhiên, người ta cũng thấy các nước trong khu vực đang ráo
riết gia tăng trang bị quốc phòng và củng cố lực lượng hải quân của
mình.
Việt nam năm ngoái đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm kilo của Nga
trị giá đến 2 tỷ đô la. Việt nam cũng vừa tiếp tục ký hợp đồng mua
tiếp 12 máy bay chiến đấu Su 30 của Nga. Trong chuyến thăm Việt nam hồi
cuối tuần trước, bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Herve Morin cũng hứa sẽ hỗ
trợ Việt nam trong quá trình đào tạo và hiện đại hóa quân đội, trong đó
có việc bán các thiết bị quân sự do Pháp chế tạo như radar, máy bay
trực thăng.
Các nước khác như Singapore, Malaysia cũng đã mua
tàu ngầm mới. Indonesia đã hỏi mua tàu ngầm sau đó ngừng lại, nhưng
theo các nhà phân tích thì nước này cũng sẽ sớm nối lại việc mua bán
này.
Riêng về phía Việt nam, giáo sư Carl Thayer cho rằng việc
củng cố lực lượng hải quân của Việt nam từ năm 1995 trở lại đây đã diễn
ra khá mạnh mẽ và tạo cho Việt nam khả năng phòng vệ tốt hơn trước
Trung quốc trên biển:
"Từ năm 1995 trở lại đây thì Việt nam có
các bước tiến khá mạnh trong việc xây dựng lực lượng biển. Tàu ngầm mà
Việt nam mới mua cho Việt nam một khả năng đối xứng để phản ứng lại với
Trung quốc. Nó giống như là câu chuyện giữa David và Golliath và cái
súng cao su. Và điều này sẽ khiến Trung quốc giờ đây phải cân nhắc kỹ
hơn khi có bất cứ hành động quân sự nào."
Từ năm 1995 trở lại
đây thì Việt nam có các bước tiến khá mạnh trong việc xây dựng lực
lượng biển. Tàu ngầm mà Việt nam mới mua cho Việt nam một khả năng đối
xứng để phản ứng lại với Trung quốc.
Giáo sư Carl Thayer
Mặc
dù khả năng về đối đầu quân sự trên biển Đông với Trung quốc được các
chuyên gia cho là rất thấp, nhất là khi Hoa kỳ tuyên bố đã quay trở
lại, nhưng các nước trong khu vực cũng hiểu được rằng trước việc Trung
quốc gia tăng trang bị quốc phòng, thì người bảo vệ tốt nhất cho quyền
lợi của họ chính là bản thân họ. Và đó chính là nguyên nhân mà các nước
đang tích cực đầu tư mua tàu ngầm và trang bị cho lực lượng hải quân.
Những
chuyển biến mới được cho là tích cực trong hướng tiếp cận giải quyết
vấn đề biển Đông được các nhà phân tích quốc tế cho là thắng lợi của
Việt nam, nước chủ tịch luân phiên của Asean năm nay. Tuy nhiên, vẫn còn
đó vấn đề lòng tin giữa các nước có tranh chấp, lòng tin mà các nước
cần có với nhau và với Trung quốc để có thể hợp tác nghiên cứu khoa học
phát triển và khai thác nguồn lợi trên biển, tránh tình trạng như việc
Trung quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông thời gian
gần đây.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-hope-for-South-China-Sea-issue-Vha-07292010093111.html
Posted by sontrung at 10:29 AM
Hy vọng mới cho vấn đề biển Đông
Việt Hà, phóng viên RFA
2010-07-29
Phát biểu mới đây của Ngoại trưởng Hoa kỳ Hillary Clinton về thái độ của Mỹ về biển Đông tại diễn đàn khu vực Asean ở Hà nội hôm 23 tháng 7 đã cho thấy những biến chuyển trong việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Trung quốc và một số nước thành viên Asean.
AFP photo
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton (P) nhìn Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào trong phiên khai mạc của vòng thứ hai Đối thoại Chiến lược & Kinh tế Mỹ-Trung tại Bắc Kinh ngày 24 tháng 5 năm 2010.
Trong khi đó, các nước trong khu vực này cũng đang trong tiến trình củng cố và hiện đại hóa quốc phòng, đặc biệt là lực lượng hải quân. Liệu những diễn biến mới này có ý nghĩa gì và liệu các nước đang có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông với Trung quốc có thể hy vọng gì vào một giải pháp có thể đang cận kề?
Hoa Kỳ lên tiếng và hy vọng mới
Tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa Trung quốc và một số nước thành viên Asean trong đó có Việt nam dường như đang sang một bước ngoặc mới, sau khi ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton chính thức bày tỏ quan tâm của Hoa kỳ đến khu vực này tại diễn đàn khu vực Asean ở Hà nội hôm 23 tháng 7 vừa qua:
"Hoa kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với các thành viên Asean hoặc những người tham dự Diễn đàn khu vực Asean, mà còn với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng quốc tế rộng hơn."
Hoa kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong việc tự do đi lại, tự do đi vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton
Bà ngoại trưởng cũng bày tỏ sự ủng hộ cho việc đa phương hóa trong giải quyết các tranh chấp trên biển Đông, và khẳng định Hoa Kỳ phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp tại đây.
Trung quốc từ trước tới nay vẫn luôn cố gắng tránh việc quốc tế hóa vấn đề biển Đông và chỉ muốn giải quyết vấn đề này trên cơ sở song phương với từng nước.
Các nước thuộc Asean đang có tranh chấp với Trung quốc về chủ quyền các đảo trên biển Đông bao gồm Việt nam, Philippine, Brunei và Malaysia.
Giáo sư Carl Thayer, thuộc học viện quốc phòng Úc, trường đại học New South Wales, chuyên gia về châu Á nhận xét, phát biểu mới này của ngoại trưởng Mỹ đã cho thấy một thay đổi lớn trong việc giải quyết vấn đề biển Đông. Ông nói:
"Phát biểu của ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton cho thấy một thay đổi lớn trong việc giải quyết vấn đề biển Đông. Từ năm 2007 đến nay, lập trường của Trung quốc về chủ quyền trên biển Đông luôn trái ngược với Việt nam. Trung quốc có nói chuyện hợp tác nhưng họ vẫn giữ thái độ quả quyết. Nhưng khi họ làm như vậy thì đồng thời cũng dẫm chân lên quyền lợi của Hoa kỳ và các công ty thương mại Hoa Kỳ. Trung quốc cũng tỏ ra khá căng thẳng với những nghiên cứu của tàu quân sự Mỹ trên biển gần đảo Hải nam. Cho nên theo ý kiến của tôi, Hoa Kỳ đã giành lại ưu thế, và sử dụng phương cách đa phương hóa để đối đầu với Trung quốc."
000_Hkg3591532-250jpg.jpg
Một máy bay trực thăng CH-46E của thủy quân lục chiến Mỹ cất cánh từ căn cứ không quân Futenma ở Okinawa hôm 26/4/2010. AFP PHOTO / TOSHIFUMI KITAMURA
Ngay sau khi tuyên bố này của ngoại trưởng Hoa Kỳ được đưa ra, Trung quốc đã lên tiếng phản đối. Trong bài bình luận đăng trên trang web của bộ ngoại giao Trung Quốc, bộ trưởng ngoại giao Trung quốc Dương Khiết Trì viết:
"Quốc tế hóa vấn đề này thì liệu mang lại được kết quả gì hay chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?"
Ông tiếp tục nhấn mạnh lập trường của Trung quốc là đàm phán song phương: "Thực tế cho thấy cách thức tốt nhất để giải quyết các tranh chấp dạng này là thông qua thảo luận trực tiếp song phương giữa các nước liên quan."
Lịch sử đã cho thấy Trung quốc cũng đã từng từ chối đa phương hóa các đàm phán về vấn đề biển Đông trước kia, thể hiện trong đàm phán về tuyên bố chung của các bên liên quan về cách ứng xử trên biển Đông. Tuyên bố này phải mất một khoảng thời gian dài từ năm 1995 đến 2002 mới được các bên phê chuẩn và Trung quốc cũng phải đồng ý tham gia một cách miễn cưỡng. Giáo sư Carl Thayer nhận xét lịch sử cho thấy Trung quốc dù muốn hay không cũng không muốn bị cô lập về ngoại giao.
Liệu có phải là quá sớm?
Theo giáo sư Carl Thayer, tuyên bố mới của ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đồng thời giải quyết được vấn đề cho Việt nam, là nước vẫn đang cố gắng tìm cách quốc tế hóa vấn đề biển Đông thay vì phải đối đầu trực tiếp với Trung quốc. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng hy vọng sớm có được một giải pháp cho vấn đề biển Đông bây giờ là quá lạc quan:
Quốc tế hóa vấn đề này thì liệu mang lại được kết quả gì hay chỉ khiến mọi việc tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn mà thôi?"
Bộ trưởng ngoại giao TQ Dương Khiết Trì
"Nếu nói là hy vọng nhiều thì theo tôi có vẻ hơi quá lạc quan, nhưng logic của tình huống bây giờ dù là qua đối đầu hay ngoại giao đều khiến Trung quốc phải đối diện với Mỹ và có ngày càng nhiều các bên cùng lên tiếng về quyền lợi của họ. Điều này theo tôi làm cho Trung quốc thấy rằng vì quyền lợi của chính mình Trung quốc phải nhấn mạnh ngoại giao hơn là quốc phòng."
Giáo sư Carl Thayer cho rằng điều mà các nước đang cố gắng đạt được là để kéo Trung quốc vào các đàm phán đa bên tích cực hơn chứ không phải là ép Trung quốc phải từ bỏ các chủ quyền của mình. Và mong muốn đầu tiên đó là để có một sự hợp tác nghiên cứu phát triển chung, tuân thủ tuyên bố chung của các bên liên quan về cách ứng xử trên biển đông. Ông nói thêm:
"Vấn đề của biển Đông là nếu quy tắc về ứng xử trên biển Đông được thực hiện thì không một nước nào đã ký vào tuyên bố đó có thể làm gì để gây bất ổn, và sẽ phải tham gia vào các họat động hợp tác, và thỏa thuận để giữ thể diện cho các nước là đi theo hướng đó."
Tranh chấp trên biển Đông như vậy đã được đề cập một cách rõ ràng trong diễn đàn Cấp vùng Asean, còn gọi là ARF với 12 nước thành viên. Một điều mà Trung quốc một mực phản đối. Bộ trưởng ngọai giao Trung quốc Dương Khiết Trì viết rằng biển Đông cho tới nay vẫn là một khu vực hòa bình và Asean không phải diễn đàn thích hợp để giải quyết tranh chấp biển Đông.
Bất chấp những phản đối từ phía Trung quốc, khả năng các vấn đề của biển đông được đề cập đến nhiều hơn nữa trong một diễn đàn rộng hơn nữa là điều khó tránh khỏi đối với Trung quốc khi diễn đàn Đông Á được thành lập năm 2005 mở rộng các thành viên của mình là Nga, Mỹ và có thể là Ấn độ và các nước khác. Chính ngoại trưởng Hillary Clinton cũng đã nói rằng tổng thống Hoa kỳ cũng sẽ có thể tham gia thượng đỉnh này vào năm 2011, cho thấy cam kết tham gia tích cực hơn của Hoa kỳ vào an ninh khu vực.
Gia tăng quốc phòng khu vực và an ninh trên biển
000_Was3182055-250.jpg
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert M. Gates (P) trò chuyện với Đô đốc Mike Mullen, tham mưu trưởng liên quân trong một phiên điều trần về dự toán ngân sách cho Bộ Quốc phòng, tại Washington, DC hôm 16/6/2010. AFP PHOTO / Rod LAMKEY JR
Với tuyên bố mới của Hoa kỳ khẳng định mối quan tâm của Mỹ vào an ninh khu vực và phản đối giải quyết tranh chấp bằng vũ lực, các phân tích gia cho rằng Trung quốc giờ đây phải tích cực hơn nữa trong việc tìm giải pháp ngoại giao với các nước khác và hợp tác phát triển. Tuy nhiên, người ta cũng thấy các nước trong khu vực đang ráo riết gia tăng trang bị quốc phòng và củng cố lực lượng hải quân của mình.
Việt nam năm ngoái đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm kilo của Nga trị giá đến 2 tỷ đô la. Việt nam cũng vừa tiếp tục ký hợp đồng mua tiếp 12 máy bay chiến đấu Su 30 của Nga. Trong chuyến thăm Việt nam hồi cuối tuần trước, bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Herve Morin cũng hứa sẽ hỗ trợ Việt nam trong quá trình đào tạo và hiện đại hóa quân đội, trong đó có việc bán các thiết bị quân sự do Pháp chế tạo như radar, máy bay trực thăng.
Các nước khác như Singapore, Malaysia cũng đã mua tàu ngầm mới. Indonesia đã hỏi mua tàu ngầm sau đó ngừng lại, nhưng theo các nhà phân tích thì nước này cũng sẽ sớm nối lại việc mua bán này.
Riêng về phía Việt nam, giáo sư Carl Thayer cho rằng việc củng cố lực lượng hải quân của Việt nam từ năm 1995 trở lại đây đã diễn ra khá mạnh mẽ và tạo cho Việt nam khả năng phòng vệ tốt hơn trước Trung quốc trên biển:
"Từ năm 1995 trở lại đây thì Việt nam có các bước tiến khá mạnh trong việc xây dựng lực lượng biển. Tàu ngầm mà Việt nam mới mua cho Việt nam một khả năng đối xứng để phản ứng lại với Trung quốc. Nó giống như là câu chuyện giữa David và Golliath và cái súng cao su. Và điều này sẽ khiến Trung quốc giờ đây phải cân nhắc kỹ hơn khi có bất cứ hành động quân sự nào."
Từ năm 1995 trở lại đây thì Việt nam có các bước tiến khá mạnh trong việc xây dựng lực lượng biển. Tàu ngầm mà Việt nam mới mua cho Việt nam một khả năng đối xứng để phản ứng lại với Trung quốc.
Giáo sư Carl Thayer
Mặc dù khả năng về đối đầu quân sự trên biển Đông với Trung quốc được các chuyên gia cho là rất thấp, nhất là khi Hoa kỳ tuyên bố đã quay trở lại, nhưng các nước trong khu vực cũng hiểu được rằng trước việc Trung quốc gia tăng trang bị quốc phòng, thì người bảo vệ tốt nhất cho quyền lợi của họ chính là bản thân họ. Và đó chính là nguyên nhân mà các nước đang tích cực đầu tư mua tàu ngầm và trang bị cho lực lượng hải quân.
Những chuyển biến mới được cho là tích cực trong hướng tiếp cận giải quyết vấn đề biển Đông được các nhà phân tích quốc tế cho là thắng lợi của Việt nam, nước chủ tịch luân phiên của Asean năm nay. Tuy nhiên, vẫn còn đó vấn đề lòng tin giữa các nước có tranh chấp, lòng tin mà các nước cần có với nhau và với Trung quốc để có thể hợp tác nghiên cứu khoa học phát triển và khai thác nguồn lợi trên biển, tránh tình trạng như việc Trung quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông thời gian gần đây.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/new-hope-for-South-China-Sea-issue-Vha-07292010093111.html
RFI * TRUNG QUỐC BÀNH TRƯỚNG
Trung Quốc : Thế lực toàn cầu mới
Quân đội diễn tập chuẩn bị kỷ niệm 60 ngày thành lập CHND Trung Hoa
Thành
công kinh tế vượt bực của Trung Quốc trong thời gian gần đây đã được
nước này chuyển hóa thành sức mạnh chính tri, ngoại giao và quân sự,
kích thích tham vọng lãnh thổ, mà biểu hiện mới nhất là việc xác định
Biển Đông là « vùng quyền lợi quốc gia thiết thân » của Bắc Kinh.
Trong
bài viết mang tựa đề « Ảnh hưởng toàn cầu mới của Trung Quốc –
China’s New Global Leverage », đăng trên website Asia Sentinel ngày
14/07/2010, nhà nghiên cứu Mỹ Bruce Stokes đã phân tích các hành động
gần đây của Trung Quốc nhằm khẳng định uy lực của mình trên trường quốc
tế và ngay cả đối với các láng giềng châu Á. RFI xin giới thiệu bài
viết này với quý vị.
Trung Quốc có phải là một thị trường
đang vươn lên với những ước vọng hạn chế mang tính khu vực như Bắc Kinh
cố cho thấy hay không ? Hay họ là một nền kinh tế quyết đoán, ngày
càng hùng mạnh, một thế lực chiến lược đang càng lúc càng thách thức
châu Âu, Hoa Kỳ và các láng giềng châu Á ?
Phương Tây từng có
một lịch sử lâu dài hay la hoảng về Trung Quốc, khởi đầu bằng khái niệm
« Hiểm họa Da vàng » vào thế kỷ 19. Mới đây thì nỗi lo ngại về Trung
Quốc phản ánh thái độ thiếu tự tin của Âu Mỹ về năng lực bản thân
trong việc duy trì mức sống hiện nay của mình, trước sức cạnh tranh
của Trung Quốc.
Thái độ âu lo cũng được giới tân bảo thủ khuyến
khích vì họ cần tạo ra một kẻ thù để động viên quần chúng ủng hộ việc
tăng cường chi phí quân sự và tiếp tục duy trì ảnh hưởng toàn cầu của
nước Mỹ. Hơn nữa, nỗi lo âu như vậy đã không chú ý đến nhu cầu phát
triển to lớn của Trung Quốc, của hàng trăm triệu con người còn sống
trong cảnh túng thiếu ngặt nghèo.
Cho dù vậy, các dấu hiệu
trong những tháng gần đây gợi lên một Trung Quốc càng lúc càng tự tin,
với một năng lực và một quyết tâm tác động lên thế giới chưa từng
thấy. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Lịch sử đã cho thấy rằng
các cường quốc đang lên đều diễu võ giương oai và thử sức với châu Âu
và Hoa Kỳ. Các láng giềng châu Á của Trung Quốc không nhất thiết phải
lo sợ, nhưng cần phải dè chừng.
Thái độ quyết đoán mới đây của
Trung Quốc bắt nguồn từ một thành công kinh tế chưa từng thấy. Quy mô
nền kinh tế của họ đã lớn lên gấp đôi trong vòng 7 năm qua, và thu
nhập theo đầu người của họ đã nhân đôi trong vòng 6 năm. Thành quả
kinh tế đó đã biến người Trung Quốc thành dân tộc tự mãn nhất thế
giới, nếu căn cứ vào kết quả cuộc thăm dò dư luận toàn cầu gần đây
nhất của Tổ chức Pew. 9 trên 10 người Trung Quốc hài lòng với đường
lối kinh tế của nước họ, thoải mái với hiện trạng kinh tế và lạc quan
về tương lai kinh tế quốc gia.
Và phần còn lại của thế giới càng
lúc càng thấy Trung Quốc là một siêu cường kinh tế đang vươn lên.
Cũng trong bản điều tra dư luận của Pew tại 22 nước, đa số, hoặc số
đông ở 8 quốc gia chọn Trung Quốc làm cường quốc kinh tế hàng đầu,
trong lúc vào năm 2009, chỉ có dân chúng tại 2 nước suy nghĩ như vậy
mà thôi. Một nửa dân chúng ở Đức, Jordan, Nhật Bản, Pháp và Hoa Kỳ
hiện xếp Trung Quốc vào vị trí thứ nhất.
Từ năm 2009, tại 13
trên tổng số 21 quốc gia có thăm dò về yếu tố này, tỷ lệ dư luận xem
Trung Quốc là cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới đã tăng vọt,
với mức 29 % ở Nhật Bản, 23% ở Đức và 21% ở Jordan.
Trung Quốc
có vẻ như càng lúc càng sẵn sàng dùng vị thế đang lên của mình để gây
sức ép trên mặt ngoại giao, an ninh và kinh tế. Giờ đây, họ không còn
khấu đầu trước Hoa Kỳ nữa. Khi Tổng Thống Mỹ Barack Obama đi thăm
Trung Quốc vào tháng 11 năm 2009, cuộc tiếp xúc chính của ông với công
chúng là với sinh viên tại Thượng Hải. Sự kiện này chỉ được phát trên
đài truyền hình địa phương chứ không phải toàn quốc như trong cuộc gặp
gỡ nổi tiếng của Bill Clinton nhân chuyến công du đầu tiên của ông
trong cương vị Tổng Thống. Tệ hơn nữa, báo chí vào khi ấy đã kiểm duyệt
nội dung, chẳng hạn như đối với bài phỏng vấn ông Obama trong chương
trình ‘’Southern Weekend’’.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu
Copenhagen vào tháng 12 năm 2009, thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã
không tham dự cuộc họp đầu với tổng thống Mỹ Obama, mà cử một viên chức
cấp thấp hơn đi thay. Trong một chừng mực nào đó, ông Obama phải chịu
đựng một bài diễn văn do một viên chức cao cấp Trung Quốc mò mẫm đọc.
Nếu Hoa Kỳ cư xử như thế đối với một lãnh đạo Trung Quốc thì hiển
nhiên sẽ dẫn đến một sự cố ngoại giao.
Bắc Kinh cũng trở nên
hung hăng trên vấn đề thương mại và đầu tư, yêu cầu các công ty nước
ngoài đăng ký bằng sáng chế công nghệ ở Trung Quốc và phải tuân theo
chuẩn mực Trung Quốc nếu muốn bán hàng trên thị trường Trung Quốc. Bắc
Kinh cũng đã từng kiện tụng những nhà sản xuất phương Tây bán sản
phẩm tại Trung Quốc.
Trên mặt chính trị, quan chức Trung Quốc
cũng bắt đầu mở rộng đòi hỏi về chủ quyền. Từ lâu nay, Bắc Kinh đã
tuyên bố rằng Tây Tạng và Đài Loan là « vùng quyền lợi quốc gia thiết
thân » và nước ngoài phải tránh can thiệp vào các « vấn đề nội bộ »
đó. Bây giờ thì Bắc Kinh bắt đầu áp dụng chính sách ngoại giao này đối
với vùng Biển Đông, một khu vực rộng 1,2 triệu dặm vuông và là nơi
qua lại của ít nhất là 1/3 hàng hóa chuyển vận bằng đường biển của thế
giới và hơn một nửa năng lượng nhập khẩu của vùng Đông Bắc Á.
Đòi
hỏi của Bắc Kinh đe doạ quyền lợi về ngư nghiệp cũng như dầu hoả của
Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia và Malaysia, đe dọa quyền
qua lại của hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cùng lúc Bắc
Kinh cũng khẳng định trở lại đòi hỏi chủ quyền cũ xưa tại bang
Arunachal Pradesh của Ấn Độ, và cho tăng cường quân lính đóng ở vùng
sát biên giới phía Đông Bắc Ấn Độ để đòi hỏi của họ có thêm trọng
lượng.
Trung Quốc còn muốn đóng một vai trò to lớn hơn ở Nam Á.
Bắc Kinh cung cấp vũ khí cho chính quyền Sri Lanka để sử dụng trong
cuộc nội chiến dai dằng chống lực lượng Hổ Tamul. Họ còn mở rộng các
chiến dịch hải quân ra tận Ấn Độ Dương, đồng thời cho xây dựng hải
cảng tại một loạt quốc gia trong vùng, từ Miến Điện cho đến Pakistan.
Quan
hệ kinh tế với Miến Điện và Afghanistan được tăng cường trong lúc
quan hệ chiến lược với Pakistan được nâng lên qua đề nghị trợ giúp
trong lãnh vực hạt nhân dân sự... Trung Quốc đã loại Ấn Độ ra khỏi các
cơ cấu ngoại giao Đông Á, mà Trung Quốc thống lĩnh ?
Sẽ thông
cảm được với các nước láng giềng của Trung Quốc nếu như họ bắt đầu
quan ngại về việc Trung Quốc gắn liền quyền lợi quốc gia thiết thân,
chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ song song với đà gia tăng
của các chi phí quân sự. Hiện nay Bắc Kinh chi 4,3% GDP của mình vào
quốc phòng, cao hơn rất nhiều so với các láng giềng Ấn Độ, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan hay Việt Nam.
Nhưng Trung Quốc cũng dùng đến
phưong tiện gây sức ép mới khám phá ra « thái độ bất động ». Bắc Kinh
đã kháng cự rất lâu trước áp lực muốn họ nâng giá đồng nhân dân tệ.
Quyết định vào tháng 6/2010, ngừng gắn đồng tiền của họ với đồng đô la
đã không làm cho đồng yuan tăng giá đáng kể. Bắc Kinh cũng không muốn
gây sức ép đối với Bắc Triều Tiên bị cho là thủ phạm đánh chìm tàu
Cheonan của Hàn Quốc. Bắc Kinh cũng đã cố đòi giảm nhẹ các biện pháp
trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc đối với Iran trên chương trình
hạt nhân trước khi bò phiếu thông qua các biện pháp này, cho thấy rằng
lợi ích kinh tế của Trung Quốc tại Iran đã lấn át các mối quan ngại
chiến lược của châu Âu và Hoa Kỳ về chương trình này.
Rõ ràng là
Bắc Kinh đã tung ra những tín hiệu cho thấy là Trung Quốc không thể
mãi mãi chấp nhận nguyên trạng quốc tế hiện nay. Họ đã thiết lập một
loạt cột mốc, và quan hệ của họ với các nước khác đã vĩnh viễn thay
đổi .
Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng nhiều lần trắc nghiệm
xem ranh giới ảnh huởng của họ đến đâu và thái độ nhẫn nại của phương
Tây và các láng giềng châu Á của họ đến mức nào, để rồi sau đó lùi
lại. Nếu tất cả những động thái của Trung Quốc cho đến lúc này chỉ
mang tính chất phô diễn thì tình hình còn có thể xử lý được.
Nguy
cơ tình hình quốc tế căng thẳng lên và tính toán sai lầm sẽ chỉ xẩy
ra nếu thái độ kiên quyết của Trung Quốc tiếp tục gia tăng trong những
tháng tới đây.
Còn những vùng nào, những vấn đề nào khác mà
Trung Quốc sẽ xếp vào diện « quyền lợi quốc gia thiết thân » và do đó
sẽ nằm ngoài phạm vi chỉ trích của quốc tế ? Chính sách nhân quyền ở
trong nước ? Vấn đề thải khí carbon kỷ lục ? Đòi hỏi chủ quyền lãnh
thổ ở Trung Á ?
Liệu các công ty Trung Quốc có tìm cách vượt qua
các biện pháp trừng phạt kinh tế Iran hay không, qua đó cám dỗ Đức,
Hàn Quốc, hay Nhật bản đi theo ? Liệu Bắc Kinh có sẽ sử dụng số lượng
công trái phiếu của Mỹ khổng lồ mà họ nắm trong tay để tác động trực
tiếp lên thái độ của Hoa Kỳ hay không ?
Sẽ là không thực tế nếu
chờ đợi một Trung Quốc thành công về mặt kinh tế, ngày càng tự tin
hơn, mà lại không muốn đóng một vai trò rộng lớn hơn trên thế giới.
Nhưng thực tế đó không cho Bắc Kinh quyền tung sức mạnh đi mọi nơi mà
không sợ bị trừng phạt, cho dù trong quá khứ đã có quốc gia làm như
thế.
Châu Âu, châu Mỹ và phần còn lại của châu Á phải cảnh giác,
Trung Quốc đang vươn lên. Và những thế lực đang vươn lên thì thường
hay làm đảo lộn nguyên trạng.
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100722-trung-quoc-the-luc-toan-cau-moi
Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tăng tốc
Tàu
ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc tế
ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành
lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Quyết
định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết
yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là « Vịnh
Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi ích quốc
gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng Trung Quốc
vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc Kinh tự cho
rằng đã đủ khả năng khống chế.
Trong
bài phân tich ngày 13/07/2010 mang tựa đề ‘’Full steam ahead for
China’s territorial ambitions’’, Peter Hartcher, biên tập viên quốc tế
của nhật báo Úc Sydney Morning Herald phân tích các yếu tố thúc đẩy
tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Quyết định về Biển Đông là yếu tố
mới nhất trong một loạt những hành động gần đây nhằm thực hiện chủ
thuyết mới về Hải quân của Bắc Kinh. Điều được tác giả nêu bật là thái
độ của Trung Quốc coi thường phản ứng quá yếu ớt của các nước Đông Nam
Á, và trong tình hình quyền lợi của Mỹ cũng bị đụng chạm, Hoa Kỳ sẽ
phải gánh vác trách nhiệm tìm ra giải pháp. RFI xin hân hạnh được chuyển
dịch bài viết này để quý vị độc giả tham khảo.
Trong một
câu châm ngôn nổi tiếng, cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình kêu gọi
đồng hương của mình "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời". Đó là cách
đây hơn 20 năm. Giờ đây, dường như giới lãnh đạo Trung Quốc đã hoàn
tất việc chờ thời.
Với chủ trương định nghĩa lại một cách quyết
đoán vị trí của mình trên thế giới, Trung Quốc đã đặt biển Nam Trung
Hoa (Biển Đông) vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", tức là nơi mà
không ai khác có thể đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ - tương tự như Đài
Loan và Tây Tạng. Trung Quốc đã vạch một đường màu đỏ trên bản đồ châu
Á và thách thức bất cứ ai vượt qua.
Điều này đã đẩy Trung Quốc
vào thế xung đột trực tiếp với các đòi hỏi của năm nước láng giềng,
và thách thức vai trò thống trị của Hải quân Mỹ trên vùng biển. Một
phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng
biển mà giờ đây Trung Quốc tuyên bố độc quyền, giáp Đài Loan ở phía
bắc, Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Malaysia và Brunei ở
phía nam.
Vùng này chứa các mỏ dầu khí; một số nhà phân tích
Trung Quốc đã gọi nơi này là "vịnh Ba Tư ở châu Á" do tiềm năng dầu
hỏa dồi dào và trải rộng của khu vực. Chủ trương của Trung Quốc đặc
biệt khiêu khích, vì như vậy họ đã bác bỏ thỏa thuận không ràng buộc
năm 2002 với các nước láng giềng Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp
lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình.
Đây là một cuộc khủng
hoảng, nhưng là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì
các nước bị đụng chạm đang phản ứng một cách dè dặt đầy lo âu trước
người láng giềng đang vươn lên của họ. Việt Nam đã minh thị yêu cầu
Trung Quốc thực hiện thỏa thuận, nhưng những nước khác đã gần như im
hơi lặng tiếng.
Còn Hoa Kỳ thì sao ? Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ
trách Đông Á và Thái Bình Dương, Kurt Campbell, đã nói với nhật báo Úc
Herald: "Tôi nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc có một cuộc đối thoại phong
phú ở cấp nhà nước trên một loạt vấn đề. Trong bối cảnh bao quát đó,
luôn luôn có các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau, và
chúng tôi hiểu rằng những khác biệt đó liên quan không chỉ đến vấn đề
quyền của Đài Loan hoặc các vấn đề như Tây Tạng, nhưng cũng liên quan
đến các vấn đề như biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
"Chúng
tôi đã tìm cách hợp tác chặt chẽ để thiết lập một cuộc đối thoại,
không chỉ với Trung Quốc mà với cả những bạn bè của chúng tôi ở Đông
Nam Á, sao cho chúng tôi có thể hoàn toàn hỗ trợ tiến trình năm 2002
giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nhằm giải quyết mọi vấn đề
nổi cộm thông qua ngoại giao.''
Nói cách khác, Mỹ cũng muốn
Trung Quốc trở lại nguyên trạng trước đây, đàm phán thay vì đơn
phương đòi hỏi. Như thường lệ, Hiệp hội các nước Đông Nam Á lại vô
dụng khi phải đối mặt với rắc rối. Vai trò tìm kiếm một giải pháp một
lần nữa lại phải do Mỹ gánh vác.
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
(ARF), có thêm Trung Quốc, Mỹ, Úc và một loạt các nước khác, họp lại
tại Hà Nội ngày 23 tháng bảy. Biển Đông là một chủ đề nóng.
Tại
sao Trung Quốc nhòm ngó Biển Đông ? Bởi vì đó là điều cần phải làm,
theo như lời một quan chức hàng đầu của hải quân Trung Quốc. Chuẩn Đô
đốc Trương Hoa Trần, Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, đã nói với nhật báo
Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế
của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao
thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của
mình."
Walter Russell Mead, chuyên gia thuộc Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations) không tán đồng : "Giải
thích này rất nghèo nàn nếu xét đến những tham vọng thương mại của
Trung Quốc; họ bảo vệ loại thương mại nào? Trung Quốc đang cần đến nguồn
năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới."
Trung
Quốc đẩy mạnh tham vọng ở Biển Đông vì đã có khả năng làm việc này,
theo Tô Quang Vũ, một viên tướng Trung Quốc đã về hưu. Ông nói với nhật
báo Hồng Kông South China Morning Post: "Sự vắng mặt lâu dài của
Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế trong các thập kỷ qua là
một điều bất thường trong lịch sử, và bây giờ mới bắt đầu trở lại hoạt
động bình thường. Sở dĩ chúng tôi lặng yên trong việc tranh chấp lãnh
thổ với các nước láng giềng trong quá khứ , đó là vì hải quân của
chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ
thì hải quân đã có khả năng thực hiện nhiệm vụ."
Vào lúc
này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham vọng lãnh
thổ mà vẫn vô sự. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các vấn
đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên thực
tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài nguyên đại
dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật Bản tuyên bố
chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông , và quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) trong
thập niên 1970.''
Vào thời đó, đã từng có suy nghĩ là các quốc
gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận chung chống lại Trung
Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng
tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ
với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây dựng
một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ thành
công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh để đánh
bại Trung Quốc ".
Xác định Biển Đông là vùng quyền lợi
quốc gia thiết thân là một trong nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành
trong năm nay để mở rộng phạm vi thống trị của Hải quân Trung Quốc.
Đầu tiên hết, họ đã loan báo một chủ thuyết hải quân mới mang tính
bành trướng. Cho đến nay, khu vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc
được giới hạn ở cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản
đến Philippines. Nhưng bây giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng
ngự viễn dương”, vươn tới Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và
vươn ra mọi hưóng xuống đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.
Kế
đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn và
những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho học
thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10 chiếc tàu
đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy mô chưa từng
thấy đối với Trung Quốc.
Động thái thứ ba là Trung Quốc tiếp
tục đẩy mạnh việc tăng cường năng lực cho hải quân, trong đó việc xây
dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt đất trên đảo Hải Nam, và một hàng
không mẫu hạm chiến đấu, dự trù triển khai trong vài năm tới.
Tư
lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho
biết trong tháng tư : "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại
hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền
tự do hành động của chúng ta trong khu vực."
Với nền kinh tế
thịnh vượng và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ
thời nữa mà đang hành động để khẳng định bản thân.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Trung Quốc : Thế lực toàn cầu mới
Quân đội diễn tập chuẩn bị kỷ niệm 60 ngày thành lập CHND Trung Hoa
Thành
công kinh tế vượt bực của Trung Quốc trong thời gian gần đây đã được
nước này chuyển hóa thành sức mạnh chính tri, ngoại giao và quân sự,
kích thích tham vọng lãnh thổ, mà biểu hiện mới nhất là việc xác định
Biển Đông là « vùng quyền lợi quốc gia thiết thân » của Bắc Kinh.
Trong
bài viết mang tựa đề « Ảnh hưởng toàn cầu mới của Trung Quốc –
China’s New Global Leverage », đăng trên website Asia Sentinel ngày
14/07/2010, nhà nghiên cứu Mỹ Bruce Stokes đã phân tích các hành động
gần đây của Trung Quốc nhằm khẳng định uy lực của mình trên trường quốc
tế và ngay cả đối với các láng giềng châu Á. RFI xin giới thiệu bài
viết này với quý vị.
Trung Quốc có phải là một thị trường đang vươn lên với những ước vọng hạn chế mang tính khu vực như Bắc Kinh cố cho thấy hay không ? Hay họ là một nền kinh tế quyết đoán, ngày càng hùng mạnh, một thế lực chiến lược đang càng lúc càng thách thức châu Âu, Hoa Kỳ và các láng giềng châu Á ?
Phương Tây từng có một lịch sử lâu dài hay la hoảng về Trung Quốc, khởi đầu bằng khái niệm « Hiểm họa Da vàng » vào thế kỷ 19. Mới đây thì nỗi lo ngại về Trung Quốc phản ánh thái độ thiếu tự tin của Âu Mỹ về năng lực bản thân trong việc duy trì mức sống hiện nay của mình, trước sức cạnh tranh của Trung Quốc.
Thái độ âu lo cũng được giới tân bảo thủ khuyến khích vì họ cần tạo ra một kẻ thù để động viên quần chúng ủng hộ việc tăng cường chi phí quân sự và tiếp tục duy trì ảnh hưởng toàn cầu của nước Mỹ. Hơn nữa, nỗi lo âu như vậy đã không chú ý đến nhu cầu phát triển to lớn của Trung Quốc, của hàng trăm triệu con người còn sống trong cảnh túng thiếu ngặt nghèo.
Cho dù vậy, các dấu hiệu trong những tháng gần đây gợi lên một Trung Quốc càng lúc càng tự tin, với một năng lực và một quyết tâm tác động lên thế giới chưa từng thấy. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Lịch sử đã cho thấy rằng các cường quốc đang lên đều diễu võ giương oai và thử sức với châu Âu và Hoa Kỳ. Các láng giềng châu Á của Trung Quốc không nhất thiết phải lo sợ, nhưng cần phải dè chừng.
Thái độ quyết đoán mới đây của Trung Quốc bắt nguồn từ một thành công kinh tế chưa từng thấy. Quy mô nền kinh tế của họ đã lớn lên gấp đôi trong vòng 7 năm qua, và thu nhập theo đầu người của họ đã nhân đôi trong vòng 6 năm. Thành quả kinh tế đó đã biến người Trung Quốc thành dân tộc tự mãn nhất thế giới, nếu căn cứ vào kết quả cuộc thăm dò dư luận toàn cầu gần đây nhất của Tổ chức Pew. 9 trên 10 người Trung Quốc hài lòng với đường lối kinh tế của nước họ, thoải mái với hiện trạng kinh tế và lạc quan về tương lai kinh tế quốc gia.
Và phần còn lại của thế giới càng lúc càng thấy Trung Quốc là một siêu cường kinh tế đang vươn lên. Cũng trong bản điều tra dư luận của Pew tại 22 nước, đa số, hoặc số đông ở 8 quốc gia chọn Trung Quốc làm cường quốc kinh tế hàng đầu, trong lúc vào năm 2009, chỉ có dân chúng tại 2 nước suy nghĩ như vậy mà thôi. Một nửa dân chúng ở Đức, Jordan, Nhật Bản, Pháp và Hoa Kỳ hiện xếp Trung Quốc vào vị trí thứ nhất.
Từ năm 2009, tại 13 trên tổng số 21 quốc gia có thăm dò về yếu tố này, tỷ lệ dư luận xem Trung Quốc là cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới đã tăng vọt, với mức 29 % ở Nhật Bản, 23% ở Đức và 21% ở Jordan.
Trung Quốc có vẻ như càng lúc càng sẵn sàng dùng vị thế đang lên của mình để gây sức ép trên mặt ngoại giao, an ninh và kinh tế. Giờ đây, họ không còn khấu đầu trước Hoa Kỳ nữa. Khi Tổng Thống Mỹ Barack Obama đi thăm Trung Quốc vào tháng 11 năm 2009, cuộc tiếp xúc chính của ông với công chúng là với sinh viên tại Thượng Hải. Sự kiện này chỉ được phát trên đài truyền hình địa phương chứ không phải toàn quốc như trong cuộc gặp gỡ nổi tiếng của Bill Clinton nhân chuyến công du đầu tiên của ông trong cương vị Tổng Thống. Tệ hơn nữa, báo chí vào khi ấy đã kiểm duyệt nội dung, chẳng hạn như đối với bài phỏng vấn ông Obama trong chương trình ‘’Southern Weekend’’.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu Copenhagen vào tháng 12 năm 2009, thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã không tham dự cuộc họp đầu với tổng thống Mỹ Obama, mà cử một viên chức cấp thấp hơn đi thay. Trong một chừng mực nào đó, ông Obama phải chịu đựng một bài diễn văn do một viên chức cao cấp Trung Quốc mò mẫm đọc. Nếu Hoa Kỳ cư xử như thế đối với một lãnh đạo Trung Quốc thì hiển nhiên sẽ dẫn đến một sự cố ngoại giao.
Bắc Kinh cũng trở nên hung hăng trên vấn đề thương mại và đầu tư, yêu cầu các công ty nước ngoài đăng ký bằng sáng chế công nghệ ở Trung Quốc và phải tuân theo chuẩn mực Trung Quốc nếu muốn bán hàng trên thị trường Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đã từng kiện tụng những nhà sản xuất phương Tây bán sản phẩm tại Trung Quốc.
Trên mặt chính trị, quan chức Trung Quốc cũng bắt đầu mở rộng đòi hỏi về chủ quyền. Từ lâu nay, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng Tây Tạng và Đài Loan là « vùng quyền lợi quốc gia thiết thân » và nước ngoài phải tránh can thiệp vào các « vấn đề nội bộ » đó. Bây giờ thì Bắc Kinh bắt đầu áp dụng chính sách ngoại giao này đối với vùng Biển Đông, một khu vực rộng 1,2 triệu dặm vuông và là nơi qua lại của ít nhất là 1/3 hàng hóa chuyển vận bằng đường biển của thế giới và hơn một nửa năng lượng nhập khẩu của vùng Đông Bắc Á.
Đòi hỏi của Bắc Kinh đe doạ quyền lợi về ngư nghiệp cũng như dầu hoả của Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia và Malaysia, đe dọa quyền qua lại của hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cùng lúc Bắc Kinh cũng khẳng định trở lại đòi hỏi chủ quyền cũ xưa tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, và cho tăng cường quân lính đóng ở vùng sát biên giới phía Đông Bắc Ấn Độ để đòi hỏi của họ có thêm trọng lượng.
Trung Quốc còn muốn đóng một vai trò to lớn hơn ở Nam Á. Bắc Kinh cung cấp vũ khí cho chính quyền Sri Lanka để sử dụng trong cuộc nội chiến dai dằng chống lực lượng Hổ Tamul. Họ còn mở rộng các chiến dịch hải quân ra tận Ấn Độ Dương, đồng thời cho xây dựng hải cảng tại một loạt quốc gia trong vùng, từ Miến Điện cho đến Pakistan.
Quan hệ kinh tế với Miến Điện và Afghanistan được tăng cường trong lúc quan hệ chiến lược với Pakistan được nâng lên qua đề nghị trợ giúp trong lãnh vực hạt nhân dân sự... Trung Quốc đã loại Ấn Độ ra khỏi các cơ cấu ngoại giao Đông Á, mà Trung Quốc thống lĩnh ?
Sẽ thông cảm được với các nước láng giềng của Trung Quốc nếu như họ bắt đầu quan ngại về việc Trung Quốc gắn liền quyền lợi quốc gia thiết thân, chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ song song với đà gia tăng của các chi phí quân sự. Hiện nay Bắc Kinh chi 4,3% GDP của mình vào quốc phòng, cao hơn rất nhiều so với các láng giềng Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hay Việt Nam.
Nhưng Trung Quốc cũng dùng đến phưong tiện gây sức ép mới khám phá ra « thái độ bất động ». Bắc Kinh đã kháng cự rất lâu trước áp lực muốn họ nâng giá đồng nhân dân tệ. Quyết định vào tháng 6/2010, ngừng gắn đồng tiền của họ với đồng đô la đã không làm cho đồng yuan tăng giá đáng kể. Bắc Kinh cũng không muốn gây sức ép đối với Bắc Triều Tiên bị cho là thủ phạm đánh chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc. Bắc Kinh cũng đã cố đòi giảm nhẹ các biện pháp trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc đối với Iran trên chương trình hạt nhân trước khi bò phiếu thông qua các biện pháp này, cho thấy rằng lợi ích kinh tế của Trung Quốc tại Iran đã lấn át các mối quan ngại chiến lược của châu Âu và Hoa Kỳ về chương trình này.
Rõ ràng là Bắc Kinh đã tung ra những tín hiệu cho thấy là Trung Quốc không thể mãi mãi chấp nhận nguyên trạng quốc tế hiện nay. Họ đã thiết lập một loạt cột mốc, và quan hệ của họ với các nước khác đã vĩnh viễn thay đổi .
Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng nhiều lần trắc nghiệm xem ranh giới ảnh huởng của họ đến đâu và thái độ nhẫn nại của phương Tây và các láng giềng châu Á của họ đến mức nào, để rồi sau đó lùi lại. Nếu tất cả những động thái của Trung Quốc cho đến lúc này chỉ mang tính chất phô diễn thì tình hình còn có thể xử lý được.
Nguy cơ tình hình quốc tế căng thẳng lên và tính toán sai lầm sẽ chỉ xẩy ra nếu thái độ kiên quyết của Trung Quốc tiếp tục gia tăng trong những tháng tới đây.
Còn những vùng nào, những vấn đề nào khác mà Trung Quốc sẽ xếp vào diện « quyền lợi quốc gia thiết thân » và do đó sẽ nằm ngoài phạm vi chỉ trích của quốc tế ? Chính sách nhân quyền ở trong nước ? Vấn đề thải khí carbon kỷ lục ? Đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ ở Trung Á ?
Liệu các công ty Trung Quốc có tìm cách vượt qua các biện pháp trừng phạt kinh tế Iran hay không, qua đó cám dỗ Đức, Hàn Quốc, hay Nhật bản đi theo ? Liệu Bắc Kinh có sẽ sử dụng số lượng công trái phiếu của Mỹ khổng lồ mà họ nắm trong tay để tác động trực tiếp lên thái độ của Hoa Kỳ hay không ?
Sẽ là không thực tế nếu chờ đợi một Trung Quốc thành công về mặt kinh tế, ngày càng tự tin hơn, mà lại không muốn đóng một vai trò rộng lớn hơn trên thế giới. Nhưng thực tế đó không cho Bắc Kinh quyền tung sức mạnh đi mọi nơi mà không sợ bị trừng phạt, cho dù trong quá khứ đã có quốc gia làm như thế.
Châu Âu, châu Mỹ và phần còn lại của châu Á phải cảnh giác, Trung Quốc đang vươn lên. Và những thế lực đang vươn lên thì thường hay làm đảo lộn nguyên trạng.
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100722-trung-quoc-the-luc-toan-cau-moi
Trung Quốc có phải là một thị trường đang vươn lên với những ước vọng hạn chế mang tính khu vực như Bắc Kinh cố cho thấy hay không ? Hay họ là một nền kinh tế quyết đoán, ngày càng hùng mạnh, một thế lực chiến lược đang càng lúc càng thách thức châu Âu, Hoa Kỳ và các láng giềng châu Á ?
Phương Tây từng có một lịch sử lâu dài hay la hoảng về Trung Quốc, khởi đầu bằng khái niệm « Hiểm họa Da vàng » vào thế kỷ 19. Mới đây thì nỗi lo ngại về Trung Quốc phản ánh thái độ thiếu tự tin của Âu Mỹ về năng lực bản thân trong việc duy trì mức sống hiện nay của mình, trước sức cạnh tranh của Trung Quốc.
Thái độ âu lo cũng được giới tân bảo thủ khuyến khích vì họ cần tạo ra một kẻ thù để động viên quần chúng ủng hộ việc tăng cường chi phí quân sự và tiếp tục duy trì ảnh hưởng toàn cầu của nước Mỹ. Hơn nữa, nỗi lo âu như vậy đã không chú ý đến nhu cầu phát triển to lớn của Trung Quốc, của hàng trăm triệu con người còn sống trong cảnh túng thiếu ngặt nghèo.
Cho dù vậy, các dấu hiệu trong những tháng gần đây gợi lên một Trung Quốc càng lúc càng tự tin, với một năng lực và một quyết tâm tác động lên thế giới chưa từng thấy. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Lịch sử đã cho thấy rằng các cường quốc đang lên đều diễu võ giương oai và thử sức với châu Âu và Hoa Kỳ. Các láng giềng châu Á của Trung Quốc không nhất thiết phải lo sợ, nhưng cần phải dè chừng.
Thái độ quyết đoán mới đây của Trung Quốc bắt nguồn từ một thành công kinh tế chưa từng thấy. Quy mô nền kinh tế của họ đã lớn lên gấp đôi trong vòng 7 năm qua, và thu nhập theo đầu người của họ đã nhân đôi trong vòng 6 năm. Thành quả kinh tế đó đã biến người Trung Quốc thành dân tộc tự mãn nhất thế giới, nếu căn cứ vào kết quả cuộc thăm dò dư luận toàn cầu gần đây nhất của Tổ chức Pew. 9 trên 10 người Trung Quốc hài lòng với đường lối kinh tế của nước họ, thoải mái với hiện trạng kinh tế và lạc quan về tương lai kinh tế quốc gia.
Và phần còn lại của thế giới càng lúc càng thấy Trung Quốc là một siêu cường kinh tế đang vươn lên. Cũng trong bản điều tra dư luận của Pew tại 22 nước, đa số, hoặc số đông ở 8 quốc gia chọn Trung Quốc làm cường quốc kinh tế hàng đầu, trong lúc vào năm 2009, chỉ có dân chúng tại 2 nước suy nghĩ như vậy mà thôi. Một nửa dân chúng ở Đức, Jordan, Nhật Bản, Pháp và Hoa Kỳ hiện xếp Trung Quốc vào vị trí thứ nhất.
Từ năm 2009, tại 13 trên tổng số 21 quốc gia có thăm dò về yếu tố này, tỷ lệ dư luận xem Trung Quốc là cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới đã tăng vọt, với mức 29 % ở Nhật Bản, 23% ở Đức và 21% ở Jordan.
Trung Quốc có vẻ như càng lúc càng sẵn sàng dùng vị thế đang lên của mình để gây sức ép trên mặt ngoại giao, an ninh và kinh tế. Giờ đây, họ không còn khấu đầu trước Hoa Kỳ nữa. Khi Tổng Thống Mỹ Barack Obama đi thăm Trung Quốc vào tháng 11 năm 2009, cuộc tiếp xúc chính của ông với công chúng là với sinh viên tại Thượng Hải. Sự kiện này chỉ được phát trên đài truyền hình địa phương chứ không phải toàn quốc như trong cuộc gặp gỡ nổi tiếng của Bill Clinton nhân chuyến công du đầu tiên của ông trong cương vị Tổng Thống. Tệ hơn nữa, báo chí vào khi ấy đã kiểm duyệt nội dung, chẳng hạn như đối với bài phỏng vấn ông Obama trong chương trình ‘’Southern Weekend’’.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh về khí hậu Copenhagen vào tháng 12 năm 2009, thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã không tham dự cuộc họp đầu với tổng thống Mỹ Obama, mà cử một viên chức cấp thấp hơn đi thay. Trong một chừng mực nào đó, ông Obama phải chịu đựng một bài diễn văn do một viên chức cao cấp Trung Quốc mò mẫm đọc. Nếu Hoa Kỳ cư xử như thế đối với một lãnh đạo Trung Quốc thì hiển nhiên sẽ dẫn đến một sự cố ngoại giao.
Bắc Kinh cũng trở nên hung hăng trên vấn đề thương mại và đầu tư, yêu cầu các công ty nước ngoài đăng ký bằng sáng chế công nghệ ở Trung Quốc và phải tuân theo chuẩn mực Trung Quốc nếu muốn bán hàng trên thị trường Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đã từng kiện tụng những nhà sản xuất phương Tây bán sản phẩm tại Trung Quốc.
Trên mặt chính trị, quan chức Trung Quốc cũng bắt đầu mở rộng đòi hỏi về chủ quyền. Từ lâu nay, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng Tây Tạng và Đài Loan là « vùng quyền lợi quốc gia thiết thân » và nước ngoài phải tránh can thiệp vào các « vấn đề nội bộ » đó. Bây giờ thì Bắc Kinh bắt đầu áp dụng chính sách ngoại giao này đối với vùng Biển Đông, một khu vực rộng 1,2 triệu dặm vuông và là nơi qua lại của ít nhất là 1/3 hàng hóa chuyển vận bằng đường biển của thế giới và hơn một nửa năng lượng nhập khẩu của vùng Đông Bắc Á.
Đòi hỏi của Bắc Kinh đe doạ quyền lợi về ngư nghiệp cũng như dầu hoả của Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia và Malaysia, đe dọa quyền qua lại của hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cùng lúc Bắc Kinh cũng khẳng định trở lại đòi hỏi chủ quyền cũ xưa tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ, và cho tăng cường quân lính đóng ở vùng sát biên giới phía Đông Bắc Ấn Độ để đòi hỏi của họ có thêm trọng lượng.
Trung Quốc còn muốn đóng một vai trò to lớn hơn ở Nam Á. Bắc Kinh cung cấp vũ khí cho chính quyền Sri Lanka để sử dụng trong cuộc nội chiến dai dằng chống lực lượng Hổ Tamul. Họ còn mở rộng các chiến dịch hải quân ra tận Ấn Độ Dương, đồng thời cho xây dựng hải cảng tại một loạt quốc gia trong vùng, từ Miến Điện cho đến Pakistan.
Quan hệ kinh tế với Miến Điện và Afghanistan được tăng cường trong lúc quan hệ chiến lược với Pakistan được nâng lên qua đề nghị trợ giúp trong lãnh vực hạt nhân dân sự... Trung Quốc đã loại Ấn Độ ra khỏi các cơ cấu ngoại giao Đông Á, mà Trung Quốc thống lĩnh ?
Sẽ thông cảm được với các nước láng giềng của Trung Quốc nếu như họ bắt đầu quan ngại về việc Trung Quốc gắn liền quyền lợi quốc gia thiết thân, chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ song song với đà gia tăng của các chi phí quân sự. Hiện nay Bắc Kinh chi 4,3% GDP của mình vào quốc phòng, cao hơn rất nhiều so với các láng giềng Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan hay Việt Nam.
Nhưng Trung Quốc cũng dùng đến phưong tiện gây sức ép mới khám phá ra « thái độ bất động ». Bắc Kinh đã kháng cự rất lâu trước áp lực muốn họ nâng giá đồng nhân dân tệ. Quyết định vào tháng 6/2010, ngừng gắn đồng tiền của họ với đồng đô la đã không làm cho đồng yuan tăng giá đáng kể. Bắc Kinh cũng không muốn gây sức ép đối với Bắc Triều Tiên bị cho là thủ phạm đánh chìm tàu Cheonan của Hàn Quốc. Bắc Kinh cũng đã cố đòi giảm nhẹ các biện pháp trừng phạt kinh tế của Liên Hiệp Quốc đối với Iran trên chương trình hạt nhân trước khi bò phiếu thông qua các biện pháp này, cho thấy rằng lợi ích kinh tế của Trung Quốc tại Iran đã lấn át các mối quan ngại chiến lược của châu Âu và Hoa Kỳ về chương trình này.
Rõ ràng là Bắc Kinh đã tung ra những tín hiệu cho thấy là Trung Quốc không thể mãi mãi chấp nhận nguyên trạng quốc tế hiện nay. Họ đã thiết lập một loạt cột mốc, và quan hệ của họ với các nước khác đã vĩnh viễn thay đổi .
Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng nhiều lần trắc nghiệm xem ranh giới ảnh huởng của họ đến đâu và thái độ nhẫn nại của phương Tây và các láng giềng châu Á của họ đến mức nào, để rồi sau đó lùi lại. Nếu tất cả những động thái của Trung Quốc cho đến lúc này chỉ mang tính chất phô diễn thì tình hình còn có thể xử lý được.
Nguy cơ tình hình quốc tế căng thẳng lên và tính toán sai lầm sẽ chỉ xẩy ra nếu thái độ kiên quyết của Trung Quốc tiếp tục gia tăng trong những tháng tới đây.
Còn những vùng nào, những vấn đề nào khác mà Trung Quốc sẽ xếp vào diện « quyền lợi quốc gia thiết thân » và do đó sẽ nằm ngoài phạm vi chỉ trích của quốc tế ? Chính sách nhân quyền ở trong nước ? Vấn đề thải khí carbon kỷ lục ? Đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ ở Trung Á ?
Liệu các công ty Trung Quốc có tìm cách vượt qua các biện pháp trừng phạt kinh tế Iran hay không, qua đó cám dỗ Đức, Hàn Quốc, hay Nhật bản đi theo ? Liệu Bắc Kinh có sẽ sử dụng số lượng công trái phiếu của Mỹ khổng lồ mà họ nắm trong tay để tác động trực tiếp lên thái độ của Hoa Kỳ hay không ?
Sẽ là không thực tế nếu chờ đợi một Trung Quốc thành công về mặt kinh tế, ngày càng tự tin hơn, mà lại không muốn đóng một vai trò rộng lớn hơn trên thế giới. Nhưng thực tế đó không cho Bắc Kinh quyền tung sức mạnh đi mọi nơi mà không sợ bị trừng phạt, cho dù trong quá khứ đã có quốc gia làm như thế.
Châu Âu, châu Mỹ và phần còn lại của châu Á phải cảnh giác, Trung Quốc đang vươn lên. Và những thế lực đang vươn lên thì thường hay làm đảo lộn nguyên trạng.
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100722-trung-quoc-the-luc-toan-cau-moi
Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tăng tốc
Tàu
ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc tế
ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành
lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Quyết
định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết
yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là « Vịnh
Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi ích quốc
gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng Trung Quốc
vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc Kinh tự cho
rằng đã đủ khả năng khống chế.
Trong
bài phân tich ngày 13/07/2010 mang tựa đề ‘’Full steam ahead for
China’s territorial ambitions’’, Peter Hartcher, biên tập viên quốc tế
của nhật báo Úc Sydney Morning Herald phân tích các yếu tố thúc đẩy
tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Quyết định về Biển Đông là yếu tố
mới nhất trong một loạt những hành động gần đây nhằm thực hiện chủ
thuyết mới về Hải quân của Bắc Kinh. Điều được tác giả nêu bật là thái
độ của Trung Quốc coi thường phản ứng quá yếu ớt của các nước Đông Nam
Á, và trong tình hình quyền lợi của Mỹ cũng bị đụng chạm, Hoa Kỳ sẽ
phải gánh vác trách nhiệm tìm ra giải pháp. RFI xin hân hạnh được chuyển
dịch bài viết này để quý vị độc giả tham khảo.
Trong một câu châm ngôn nổi tiếng, cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình kêu gọi đồng hương của mình "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời". Đó là cách đây hơn 20 năm. Giờ đây, dường như giới lãnh đạo Trung Quốc đã hoàn tất việc chờ thời.
Với chủ trương định nghĩa lại một cách quyết đoán vị trí của mình trên thế giới, Trung Quốc đã đặt biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", tức là nơi mà không ai khác có thể đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ - tương tự như Đài Loan và Tây Tạng. Trung Quốc đã vạch một đường màu đỏ trên bản đồ châu Á và thách thức bất cứ ai vượt qua.
Điều này đã đẩy Trung Quốc vào thế xung đột trực tiếp với các đòi hỏi của năm nước láng giềng, và thách thức vai trò thống trị của Hải quân Mỹ trên vùng biển. Một phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng biển mà giờ đây Trung Quốc tuyên bố độc quyền, giáp Đài Loan ở phía bắc, Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Malaysia và Brunei ở phía nam.
Vùng này chứa các mỏ dầu khí; một số nhà phân tích Trung Quốc đã gọi nơi này là "vịnh Ba Tư ở châu Á" do tiềm năng dầu hỏa dồi dào và trải rộng của khu vực. Chủ trương của Trung Quốc đặc biệt khiêu khích, vì như vậy họ đã bác bỏ thỏa thuận không ràng buộc năm 2002 với các nước láng giềng Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình.
Đây là một cuộc khủng hoảng, nhưng là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì các nước bị đụng chạm đang phản ứng một cách dè dặt đầy lo âu trước người láng giềng đang vươn lên của họ. Việt Nam đã minh thị yêu cầu Trung Quốc thực hiện thỏa thuận, nhưng những nước khác đã gần như im hơi lặng tiếng.
Còn Hoa Kỳ thì sao ? Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Kurt Campbell, đã nói với nhật báo Úc Herald: "Tôi nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc có một cuộc đối thoại phong phú ở cấp nhà nước trên một loạt vấn đề. Trong bối cảnh bao quát đó, luôn luôn có các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau, và chúng tôi hiểu rằng những khác biệt đó liên quan không chỉ đến vấn đề quyền của Đài Loan hoặc các vấn đề như Tây Tạng, nhưng cũng liên quan đến các vấn đề như biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
"Chúng tôi đã tìm cách hợp tác chặt chẽ để thiết lập một cuộc đối thoại, không chỉ với Trung Quốc mà với cả những bạn bè của chúng tôi ở Đông Nam Á, sao cho chúng tôi có thể hoàn toàn hỗ trợ tiến trình năm 2002 giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nhằm giải quyết mọi vấn đề nổi cộm thông qua ngoại giao.''
Nói cách khác, Mỹ cũng muốn Trung Quốc trở lại nguyên trạng trước đây, đàm phán thay vì đơn phương đòi hỏi. Như thường lệ, Hiệp hội các nước Đông Nam Á lại vô dụng khi phải đối mặt với rắc rối. Vai trò tìm kiếm một giải pháp một lần nữa lại phải do Mỹ gánh vác.
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), có thêm Trung Quốc, Mỹ, Úc và một loạt các nước khác, họp lại tại Hà Nội ngày 23 tháng bảy. Biển Đông là một chủ đề nóng.
Tại sao Trung Quốc nhòm ngó Biển Đông ? Bởi vì đó là điều cần phải làm, theo như lời một quan chức hàng đầu của hải quân Trung Quốc. Chuẩn Đô đốc Trương Hoa Trần, Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, đã nói với nhật báo Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của mình."
Walter Russell Mead, chuyên gia thuộc Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations) không tán đồng : "Giải thích này rất nghèo nàn nếu xét đến những tham vọng thương mại của Trung Quốc; họ bảo vệ loại thương mại nào? Trung Quốc đang cần đến nguồn năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới."
Trung Quốc đẩy mạnh tham vọng ở Biển Đông vì đã có khả năng làm việc này, theo Tô Quang Vũ, một viên tướng Trung Quốc đã về hưu. Ông nói với nhật báo Hồng Kông South China Morning Post: "Sự vắng mặt lâu dài của Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế trong các thập kỷ qua là một điều bất thường trong lịch sử, và bây giờ mới bắt đầu trở lại hoạt động bình thường. Sở dĩ chúng tôi lặng yên trong việc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trong quá khứ , đó là vì hải quân của chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ thì hải quân đã có khả năng thực hiện nhiệm vụ."
Vào lúc này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham vọng lãnh thổ mà vẫn vô sự. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các vấn đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên thực tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài nguyên đại dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật Bản tuyên bố chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông , và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) trong thập niên 1970.''
Vào thời đó, đã từng có suy nghĩ là các quốc gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận chung chống lại Trung Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây dựng một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ thành công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh để đánh bại Trung Quốc ".
Xác định Biển Đông là vùng quyền lợi quốc gia thiết thân là một trong nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành trong năm nay để mở rộng phạm vi thống trị của Hải quân Trung Quốc. Đầu tiên hết, họ đã loan báo một chủ thuyết hải quân mới mang tính bành trướng. Cho đến nay, khu vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc được giới hạn ở cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản đến Philippines. Nhưng bây giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng ngự viễn dương”, vươn tới Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và vươn ra mọi hưóng xuống đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.
Kế đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn và những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho học thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10 chiếc tàu đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy mô chưa từng thấy đối với Trung Quốc.
Động thái thứ ba là Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường năng lực cho hải quân, trong đó việc xây dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt đất trên đảo Hải Nam, và một hàng không mẫu hạm chiến đấu, dự trù triển khai trong vài năm tới.
Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho biết trong tháng tư : "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động của chúng ta trong khu vực."
Với nền kinh tế thịnh vượng và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ thời nữa mà đang hành động để khẳng định bản thân.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Trong một câu châm ngôn nổi tiếng, cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình kêu gọi đồng hương của mình "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời". Đó là cách đây hơn 20 năm. Giờ đây, dường như giới lãnh đạo Trung Quốc đã hoàn tất việc chờ thời.
Với chủ trương định nghĩa lại một cách quyết đoán vị trí của mình trên thế giới, Trung Quốc đã đặt biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) vào diện "quyền lợi quốc gia thiết yếu", tức là nơi mà không ai khác có thể đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ - tương tự như Đài Loan và Tây Tạng. Trung Quốc đã vạch một đường màu đỏ trên bản đồ châu Á và thách thức bất cứ ai vượt qua.
Điều này đã đẩy Trung Quốc vào thế xung đột trực tiếp với các đòi hỏi của năm nước láng giềng, và thách thức vai trò thống trị của Hải quân Mỹ trên vùng biển. Một phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng biển mà giờ đây Trung Quốc tuyên bố độc quyền, giáp Đài Loan ở phía bắc, Việt Nam ở phía tây, Philippines ở phía đông, Malaysia và Brunei ở phía nam.
Vùng này chứa các mỏ dầu khí; một số nhà phân tích Trung Quốc đã gọi nơi này là "vịnh Ba Tư ở châu Á" do tiềm năng dầu hỏa dồi dào và trải rộng của khu vực. Chủ trương của Trung Quốc đặc biệt khiêu khích, vì như vậy họ đã bác bỏ thỏa thuận không ràng buộc năm 2002 với các nước láng giềng Đông Nam Á để giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua thương lượng hòa bình.
Đây là một cuộc khủng hoảng, nhưng là một cuộc khủng hoảng thầm lặng. Lý do chủ yếu là vì các nước bị đụng chạm đang phản ứng một cách dè dặt đầy lo âu trước người láng giềng đang vươn lên của họ. Việt Nam đã minh thị yêu cầu Trung Quốc thực hiện thỏa thuận, nhưng những nước khác đã gần như im hơi lặng tiếng.
Còn Hoa Kỳ thì sao ? Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Kurt Campbell, đã nói với nhật báo Úc Herald: "Tôi nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc có một cuộc đối thoại phong phú ở cấp nhà nước trên một loạt vấn đề. Trong bối cảnh bao quát đó, luôn luôn có các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc bất đồng với nhau, và chúng tôi hiểu rằng những khác biệt đó liên quan không chỉ đến vấn đề quyền của Đài Loan hoặc các vấn đề như Tây Tạng, nhưng cũng liên quan đến các vấn đề như biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
"Chúng tôi đã tìm cách hợp tác chặt chẽ để thiết lập một cuộc đối thoại, không chỉ với Trung Quốc mà với cả những bạn bè của chúng tôi ở Đông Nam Á, sao cho chúng tôi có thể hoàn toàn hỗ trợ tiến trình năm 2002 giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á nhằm giải quyết mọi vấn đề nổi cộm thông qua ngoại giao.''
Nói cách khác, Mỹ cũng muốn Trung Quốc trở lại nguyên trạng trước đây, đàm phán thay vì đơn phương đòi hỏi. Như thường lệ, Hiệp hội các nước Đông Nam Á lại vô dụng khi phải đối mặt với rắc rối. Vai trò tìm kiếm một giải pháp một lần nữa lại phải do Mỹ gánh vác.
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), có thêm Trung Quốc, Mỹ, Úc và một loạt các nước khác, họp lại tại Hà Nội ngày 23 tháng bảy. Biển Đông là một chủ đề nóng.
Tại sao Trung Quốc nhòm ngó Biển Đông ? Bởi vì đó là điều cần phải làm, theo như lời một quan chức hàng đầu của hải quân Trung Quốc. Chuẩn Đô đốc Trương Hoa Trần, Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, đã nói với nhật báo Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của mình."
Walter Russell Mead, chuyên gia thuộc Hội đồng Đối ngoại (Council on Foreign Relations) không tán đồng : "Giải thích này rất nghèo nàn nếu xét đến những tham vọng thương mại của Trung Quốc; họ bảo vệ loại thương mại nào? Trung Quốc đang cần đến nguồn năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới."
Trung Quốc đẩy mạnh tham vọng ở Biển Đông vì đã có khả năng làm việc này, theo Tô Quang Vũ, một viên tướng Trung Quốc đã về hưu. Ông nói với nhật báo Hồng Kông South China Morning Post: "Sự vắng mặt lâu dài của Trung Quốc tại vùng biển đặc quyền kinh tế trong các thập kỷ qua là một điều bất thường trong lịch sử, và bây giờ mới bắt đầu trở lại hoạt động bình thường. Sở dĩ chúng tôi lặng yên trong việc tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trong quá khứ , đó là vì hải quân của chúng tôi chưa đủ sức bảo vệ các khu kinh tế của mình, nhưng bây giờ thì hải quân đã có khả năng thực hiện nhiệm vụ."
Vào lúc này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham vọng lãnh thổ mà vẫn vô sự. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các vấn đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên thực tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài nguyên đại dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật Bản tuyên bố chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông , và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) trong thập niên 1970.''
Vào thời đó, đã từng có suy nghĩ là các quốc gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận chung chống lại Trung Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây dựng một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ thành công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh để đánh bại Trung Quốc ".
Xác định Biển Đông là vùng quyền lợi quốc gia thiết thân là một trong nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành trong năm nay để mở rộng phạm vi thống trị của Hải quân Trung Quốc. Đầu tiên hết, họ đã loan báo một chủ thuyết hải quân mới mang tính bành trướng. Cho đến nay, khu vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc được giới hạn ở cái gọi là Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản đến Philippines. Nhưng bây giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng ngự viễn dương”, vươn tới Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và vươn ra mọi hưóng xuống đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.
Kế đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn và những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho học thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10 chiếc tàu đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy mô chưa từng thấy đối với Trung Quốc.
Động thái thứ ba là Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường năng lực cho hải quân, trong đó việc xây dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt đất trên đảo Hải Nam, và một hàng không mẫu hạm chiến đấu, dự trù triển khai trong vài năm tới.
Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho biết trong tháng tư : "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động của chúng ta trong khu vực."
Với nền kinh tế thịnh vượng và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ thời nữa mà đang hành động để khẳng định bản thân.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
GIA HỘI * THÁI BÌNH DƯƠNG CÓ THÁI BÌNH KHÔNG?
Từ
đầu năm dần, cọp đã gầm thét vang dội. Tháng giêng năm 2010, Bắc
Hàn thử hỏa tiễn hạt nhân, tháng 3- 2010, Bắc Hàn bắn tàu Cheonan của
Nam Hàn. Và các tháng sau đó, thế giới , nhất là Á châu đã có những
biến cố quan trọng.
I. CÁC BIẾN CỐ
1. TRUNG QUỐC CẤM VIỆT NAM ĐÁNH CÁ
Tháng 5, Trung Quốc ngang ngược ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam đánh cá ở Biển Đông trong hai tháng. Vietnam net đưa tin:
Trung
Quốc hôm qua (16/5) tuyên bố áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm
tại Biển Đông. Hành động đơn phương này xuất hiện trong bối cảnh
căng thẳng ngày càng gia tăng ở khu vực biển có nhiều tranh chấp,
đồng thời làm dấy lên quan ngại về việc Bắc Kinh thúc đẩy mục tiêu
khẳng định chủ quyền tại đây. Theo đó, các đội tàu giám sát ngư
nghiệp của Trung Quốc sẽ thực hiện việc thực thi lệnh cấm trong vòng
10 tuần ở khu vực đánh bắt cá thương mại từ vĩ tuyến 12 độ bắc của
quần đảo Trường Sa đang tranh chấp tới bờ biển Trung Quốc và cả
vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa.
http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201005/Trung-Quoc-don-phuong-cam-danh-ca-o-Bien-Dong-910432/
Đài BBC loan tin và bình luận như sau:Việt
Nam nói hàng nghìn ngư dân bị ảnh hưởng vì lệnh cấm đánh
bắt của Trung Quốc
Bắt đầu từ Chủ nhật 16/05, Trung Quốc
thi hành lệnh cấm đánh bắt tại Biển Đông, kéo dài cho tới
ngày 01/08. Đây là lệnh cấm được áp dụng
hàng năm kể từ 1999, cho hải phận từ vĩ tuyến 12 phía
bắc quần đảo Trường Sa, cho tới vùng biển quanh quần đảo
Hoàng Sa. Bắc Kinh nói cần hạn chế đánh
bắt để duy trì nguồn cá. Cả Việt Nam và
Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa và
Trường Sa. Hôm 06/05, Việt Nam đã lên tiếng
phản đối lệnh cấm của Trung Quốc, cho đó là "vi phạm chủ
quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vi phạm
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền
kinh tế". Lời phản đối này bị Trung Quốc
để ngoài tai, trong khi giới quan sát lo lắng rằng lệnh cấm
đánh bắt của Trung Quốc sẽ đổ dầu vào chảo lửa Biển
Đông đang ngày càng tăng nhiệt. Một quan
chức ngoại giao khu vực được báo South China Morning Post tại
Hong Kong trích lời nói: "Tất cả chúng tôi đều đang theo
dõi và tự hỏi xem chuyện này rồi sẽ đi đến đâu".
“Những gì chúng ta đang chứng kiến là một cách
để thúc đẩy chủ quyền." Chủ quyền hay
nguồn lợi thủy sản?
Giáo
sư Carl Thayer từ Học viện Quốc phòng Australia cũng cho
rằng lệnh cấm đánh bắt của Trung Quốc nhắm tới một mục
tiêu chiến lược rộng lớn hơn là bảo vệ nguồn cá.
“Mười
năm nay, chúng ta có thể thấy Trung Quốc ngày càng quả
quyết hơn trong việc bảo vệ chủ quyền và quyền lợi kinh tế
của mình."
Sử dụng tàu
tuần ngư là một cách thức tuyệt vời vì đây không phải tàu
chiến, chúng sơn màu trắng chứ không phải màu xám; nhưng
đừng lầm tưởng, vì chúng cũng được trang bị vũ trang đầy
đủ. Gs Carl
Thayer, Học viện Quốc phòng Úc châu
Ông Thayer phân tích: “Sử
dụng tàu tuần ngư là một cách thức tuyệt vời vì đây không
phải tàu chiến, chúng sơn màu trắng chứ không phải màu
xám; nhưng đừng lầm tưởng, vì chúng cũng được trang bị vũ
trang đầy đủ." Theo GS Thayer, thực hiện
hành động đơn phương như thế này không theo đúng tinh thần
thúc đẩy hợp tác, kiềm chế căng thẳng mà Trung Quốc và
các nước Asean đã thống nhất với nhau.
Giới quan chức
và học giả Trung Quốc thì lại cho rằng lệnh cấm đánh cá
bắt nguồn từ cả hai việc bảo vệ nguồn lợi hải sản và
chủ quyền lãnh thổ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/05/100516_china_fishing.shtml
2.TRUNG QUỐC BÀNH TRƯỚNG CAO ĐỘ
Trong bài "Tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tăng tốc" , đài RFI ngày 23-7-2010 bình luận:
Tàu
ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc
tế ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày
thành lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Quyết
định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết
yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là «
Vịnh Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi
ích quốc gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng
Trung Quốc vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc
Kinh tự cho rằng đã đủ khả năng khống chế.
Trong
bài phân tich ngày 13/07/2010 mang tựa đề ‘’Full steam ahead for
China’s territorial ambitions’’, Peter Hartcher, biên tập viên quốc
tế của nhật báo Úc Sydney Morning Herald phân tích các yếu tố thúc
đẩy tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc. Quyết định về Biển Đông là
yếu tố mới nhất trong một loạt những hành động gần đây nhằm thực
hiện chủ thuyết mới về Hải quân của Bắc Kinh. Điều được tác giả nêu
bật là thái độ của Trung Quốc coi thường phản ứng quá yếu ớt của
các nước Đông Nam Á, và trong tình hình quyền lợi của Mỹ cũng bị
đụng chạm, Hoa Kỳ sẽ phải gánh vác trách nhiệm tìm ra giải pháp. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
3.MỸ CƯƠNG QUYẾT BẢO VỆ NGUỒN LƯU THÔNG ĐƯỜNG BIỂN, VÀ TRỞ LẠI Á ĐÔNG
Trong
khi Trung Quốc ngày càng ngạo mạn và ngang ngược tỏ vẻ muốn lấn
lướt Mỹ và các quốc gia châu Á thì Mỹ cũng cứng rắn đáp đáp lại
Trung Quốc.
Năm ngoái, tổng thống Obama sang Trung Quốc đã tỏ
thái độ nhẫn nhịn. Nay thì thái độ của Mỹ ngày càng cứng rắn.Ngày
6-7-2010, tại hội nghị Singapore, bộ trưởng Gates và Phó Tham mưu
trưởng thiếu tướng Mã Hiếu Thiên Trung Quốc đã khẩu chiến kịch liệt
http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=20&sub=20&id=48965
Hơn
hai tuần sau, trong cuộc họp Asean tại Hà Nội,ngoại trưởng Clinton
tuyên bố thẳng thừng với Trung Quốc là Mỹ coi biển đông là quyền lợi
của Mỹ. Đài RFI ngày 23-7-2010 trong bài " Tại Hà Nội, Hoa Kỳ thách
thức Trung Quốc trên hồ sơ Biển Đông:" có đoạn như sau:
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (Reuters)
Phát
biểu vào hôm nay (23/07/2010) trước Diễn Đàn An Ninh Khu vực ASEAN
(ARF), Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhấn mạnh đến quyền tự
do lưu thông trên Biển Đông. Trong tình hình Trung Quốc vừa xác
định khu vực này là "vùng quyền lợi quốc gia thiết thân" của họ,
tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ được cho là một thách thức của
Washington đối với Bắc Kinh.
Theo hãng tin
AFP, tại Diễn Đàn An Ninh Khu vực, bà Clinton đã xác định một số
yếu tố được Hoa Kỳ xem là "lợi ích quốc gia" của mình, bao gồm : "Quyền
tự do hàng hải, quyền tiến vào các vùng biển chung của châu Á, và
sự tôn trọng luật lệ quốc tế tại khu vực Biển Đông". Trong bối cảnh
đó, Ngoại trưởng Mỹ kêu gọi “tôn trọng quyền lợi của cộng đồng quốc
tế’’ trong hồ sơ Biển Đông. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100723-tai-ha-noi-hoa-ky-thach-thuc-trung-quoc-tren-ho-so-bien-dong
II.THÁI BÌNH DƯƠNG THÁI BÌNH?
Những
ai theo Trung Cộng , ủng hộ chính sách bành trướng của Trung Cộng
tất phẫn nộ ghê lắm. Nhưng những ai lo sợ nạn đế quốc Trung Cộng thì
có niềm tin tốt đẹp. Trước đây, các nước Á châu lo ngại Mỹ sẽ "
tháo chạy" và bỏ rơi đồng minh, mặc cho Trung Cộng xâm lược, đè đầu
cưỡi cổ họ. Nay thì lời tuyên bố của bộ trưởng Quốc phòng Gates và
ngoại trưởng Clinton đã đem lại niềm tin cho họ không nhiều thì ít.
Giáo
sư Carl Thayer, thuộc học viện quốc phòng Úc, trường đại học New
South Wales, chuyên gia về châu Á nhận xét, phát biểu mới này của
ngoại trưởng Mỹ đã cho thấy một thay đổi lớn trong việc giải quyết vấn
đề biển Đông. Ông nói:
"Phát biểu của ngoại
trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton cho thấy một thay đổi lớn trong việc
giải quyết vấn đề biển Đông. Từ năm 2007 đến nay, lập trường của
Trung quốc về chủ quyền trên biển Đông luôn trái ngược với Việt nam.
Trung quốc có nói chuyện hợp tác nhưng họ vẫn giữ thái độ quả quyết.
Nhưng khi họ làm như vậy thì đồng thời cũng dẫm chân lên quyền lợi
của Hoa kỳ và các công ty thương mại Hoa Kỳ. Trung quốc cũng tỏ ra
khá căng thẳng với những nghiên cứu của tàu quân sự Mỹ trên biển gần
đảo Hải nam. Cho nên theo ý kiến của tôi, Hoa Kỳ đã giành lại ưu
thế, và sử dụng phương cách đa phương hóa để đối đầu với Trung
quốc."
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Niềm
phấn khởi thứ hai là song song với những tuyên bố mạnh mẽ, Mỹ còn
tích cực sự biểu dương quân sự như vụ diễn tập của Mỹ và Nam Hàn trên
Thái Bình Dương, cạnh ngõ Bắc Hàn và trước mũi Trung Quốc trong bốn
ngày từ chủ nhật 25-7-2010 để trả lời cho việc Bắc Hàn bắn chìm tàu
Cheonan của Nam Triều Tiên. Những việc đó là một khẳng định quyết
tâm của Mỹ bảo vệ đồng minh. Sự quyết tâm này là một hy vọng cho
thế giới vì Trung Quốc có thể từ bỏ mộng bá chủ của họ.Giáo sư Carl Thayer nói:
"Nếu
nói là hy vọng nhiều thì theo tôi có vẻ hơi quá lạc quan, nhưng
logic của tình huống bây giờ dù là qua đối đầu hay ngoại giao đều
khiến Trung quốc phải đối diện với Mỹ và có ngày càng nhiều các bên
cùng lên tiếng về quyền lợi của họ. Điều này theo tôi làm cho Trung
quốc thấy rằng vì quyền lợi của chính mình Trung quốc phải nhấn mạnh
ngoại giao hơn là quốc phòng."
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Riêng
về phía Việt nam, giáo sư Carl Thayer cho rằng việc củng cố lực
lượng hải quân của Việt nam từ năm 1995 trở lại đây đã diễn ra khá
mạnh mẽ và tạo cho Việt nam khả năng phòng vệ tốt hơn trước Trung quốc
trên biển: "Từ năm 1995 trở lại đây thì
Việt nam có các bước tiến khá mạnh trong việc xây dựng lực lượng
biển. Tàu ngầm mà Việt nam mới mua cho Việt nam một khả năng đối xứng
để phản ứng lại với Trung quốc. Nó giống như là câu chuyện giữa
David và Golliath và cái súng cao su. Và điều này sẽ khiến Trung quốc
giờ đây phải cân nhắc kỹ hơn khi có bất cứ hành động quân sự nào."
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Tiến
sĩ Giản Quân Ba thuộc Học viện Quan hệ Quốc tế, Đại học Phục Đán,
Thượng Hải đã đứng về phe Trung Quốc cũng cho rằng cuối cùng hai bên
phải đi đến hòa đàm, nhưng là một kiểu hòa đàm theo lệnh của Trung
Quốc, một kiểu hòa bình làm nô lệ Trung Quốc:
Về
lâu dài, tôi cho rằng chính sách cứng rắn hơn của Trung Quốc đối
với biển Nam Trung Hoa sẽ mang lại các cuộc đàm phán mang tính xây
dựng và thực tế hơn giữa Bắc Kinh với các nước láng giềng vì thực
ra các chính sách mang tính hòa nhã của họ đã dẫn tới quá nhiều
xung đột và các căng thẳng tiềm tàng. Một phần bởi vì các nước
láng giềng coi Trung Quốc là ‘con hổ giấy’, nên không sẵn lòng tuân
theo nguyên tắc ‘gác lại tranh chấp để cùng phát triển’. Nhưng
giờ thì họ sẽ phải chú ý tới thái độ và quan điểm của Trung Quốc.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/south-china-sea-core-interests-99451964.html
III. THÁI BÌNH DƯƠNG DẬY SÓNG?
Cuộc
sống trong gia đình và xã hội là do song phương, một bên yêu hòa
bình mà một bên gây chiến thì không sao tránh được chiến tranh. Đấu
khẩu vu vơ cũng gây ra chiến tranh huống hồ cả hai bên đều liều chết
để bảo vệ quyền lợi cố thiết của mình.
Sau đệ nhị thế chiến, Mỹ đã
trở nên hùng mạnh còn các đệ nhất cường quốc trước kia là Anh, Pháp
đã tiêu hao lực lượng vì chiến tranh. Nga và Trung Cộng với chính
sách đế quốc dưới danh nghĩa "giải phóng thế giới" đã muốn vùng lên
diệt đế quốc Mỹ. Liên Xô ngã ngựa, Mỹ rút lui khỏi châu Á thì đây là
cơ hội cho Trung Quốc làm bá chủ thiên hạ.
Mao Trạch Đông
cho rằng chiến tranh xảy ra thì một tỷ người Trung Quốc sẽ hy sinh
hai phần, còn lại ba trăm ngàn người sẽ trở thành anh hùng bách chiến
bách thắng, gây ra một thế hệ thông minh tài ba, thống trị thiên hạ.
Mao sếnh sáng quả là một anh nhà quê "ếch ngồi đáy giếng" cây dân
đông cho nên Mao đã dùng chiến thuật "biển người" và quan niệm rằng
tinh thần chiến đấu quan trọng hơn vũ khí!Không biết Mao có học đại
học hay chỉ là lý lịch ngụy tạo nhưng Mao quả là ngông cuồng không
biết rằng bom nguyên tử, bom hạt nhân có thể giết hàng loạt, chiến
thuật biển người trở thành vô ích trong cuộc chiến hôm nay!
Mao
chết rồi và Đặng Tiểu Bình đã thấy sai lầm của Mao. Ông thầy Trung
Quốc dạy học trò Việt Nam bài học năm 1979 đã bị học trò dạy lại
cho thầy một bài học đích đáng là vũ khí quyết định chiến trường (1).
Kết quả trông thấy là các tướng tá giáo sư khi về bị cách chức và
khiển trách thậm tệ! Mất mặt, Đặng Tiểu Bình đi ngược chính sách của
Mao là hiện đại hóa quân sự! Hiện đại hóa quân sự chính là củng cố
mục đích đế quốc của Tần Thủy hoàng chứ không phải vì hòa bình.
Đặng Tiểu Bình kêu gọi đồng bào của ông "che giấu vẻ hào nhoáng để chờ thời".
Đến đây, Trung Quốc đã vững mạnh, đủ sức tiêu diệt Mỹ để làm bá chủ
thiên hạ! Cái mục đích đó phải thực hiện nghĩa là phải có cuộc trường
chinh từ Á sang Âu Mỹ, từ mặt biển qua đất liền! Nếu Hồ Cẩm Đào
không tích cực thực hiện mộng ước này, phe quân phiệt sẽ lật đổ ông
để tự do bắn súng đùng đùng!
Trung Quốc đã hiện đại hóa quân
sự và đã thành công. Sự thành công này giúp cho mộng đế quốc xâm lược
bay cao. Mộng thực dân, đế quốc này nổi bật nhất là ý muốn chiếm
tài nguyên trên biển cả, cụ thể là dầu hỏa.
Các nhà nghiên cứu
ngoại quốc đã nhìn rõ tim gan, phổi phèo của Trung Quốc. Ngay một
người Trung Quốc cũng thú nhận mục đích bành trướng quan trọng nhất
là dầu khí biển Đông. Theo Vương Hàn Linh, một chuyên gia về các
vấn đề hàng hải tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc : "Trên
thực tế, tranh chấp đã nẩy sinh từ khi dầu mỏ và các nguồn tài
nguyên đại dương khác được phát hiện dưới quần đảo Điếu Ngư [mà Nhật
Bản tuyên bố chủ quyền dưới tên gọi Senkaku] ở vùng biển Hoa Đông ,
và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở khu vực biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông) trong thập niên 1970.''
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Họ có thể tấn công lúc này vì :
+Mỹ đang bị kinh tế khủng hoảng và bị hao tốn vì các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan.
+Mỹ
rút lui khỏi châu Á và tỏ vẻ hèn yếu ( nhất là thời Clinton) trước
Trung Quốc dũng mãnh. Và quan trọng nhất là các nước đồng minh của Mỹ
không đoàn kết, không tin Mỹ.
Vương Hàn Linh phát biểu:
"Vào
lúc này, Trung Quốc nghĩ rằng họ có thể điềm nhiên thúc đẩy tham
vọng lãnh thổ mà vẫn vô sự. Vào thời đó (thập niên 70), đã từng có
suy nghĩ là các quốc gia Đông Nam Á có thể hình thành một mặt trận
chung chống lại Trung Quốc, một khả năng “từng làm Bắc Kinh lo ngại", theo lời ông Vương, nhưng mối quan ngại này ngày nay đã tan biến sau ba thập kỷ bất động từ phía các nước Đông Nam Á. "Chúng
tôi thấy rằng bản thân các nước láng giềng còn tranh chấp lãnh thổ
với nhau, và có lợi ích quốc gia để bảo vệ, cho nên khó mà xây
dựng một mặt trận thống nhất chống lại Trung Quốc. Ngay cả khi họ
thành công trong việc liên kết với nhau, thì họ vẫn không đủ mạnh
để đánh bại Trung Quốc ".
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
+Có thể Trung Quốc đã tin theo thuyết
Igor Panarin, tiến sĩ chính trị học, Giám đốc Khoa Quan hệ Quốc tế,
trường Đại học Ngoại giao, trực thuộc Bộ Ngoại giao Nga, xuất thân KGB,
cho rằng năm 2010 Mỹ sẽ tan rã, chia thành 6 nước mà
California là chư hầu của Trung Quốc, và Nga và Trung Cộng sẽ làm bá
chủ thiên hạ.
http://saigonecho.com/main/doisong/tailieu/8922-Chuy%E1%BB%87n%20ti%E1%BA%BFu%20l%C3%A2m%20th%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BA%A1i?.html
Mỹ sắp tan rã, Trung Cộng phải chiếm ngay! Dù
Mỹ không tan rã, thì Mỹ cũng suy yếu rồi, đây là cơ hội ngàn năm một
thuở, Trung Quốc phải ra tay dứt bỏ Mỹ mà chiếm ngôi bá chủ toàn cầu!
(2)
Phải
chăng cuộc chiến đã khởi đầu năm Dần (tháng 3-2010) với việc Bắc
Triều Tiên bắn tàu Cheonan của Nam Hàn? Bắc Hàn chẳng qua là quân chạy
cờ hiệu, thủ phạm đàng sau là Trung Quốc. Nay cả hai bên Trung Quốc
và Mỹ đều gia tăng cường độ tranh đấu.
Thiếu tướng Mã Hiểu Thiên
và bộ trưởng Gates đã đấu khẩu với nhau. Khái niệm "lợi ích quốc gia"
mà Ngoại trưởng Mỹ nêu lên tại Hà Nội là một cú phản công chống lại
với quyết định của Trung Quốc nâng vị trí Biền Đông thành "vùng
quyền lợi quốc gia thiết thân" của họ. Và Trung Quốc đã phản pháo.
Đài VOA cho biết:
Theo
trang tin điện tử Montreal Gazette.com hôm 28/7, nhật báo China
Daily của nhà nước Trung Quốc tố cáo Hoa Kỳ tìm cách “khơi lại hận
thù” về chủ quyền các hòn đảo ở Biển Đông, đồng thời khuyến cáo các
nước láng giềng tại Đông Nam Á rằng chính sách của Washington trực
tiếp chống lại Trung Quốc và cố ý khuấy động các quốc gia có
tranh chấp lãnh hải với Bắc Kinh.
Báo
điện tử Etaiwannews.com cùng ngày trích thuật truyền thông Trung
Quốc nhấn mạnh việc Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam trong tuyên bố tại đảo
Hoàng Sa-Trường Sa là nhằm đe dọa các mối quan tâm chủ chốt của
Trung Quốc và xây dựng đồng minh chiến lược bao quanh nước này.
Vẫn
theo trích dẫn của tờ Etaiwannews, báo chí Trung Quốc cho rằng
Hoa Kỳ đang thiết lập thêm một lực lượng NATO tại Châu Á để kiềm
chế Trung Quốc, mà bằng chứng cụ thể là các cuộc diễn tập hải quân
chung với Nam Triều Tiên và hành động được xem là can thiệp vào
các vấn đề tại khu vực Biển Đông.
http://www1.voanews.com/vietnamese/news/china-us-vietnam-07-28-2010-99456814.html
Đài VOA cũng tường thuật tin tức Trung Quốc như sau:
Truyền
thông nhà nước Trung Quốc tiếp tục đả kích điều mà họ gọi là “âm
mưu can thiệp của Hoa Kỳ” ở Biển Đông sau khi Washington hô hào cho
việc áp dụng đường lối đa phương để giải quyết vụ tranh chấp chủ
quyền giữa Trung Quốc với Việt Nam và các nước khác trong khối
Asean.
Hãng
tin Tân Hoa của nhà nước Trung Quốc hôm thứ Năm đăng tải một bài
viết của ông Lý Bân, cựu nghiên cứu viên Trường Đảng Trung ương của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tố cáo rằng Hoa Kỳ đang tìm cách khích
động các quốc gia Đông Nam Á về vấn đề biển Nam Trung Hoa để ngăn
chận sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Nói chung, Trung Quốc và đối phương có hai khó khăn lớn, e khó vượt qua:
(1).
Trong khi các nước muốn quốc tế hóa vấn đề biển đông, Trung Quốc
không chịu, muốn "bẻ đũa từng chiếc", muốn đe dọa và mua chuộc giới
lãnh đạo các nước yếu hèn, trong tim đã sẵn máu làm nô lệ Trung Quốc.
(2). Trung Quốc muốn chiếm 80% biển Đông, Mỹ và đồng minh không chịu.
Tình hình ngày càng căng thẳng. Mỹ và Trung Quốc đã thách thức qua các cuộc thao diễn quân sự
+ Đài RFA ngày 28-7-2010, đưa tin Trung Quốc tiếp tục cử tàu ngư chính xuống tuần tra tại khu vực quần đảo Trường Sa.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-continues-sending-patrol-ship-to-Spratlys-Islands-07282010092634.html
+Trung
Quốc liên tiếp tập trận. Vào tháng ba, Trung Quốc đã tiến hành diễn
tập quân sự với sự hiện diện của Hạm Đội Bắc Hải . Cuối tháng 6-2010 ,
Trung Cộng đã duyệt binh gần biển Nhật Bản, và trong khi Mỹ và Nam
Hàn tập trận từ 25 đến 28-7-2010 thì ngày 27, Trung Cộng cũng diễn
binh và bắn đạn thật nhằm đe dọa các nước Á châu và Mỹ.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/China-conducts-naval-drill-in-disputed-southern-seas%20-07292010120422.html
Nhiều
tờ báo và đài đã nói nhiều về tham vọng bành trướng và xâm lăng của
đế quốc Trung Cộng. Các nhà bình luận cho rằng Trung Quốc tham vọng
quá lớn khó mà không gây chiến tranh.
Tờ Figaro có hai bài bình luận:
Bài
thứ nhất có tựa đề : « Bắc Kinh muốn mở rộng chủ quyền biển xuống
phía Nam ». Le Figaro cho biết, Biển Đông ngày càng trở nên quan trọng
trong các ưu tiên chiến lược của Trung Quốc. Cách đây vài tuần, Bắc
Kinh chính thức tuyên bố Biển Đông là một trong những "quan tâm
sống còn" của Trung Quốc, bên cạnh Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương.
Điều đó có nghĩa là Trung Quốc sẽ không bao giờ chấp nhận nhượng bộ
về vấn đề này.
Bài báo thứ hai của Figaro viết:
Trung
Quốc luôn theo đuổi chiến lược mở rộng lãnh hải về phía Nam cũng
như phía Bắc.Trung Quốc cố tình diễn giải theo cách riêng về Công
ước luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc.
Tờ báo kết luận : Trung Quốc cho rằng các tàu quân sự ngoại quốc
không được vào trong khu vực đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Trung
Quốc, nhưng lại cố tình quên khái niệm vùng biển quôc tế.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100724-trung-quoc-muon-mo-rong-chu-quyen-lanh-hai-o-bien-dong
Đài RFI trích bài « Ảnh hưởng toàn cầu mới của Trung Quốc – China’s New Global Leverage », đăng
trên website Asia Sentinel ngày 14/07/2010, của nhà nghiên cứu Mỹ
Bruce Stokes đã phân tích các hành động gần đây của Trung Quốc
nhằm khẳng định uy lực của mình trên trường quốc tế và ngay cả đối
với các láng giềng châu Á. Ông cho Trung Quốc là một nguy cơ cho thế
giới vì họ thấy họ đã mạnh, đủ sức nuốt thế giới. Ông viết:
Nguy
cơ tình hình quốc tế căng thẳng lên và tính toán sai lầm sẽ chỉ
xẩy ra nếu thái độ kiên quyết của Trung Quốc tiếp tục gia tăng trong
những tháng tới đây [. . .]. Sẽ là không thực tế nếu chờ đợi một
Trung Quốc thành công về mặt kinh tế, ngày càng tự tin hơn, mà lại
không muốn đóng một vai trò rộng lớn hơn trên thế giới. Nhưng thực
tế đó không cho Bắc Kinh quyền tung sức mạnh đi mọi nơi mà không sợ
bị trừng phạt, cho dù trong quá khứ đã có quốc gia làm như thế.
Châu
Âu, châu Mỹ và phần còn lại của châu Á phải cảnh giác, Trung Quốc
đang vươn lên. Và những thế lực đang vươn lên thì thường hay làm
đảo lộn nguyên trạng.
http://www.viet.rfi.fr/tong-hop/20100722-trung-quoc-the-luc-toan-cau-moi
Để thực hiện mộng chiếm Biển Đông và thế giới, Trung Quốc đã đi những bước nhanh, bước mạnh và bước vững chắc như sau:
Xác
định Biển Đông là vùng quyền lợi quốc gia thiết thân là một trong
nhiều động thái Bắc Kinh tiến hành trong năm nay để mở rộng phạm vi
thống trị của Hải quân Trung Quốc. Đầu tiên hết, họ đã loan báo một
chủ thuyết hải quân mới mang tính bành trướng. Cho đến nay, khu
vực hoạt động của Hải quân Trung Quốc được giới hạn ở cái gọi là
Chuỗi đảo thứ nhất, trải dài từ Nhật Bản đến Philippines. Nhưng bây
giờ Bắc Kinh tuyên bố chính sách “phòng ngự viễn dương”, vươn tới
Chuỗi đảo thứ hai, một khu vực trải dài và vươn ra mọi hưóng xuống
đến tận đảo Guam, Indonesia và Úc.
Kế
đến, Trung Quốc đã tung ra những chiến dịch tuần tra hung hãn hơn
và những cuộc tập trận hải quân để bổ sung hiệu năng tác chiến cho
học thuyết mới. Trong tháng tư 2010 chằng hạn, một hạm đội gồm 10
chiếc tàu đã vượt qua Chuỗi đảo thứ nhất, một cuộc diễn tập có quy
mô chưa từng thấy đối với Trung Quốc.
Động
thái thứ ba là Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh việc tăng cường năng
lực cho hải quân, trong đó việc xây dựng một căn cứ tàu ngầm dưới mặt
đất trên đảo Hải Nam, và một hàng không mẫu hạm chiến đấu, dự trù
triển khai trong vài năm tới.
Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình
Dương của Mỹ, Đô đốc Robert Willard, cho biết trong tháng tư :
"Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của
Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động
của chúng ta trong khu vực."
Với nền kinh tế thịnh vượng
và năng lực ngày càng gia tăng, Bắc Kinh không còn chờ thời nữa mà
đang hành động để khẳng định bản thân.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100725-tham-vong-lanh-tho-cua-trung-quoc-tang-toc
Ông
Dương Danh Dy lo sợ rằng Mỹ và châu Á không hiểu rõ Trung Quốc. Thật
ra Mỹ đã hiểu rõ nhưng họ cứ tỏ ra lịch sự và hòa bình, chú trọng hòa
đàm hơn là dùng vũ lực cho hết nước hết cái. Dương Danh Dy đã phân
tích đầy đủ và điểm chính là Trung Quốc sẽ tấn công Mỹ vì đó là một chủ
trương nhất thống, một ý chí sắt đá của Trung Quốc từ chính phủ cho
đến dân chúng. Ông trả lời đài RFI:
Cũng
trong tháng ba, Trung Quốc đã ngầm nói với James Steinberg (thứ
trưởng Ngọai giao Mỹ) rằng Trung Quốc đặt Biển Đông là khu vực lợi ích
cốt lõi của Trung Quốc. Lúc đó, họ chỉ nói ngầm thôi. Nhưng đến ngày
13/07/2010, Tần Cương, người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc mới
đưa ra định nghĩa rõ ràng : Chủ quyền, an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và
lợi ích phát triển quốc gia đều thuộc lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Trước đây, Trung Quốc chỉ quy định Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương là
lợi ích cốt lõi của họ. Và bây giờ Biển Đông đã được nhà cầm quyền
Trung Quốc tuyên bố cũng thuộc phạm vi trên.
Đây
là lần đầu tiên, Biển Đông được Bắc Kinh chính thức coi là lợi ích
cốt lõi của Trung Quốc. Cần phải thấy, từ ngữ « cốt lõi » ẩn chứa hàm
nghĩa khi lợi ích này bị xâm phạm thì Trung Quốc sẽ dùng vũ lực để
bảo vệ. Rõ ràng là Trung Quốc đã và đang có sự chuẩn bị ráo riết về
các mặt cho công việc này.
Cho
nên trước thái độ hung hăng, ngang ngược, bá quyền của Trung Quốc như
vậy ở Biển Đông, tất nhiên, các nước ASEAN và cả người Mỹ nữa phải
có một sự nhìn nhận lại và thấy rằng không thể không tìm cách, không
có biện pháp để đối phó với ý đồ bành trướng, bá quyền đó.
RFI : Cách
nay vài ngày, Trung Quốc đã có phản ứng về những đề nghị của ASEAN
và của Mỹ cần phải tiến hành đàm phán và giải quyết hòa bình và cần
phải tôn trọng quyền tự do thông thương đường biển, trên không ở khu
vực Biển Đông. Trung Quốc phản đối việc quốc tế hóa vấn đề Biển Đông.
Anh nhận định thế nào về phản ứng của Trung Quốc, liệu Trung Quốc
dám dùng vũ lực để bảo vệ quyền lợi của mình hay không ?
Chuyên gia Dương Danh Dy : Tôi
xin nói thẳng rằng người Trung Quốc đã sẵn sàng. Trong một bài viết
cách đây cũng khá lâu, tôi đã cung cấp thông tin là 92% dân mạng
Trung Quốc đồng ý dùng vũ lực để giải quyết những tranh chấp ở Biển
Đông. Lúc đó, dân mạng có khoảng 380 triệu. Hiện nay là 420 triệu.
90% của 400 triệu tức là có khoảng 360 triệu dân mạng Trung Quốc sẵn
sàng. Dân mạng Trung Quốc, theo tôi, phần đông là những người trẻ, có
tri thức, có hiểu biết mà họ còn quan niệm như vậy.
Gần
đây, ông Lương Quang Liệt, bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, trong
một buổi phát biểu nội bộ, đã nói rằng chúng ta phải sẵn sàng cả hai
tay. Cả hòa bình, cả chiến tranh và tay nào cũng phải cứng. Cho nên,
chuyện Trung Quốc dùng vũ lực ở Biển Đông không phải là chuyện có thể
mà khả năng chắc chắn có thể xẩy ra nếu như tham vọng bành trướng và
bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông không bị ngăn chặn.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20100729-khong-nen-coi-nhe-phai-dieu-hau-tai-trung-quoc
*
Theo thiển kiến, Trung Quốc không chờ đợi nữa. Từ đây đến cuối năm
,Trung Quốc sẽ bắn thẳng vào tàu Mỹ hoặc đổ quân vào Việt Nam, Đài
Loan, Đại Hàn, Nhật Bản, Singapore. . .Chiến tranh sẽ xảy ra. Tháng 3
-2010, Bắc Hàn đã bắn vào tàu Nam Hàn. . . . Đó là phát súng đầu tiên
mà Bắc Hàn đại diện cho Trung Quốc bắn vào Nam Hàn một đại diện của
Mỹ.
___
(1). Với vũ khí Nga có sẵn trong tay và vũ khí Mỹ để lại, Việt Nam đã gây thiệt hại nặng cho Trung Quốc.
(2).Không biết ông
Igor Panarin thuộc phe nào?Nga, Trung Cộng hay Mỹ? Phải chăng ông
đốc Tàu đánh Mỹ năm 2010? Để làm gì? Phải chăng để Nga làm ngư ông đắc
lợi? Tất nhiên Trung Cộng có đường lối xâm lăng từ trước, không phải
là dễ dàng tin thầy bói. Nhưng dẫu sao, tiên đoán của ông Tiến sĩ
giáo sư KGB cũng có tác dụng của chất dầu đổ thêm vào lửa. Lời tiên
đoán của ông vào tháng 3-2009, nay thì nhiều điều sai, vì :+Năm 2009, Obama không thiết quân luật.
+Mặc dù Mỹ suy thoái, tờ Mỹ kim nay vẫn chưa đến độ trở thành tờ giấy lộn.
Chờ bốn tháng nữa hết năm 2010, xem thử tiên đoán cuả ông thầy Nga đúng mấy phần trăm?
Tàu
ngầm và chiến hạm Trung Quốc tham gia cuộc thao diễn hải quân quốc
tế ngày 24/04/2009 ngoài khơi Thanh Đảo, nhân kỷ niệm 60 năm ngày
thành lập Hải quân Trung Quốc.
REUTERS/Guang Niu
Quyết
định của Bắc Kinh đặt Biển Đông vào diện "quyền lợi quốc gia thiết
yếu", thể hiện một tham vọng độc chiếm khu vực được mệnh danh là «
Vịnh Ba Tư của Châu Á ». Hành động này trực tiếp xâm phạm lợi
ích quốc gia của nhiều nước Đông Nam Á, và thách thức Hoa Kỳ nhưng
Trung Quốc vẫn tiến hành vì Biển Đông đã trở thành cần thiết và Bắc
Kinh tự cho rằng đã đủ khả năng khống chế.
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (Reuters)
Phát
biểu vào hôm nay (23/07/2010) trước Diễn Đàn An Ninh Khu vực ASEAN
(ARF), Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nhấn mạnh đến quyền tự
do lưu thông trên Biển Đông. Trong tình hình Trung Quốc vừa xác
định khu vực này là "vùng quyền lợi quốc gia thiết thân" của họ,
tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ được cho là một thách thức của
Washington đối với Bắc Kinh.
No comments:
Post a Comment